Tải bản đầy đủ (.docx) (167 trang)

LỰA CHỌN TIÊU CHUẨN TUYỂN CHỌN VĐV

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (841.06 KB, 167 trang )

LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của
riêng tôi. Các số liệu, các kết quả nêu trong luận văn là
trung thực và chưa từng có ai công bố trong bất kỳ luận
văn nào khác.

Tác giả

Trần Ánh Minh


MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN
MỤC LỤC
LỜI CẢM ƠN
DANH MỤC NHỮNG TỪ, THUẬT NGỮ VIẾT TẮT
DANH MỤC CÁC BẢNG, BIỂU ĐỒ VÀ HÌNH VẼ
Trang


LỜI CẢM ƠN !
Với tấm lòng biết ơn chân thành nhất, tôi xin cám ơn Ban giám hiệu, các
thầy cô giáo Trường Đại học sư phạm TDTT TP.HCM đã tạo điều kiện, giúp
đỡ tôi trong suốt quá trình học tập và nghiên cứu thực hiện đề tài này.
Xin cảm ơn quý Thầy, Cô giáo giảng dạy lớp cao học 2, đã giành nhiều
tâm huyết để truyền thụ cho chúng tôi những kiến thức quý báu, những cách
thức nhìn nhận các vấn đề một cách tổng quát và có chiều sâu hơn, những
cách đánh giá dựa trên các cơ sở khoa học là tiền đề cho việc nghiên cứu và
hoàn thiện đề tài nghiên cứu này.
Xin cảm ơn Trường THPT Vĩnh Linh- Tỉnh Quảng Trị, Trung tâm
TDTT Huyện Vĩnh Linh, Ban huấn luyện môn điền kinh Trường THPT Vĩnh


Linh và thầy Lê Quốc Việt - GV, HLV môn điền kinh trường THPT Vĩnh
Linh, đã giúp đỡ và tạo điều kiện thuận lợi cho tôi thực hiện đề tài này.
Đặc biệt, xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc nhất đến Cô giáo hướng dẫn:
GS.TS Lê Nguyệt Nga, đã tận tình động viên, giúp đỡ và nhiệt tình hướng
dẫn, chỉ bảo tôi trong suốt quá trình học tập và nghiên cứu đề tài.
Xin chân thành cảm ơn quý thầy cô, bạn bè, đồng nghiệp và gia đình đã
động viên, hỗ trợ để tôi hoàn thành khóa học này.

Tác giả

Trần Ánh Minh


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN
VIẾT TẮT
DTS
GDTC
HKPĐ
HLV
HS
m
s
TĐC
TDTT
THPT
TNTT
VĐV
XPC
XPT


THUẬT NGỮ TIẾNG VIỆT
Dung tích sống
Giáo dục thể chất
Hội khỏe Phù Đổng
Huấn luyện viên
Học sinh
Mét
Giây
Tốc độ cao
Thể dục thể thao
Trung học phổ thông
Tài năng thể thao
Vận động viên
Xuất phát cao
Xuất phát thấp


DANH MỤC CÁC BẢNG
Số
1.1

3.1

Tên bảng
Tiêu chuẩn tuyển chọn (GS.TS Lê Nguyệt Nga và PGS.TS
Trịnh Hùng Thanh, 1993)
Kết quả phỏng vấn lựa chọn các chỉ tiêu tuyển chọn về hình
thái, thể lực, chức năng nam VĐV chạy cự ly ngắn lứa tuổi

Tran

g
16

57

15-16 trường THPT Vĩnh Linh
3.2

Kiểm nghiệm độ tin cậy của các chỉ tiêu thể lực

60

3.3

Tính thông báo của các chỉ tiêu thể lực.

61

3.4

Tổng hợp kết quả về hình thái

66

3.5

Tổng hợp kết quả về thể lực

67


3.6

Tổng hợp kết quả về chức năng

67

3.7
3.8
3.9
3.1
0
3.1
1
3.1
2
3.1
3

Thang điểm tuyển chọn nam VĐV chạy cự ly ngắn lứa tuổi
15-16 của trường THPT Vĩnh Linh.
Bảng xếp loại đánh giá tuyển chọn nam VĐV chạy cự ly
ngắn của trường THPT Vĩnh Linh
Điểm tối đa của các chỉ tiêu tuyển chọn.

70
71
71

Bảng điểm tổng hợp phân loại các chỉ tiêu tuyển chọn nam
VĐV chạy cự ly ngắn lứa tuổi 15- 16 của trường THPT Vĩnh


72

Linh
Bảng điểm từng chỉ tiêu hình thái của VĐV

72

Bảng điểm từng chỉ tiêu thể lực của VĐV

74

Bảng điểm từng chỉ tiêu chức năng của VĐV

77


3.1
4
3.1
5
3.1
6

Kết quả tổng hợp các chỉ tiêu hình thái, thể lực, chức năng
Mối tương quan giữa xếp hạng trong bảng điểm đã xây dựng
và thành tích chạy 100m của VĐV.
Kết quả tuyển chọn VĐV

79

82
85


DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ
Số
1.1
3.1
3.2

Tên biểu đồ
Các yếu tố quyết định khả năng đào tạo VĐV quốc gia xuất sắc.
Tỷ lệ chuyên môn của các giáo viên, HLV, ban chuyên môn tham
gia phỏng vấn.
Tổng hợp vào điểm các chỉ tiêu hình thái, thể lực, chức năng nam
VĐV chạy cự ly ngắn lứa tuổi 15-16 trường THPT Vĩnh Linh.

Trang
20
56
81

DANH MỤC CÁC HÌNH VẼ
Số

Tên hình vẽ

Trang

2.1


Test chạy 60m xuất phát cao.

40

2.2

Test chạy 30 xuất phát thấp.

40

2.3

Test bật xa tại chỗ

41

2.4

Test chạy tùy sức 5 phút

43


8

PHẦN MỞ ĐẦU
Thấm nhuần lời dạy của Bác “...Giữ gìn dân chủ, xây dựng nước nhà,
gây đời sống mới việc gì cũng cần có sức khỏe mới thành công…tự tôi ngày
nào cũng tập”. Được Chủ tịch Hồ Chí Minh đúc kết và gửi gắm trong lời kêu

gọi toàn dân tập thể dục (tháng 3/1946). Lời kêu gọi toàn dân tập thể dục của
Bác đã chỉ ra mục đích, tính chất của phong trào TDTT, của nền TDTT mới,
nước Việt Nam mới. Người chỉ rõ: Mục đích là phát triển phong trào tập thể
dục đặng giữ gìn và bồi đắp sức khỏe cho mọi người, "Dân cường thì nước
thịnh". Sức khỏe của toàn thể đồng bào làm nên sự thịnh vượng của đất nước,
cuộc sống ấm no hạnh phúc cho nhân dân. Với ý tưởng cao đẹp của Người có
ảnh hưởng sâu sắc tới tình cảm, tinh thần và hành động của nhân dân và mọi
người hăng hái làm theo tiếng gọi của vị lãnh tụ kính yêu.
Để từ đó nền TDTT ra đời, phong trào tập luyện và thi đấu TDTT phát
triển đưa nền TDTT nước nhà lên những tầm cao mới sánh cùng các quốc gia
trong khu vực và thế giới. Quyết định của Bộ Giáo dục và Đào tạo “Số 361
ngày 2/4/1984 Ban hành điều lệ tổ chức Hội khỏe Phù Đổng cho học sinh các
trường phổ thông cơ sở và phổ thông trung học” xác định: Hội Khỏe Phù
Đổng là ngày hội thể thao học đường, góp phần nâng cao sức khỏe, giáo dục
nhân cách, đạo đức lối sống nhằm thực hiện mục tiêu giáo dục toàn diện cho
học sinh, là vườn ươm để phát hiện và bồi dưỡng, phát triển thể chất và giáo
dục những học sinh năng khiếu thể thao, tạo cơ sở vững chắc cho sự phát triển
nền thể thao của đất nước.
Trong các môn thi đấu ở HKPĐ, Đại hội TDTT, bộ môn điền kinh chiếm
nhiều bộ huy chương với nhiều nội dung thi đấu như chạy, nhảy, ném, đẩy.
Cự ly chạy ngắn chính là thế mạnh của trường THPT Vĩnh Linh qua nhiều lần
tham dự HKPĐ. Tuy nhiên việc tuyển chọn VĐV tham gia tập luyện và thi
đấu chủ yếu dựa trên thành tích, kinh nghiệm của giáo viên huấn luyện để
tuyển chọn mà chưa có những tiêu chuẩn cụ thể do đó có thể bỏ qua nhiều học


9

sinh có những tố chất tốt, tiềm năng, khả năng phát triển cho những nội dung
thi đấu này.

Để chuẩn bị lực lượng VĐV tham gia thi đấu các kỳ HKPĐ các cấp, các
cuộc thi đấu TDTT có hiệu quả. Ban giám hiệu nhà trường có chủ trương
tuyển chọn nam VĐV lứa tuổi 15-16 có năng khiếu về môn chạy ngắn, thành
lập đội tuyển của trường, tiến hành tập luyện theo kế hoạch.
Từ những lý do trên, việc nghiên cứu đề tài này là rất cần thiết, sự thành
công của đề tài nghiên cứu sẽ góp phần phục vụ cho những ngày hội TDTT
có chất lượng và thành công, do đó tôi mạnh dạn lựa chọn đề tài :
“NGHIÊN CỨU TIÊU CHUẨN TUYỂN CHỌN VỀ HÌNH THÁI, THỂ

LỰC, CHỨC NĂNG CHO NAM VẬN ĐỘNG VIÊN CHẠY CỰ LY NGẮN LỨA
TUỔI 15-16 CỦA TRƯỜNG THPT VĨNH LINH- HUYỆN VĨNH LINH- TỈNH
QUẢNG TRỊ”.

MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU:
Nhằm xác định nội dung và tiêu chuẩn tuyển chọn cho nam VĐV chạy
cự ly ngắn lứa tuổi 15-16 của trường THPT Vĩnh Linh- Huyện Vĩnh LinhTỉnh Quảng Trị.
MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU:
Để đạt được mục đích trên của đề tài, cần giải quyết những mục tiêu sau:
Mục tiêu 1: Đánh giá thực trạng công tác tuyển chọn nam VĐV chạy cự ly
ngắn lứa tuổi 15-16 của trường THPT Vĩnh Linh- Huyện Vĩnh Linh- Tỉnh
Quảng Trị.
- Thực tế công tác tuyển chọn VĐV.
- Tìm hiểu quy trình và nội dung tuyển chọn VĐV.
- Phỏng vấn các chuyên gia, các HLV, các giáo viên về công tác tuyển chọn
VĐV.
Mục tiêu 2: Nghiên cứu lựa chọn tiêu chuẩn tuyển chọn cho nam VĐV chạy
cự ly ngắn lứa tuổi 15-16 của trường THPT Vĩnh Linh- Huyện Vĩnh Linh-


10


Tỉnh Quảng Trị.
- Lựa chọn các test tuyển chọn.
- Xác định độ tin cậy và tính thông báo của các test tuyển chọn.
Mục tiêu 3: Xây dựng thang điểm tuyển chọn qua các tiêu chuẩn đã xác định.
- Xây dựng thang điểm tuyển chọn.
- Xây dựng tiêu chuẩn phân loại (Tốt, khá, trung bình, yếu, kém).
- Kiểm chứng tính phù hợp của thang điểm đã xây dựng.


11

CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN CÁC VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1.1. Thể dục thể thao và công tác giáo dục thể chất cho học sinh, sinh viên
- Mối quan tâm của Đảng và Nhà Nước.
Quan điểm về TDTT của Đảng và Nhà Nước xuất phát từ cơ sở lý luận
của chủ nghĩa Mác - Lênin và căn cứ vào điều kiện lịch sử, kinh tế, xã hội của
đất nước. Việc xây dựng và phát triển sự nghiệp TDTT là phương tiện phát
triển con người toàn diện, phục vụ lợi ích con người, lợi ích của xã hội.
Trong từng giai đoạn Cách Mạng, theo yêu cầu nhiệm vụ và tình hình cụ
thể Đảng ta luôn có những chỉ thị, nghị quyết lãnh đạo kịp thời, đề ra những
chủ trương, chính sách nhằm đẩy mạnh phong trào TDTT của nước ta với
nhiệm vụ chủ yếu là chăm sóc sức khỏe, tăng cường tập luyện TDTT, phát
triển con người toàn diện và định hướng cho TDTT thành tích cao, chú trọng
đối tượng là thanh thiếu niên, học sinh- sinh viên.
Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ VI chỉ rõ: “mở rộng và nâng cao chất
lượng phong trào TDTT quần chúng, từng bước đưa việc rèn luyện thân thể
thành thói quen hàng ngày của đông đảo nhân dân trước hết là thế hệ trẻ.
Nâng cao chất lượng GDTC trong các trường học...”, “Cũng cố và mở rộng

hệ thống trường năng khiếu thể thao, phát triển lực lượng VĐV trẻ, lựa chọn
và tập trung nâng cao thành tích một số môn thể thao...”[20].
Sau 29 năm thực thực hiện chỉ thị 227/CT- TW. Ban Bí thư Trung ương
Đảng đã ra chỉ thị 36/CT- TW ngày 24/3/1994 nhấn mạnh: “...thực hiện
GDTC trong tất cả trường học, làm cho việc tập luyện TDTT trở thành nếp
sống hàng ngày của hầu hết học sinh, sinh viên, thanh niên, chiến sĩ, các lực
lượng vũ trang, cán bộ công nhân viên chức và một số bộ phận nhân dân”.
Ngày 01/08/1994. Bộ giáo dục và Đào tạo đã ra Thông tư số 11/TT- GDĐT hướng dẫn thực hiện Chỉ thị 36/CT- TW về công tác TDTT trong giai


12

đoạn đổi mới đối với ngành chỉ rõ[28]: “...cải tiến tiêu chuẩn rèn luyện thân
thể và nội dung chương trình giảng TDTT học sinh- sinh viên. Đào tạo và bồi
dưỡng giáo viên TDTT cho trường học các cấp, tạo những điều kiện cần thiết
về cơ sở vật chất và kinh phí để thực hiện việc dạy học thể dục bắt buộc ở tất
cả các trường học...”. Thông tư 03 của Thường vụ Bộ Chính trị khóa VIII
ngày 2/4/1998 “Về tăng cường lãnh đạo công tác TDTT”, một lần nữa nhắc
nhở thực hiện tốt công tác GDTC trong học sinh- sinh viên, khắc phục các
mặt còn hạn chế, phát triển TDTT, chú trọng phong trào TDTT quần chúng,
TDTT thành tích cao.
Ngày 9/10/2000. Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
công bố lệnh về việc ban hành Pháp lệnh TDTT số 28/2000/PL-UBTVQH10,
đã được Uỷ ban Thường vụ Quốc hội khóa X thông qua ngày 25/9/2000,
Pháp lệnh có 9 chương, 59 điều trong đó điều 14, 15 chương 1, điều 22
chương 2 quy định về TDTT trường học, TDTT thành tích cao như sau [22]:
Điều 14 của Pháp lệnh: “TDTT trường học bao gồm GDTC và hoạt động
TDTT ngoại khóa cho người học. GDTC trong trường học là chế độ bắt buộc
nhằm tăng cường sức khỏe, phát triển thể chất, góp phần hình thành và bồi
dưỡng nhân cách, đáp ứng yêu cầu giáo dục toàn diện người học. Nhà nước

khuyến khích hoạt động TDTT ngoại khóa trong nhà trường.
Điều 15 của Pháp lệnh quy định: Bộ giáo dục và Đào tạo phối hợp với
Ủy ban TDTT thực hiện các nhiệm vụ xây dựng, chỉ đạo thực hiện chương
trình GDTC. Quy định tiêu chuẩn rèn luyện thân thể và đánh giá kết quả rèn
luyện thân thể của người học. Bồi dưỡng và đảm bảo đủ giáo viên, giảng viên
TDTT, quy định hệ thống thi đấu TDTT trường học.
Điều 22 của Pháp lệnh: “Nhà nước có chính sách và biện pháp phát triển
thể thao thành tích cao; xây dựng lực lượng thể thao chuyên nghiệp; khuyến
khích tổ chức, cá nhân tham gia đào tạo và bồi dưỡng tài năng thể thao; tạo
điều kiện cho VĐV học tập, rèn luyện, nâng cao trình độ chuyên môn, lập


13

thành tích xuất sắc trong thi đấu thể thao”.
Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI năm 2011, xác định một
trong ba mũi đột phá chiến lược để phát triển kinh tế xã hội đất nước từ năm
2011 đến năm 2020 là: “...Phát triển nhanh nguồn nhân lực, nhất là nguồn
nhân lực chất lượng cao, tập trung vào việc đổi mới căn bản và toàn diện nền
giáo dục quốc dân; gắn kết chặt chẽ việc phát triển nguồn nhân lực với phát
triển và ứng dụng khoa học công nghệ. Cần tập trung xây dựng đời sống, lối
sống và môi trường văn hóa lành mạnh, chú trọng xây dựng nhân cách con
người Việt Nam về lý tưởng, trí tuệ, đạo đức, lối sống, thể chất, lòng tự hào
dân tộc, trách nhiệm xã hội, ý thức chấp hành pháp luật, nhất là trong thế hệ
trẻ... Làm tốt công tác GDTC trong trường học... Phát triển mạnh phong trào
TDTT đại chúng, tập trung đầu tư nâng cao chất lượng một số môn thể thao
thành tích cao mà nước ta có ưu thế, kiên quyết chống tiêu cực trong thi đấu
thể thao...”[21].
Nghị quyết số 08/NQ/TW của Bộ Chính trị ngày 01/12/2011 “Về tăng
cường sự lãnh đạo của Đảng, tạo bước phát triển mạnh mẽ về TDTT đến năm

2020” đã chỉ rõ: Phát triển thể dục, thể thao là một yêu cầu khách quan của xã
hội, nhằm góp phần nâng cao sức khoẻ, thể lực và chất lượng cuộc sống của
nhân dân, chất lượng nguồn nhân lực, giáo dục ý chí, đạo đức, xây dựng lối
sống và môi trường văn hóa lành mạnh, góp phần củng cố khối đại đoàn kết
toàn dân, mở rộng quan hệ hữu nghị và hợp tác quốc tế. Đồng thời nhấn
mạnh: Cần quan tâm đầu tư đúng mức thể dục, thể thao trường học, với vị trí
là bộ phận quan trọng của phong trào thể dục, thể thao, là một mặt của giáo
dục toàn diện nhân cách học sinh, sinh viên. Xây dựng và thực hiện “Đề án
tổng thể phát triển giáo dục thể chất và thể thao trường học”.
Thực hiện tốt GDTC theo chương trình nội khóa, phát triển mạnh các
hoạt động thể thao của học sinh, sinh viên, bảo đảm mục tiêu phát triển thể
lực toàn diện và kỹ năng vận động cơ bản của học sinh, sinh viên, góp phần


14

đào tạo năng khiếu và TNTT. Đối với chương trình và phương pháp GDTC,
gắn GDTC với giáo dục ý chí, đạo đức, giáo dục quốc phòng, giáo dục sức
khỏe và kỹ năng sống của học sinh, sinh viên. Đãi ngộ hợp lý và phát huy
năng lực đội ngũ giáo viên thể dục hiện có; mở rộng và nâng cao chất lượng
đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ giáo viên, hướng dẫn viên thể dục cho trường học;
củng cố các cơ sở nghiên cứu khoa học về tâm lý lứa tuổi và thể dục, thể thao
trường học.
Trong tình hình và xu thế phát triển của xã hội cũng như tạo nền tảng cơ
bản và vững chắc cho sự phát triển của nền TDTT hiện tại và tương lai ngày
03/12/ 2010 của Thủ Tướng Chính Phủ phê duyệt Quyết định số 2198/QĐ/
TTg về “Chiến lược phát triển thể dục thể thao Việt Nam đến năm 2020” đã
chỉ rõ nhiệm vụ phát triển thể thao thành tích cao và thể thao chuyên nghiệp:
“Đổi mới cơ chế tổ chức và nội dung tuyển chọn, đào tạo TNTT thành tích
cao theo định hướng chuyên nghiệp. Tăng cường nguồn nhân lực có trình độ

chuyên môn cao cho công tác đào tạo TNTT thành tích cao”, “ Tiến hành
chuẩn hóa cơ sở vật chất kỹ thuật, trang thiết bị phục vụ thi đấu thể thao quốc
gia và quốc tế, tập huấn đội tuyển, đội tuyển trẻ quốc gia, đào tạo VĐV cấp
cao, VĐV trẻ cấp tỉnh và ngành”. Nghị quyết số 29-NQ/TW ngày 4/11/2013
Hội nghị Trung ương 8 khóa XI về “Đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và
đào tạo” nhấn mạnh phát triển thể chất, phẩm chất, trí tuệ, giáo dục nhân
cách, phát hiện và bồi dưỡng năng khiếu là một trong những mục tiêu quan
trọng, đã và đang có những bước thay đổi tích cực và cụ thể hơn cho nền giáo
dục cũng như sự phát triển bền vững GDTC trong nhà trường và nền TDTT
nước nhà.
Với vị trí và tầm nhìn về vai trò quan trọng của TDTT trong sự nghiệp
Cách Mạng giải phóng dân tộc và xây dựng Chủ Nghĩa Xã Hội, Đảng và Nhà
Nước đã xác định mục tiêu trước mắt và lâu dài của TDTT nói chung và
TDTT thành tích cao nói riêng, nhiệm vụ trước mắt: TDTT phải góp phần


15

trực tiếp nâng cao sức khỏe cho nhân dân, để thiết thực phục vụ cho sản xuất,
công tác, học tập và sẵn sàng bảo vệ Tổ Quốc Việt Nam Xã Hội Chủ Nghĩa,
đối với thể thao thành tích cao phải hình thành hệ thống đào tạo tài năng
nhanh chóng. Chú trọng phát triển thể chất, tuyển chọn, đào tạo tài năng trẻ.
Tham gia và kết quả ngày càng cao trong các hoạt động thể thao, trước hết là
những môn mà chúng ta có nhiều khả năng. Sự nghiệp TDTT đã và đang phát
triển mạnh mẽ, đúng hướng, góp phần quan trọng vào thành tựu chung của
công cuộc đổi mới đất nước, từng bước đáp ứng nhu cầu và nguyện vọng của
quần chúng nhân dân.
1.2. Cơ sở lý luận về tuyển chọn.
1.2.1. Khái niệm tuyển chọn vận động viên.
Theo Vêbôrich (Tiệp Khắc cũ)[16]: “Tuyển chọn là sự tìm kiếm những

yếu tố ưu việt của điều kiện thiên bẩm, phù hợp với những môn thể thao của
mỗi người được tuyển chọn, để bồi dưỡng có mục đích từ khi tuổi còn nhỏ”.
TS. Haley (CHDC Đức cũ): “Tuyển chọn là sự xác định chính xác khả
năng của VĐV thiếu niên có thể thành công hay không trong việc tham gia
tập luyện một môn thể thao trong lực lượng hậu bị, đồng thời tham gia tập
luyện và thi đấu để giành được thành tích cao ở các giai đoạn thi đấu tiếp
theo” [16].
Theo Nguyễn Ngọc Cừ (Viện khoa học TDTT): “Tuyển chọn VĐV khác
với tuyển chọn nghề nghiệp ở chỗ nó phải dự báo được thành tích thể thao
của cá nhân trước 6 – 10 năm”.
Theo GS.TS. Lê Nguyệt Nga và PGS.TS. Trịnh Hùng Thanh, 1993[24]:
Tuyển chọn thể thao là biện pháp nhiều giai đoạn dựa chính vào khả năng
VĐV về hình thái, chức năng, tâm lý kể cả về phù hợp với chuyên môn thể
thao. Tuyển chọn thể thao là tổng hòa của các vấn đề y sinh học, tâm lý học,
sư phạm. Thể thao là hiện tượng xã hội nên tuyển chọn thể thao phù hợp với
vấn đề xã hội.


16

Tuyển chọn là tìm và chọn những cá nhân đáp ứng được tốt nhất với các
yêu cầu của một loại hình hoạt động nhất định. Tuyển chọn thể thao là một
quá trình nghiên cứu, dự báo quá trình nghiên cứu khoa học tiến hành một
cách tổng hợp. Tuyển chọn TNTT còn là khâu đầu tiên của quá trình huấn
luyện và đào tạo VĐV hoàn chỉnh. TNTT được phát hiện và bồi dưỡng từ lứa
tuổi thiếu niên, nhi đồng, để phát hiện TNTT thông thường người ta dựa vào
khoa học tuyển chọn, vào quan sát thi đấu và kinh nghiệm của HLV. Khoa
học tuyển chọn TNTT là việc sử dụng các trang thiết bị hiện đại để thực hiện
các test tổng hợp, có mục đích đối với VĐV về các chỉ số hình thái cơ thể,
sinh lý, sinh hóa, tâm lý, tố chất thể lực, kỹ chiến thuật nhằm xác định hiện

trạng và xu hướng phát triển phù hợp với đặc điểm của môn thể thao nào đó
(TS. Bùi Quang Hải và các cộng sự, 2009)[8,tr 7-8].
Mục đích của công tác tuyển chọn là quá trình phát triển khả năng tiềm
tàng và có triển vọng của thanh thiếu niên, nghiên cứu về trạng thái sức khỏe,
thể lực, chức năng sinh lý, tố chất vận động xuất sắc có khả năng phát triển
trong từng môn thể thao. Tuyển chọn thể thao là quá trình nhiều bậc biểu hiện
trong nhiều năm, biểu hiện rõ ràng tiềm tàng thành tích cao và ổn định có
triển vọng ở lứa tuổi nhi đồng, thiếu niên. Theo GS. TS Lâm Quang Thành
(2000), cơ sở phương pháp luận cho việc xây dựng chương trình tuyển chọn
VĐV trẻ gồm[27]:
- Các yêu cầu về năng khiếu phải xuất phát từ các điều kiện kinh tế, xã
hội và các mục tiêu xã hội.
- Điều kiện cơ bản để phát triển năng khiếu và để đánh giá năng khiếu
của một VĐV trẻ là trình độ thi đấu hoạt động thể thao, nghĩa là phải tiến
hành đánh giá năng khiếu trong quá trình huấn luyện (bao gồm cả tập luyện
và thi đấu) hoặc trong quá trình hoạt động thể thao trong trường học.
- Khi đánh giá năng khiếu không những phải nghiên cứu từng đặc điểm
cơ bản của VĐV mà còn phải nghiên cứu toàn bộ con người VĐV. Do đó khi


17

tuyển chọn và đánh giá năng khiếu không những chỉ dừng ở 5 nhân tố xác
định thành tích: Các phẩm chất tâm lý; các tố chất thể lực; các khả năng phối
hợp kỹ thuật; chiến thuật và hình thái cơ thể mà còn phải đánh giá tới các
nhân tố có ảnh hưởng đến thành tích như sở thích, quan hệ xã hội, sức khỏe,
thành tích học tập, thời gian tập luyện, điều kiện tập luyện, tuổi khai sinh, tuổi
sinh học..vv.
- Muốn đào tạo VĐV trẻ thành công, cần phải đánh giá năng khiếu và
tuyển chọn hệ thống nhiều lần trong toàn bộ quá trình phát triển của VĐV từ

khi bắt đầu tập luyện cho đến khi trở thành VĐV cấp cao, hay nói cách khác
là trong suốt quá trình đào tạo.
- Các kết luận về năng khiếu phải mang tính chất dự báo. Các kết luận
không được thiên lệch nhiều về đánh giá sự phát triển từ trước tới nay của
VĐV mà phải đánh giá chủ yếu về khả năng phát triển về sau của VĐV này
[27].
Những chỉ tiêu cơ bản để tuyển chọn (theo GS.TS Lê Nguyệt Nga và
PGS.TS Trịnh Hùng Thanh, 1993)[24] bao gồm:
- Năng khiếu được xác định bởi điều kiện di truyền có liên quan đến cấu
trúc và khả năng sinh lý, tâm lý, sự hoạt động cực hạn và hành vi của con
người.
- Điều kiện khuôn mẫu di truyền có đặc điểm thay đổi nhỏ nâng cao giá
trị dự báo. Trong thời gian tiến hành giảng dạy và huấn luyện để tạo khả năng
biểu diễn và sự hoàn thiện thích hợp của cá thể, như vậy nền tảng di truyền
chức năng cơ thể có thể mở rộng quá trình chuẩn bị nhiều năm của VĐV khi
quy định quá trình huấn luyện. Trong quá trình huấn luyện đặc biệt chú ý đến
sự phát triển lứa tuổi. Bởi xác định các chỉ tiêu năng khiếu không chỉ dựa vào
mức độ phát triển đầu tiên của một tố chất này hay một tố chất khác mà còn
chú ý đến nhịp độ phát triển tự nhiên của thanh thiếu niên do ảnh hưởng các
nhân tố bên ngoài, định hướng đúng đắn trong đó ưu tiên huấn luyện.


18

- Đối với các giai đoạn huấn luyện khác nhau đưa đến sự thay đổi hoàn
thiện thể thao có liên quan đến bản chất, trạng thái chức năng và cấu trúc cơ
thể có năng khiếu nhất định và có thành tích hoàn thiện thể thao.
Do vậy tính thông tin riêng, các chỉ tiêu riêng rẽ nói trên là chỉ tiêu tuyển
chọn thể thao và là phương pháp thực hiện của chúng đối với các giai đoạn
biến đổi khác nhau [24].

Trong cuốn “Cơ sở sinh học và sự phát triển TNTT”(1993) [24], các tác
giả giới thiệu hai phương pháp chính trong tuyển chọn và định hướng thể
thao:
- Phương pháp kiểm định :
Là phương pháp tuyển chọn VĐV thông qua thi đấu, những VĐV có khả
năng tốt, phù hợp và có triển vọng các môn thể thao. Dạng tuyển chọn này
cần phải có thời gian chuẩn bị đạt thành tích cao và dựa vào kinh nghiệm của
HLV. Tuy nhiên có nhược điểm phán đoán chính xác tiềm năng với độ tin cậy
ít vững vàng, dạng kiểm định là phương pháp phổ biến trong công tác tuyển
chọn VĐV Việt Nam hiện nay.
- Phương pháp dự báo:
Là phương pháp tìm ra đặc điểm hình thái, tố chất thể lực vốn có của
VĐV có tiềm năng phù hợp với các môn thể thao. Cần tiến hành ở độ tuổi
nhỏ, dựa vào khả năng triển vọng, tiềm năng theo mã di truyền cùng với sự
phát triển tố chất vận động hoặc đặc điểm lứa tuổi, giới tính.
Sự chuẩn bị cho VĐV cấp cao yêu cầu có cơ sở khoa học và sự tuyển
chọn dự báo có tổ chức. Bởi vì sự tuyển chọn dự báo phải dựa trên cơ sở lý
luận và cơ sở khoa học của cơ thể di truyền học, năng lực và chức năng sinh
lý cơ thể trong quá trình phát triển cá thể. Do vậy tuyển chọn dự báo đòi hỏi
trang thiết bị y sinh học và các thiết bị chuyên môn thể thao khác. Tuyển chọn
dự báo không thông qua tổ chức tập luyện và thi đấu mà ngược lại chỉ kiểm
tra và thực nghiệm các cá thể có tố chất tiềm năng phù hợp môn thể thao.


19

Phương pháp dự báo được tiến hành như sau:
- Dự báo được độ tin cậy của sự hoàn thiện thành tích thể thao dựa vào
cơ sở mối quan hệ giữa đặc điểm hình thái, chức năng trong cơ thể với công
suất hoạt động của các tố chất trong các môn thể thao.

- Những chỉ tiêu hình thái- chức năng của hệ thống cơ thể và các tố chất
thể lực ban đầu làm cơ sở trong giai đoạn hoàn thiện sau này. Dự báo cần phải
sử dụng các chỉ tiêu tố chất, thể lực đầu tiên, nhất là các chỉ tiêu khó phát
triển (di truyền) có ý nghĩa rất tốt trong các môn thể thao cụ thể.
- Sự tuyển chọn và định hướng thể thao phải được hình thành tín hiệu
hình thái, chức năng, tâm lý và đặc điểm phát triển tố chất thể lực.
- Tố chất thể lực xuất sắc thành “mô hình” cho đặc điểm từng môn thể
thao cụ thể. Ý nghĩa lớn lao của nó có thể là cơ sở cho sự cấu trúc của quá
trình và hệ thống điều khiển trong quá trình huấn luyện.
Các chỉ tiêu tuyển chọn phản ánh độ tin cậy về sinh học VĐV, chúng có
ý nghĩa lớn trong việc hoàn thiện thể hiện nâng cao thành tích thể thao.
Với các chỉ tiêu tuyển chọn như vậy có vai trò lớn khi sử dụng có hiệu
quả khả năng vận động, tiết kiệm sự trao đổi chất và mức độ sinh lý VĐV. Sự
ổn định về tâm lý có vai trò lớn đối với tác động bên ngoài và được coi như
nhân tố hài hòa với biến đổi môi trường trong cơ thể bị tác dụng thể lực và
thần kinh căng thẳng [24].
Xác định tài năng là quá trình nhận dạng để từ đó khuyến khích trẻ tham
gia vào các môn thể thao. Có nhiều khả năng thành công dựa vào kết quả từ
việc nhận diện tới kiểm tra. Đồng thời xác định tài năng cũng là xác định các
môn thể thao phù hợp với từng cá nhân. Mục đích của việc xác định TNTT là
nhằm phát huy hết năng lực của VĐV dựa trên một chiến lược phát triển toàn
diện. Các nhà chuyên môn trong lĩnh vực TDTT cũng đưa ra hai yếu tố ảnh
hưởng đến hoạt động của các VĐV đó là: Xác định TNTT và môi trường phát
triển phù hợp với các VĐV tài năng. Trong cuốn “ Tài năng là không đủ”


20

Maxwell đã đưa ra câu hỏi “ai sẽ là người thành công hơn, một người chỉ
dựa vào tài năng của mình hay người nhận ra tài năng của mình và phát

triển nó”. Hơn nữa ông đã tìm thấy những điều mà có thể thực hiện được tối
đa hóa tài năng và phát triển chúng đó là: Niềm tin, đam mê, những sáng kiến,
sự tập trung, sự chuẩn bị, sự kiên trì, việc thực hành, lòng dũng cảm, khả năng
phát triển, mối quan hệ và làm việc theo nhóm [8].
1.2.2. Vai trò của công tác tuyển chọn VĐV.
Theo quan điểm của các tác giả Xuân Ngà, Nguyễn Kim Minh[19]:
“Tuyển chọn thể thao đó là các hệ thống các phương pháp mang tính tổng
hợp, bao gồm các phương pháp nghiên cứu về mặt sư phạm, xã hội, tâm lý và
y sinh, nhằm phát hiện các tư chất và năng khiếu của thiếu niên, nhi đồng,
của nam nữ thanh niên để chuyên môn hóa trong một môn thể thao nhất
định”.
Các nhà khoa học đã xác định yếu tố “tài năng” là tiền đề của VĐV khi
còn nhỏ tuổi, nhằm đưa vào đào tạo và huấn luyện khoa học để trở thành
những VĐV xuất sắc ở các môn thể thao.
Chuẩn bị lực lượng dự bị có trình độ chuyên môn cao phụ thuộc rất
nhiều vào việc tổ chức tuyển chọn và huấn luyện ban đầu cho VĐV. Giải
quyết được nhiệm vụ này trước hết là không bỏ sót “nhân tài”, cũng là cơ sở
để đạt thành tích trong tập luyện và thi đấu sau này, giảm thiểu tốn kém về
thời gian, tiền bạc và công sức đào tạo.
1.2.3. Lứa tuổi và kỳ hạn tiến hành của các giai đoạn tuyển chọn.
1.2.3.1. Tuổi sinh học.
Các nhà khoa học so sánh tuổi sinh học (tuổi xương) với tuổi lịch (tuổi
khai sinh) của trẻ em trong lứa tuổi thiếu niên- nhi đồng để loại trừ những
VĐV trẻ có tuổi xương lớn hơn tuổi lịch từ 1,5- 2 tuổi trở lên. Những trẻ em
phát dục sớm khó có thể đào tạo để đạt thành tích thể thao cao. Thông thường


21

người ta chú trọng đào tạo TNTT ở những trẻ em có độ tuổi phát dục bình

thường hoặc muộn. Hiện nay việc xác định tuổi xương bằng phương pháp
chụp X- quang bàn tay. Ngoài ra còn dùng tuổi xương để dự báo chiều cao
thân thể cuối cùng của VĐV đạt độ chính xác tương đối cao [8, tr 26].
1.2.3.2. Kỳ hạn tiến hành của các giai đoạn tuyển chọn.
Nhiều tác giả có ý kiến khác nhau về tuổi chuyên môn hóa sớm tập luyện
thể thao. Song thực tế thấy rằng ngày càng không ít thanh thiếu niên đã đạt
thành tích thể thao thế giới. Mặt khác hiện nay nhiều VĐV lớn tuổi tham gia
thi đấu thế giới. Theo một số tác giả về lứa tuổi tuyển chọn đối với những
môn thể thao có chu kỳ, lứa tuổi tuyển chọn ở giai đoạn 10-12 tuổi, phù hợp
với giai đoạn đầu chuẩn bị, phát triển công tác huấn luyện thể lực toàn diện,
cụ thể nâng cao khả năng của hệ thống bảo đảm năng lực phù hợp khả năng
đồng hóa và hoạt động yếm khí của cơ thể. Ở lứa tuổi này sự phát triển sức
bền chung tự nhiên tốt, ở lứa tuổi này ưu tiên tuyển chọn chỉ tiêu quan trọng
là sự tăng trưởng cơ thể.
Ở giai đoạn 2 lứa tuổi tuyển chọn 13-15 tuổi, giai đoạn huấn luyện
chuyên môn (các môn có chu kỳ).
Trong giai đoạn 3 giai đoạn huấn luyện chuyên môn sâu thể thao, tuổi
tuyển chọn từ 16-17 tuổi.
Trong giai đoạn phát triển khả năng tối đa sức bền chuyên môn (tốc độsức bền) có liên quan đến các biện pháp sử dụng rộng rãi nhằm phát triển
nguồn năng lực yếm khí. Trong lứa tuổi này có khả năng phát triển sức bền
chuyên môn và tiến hành tuyển chọn các đội tuyển, thanh thiếu niên nam nữ
được chuyển từ giai đoạn 1, 2.
Trong giai đoạn 4 ở lứa tuổi 18-20 khi các VĐV đạt dự bị kiện tướng thể
thao được tuyển chọn đội tuyển quốc gia và đội tuyển quốc tế [24, tr 95 - 96].


22

1.2.3.3. Các chỉ tiêu khái quát tuyển chọn thể thao.
Theo GS.TS Lê Nguyệt Nga và PGS.TS Trịnh Hùng Thanh[24] những

chỉ tiêu tuyển chọn cơ bản gồm:
- Năng khiếu được xác định bởi điều kiện di truyền có liên quan đến cấu
trúc và khả năng chức năng sinh lý và tâm lý, sự hoạt động cực hạn và hành vi
của con người.
- Điều kiện khuôn mẫu di truyền có đặc điểm thay đổi nhỏ nâng cao giá
trị dự báo. Trong thời gian tiến hành và huấn luyện giảng dạy để tạo khả năng
biểu hiện và sự hoàn thiện thích hợp của cá thể. Như vậy nền tảng di truyền
chức năng có thể mở rộng quá trình chuẩn bị nhiều năm của VĐV khi quy
định quá trình huấn luyện. Trong quá trình huấn luyện đặc biệt chú ý đến sự
phát triển lứa tuổi.
- Các chỉ tiêu năng khiếu không chỉ dựa vào mức độ phát triển đầu tiên
của một tố chất này hay một tố chất kia, mà còn chú ý đến nhịp độ phát triển
tự nhiên của thanh thiếu niên do ảnh hưởng bởi các yếu tố bên ngoài, định
hướng đúng đắn trong đó ưu tiên huấn luyện.
- Đối với các giai đoạn khác nhau của sự thay đổi hoàn thiện thể thao có
liên quan đến bản chất, trạng thái chức năng, cấu trúc cơ thể có năng khiếu
nhất định và có thành tích hoàn thiện thể thao.
- Do tính thông tin riêng, các chỉ tiêu riêng rẽ nói trên là chỉ tiêu tuyển
chọn thể thao là phương pháp thực hiện của chúng đối với các giai đoạn biến
đổi khác nhau.


23


24

Bảng 1.1. Tiêu chuẩn tuyển chọn (GS.TS Lê Nguyệt Nga và PGS.TS
Trịnh Hùng Thanh, 1993)
Giai đoạn tuyển

Chỉ tiêu
chọn
Đối với các giai Trạng thái sức khỏe
đoạn
I. Giai đoạn ban 1. Tuổi sinh học.
đầu và triển vọng
2. Mức độ phát triển
chức năng và dạng
hình thái.
3. Cơ sở di truyền
II. Giai đoạn triển 1. Sự phát triển cường
vọng
độ biến đổi phù hợp.
2. Khả năng và năng
khiếu vận động.

III. Vận động viên
quốc gia và quốc tế

Độ tin cậy tâm lý và
sinh lý

Tiêu chuẩn
Loại bỏ các dấu hiệu có khuynh hướng:
Bệnh tật, gây chướng ngại huấn luyện,
nâng cao khối lượng chịu đựng
- Mức độ phù hợp phát triển giới tính,
tuổi lịch.
- Cấu trúc cơ thể phù hợp khả năng của
các môn thể thao.

- Mức độ khả năng chung.
- Gen phù hợp với tuổi lịch.
- Trạng thái chức năng sinh lý bảo đảm
chế độ ôxy khi cơ thể hoạt động.
- Tính tiết kiệm, tính hiệu quả của hiếu
yếm khí và hiếu khí.
- Trạng thái hệ thống phân tích, tính
căng thẳng thích ứng với khối lượng
vận động
Tính ổn định vận động, chịu đựng, thể
lực, tâm lý, di truyền, sự cân bằng động
lực với môi trường bên trong cơ thể khi
hoạt động căng thẳng, chịu đựng ôxy
thiếu hụt tốt, mức độ phát triển ý chí
cao.

1.2.4. Năng khiếu và tuyển chọn VĐV trẻ.
Năng khiếu là một tổng hợp ổn định của thuộc tính tâm- sinh lý của con
người chi phối quá trình tiếp thu kiến thức, kỹ năng, kỹ xảo cũng như hiệu
quả thực hiện một hoạt động thể thao nào đó. Hay nói cách khác năng khiếu
là những tiền đề bẩm sinh di truyền tạo điều kiện thuận lợi để đạt thành tích
cao trong một môn thể thao nào đó. Đại đa số các nhà khoa học thống nhất
rằng, năng lực là sự kết hợp tổng hòa của ba yếu tố:
- Năng khiếu – Điều kiện bẩm sinh di truyền.
- Điều kiện môi trường và sự giáo dục.
- Sự nỗ lực chủ quan của cá nhân.
Như vậy năng khiếu là một yếu tố quan trọng để có năng lực thể thao


25


[35, tr 78].
Hệ thống tuyển chọn có hiệu quả các VĐV trẻ có triển vọng đóng vai trò
quan trọng trong giáo dục đào tạo lực lượng hậu bị thể thao. Phân tích các lần
tham gia thi đấu của các VĐV tại đại hội Olympic và các cuộc thi đấu quốc tế
lớn khác đã cho thấy chỉ những VĐV có tài năng vận động tuyệt vời kết hợp
với trình độ phát triển cao của các phẩm chất đạo đức và ý chí, có khả năng
vận động lớn, có kỹ thuật và chiến thuật thể thao ở mức hoàn thiện, có mức
độ ổn định cao trước những trở ngại trong thi đấu, mới giành được những
thành tích cao. Vì vậy cần thiết phải tiến hành tuyển chọn đặc biệt ở những
người có trình độ phát triển cao về những phẩm chất và năng lực nêu trên để
chuyên môn hóa có kết quả trong một môn thể thao nhất định.
Theo V.P Philin thì tuyển chọn thể thao là hệ thống các biện pháp tổ
chức và phương pháp mang tính chất tổng hợp, bao gồm các phương pháp
nghiên cứu về mặt sư phạm, xã hội, tâm lý và y – sinh, nhằm phát hiện các tư
chất và năng khiếu của thiếu niên, nhi đồng, nam nữ thanh niên để chuyên
môn hóa trong một môn thể thao nhất định [38, tr 94 – 99]
Tuyển chọn thể thao được nghiên cứu theo hai hướng chính: Một là xây
dựng cơ sở lý luận trong tuyển chọn; hai là xác định các phương pháp có hiệu
quả để phát hiện năng khiếu và dự báo TNTT trẻ.
Tuyển chọn VĐV khác với tuyển chọn nghề nghiệp ở chỗ, nó phải dự
báo được thành tích thể thao của từng cá thể từ 8 – 10 năm sau. Do đó cần
phải tính toán đến nhiều yếu tố khác nhau tác động đến sự phát triển theo lứa
tuổi và ảnh hưởng đến quá trình đào tạo. Tuyển chọn thể thao nhằm phát hiện
những năng khiếu, chứ không phải là chọn những người có sức khỏe để làm
một nghề nào đó có hiệu quả. Cho nên cái khó chính là ở chỗ HLV phải dự
báo được những TNTT của một em bé mà hiện tại những tài năng ấy chưa
bộc lộ hoặc bộc lộ rất ít, còn đang ở dạng năng khiếu tiềm ẩn.
Chúng ta không công nhận tính chất bẩm sinh của TNTT, nhưng chúng



×