Tải bản đầy đủ (.doc) (20 trang)

Vận dụng phương pháp dạy học bằng “bản đồ tư duy” vào giảng dạy các môn học ở lớp 3

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (18.05 MB, 20 trang )

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
MÔ TẢ SÁNG KIẾN
Mã số:..................................................................................
1. Tên sáng kiến: Vận dụng phương pháp dạy học bằng “Bản đồ tư duy”
vào giảng dạy các môn học ở lớp 3.
2. Lĩnh vực áp dụng sáng kiến: Giáo dục tiểu học
3. Mô tả bản chất của sáng kiến:
3.1. Tình trạng giải pháp đã biết:
Hiện nay, ngành giáo dục nước ta đang trên đường đổi mới căn bản toàn
diện về: nội dung chương trình, phương pháp dạy học, phương pháp kiểm tra
đánh giá,…... Trong đó, vấn đề đổi mới phương pháp dạy học là rất được chú
trọng. Rất nhiều phương pháp dạy học tích cực đã được khuyến khích sử dụng
trong thời gian gần đây. Như chúng ta đã biết, không có phương pháp dạy học
nào là vạn năng. Bản thân mỗi phương pháp đều thể hiện những ưu, nhược điểm
riêng của nó.
Với việc đổi mới phương pháp dạy học hiện nay, chúng ta đã và đang vận
dụng nhiều phương pháp dạy học tích cực như: phương pháp đặt và giải quyết
vấn đề, phương pháp hợp tác nhóm, phương pháp vấn đáp, phương pháp Bàn tay
nặn bột, ... Việc vận dụng những phương pháp dạy học này giúp HS được tiếp
thu kiến thức một cách chủ động, tích cực hơn so với các phương pháp truyền
thống trước kia. Tuy nhiên, trong thực tế giảng dạy tôi nhận ra chúng vẫn còn
một vài hạn chế như sau:
Thứ nhất: Sau khi kiến thức được hình thành. HS ghi nhớ nội dung kiến
thức bài học chủ yếu nhất vẫn là qua kênh chữ. Và như thế sẽ không thể tránh
khỏi tình trạng một bộ phận các em học sinh sẽ học vẹt “thuộc các quy tắc mà
không hiểu – thuộc mà không biết vận dụng như thế nào”. Đặc biệt là với các
1


em có năng lực học còn hạn chế các em rất khó ghi nhớ nhiều câu từ dài dòng,


các em sẽ mất rất nhiều thời gian trong quá trình ghi nhận kiến thức mới vào bộ
não của mình.
Thứ hai: HS tiếp thu kiến thức theo từng bài cụ thể mà không thể có cái
nhìn tổng thể về mối quan hệ với những kiến thức đã được học trước đó và với
cả những kiến thức sẽ được học sau này. Và như thế, kiến thức các em thu nhận
được trong não bộ sẽ rời rạc, không có hệ thống. HS rất mau quên những kiến
thức đã được tiếp nhận trước đó hoặc các em dễ lẫn lộn kiến thức này với kiến
thức khác trong chương trình.
Thứ ba: Khi trình bày lại những hiểu biết của mình về một nội dung kiến
thức thì HS cũng chủ yếu trình bày bằng câu chữ, lời nói nên rất dễ bỏ sót những
chi tiết khi trình bày.
Qua quá trình tìm hiểu, nghiên cứu các phương pháp dạy học tích cực,
tôi nhận thấy có một phương pháp dạy học tích cực có thể khắc phục những hạn
chế trên nhưng chưa được áp dụng nhiều trong thực tế giảng dạy bậc ở Tiểu học.
Đó chính là phương pháp dạy học bằng Bản đồ tư duy.
Vậy Bản đồ tư duy là gì ?
Bản đồ tư duy (BĐTD) còn gọi là sơ đồ tư duy, lược đồ tư duy,… là
hình thức ghi chép nhằm tìm tòi đào sâu, mở rộng một ý tưởng, hệ thống hóa
một chủ đề hay một mạch kiến thức,… bằng cách kết hợp việc sử dụng đồng
thời hình ảnh, đường nét, màu sắc, chữ viết với sự tư duy tích cực. Đặc biệt đây
là một sơ đồ mở, không yêu cầu tỉ lệ, chi tiết khắt khe như bản đồ địa lí, có thể
vẽ thêm hoặc bớt các nhánh, mỗi người vẽ một kiểu khác nhau, dùng màu sắc,
hình ảnh, các cụm từ diễn đạt khác nhau, cùng một chủ đề nhưng mỗi người có
thể "thể hiện” nó dưới dạng BĐTD theo một cách riêng.
Kỹ thuật tạo ra loại bản đồ này được gọi là Mind Mapping (Mind Map)
và được phát triển bởi tác giả Tony Buzan. Theo Tony Buzan thì “một hình ảnh
có giá trị hơn cả ngàn từ” và “màu sắc cũng có tác dụng kích thích não như
hình ảnh. Màu sắc mang lại cho BĐTD những rung động cộng hưởng, mang lại
2



sức sống và năng lượng vô tận cho tư duy sáng tạo”. Và điều này rất phù hợp
với đặc điểm nhận thức của lứa tuổi học sinh tiểu học. Việc áp dụng BĐTD vào
dạy học ở tiểu học sẽ là một phương pháp dạy học với nhiều ưu điểm vượt trội.
BĐTD giúp học sinh trong việc phát triển ý tưởng, ghi nhớ kiến thức. Từ
đó các em sẽ nhớ nhanh, nhớ lâu, hiểu sâu kiến thức bằng cách tự ghi lại một
bài học, một chủ đề nào đó theo cách hiểu của mình.
Nếu giáo viên vận dụng phương pháp dạy học bằng BĐTD vào quá trình
dạy học và hướng dẫn học sinh sử dụng BĐTD trong học tập, các em sẽ biết
cách học và tự học. Các em không thuộc lòng, thuộc vẹt một cách máy móc. Các
em sẽ nhớ nhanh, nhớ lâu, hiểu sâu các kiến thức trọng tâm cơ bản, biết liên
tưởng, liên kết thành một hệ thống các kiến thức có liên quan với nhau và đặc
biệt các em có thể thuộc bài ngay tại lớp, các em tự tin và sáng tạo hơn.
Tuy nhiên, chỉ khi nào các em được trải nghiệm thực sự bằng việc tự
mình thiết lập BĐTD và sử dụng nó trong học tập thì mới thấy rõ được hiệu quả
của nó. Qua đó, các em sẽ thích học hơn và đặc biệt là cảm nhận được niềm vui
của việc học.
Thế nhưng trong thực tế dạy học ở tiểu học hiện nay, phương pháp dạy
bằng bản đồ tư duy chưa được giáo viên tiểu học nói chung trên địa bàn huyện
đầu tư nghiên cứu sử dụng. Cụ thể tại đơn vị người thực hiện sáng kiến đang
công tác, đến thời điểm sáng kiến này được bắt đầu nghiên cứu thì chưa có giáo
viên nào vận dụng phương pháp dạy học tích cực này vào tiết dạy của mình. Vì
vậy, tôi nhận thấy việc nghiên cứu kĩ về phương pháp dạy học này để vận dụng
vào quá trình giảng dạy các môn học nhằm góp phần nâng cao chất lượng học
tập của HS là một vấn đề cấp thiết.
Phương pháp dạy học này có thể vận dụng vào rất nhiều khối lớp, rất
nhiều môn học, rất nhiều hoạt động. Tuy nhiên, để có thể trình bày vấn đề một
cách chi tiết và cụ thể, trong khuôn khổ nghiên cứu của sáng kiến này người
thực hiện sáng kiến chỉ trình bày việc vận dụng phương pháp dạy học bằng
BĐTD trong dạy học các môn học ở lớp 3.

3


+ Ưu điểm của giải pháp:
- Vận dụng phương pháp dạy học bằng BĐTD vào dạy học ở lớp 3 không
chỉ là giáo viên áp dụng một phương pháp dạy học tích cực mà còn là dạy cho
học sinh của mình một cách học rất tích cực. Góp phần thiết thực vào việc nâng
cao chất lượng học tập của HS. Điều này rất phù hợp với tinh thần đổi mới
phương pháp dạy học của nghành giáo dục hiện nay.
- Áp dụng giải pháp này vào thực tế rất đơn giản, chỉ cần một tấm bảng +
phấn hoặc giấy + viết, …. là chúng ta hoàn toàn có thể tạo ra một BĐTD.
“Nhanh - gọn - hiệu quả” là đặc điểm của phương pháp này. Do đó không cần
mất nhiều thời gian, không phải đầu tư thêm về kinh phí, trang thiết bị….
- Đặc biệt, ở nơi có điều kiện, có thể dùng phần mềm để thiết kế BĐTD
trên máy tính. Góp phần vào việc tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin vào
quá trình giảng dạy. Góp phần nâng cao chất lượng học tập của học sinh.
- Đề tài còn cung cấp một số kinh nghiệm để áp dụng phương pháp BĐTD
vào việc dạy và học đạt hiệu quả cao nhất.
- Tạo cho học sinh học tập trên lớp với sự hứng thú, thân thiện, vui tươi,
nhẹ nhàng. Phát huy khả năng tự nhận thức, tự làm chủ tri thức của học sinh.
+ Khuyết điểm của giải pháp:
Để áp dụng các biện pháp này thành công giáo viên cần có thời gian và sự
đầu tư, tìm hiểu thật kĩ về phương pháp dạy học bằng BĐTD. Từ đó chúng ta
mới hiểu sâu, hiểu chắc và vận dụng chúng một cách linh hoạt và hiệu quả trong
quá trình giảng dạy.
3.2. Nội dung giải pháp đề nghị công nhận là sáng kiến:
3.2.1. Mục đích của giải pháp:
Với mong muốn góp phần vào việc tìm kiếm những kinh nghiệm vận dụng các
phương pháp dạy học tích cực vào trong thực tế giảng dạy. Tạo cho học sinh
một môi trường học tập tích cực, năng động. Giúp HS được trang bị thêm một

cách học, cách ghi nhớ, cách hệ thống kiến thức một cách hiệu quả nhất. Từ đó,
HS sẽ phát huy tối đa khả năng học tập của bản thân. Góp phần nâng cao chất
4


lượng giáo dục cho học sinh chính là mục đích khi tôi thực hiện đề tài này.
3.2.2. Nội dung giải pháp:
3.2.2.1. Điểm mới của giải pháp:
Kết quả nghiên cứu của đề tài mang tính chất mới mẻ vì đây là lĩnh vực
tương đối mới, trong thực tế rất ít đề tài đề cập đến.
Đề tài là sự tìm tòi, nghiên cứu, thử nghiệm và chắt lọc về quá trình vận
dụng phương pháp dạy học bằng BĐTD từ hoạt động thực tiễn. Các giải pháp
được đề cập cụ thể, rõ ràng, người đọc sẽ rất dễ tiếp cận, dễ áp dụng vào thực tế.
Đề tài còn nêu được một số kinh nghiệm giúp giáo viên áp dụng phương
pháp này một cách hiệu quả nhất.
Giúp giáo viên tích cực vận dụng công nghệ thông tin vào qua trình giảng
dạy thông qua các phần mềm thiết kế và trình chiếu một BĐTD.
Kết quả nghiên cứu của đề tài sẽ góp phần thiết thực trong việc đổi mới
phương pháp dạy học và nâng cao chất lượng giáo dục trong nhà trường.
3.2.2.2. Một số giải pháp chung đã thực hiện:
* Giải pháp kỹ thuật: Giáo viên vận dụng kỹ thuật, nghệ thuật trong giao
tiếp. Giao tiếp với lãnh đạo trường, trình bày khả năng vận dụng của sáng kiến
kinh nghiệm. Giao tiếp với các đồng nghiệp để trình bày và tham khảo ý kiến
những việc sẽ thực hiện.
- Kỹ thuật trong giáo dục và trong dạy học, giúp từng đối tượng học sinh tiếp
thu một cách tích cực, chủ động và sáng tạo những nội dung mà giáo viên muốn
truyền tải.
* Giải pháp quản lý: Xây dựng kế hoạch để tổ chức thực hiện các biện pháp
đã đề ra, kiểm tra việc thực hiện. Trên cơ sở đó nhận định, đánh giá kết quả đạt
được trong từng thời gian.

* Giải pháp tác nghiệp:
Thông qua dự giờ, thao giảng, thông qua các cuộc họp chuyên môn trao
đổi với các đồng nghiệp để đánh giá mức độ thực hiện các biện pháp đã nêu ở
các đơn vị lớp cùng áp dụng đề tài.
5


* Giải pháp ứng dụng tiến bộ kỹ thuật: Giáo viên tăng cường nghiên cứu
việc ứng dụng công nghệ thông tin để áp dụng vào các tiết dạy để kích thích
niềm hứng thú say mê cho học sinh trong từng tiết học.
3.2.2.3.

Vận dụng phương pháp BĐTD vào quá trình dạy - học ở

lớp 3:
3.2.2.3.1.

Cách lập BĐTD:

- Ở vị trí trung tâm của BĐTD là một hình ảnh hay một từ khóa thể hiện
một ý tưởng hay một khái niệm chủ đạo.
- Từ ý trung tâm hay hình ảnh trung tâm tỏa ra các nhánh chính, ta gọi là
nhánh cấp 1.
- Từ các nhánh chính lại có sự phân thành các nhánh tiếp tục gọi là nhánh
cấp 2 để nghiên cứu sâu hơn.
- Cứ như thế sự phân nhánh cứ tiếp tục và các khái niệm, hình ảnh luôn có
sự kết nối với nhau.
- Chính vì sự liên kết của BĐTD này sẽ tạo ra một “bức tranh tổng thể” mô
tả về ý trung tâm một cách cụ thể và rõ ràng nhất.
* Tuy nhiên, tùy theo sự sáng tạo trong việc thể hiện, chúng ta có thể thay

các nhánh vẽ đơn thuần thành những hình vẽ phong phú khác nhưng vẫn đảm
bảo có sự phân chia các ý theo cấp bậc.
- Ví dụ về một BĐTD:

3.2.2.3.2. Các bước thực hiện dạy học với BĐTD:
- Hoạt động 1: HS lập BĐTD theo nhóm hoặc cá nhân với gợi ý của giáo
viên.

6


- Hoạt động 2: HS hoặc đại diện của nhóm học sinh lên báo cáo thuyết
minh về BĐTD
- Hoạt động 3: HS thảo luận bổ sung để hoàn chỉnh BĐTD về kiến thức bài
học đó. GV là cố vấn giúp học sinh hoàn thiện BĐTD theo nội dung bài học.
- Hoạt động 4: Củng cố kiến thức mà GV đã chuẫn bị sẵn hoặc BĐTD mà
cả lớp đã chỉnh sửa hoàn chỉnh. Gọi HS lên trình bày lại kiến thức đó.
* Lưu ý: Các bước này không cứng nhắc mà có thể sử dụng linh hoạt để
làm sao giúp HS dễ dàng tiếp thu kiến thức.
3.2.2.3.3. Giúp học sinh biết, hiểu và vận dụng được BĐTD vào quá
trình học tập:
* Bước 1: Hướng dẫn HS tiếp cận với phương pháp học tập bằng
BĐTD.
- Ngay đầu năm học, tôi sử dụng dạng BDTD để trang trí “Qui ước lớp
học” và giúp HS hiểu những nội dung của BĐTD đó thể hiện:
Ví dụ:

- Giới thiệu cho HS quan sát một số BĐTD đơn giản: Để giúp HS của mình
hiểu về BĐTD, sau các tiết dạy tôi lựa chọn những mạch kiến thức cơ bản trong
chương trình và hệ thống chúng bằng một BĐTD (dạng đơn giản). Tôi đính

BĐTD đã chuẩn bị sẵn lên bảng. Hướng dẫn HS quan sát. GV vừa dùng thước
chỉ lên BĐTD đó và trình bày nhằm giúp HS chốt lại nội dung vừa học một cách
có hệ thống. Cuối cùng gọi HS lên nêu lại. Như thế, HS sẽ rất dễ nhớ bài. Dần
dần, HS sẽ quen và từng bước yêu thích cách học thú vị và hiệu quả này.
7


Ví dụ: Để củng cố kiến thức dạng toán tìm thành phần chưa biết của phép
cộng và phép trừ GV có thể dùng BĐTD như sau:
Hiệu = Số bị trừ
Số trừ

Tổng = Số hạng
+
Số hạng
Phép
trừ

Tìm thành
phần chưa
biết ?

Phép
cộng
Số hạng = Tổng
Số hạng đã
biết

Số bị trừ = Hiệu
+ Số trừ


* Bước 2: Giúp HS làm quen với BĐTD:
HS quan sát các BĐTD và tập đọc hiểu một số BĐTD. Nghĩa là tập cho
HS thuyết trình, diễn giải mạch nội dung kiến thức hàm chứa trong BĐTD đó.
Khi các em đã thành thạo thì chỉ cần nhìn vào BĐTD, bất kỳ một HS nào cũng
thuyết minh được một cách mạch lạc.
Ví dụ: Từ BĐTD sau, HS có thể trình bày được: Trên quê hương em có
thành thị và nông thôn. Ở thành thị có: nhà cao tầng, xe cộ đông đúc, công viên,
siêu thị,….. Ở nông thôn có: cánh đồng, dòng sông, con đò, cây đa, lũy tre,
giếng nước,……

Bài: Từ ngữ về Thành thị - Nông thôn (LT&C lớp 3 – tuần 16)

* Bước 3: Hướng dẫn HS vẽ BĐTD:
Để dạy HS vẽ BĐTD, GV có thể hướng dẫn theo các cách sau:
8


+ Hoàn thiện các BĐTD do GV vẽ sẵn bằng cách ghi các nội dung còn
thiếu vào các nhánh (hoặc ô trống).
Ví dụ:

Bài: Quả (TNXH lớp 3 – tuần 24)
+ Yêu cầu HS hoàn thiện các BĐTD còn thiếu nhánh: Với dạng này GV
yêu cầu HS suy nghĩ để điền nội dung những nhánh còn trống trong SĐTD để
hoàn chỉnh nội dung.
Ví dụ: BĐTD “Kể về gia đình em” còn thiếu các chi tiết trên nhánh:

Ví dụ: BĐTD ôn tập về số đo thời gian còn trống nội dung:


3.2.2.3.4.. Lựa chọn thời điểm vận dụng phương pháp BĐTD:

9


* Vận dụng khi kiểm tra bài cũ: Sử dụng BĐTD trong kiểm tra bài cũ
giúp GV kiểm tra được phần nhớ lẫn phần hiểu của HS. Ta có thể sử dụng
BĐTD dưới dạng thiếu thông tin, yêu cầu HS điền và rút ra nhận xét về mối
quan hệ của các nhánh thông tin với từ khóa trung tâm.
Hoặc có thể yêu cầu HS về nhà tự vẽ các BĐTD về kiến thức đã học rồi
lên trình bày. GV cũng có thể yêu cầu HS vẽ bằng phấn màu trực tiếp lên bảng
nội dung kiến thức đã học….. Tùy theo từng đối tượng HS mà GV có yêu cầu
khác nhau. Khi thực hiện như vậy tôi thấy HS rất hào hứng, tích cực xung
phong, không khí lớp học rất vui vẻ. Các em có thể bổ sung ý kiến nếu bạn mình
còn thiếu. Sau khi hoàn thành, các em đọc lại kiến thức trên BĐTD đó.
Ví dụ: Sau khi HS học bài Mặt Trời (TNXH lớp 3 – Tiết 56). GV yêu cầu
HS về tự vẽ BĐTD về kiến thức này và trình bày ở tiết học sau. Dưới đây là ví
dụ về BĐTD mà HS đã tự vẽ ở nhà.

* Vận dụng BĐTD trong dạy kiến thức mới: Vận dụng BĐTD trong dạy
kiến thức mới có thể thực hiện như sau:
- GV hướng dẫn HS nội dung trong SGK, đưa ra tình huống có vấn đề.
- GV cùng HS đặt tên cho chủ đề.
- HD HS vẽ BĐTD theo nội dung chính đã chọn. (theo nhóm hoặc cá nhân)
- HS trình bày BĐTD đã vẽ.
- HS nhận xét, đánh giá, bổ sung.
- GV chốt ý. (GV có thể đưa ra một BĐTD đã hoàn chỉnh mà GV chuẩn bị
trước). Gọi HS đọc lại.

10



Tuy nhiên, GV cũng có thể thiết kế sẵn BĐTD theo mục tiêu bài học nhưng
còn thiếu nhánh, thiếu nội dung. Sau đó, Gv giao việc cho HS dưới dạng phiếu
học tập để HS vẽ hoặc viết tiếp. Từ đó rút ra kiến thức của bài học.
Ví dụ : Khi dạy tiết Tập làm văn : Kể về người hàng xóm (Tuần 8)
- Đầu tiên, giáo viên giới thiệu mục tiêu và tên bài dạy.
- GV hướng dẫn học sinh thể hiện ý tưởng bằng BĐTD :
+ Cùng HS lựa chọn từ ngữ trung tâm. (Tùy HS lựa chọn người hàng xóm
mình sẽ kể, chẳng hạn : Bác 2 Lan, Ông năm, Chị 4 Huệ,....)
+ GV nêu gợi ý để HS vẽ các nhánh cấp 1. (VD : Con sẽ kể gì về người
hàng xóm này ? GV để HS tự chọn vấn đề như công việc, hình dáng, tính
tình, sở thích, tình cảm,......)
+ GV nêu tiếp gợi ý để HS vẽ các nhánh cấp 2, 3,... (VD : Con hãy tiếp
tục thể hiện trên BĐTD của mình về chi tiết của các nhánh con vừa vẽ. HS sẽ
tiếp tục vẽ nhánh thể hiện các ý, chẳng hạn như từ nhánh Tính tình các em sẽ vẽ
được các nhánh nhỏ hơn với các chi tiết như : hiền lành, hay giúp đỡ mọi người,
yêu quý các em nhỏ,....)
+ Cho HS chút thời gian để bổ sung các ý khác. Gọi nhiều HS lên trình
bày trước lớp. Các HS khác nhận xét hoặc bổ sung.
+ GV đính lên bảng một số gợi ý bằng câu hỏi gợi ý như sách giáo khoa
hoặc bằng BĐTD đã chuẩn bị để chốt lại các ý trọng tâm nhất cần có khi kể về
người hàng xóm.
+ HS tự bổ sung thêm vào BĐTD của mình cho hoàn chỉnh.
Như vậy, chỉ cần vài phút các em đã vẽ được BĐTD để kể về người hàng
xóm mà tiết học lại rất sinh động. Các em có thể vận dụng lại BĐTD này ở tiết
Viết về người hàng xóm. Bài viết của các em chắc chắn sẽ phong phú về ý
tưởng và mạch lạc trong diễn đạt.
Ví dụ : BĐTD của một HS đã vẽ :


11


* Vận dụng BĐTD trong các tiết củng cố, ôn tập kiến thức :
Lập BĐTD vào cuối tiết học sau khi học xong một bài hay một chủ đề để
liên kết các kiến thức cơ bản, trọng tâm giúp củng cố phần kiến thức đó. Đây
chính là lợi thế lớn nhất của phương pháp dạy học bằng BĐTD.
GV có thể yêu cầu HS sử dụng giấy, bảng phụ hay có thể vẽ lên bảng lớp,
tự tóm lược nội dung kiến thức cần củng cố hoặc ôn tập dưới dạng BĐTD rồi
thuyết minh lại. Cả lớp cùng đóng góp ý kiến bổ sung. GV kết luận. Cuối cùng
GV có thể đưa ra BĐTD hoàn chỉnh về kiến thức gọi HS nêu lại.
GV có thể sử dụng cách thức này ở buổi 2 trong các tiết ôn tập. Và đặc biệt
là trong các tiết bồi dưỡng HS giỏi nhằm giúp các em nắm vững các mạch kiến
thức một cách hệ thống và hiệu quả.
* Lưu ý : Nếu vận dụng BĐTD vào cuối tiết học để củng cố kiến thức của
một bài thì GV không nên yêu cầu HS vẽ cầu kỳ mà chỉ cần nêu được dàn ý
trọng tâm của bài học bằng các công thức hay hình vẽ đơn giản.
* Ví dụ : BĐTD dùng ôn tập TN-XH : Con người và sức khỏe.

* Ví dụ : BĐTD dùng củng cố kiến thức TNXH bài : Quả.

12


* Vận dụng phương pháp dạy học bằng BĐTD vào dạy các tiết Hoạt
động ngoài giờ lên lớp :
Hiện nay, theo qui định mỗi tuần đều có một tiết Hoạt động ngoài giờ lên
lớp. Để thực hiện tốt các tiết dạy này thì HS phải chuẩn bị rất nhiều việc như :
sưu tầm hoặc vẽ tranh ảnh theo chủ đề, tập biểu diễn các bài thơ, bài hát, câu
chuyện kể theo chủ điểm, diễn tiểu phẩm,.... Nếu không có sự phân công cụ thể,

rõ ràng để các em chuẩn bị chu đáo thì tiết dạy sẽ rất khô khan.
Cứ sau mỗi tiết dạy, tôi sẽ nêu chủ đề cần chuẩn bị ở tuần sau. Chia lớp ra
thành các nhóm theo yêu cầu. Tôi yêu cầu tự mỗi nhóm sẽ họp lại dùng BĐTD
để vạch ra các công việc cần chuẩn bị và phân công công việc cụ thể cho từng
thành viên. BĐTD đó sẽ đính ở góc trang trí của lớp. Các thành viên nhìn vào đó
để nhắc nhở nhau cùng thực hiện.
Với cách làm việc này, tôi nhận thấy các em HS rất hào hứng và rất có
trách nhiệm với nhiệm vụ được phân công. Nhờ vậy, các tiết Hoạt động ngoài
giờ lên lớp luôn rất thú vị và sinh động.
Ví dụ : Để tham gia học tốt tiết dạy chủ điểm : Yêu quý mẹ và cô giáo. HS
của lớp đã thực hiện được BĐTD như sau :

13


3.2.2.3.5. Vận dụng các phần mềm thiết kế và trình chiếu BĐTD vào các
tiết dạy:
Một BĐTD có thể được thực hiện dễ dàng trên một tờ giấy với các loại bút
màu khác nhau. Tuy nhiên, cách thức này có nhược điểm là khó lưu trữ, thay
đổi, chỉnh sửa.
Một giải pháp được hướng đến là sử dụng các phần mềm để vẽ BĐTD. Có
rất nhiều loại như : Emindmaps, EdrawMap, Imindmap 7, ImindMap 8,.....Tuy
nhiên, phần mềm tôi đang sử dụng để thiết kế BĐTD ứng dụng trong các tiết
dạy là ImindMap 7.
Để tải phần mềm này về máy tính, ta vào Google gõ tên phần mềm và làm
theo hướng dẫn để tải về và cài đặt.
Sau khi đã cài đặt được phần mềm trong máy, chúng ta sử dụng nó như một
phần mềm thiết kế và trình chiếu Powerpoint. GV hoàn toàn có thể trình chiếu
BĐTD đã thiết kế theo ý mình. Với nhiều chức năng tiện lợi và thú vị, phần
mềm dạy học với BĐTD này góp phần tích cực vào việc nâng cao chất lượng

học tập cho HS và góp phần vào việc ứng dụng công nghệ thông tin vào quá
trình dạy và học tích cực.
Ví dụ: SĐTD được vẽ trên phần mềm ImindMap 7

14


3.2.2.4. Để vận dụng các biện pháp trên đạt hiệu quả, một số vấn đề
giáo viên cần lưu ý:.
- HS thực hành vẽ BĐTD. GV cần lưu ý HS khi vẽ:
+ Dùng từ khóa và ý chính
+ Viết cụm từ không viết thành câu.
+ Có thể dùng các từ viết tắt.
+ Có tiêu đề.
+ Nên dùng đường cong thay vì đường thằng vì các đường cong sẽ thu
hút sự chú ý của mắt hơn.
+ Sử dụng nhiều màu sắc để ghi.
+ Nếu có thời gian có thể vẽ kèm hình ảnh minh họa.
- Ban đầu, GV khuyến khích HS vẽ những BĐTD đơn giản rồi cứ thế
tùy năng lực HS mà nâng dần mức độ. Khuyến khích các em có quyển sổ riêng
để vẽ BĐTD để dễ dàng lưu giữ và sử dụng khi cần thiết.
- Mặc dù đây là một phương pháp dạy học có nhiều ưu điểm nhưng
muốn khai thác được hiệu quả cao nhất của nó thì trong quá trình lên lớp, GV
cần áp dụng “đúng đối tượng, đúng nơi, đúng thời điểm”. Ngoài ra, chúng ta
cần kết hợp hài hòa với các phương pháp dạy học khác để chúng hỗ trợ làm tăng
những ưu điểm của nhau.
3. 3. Khả năng áp dụng của giải pháp:

15



Sáng kiến đã được GV tổ khối 3 của trường áp dụng. Những biện pháp đề
cập trong đề tài đã, đang và sẽ tiếp tục được sử dụng tại đơn vị để chứng minh
cho tính khoa học và thực tiễn của đề tài.
Nếu có điều kiện để triển khai rộng rãi, kết quả nghiên cứu của đề tài có
thể sử dụng với mọi đối tượng HS của khối lớp 3. Giải pháp này có thể phù hợp
với những điều kiện của từng trường cụ thể, không phân biệt trình độ học sinh,
không phân biệt vùng miền. Giải pháp này sẽ tạo nền tảng để phương pháp dạy
học bằng BĐTD tiếp tục phát huy tác dụng ở những khối lớp tiếp theo. Ngoài ra,
giải pháp này sẽ có đóng góp tích cực trong việc chuyển biến suy nghĩ, nhận
thức của giáo viên quá trình giáo dục học sinh. Kích thích ở giáo viên trong việc
tìm tòi, vận dụng các phương pháp dạy học tích cực. Đây sẽ là nền tảng vững
chắc góp phần nâng cao chất lượng giáo dục một cách toàn diện.
3.4. Hiệu quả, lợi ích thu được của việc áp dụng phương pháp dạy học
bằng BĐTD vào dạy học ở lớp 3:
Đề tài được thực hiện bước đầu nghiên cứu từ năm học 2013 – 2014, qua
quá trình áp dụng trong một số tiết dạy trên lớp, người thực hiện đề tài đã chắc
lọc, điều chỉnh, bổ sung những nội dung đã thực hiện. Năm học 2014 -2015, nội
dung đề tài đã được triển khai và được tập thể giáo viên tổ khối 3 của trường
vận dụng . Một số kết quả đạt được như sau:
* Đối với học sinh:
Năm học 2013-2014, tôi chỉ áp dụng phương pháp dạy học này trên một
số tiết dạy đặc trưng ở môn Toán và Tiếng Việt. Ngoài ra tôi áp dụng vào rèn
luyện môn toán cho HS thi Violimpic Toán trong việc giúp các em hệ thống hóa
kiến thức Toán theo các mạch kiến thức trọng tâm.
Năm học 2014 - 2015, tôi đã phổ biến nội dung này trong tổ chuyên môn
và cùng áp dụng với các thành viên trong tổ khối 3. (Vận dụng trong dạy Toán,
Tiếng Việt, Tự nhiên và xã hội, Hoạt động ngoài giờ lên lớp, các tiết bồi giỏi).
Một số kết quả đạt được:


16


- Giải Violimpic Toán cấp tỉnh: 2 giải (giải Khuyến khích 2013-2014,
năm 2014-2015 không xếp hạng nhưng được công nhận đạt giải cấp tỉnh).
- Giải Violimpic cấp huyện: Năm 2013 – 2014: 1 giải nhì, năm 2014-2015
huyện không xếp hạng nhưng kết quả thi của 4 HS trong lớp của người thực
hiện đề tài đạt số điểm khá cao. (260, 270, 285, 300).
- Học với phương pháp BĐTD là HS phải tự sáng tạo, tự trình bày kiến
thức của mình. Từ đó, học sinh tự tin, năng động, sáng tạo hơn trong các phong
trào và hoạt động ngoại khóa. Đa số HS trong lớp của tác giả sáng kiến là thành
viên trong các đội thi năng khiếu và các hoạt động ngoại khóa của trường. Các
em biết vạch ra những việc cần thực hiện hàng tuần, hàng tháng và thể hiện
chúng bằng BĐTD rồi đính ở góc trang trí của lớp hoặc góc học tập ở nhà để
nhìn vào mà phấn đấu. Vì thế kết quả tham gia các phong trào rất tốt:
+ Đạt giải Nhất hát cá nhân, giải Nhất hát tốp ca và giải Nhất tập thể của
hội thi “Tiếng hát dân ca” cấp trường.
+ Đạt giải Nhất và giải Nhì hội thi “Vẽ tranh” cấp trường.
+ Giải Nhất, giải Nhì, giải Ba hội thi “Viết chữ đẹp” cấp trường.
- Kết quả học tập năm học 2013-2014:
Học sinh khá + giỏi: 23/25 (92%)
Học sinh trung bình: 2/25 (8%)
Học sinh yếu: 0
- Kết quả học tập HK I năm học 2014-2015: 100% HS Hoàn thành ở tất
cả các môn.
- HS học tập tích cực, chủ động, nắm vững kiến thức đã học qua từng bài,
từng chương, từng mạch kiến thức. Khả năng tư duy logic của các em ngày càng
cao.
- Giúp học sinh phát huy năng khiếu vẽ. Các em biết tự dùng BĐTD để
lập kế hoạch cho quá trình rèn luyện và học tập cho bản thân.

- Tạo nền tảng vững chắc cho các em về khả năng tự học khi lên các lớp
trên.
17


*Đối với giáo viên:
- Tạo cho HS trong lớp không khí học tập vui vẻ, tích cực, hợp tác.
- Dễ dàng hơn trong việc ôn tập kiến thức cho các em sau mỗi bài, mỗi
chương, mỗi học kỳ.
- Qua các BĐTD mà HS vẽ giáo viên có thể biết mức độ nắm kiến thức
của các em mà điều chỉnh, bổ sung một cách dễ dàng.
- GV có thể vận dụng BĐTD vào việc lập kế hoạch học tập, phấn đấu và
giảng dạy cho bản thân.
- Thực hiện tốt việc ứng dụng công nghệ thông tin trong việc ứng dụng
các phần mềm mới trong quá trình giảng dạy.
3.5. Tài liệu kèm theo gồm:
- Một số bản đồ tư duy do HS thiết kế trong quá trình học tập.
……………….., ngày 10 tháng 4 năm 2015

18


19


20




×