Tải bản đầy đủ (.doc) (16 trang)

Tiểu luận môn đường lối cách mạng phân tích những đặc điểm của mô hình kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (227.01 KB, 16 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐẦO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP. HỒ CHÍ MINH
-------    -------

Đề tiểu luận thuyết trình: Đường lối cách mạng của Đảng
Cộng sản VN (nâng cao)
Đề tài: Phân tích những đặc điểm của mô hình kinh tế
thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam

GVHD:

TS. Phạm Thăng

Nhóm SV thực hiện: Nhóm 2

Tp. HCM, tháng 10 năm 2015
1


MUC LUC
1. Khái niệm kinh tế thị trường......................................................................................................................5
2. Sự cần thiết khách quan phát triển kinh tế thị trường theo định hướng XNCN ở nước ta.......................6
a) Kinh tế thị trường ở Việt Nam ở trình độ thấp kém..............................................................................8
b) Các loại thị trường đã được hình thành và phát triển nhưng chưa đồng bộ.........................................8
c) Nhiều thành phần kinh tế tham gia thị trường......................................................................................9
d) Quản lý nhà nước về kinh tế xã hội còn yếu..........................................................................................9
e) Nền kinh tế mở cửa hội nhập trong tình trạng trình độ phát triển kinh tế thị trường ở nước ta còn
quá thấp so với các nước khác..................................................................................................................9
a) Đặc trưng về hệ thống mục tiêu của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN là “Dân giàu, nước
mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”, cụ thể là:..........................................................................10
b) Đặc trưng về chế độ sở hữu và thành phần kinh tế:............................................................................11


c) Đặc trưng về cơ chế vận hành kinh tế: ................................................................................................11
d) Đặc trưng về hình thức phân phối: .....................................................................................................11
e) Đặc trưng về nguyên tắc giải quyết các mặt, các mối quan hệ chủ yếu: .............................................11
f) Đặc trưng về tính cộng đồng và tính dân tộc:......................................................................................12
g) Về qhệ quốc tế:....................................................................................................................................12

III. THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP CƠ BẢN ĐỂ PHÁT TRIỂN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA....................................................................................12
1. Khái quát tình hình xây dựng và phát triển thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở
nước ta........................................................................................................................................................12
a) Những thành tựu ...............................................................................................................................12
b) Những hạn chế, yếu kém ....................................................................................................................13
c) Nguyên nhân của những hạn chế, yếu kém ........................................................................................13
2. Mục tiêu hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa .......................................14
3. Một số giải pháp cơ bản tiếp tục phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ Nghĩa ở Việt Nam
..................................................................................................................................................................... 14
a) Thực hiện nhất quán chính sách kinh tế nhiều thành phần:................................................................14
b) Mở rộng phân công lao động, phát triển kinh tế vùng, lãnh thổ, tạo lập đồng bộ các yếu tố thị
trường:....................................................................................................................................................14
c) Đẩy mạnh công tác nghiên cứu ứng dụng khoa học công nghệ, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại
hoá...........................................................................................................................................................15
d) Giữ vững ổn định chính trị, hoàn thiện hệ thống luật pháp, đổi mới các chính sách tài chính tiền tệ
giá cả........................................................................................................................................................15
2


e) Xây dựng và hoàn thiện hệ thống điều tiết kinh tế vĩ mô, đào tạo đội ngũ quản lý kinh tế và các nhà
kinh doanh giỏi:.......................................................................................................................................16
f) Thực hiện chính sách đối ngoại có lợi cho phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa 16
g) Giải quyết những hạn chế còn tồn tại của kinh tế thị trường:.............................................................16


3


LỜI NÓI ĐẦU
Sự chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý của
nhà nước theo định hướng XHCN ở nước ta hiện nay là một tất yếu khách quan. Quá trình chuyển
đổi đó được bắt đầu từ đại hội VI năm 1986. Đó là một quá trình thể hiện sự đổi mới về tư duy và
ngày càng hoàn thiện cả về lí luận cũng như thực tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội chủ nghĩa ở nước
ta.
Phát triển kinh tế thị trường có vai trò rất quan trọng. Đối với nước ta, muốn chuyển từ nền kinh tế
đang phát triển lên nền kinh tế hiện đại xã hội chủ nghĩa thì không còn con đường nào khác là phải
phát triển kinh tế thị trường. Kinh tế thị trường khắc phục được kinh tế tự nhiên tự cấp, tự túc, đẩy
mạnh phân công lao động xã hội, phát triển ngành nghề, tạo việc làm cho người lao động, khuyến
khích ứng dụng công nghệ - kỹ thuật mới nhằm tăng năng suất lao động, tăng số lượng, chủng loại,
chất lượng hàng hóa, dịch vụ, thúc đẩy tích tụ tập trung sản xuất, mở rộng giao lưu kinh tế giữa các
địa phương, các vùng lãnh thổ, thúc đẩy việc phát huy tính năng động sáng tạo của mỗi người lao
động, mỗi đơn vị kinh tế, đồng thời tạo ra cơ chế phân bổ và sử dụng các nguồn lực của xã hội hợp
lý, tiết kiệm... Vì vậy, phát triển kinh tế thị trường được coi là chiếc đòn xeo để xây dựng chủ nghĩa
xã hội, là phương tiện khách quan để xã hội hóa xã hội chủ nghĩa nền sản xuất.
Trong quá trình chuyển đổi từ đó đến nay nền kinh tế nước ta đã thu được rất nhiều thành tựu to lớn.
Việc chuyển sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng XHCN đã đưa
nước ta thoát khỏi sự trì trệ về phát triển kinh tế sang một nền kinh tế mới, phát triển mạnh hơn,
năng động hơn, có cơ chế điều chỉnh linh hoạt hơn, thúc đẩy sự phân phối, sử dụng các nguồn lực và
các tác nhân của nền kinh tế hoạt động hiệu quả hơn.
Trong tương lai, có thể nền kinh tế nước ta sẽ theo kịp được nền kinh tế của những nước phát triển
trên thế giới. Những thành công bước đầu của nền kinh tế có được là do Đảng và Nhà nước ta đã
nhận ra và vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, từ đó Đảng và Nhà nước đã chủ chương
chuyển đổi từ cơ chế kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang cơ chế thị trường, nhưng nền kinh tế nước
ta không phải là nền kinh tế thị trường thuần tuý mà là nền kinh tế thị trường có sự tham gia của nhà

nước với tư cách là người điều tiết nền kinh tế theo định hướng XHCN.

4


I. SỰ CẦN THIẾT PHẢI HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH
HƯỚNG XHCN Ở VN.
1. Khái niệm kinh tế thị trường
Cơ chế thị trường là tổng thể những mối quan hệ kinh tế, các phạm trù kinh tế và qui luật kinh tế có
quan hệ hữu cơ với nhau cùng tác động để điều tiết cung - cầu giá cả cùng những hành vi của người
tham gia thị trường nhằm giải quyết ba vấn đề cơ bản: Sản xuất cái gì, sản xuất như thế nào, sản
xuất cho ai?
Các mối quan hệ trong cơ chế thị trường chịu sự tác động của các qui luật kinh tế khách quan như
qui luật giá trị, qui luật cung cầu, qui luật lưu thông tiền tệ. Động lực của các mối quan hệ này là lợi
nhuận trong môi trường cạnh tranh. Cơ chế thị trường là cơ chế có rất nhiều ưu điểm:
- Cơ chế thị trường là cơ chế năng động nhạy cảm có khả năng tự động điều tiết nền sản xuất xã hội
tức là sự phân bổ sản xuất vào các khu vực các ngành kinh tế hay sản xuất cái gì như thế nào đều do
thị trường quyết định mà không cần bất cứ sự điều khiển nào.
- Cơ chế thị trường đáp ứng được những nhu cầu đa dạng phức tạp của người tiêu dùng, tự động
kích thích sự phát triển của sản xuất, tăng cường chuyên môn hoá sản xuất.
- Cơ chế thị trường mang tính hiệu quả cao: Các doanh nghiệp muốn thu được lợi nhuận cao thì đòi
hỏi phải tiết kiệm chi phí sản xuất, kích thích tiến bộ của khoa học kỹ thuật công nghệ.
- Cơ chế thị trường thúc đẩy sự cạnh tranh làm cho sản phẩm hàng hoá có chất lượng cao hơn, giá
thành các sản phẩm giảm.
- Cơ chế thị trường thực hiện phân phối các nguồn lực kinh tế một cách tối ưu.
- Sự điều tiết của cơ chế thị trường mềm dẻo linh hoạt hơn sự điều chỉnh của cơ quan nhà nước, và
có khả năng thích ứng cao trước những điều kiện kinh tế biến đổi, sản xuất xã hội phù hợp nhu cầu
xã hội.
Bên cạnh những mặt tích cực trên cơ chế thị trường còn rất nhiều khuyết tật và mâu thuẫn như sau:
- Cơ chế thị trường chỉ phát huy tác dụng trong môi trường cạnh tranh hoàn hảo, khi cạnh tranh

không hoàn hảo thì hiệu lực của cơ chế thị trường bị giảm. Khi xuất hiện độc quyền, các nhà độc
quyền có thể giảm sản lượng, tăng giá thu lợi nhuận cao, không có sức ép cạnh tranh để đổi mới kỹ
thuật.
- Các doanh nghiệp có thể lạm dụng tài nguyên xã hội, gây ô nhiễm môi trường để nhằm mục đích
là lợi nhuận tối đa. Từ đó hiệu quả kinh tế - xã hội không được đảm bảo.
- Cơ chế thị trường là cơ chế tự điều tiết chạy theo lợi nhuận, các nhà sản xuất, sản xuất quá nhiều
một loại sản phẩm hàng hoá vào đó gây ra dư thừa dẫn đến sự khủng hoảng lãng phí.

5


- Cơ chế thị trường gây mất cân bằng xã hội. Tính cạnh tranh của cơ chế thị trường làm xã hội phân
hoá giàu nghèo, giai cấp.
- Cơ chế thị trường thuần túy khó tránh khỏi thăng trầm, khủng hoảng kinh tế có tính chu kỳ và thất
nghiệp.
Bên cạnh những ưu điểm vượt trội thì cơ chế thị trường có những khuyết tật, nên trong thực tế
không tồn tại cơ chế thị trường thuần túy, mà thường có sự can thiệp của nhà nước để sửa chữa thất
bại của cơ chế thị trường.
2. Sự cần thiết khách quan phát triển kinh tế thị trường theo định hướng XNCN ở nước ta
Sự ra đời, tồn tại của nền kinh tế hàng hóa và nền kinh tế thị trường là khách quan, phụ thuộc vào
những điều kiện vật chất do sự phát triển bản thân nền sản xuất quyết định, không phải do một lý
thuyết kinh tế hay lý thuyết xã hội nào đó quyết định.
Kinh tế thị trường có vai trò hết sức to lớn để phát triển kinh tế. Đa dạng về các thành phần kinh tế
và hình thức sở hữu, cơ chế vận hành linh hoạt, năng động, quan hệ sản xuất phù hợp trình độ phát
triển của lực lượng sản xuất, thúc đẩy khoa học kỹ thuật công nghệ phát triển, đổi mới quản lý kinh
tế, đời sống xã hội nâng cao.
Kinh tế thị trường là thành tựu chung của loài người, không chỉ tồn tại trong chủ nghĩa tư bản mà
còn tồn tại trong các xã hội khác. Đây là mô hình không phải bất di bất dịch mà thay đổi theo điều
kiện đặc thù của mỗi quốc gia. Đối với nước ta thời kỳ trước năm 1986, trước sự suy thoái nghiêm
trọng, viện trợ nước ngoài lại giảm sút đã đặt nền kinh tế nước ta tới sự bức bách phải đổi mới. Tại

đại hội VI của Đảng đã chủ chương phát triển kinh tế nhiều thành phần và thực hiện chuyển đổi cơ
chế hạch toán kinh doanh XHCN. Đến Đại hội VII Đảng ta xác định rõ việc đổi mới cơ chế kinh tế
ở nước ta là một tất yếu khách quan và trên thực tế đang diễn ra việc đó tức là chuyển từ nền kinh tế
kế hoạch hoá tập trung sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng
XHCN. Đây là một sự thay đổi về nhận thức có ý nghĩa rất quan trọng trong lý luận cũng như trong
thực tế lãnh đạo của Đảng trên mặt trận kinh tế. Việc chuyển đổi trên hoàn toàn đúng đắn. Nó phù
hợp với thực tế của nước ta, phù hợp với các qui luật kinh tế và xu thế của thời đại.
- Nếu không thay đổi cơ chế, vẫn giữ cơ chế kinh tế cũ thì không thể nào có đủ sản phẩm để tiêu
dùng chứ chưa muốn nói đến tích luỹ vốn để mở rộng sản xuất. Thực tế những năm cuối của thập kỷ
80 đã chỉ rõ thực hiện cơ chế kinh tế cho dù chúng ta đã liên tục đổi mới hoàn thiện cơ chế quản lý
kinh tế, nhưng hiệu quả của nền sản xuất xã hội đạt mức rất thấp. Sản xuất không đáp ứng nổi nhu
cầu tiêu dùng của xã hội, tích luỹ hầu như không có, đôi khi còn lạm cả vào vốn vay của nước ngoài.
- Do đặc trưng của nền kinh tế tập trung là rất cứng nhắc, chỉ có tác dụng thúc đẩy tăng trưởng kinh
tế. Và chỉ có tác dụng phát triển nền kinh tế theo chiều rộng. Nền kinh tế chỉ huy ở nước ta tồn tại
quá dài do đó nó không những không còn tác dụng đáng kể trong việc thúc đẩy sản xuất phát triển
mà nó còn sinh ra nhiều hiện tượng tiêu cực làm giảm năng suất, chất lượng và hiệu quả sản xuất.

6


- Xét về sự tồn tại thực tế ở nước ta những nhân tố của nền kinh tế thị trường. Về vấn đề này có
nhiều ý kiến đánh giá khác nhau. Nhiều nước cho rằng thị trường ở nước ta là thị trường sơ khai.
Thực tế kinh tế thị trường đã hình thành và phát triển đạt được những mức phát triển khác nhau ở
hầu hết các đô thị và vùng hẻo lánh và đang được mở rộng với thị trường quốc tế. Nhưng thị trường
ở nước ta phát triển chưa đồng bộ còn thiếu hẳn thị trường các yếu tố sản xuất như thị trường lao
động, thị trường vốn và thị trường đất đai về cơ bản vẫn là thị trường tự do, mức độ can thiệp của
nhà nước còn rất thấp.
- Xét về mối quan hệ kinh tế đối ngoại ta thấy nền kinh tế nước ta đang hoà nhập với nền kinh tế thị
trường thế giới, sự giao lưu về hàng hoá dịch vụ và đầu tư trực tiếp của nước ngoài làm cho sự vận
động của nền kinh tế nước ta gần gũi hơn với nền kinh tế thị trường thế giới. Tương quan giá cả các

loại hàng hoá trong nước gần gũi hơn với tương quan giá cả hàng hoá quốc tế.
- Xu hướng chung phát triển kinh tế thế giới là sự phát triển kinh tế của mỗi nước không tách rời sự
phát triển và hoà nhập quốc tế, sự cạnh tranh giữa các quốc gia đã thay đổi hẳn về chất không còn là
dân số đông, vũ khí nhiều, quân đội mạnh mà là tiềm lực kinh tế. Mục đích của các chính sách các
quốc gia là tạo được nhiều của cải vật chất trong quốc gia của mình là tốc độ phát triển kinh tế cao,
đời sống nhân dân được cải thiện, thất nghiệp thấp, tiềm lực kinh tế đã trở thành thước đo chủ yếu,
vai trò và sức mạnh của mỗi dân tộc, là công cụ chủ yếu để bảo vệ uy tín duy trì sức mạnh của các
Đảng cầm quyền.
Tuy vậy, nền kinh tế thị trường hướng tới ở nước ta sẽ không phải là nền kinh tế thị trường thuần
tuý. Lý thuyết "để mặc" cho thị trường tự do cạnh tranh là không tồn tại. Ngoài bàn tay "vô hình",
vai trò của chính phủ để điều tiết, khắc phục những khuyết tật của thị trường tạo cho nền kinh tế ổn
định và phát triển. Đối với nước ta vai trò của nhà nước trong nền kinh tế thị trường cũng sẽ rất quan
trọng. Và cần khẳng định về mặt lý luận và thực tiễn phát triển kinh tế thị trường và mục tiêu xây
dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta không đối lập nhau, có những mâu thuẫn phát sinh trong quá trình
phát triển nhưng điều đó hoàn toàn theo quy luật khách quan và có những phương thức giải quyết.
Chúng ta xem kinh tế thị trường là phương tiện để đạt được mục đích khi phát triển nó theo một
định hướng và không ngừng được bổ sung, hoàn thiện, nhằm phát huy tất cả những mặt tích cực và
hạn chế những khuyết tật của nó. Chính vì vậy, việc hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa đã được Đại hội XI của Đảng xác định là một trong ba khâu đột phá chiến
lược và đó cũng chính là khung pháp lý cho sự phát triển nền kinh tế.
II. NHỮNG ĐẶC ĐIỂM CƠ BẢN CỦA KTTT ĐỊNH HƯỚNG XHCN Ở VIỆT NAM
1. Thực chất của KTTT định hướng XHCN ở Việt Nam:
Nền kinh tế nước ta hiện nay đang trong giai đoạn quá độ, chuyển tiếp từ nền kinh tế tập trung bao
cấp sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng XHCN. Nước ta đi lên
chủ nghĩa xã hội bỏ qua giai đoạn phát triển của chủ nghĩa tư bản, xuất phát từ một nước thuộc địa
nửa phong kiến lại bị ảnh hưởng của chiến tranh tàn phá kéo dài. Vì thế tồn tại song song với những
thành quả mà chúng ta đã đạt được như: kinh tế phát triển, đời sống nhân dân ngày càng được cải
7



thiện…thì nền kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay cũng còn nhiều khuyết điểm thể hiện qua những
mặt sau:
a) Kinh tế thị trường ở Việt Nam ở trình độ thấp kém
Chúng ta tiến hành chuyển nền kinh tế từ nền kinh tế tập trung sang nền KTTT định hướng XHCN
bắt đầu vào năm 1986. Hai mươi sáu năm qua chúng ta đã thu được những thành tựu to lớn song nền
kinh tế của chúng ta vẫn ở trình độ thấp kém biểu hiện ở các mặt sau:
Cơ sở vật chất kỹ thuật còn ở trình độ thấp kém. Hiện nay bên cạnh một số lĩnh vực, một số cơ sở đã
được trang bị kỹ thuật và công nghệ hiện đại, trong khi nhiều ngành kinh tế máy móc cũ kỹ công
nghệ lạc hậu. Theo UNDP Việt Nam ở trình độ công nghệ lạc hậu 2/7 của thế giới, thiết bị máy móc
lạc hậu 2-3 thế hệ (có lĩnh vực 4-5 thế hệ). Lao động thủ công vẫn chiếm tỷ trọng lớn trong tổng số
lao động xã hội. Do đó năng suất, chất lượng, hiệu quả sản xuất của nước ta còn rất thấp so với khu
vực và thế giới.
Kết cấu hạ tầng như hệ thống đường giao thông, hệ thống thông tin liên lạc, hệ thống các công trình
xây dựng… còn rất lạc hậu. Mật độ đường giao thông km bằng 1% so với mức trung bình của thế
giới; tốc độ truyền thông trung bình cả nước chậm hơn thế giới 30 lần. Hiện nay hệ thống giao thông
của chúng ta chủ yếu phát triển ở những vùng đồng bằng còn những vùng núi và trung du thì còn rất
hạn chế. Chính điều này đã làm cho các địa phương các vùng bị chia cắt tách biệt nhau do đó đã làm
cho việc khai thác các tiềm năng ở các địa phương chưa đạt hiệu quả cao nhiều tiềm năng bị bỏ phí.
Do sự phân công lao động thấp kém kết hợp với cơ sở vật chất và kết cấu hạ tầng chưa phát triển đã
làm cho chuyển dịch cơ cấu kinh tế diễn ra chậm. Nhìn chung nền kinh tế nước ta chưa thoát khỏi
nền kinh tế nông nghiệp sản xuất nhỏ. Nông nghiệp vẫn thu hút tới 70% lực lượng lao động nhưng
chỉ chiếm 26% trong tổng GDP. Trong công nghiệp thì các nghành công nghiệp hiện đại, công
nghiệp cao còn chiếm tỷ lệ nhỏ. Các ngành công nghiệp truyền thống do công nghệ lạc hậu cũng
không đáp ứng được nhu cầu trong nước nhiều mặt hàng quan trọng vẫn phải nhập khẩu hoặc sản
xuất trong nước thì cũng là những đơn vị liên doanh hoặc doanh nghiệp nước ngoài.
Khi chuyển sang cơ chế thị trường định hướng XHCN một bộ phận không nhỏ các doanh nghiệp
nhà nước còn nhiều bỡ ngỡ, hoạt động không hiệu quả. Các doanh nghiệp tư nhân phát triển mạnh
nhưng quy mô nhỏ do đó đã làm cho khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp trên thị trường trong
nước cũng như thị trường nước ngoài còn rất yếu. Hiện nay các mặt hàng có sức cạnh tranh được và
xuất khẩu thì chủ yếu trang ngành dệt may, hàng thủ công, lương thực thực phẩm… Tuy nhiên chất

lượng hàng hóa của Việt Nam còn thấp, giá cả cao vì thế khả năng cạnh tranh còn yếu.
b) Các loại thị trường đã được hình thành và phát triển nhưng chưa đồng bộ
Trong thị trường hàng hóa dịch vụ: Đây là thị trường phát triển khá mạnh. Cùng với sự phát triển
KTTT thì thị trường hàng hóa dịch vụ ngày càng phát triển. Với số lượng hàng hóa ngày càng nhiều,
chủng loại phong phú, chất lượng đa dạng. Nó lôi cuốn sự tham gia của nhiều thành phần kinh tế và
nhiều loại hình doanh nghiệp. Tuy nhiên thị trường này còn nhiều hiện tượng tiêu cực gây rất nhiều

8


khó khăn cho công tác quản lý và phát triển lành mạnh. Các hiện tượng như hàng giả, hàng nhập lậu,
hàng nhái nhãn hiệu gây sự rối loạn thị trường.
Trong thị trường hàng hóa sức lao động: thị trường này hình thành chưa lâu và mang nhiều tính tự
phát. Đã có sự hình thành một số trung tâm giới thiệu việc làm và xuất khẩu lao động nhưng đã nảy
sinh hiện tượng khủng hoảng. Nét nổi bật của thị trường này là cung về lao động ngành nghề nhỏ
hơn cầu rất nhiều, trong khi đó cung về sức lao động giản đơn lại vượt xa cầu. Nhiều người có sức
lao động không tìm được việc làm.
Trong thị trường tiền tệ, thị trường vốn đã có nhiều tiến bộ. Chúng ta đã có nhiều chính sách thông
thoáng ưu đãi để phát triển thị trường này tuy nhiên vẫn còn nhiều khó khăn như nhiều doanh
nghiệp nhất là doanh nghiệp tư nhân rất thiếu vốn nhưng không vay được vì vướng mắc thủ tục
trong khi nhiều ngân hàng thương mại huy động được vốn nhưng lại không thể cho vay để ứ đọng
vốn. Thị trường chứng khoán đã được hình thành nhưng hoạt động của thị trường này còn chưa
mạnh, số lượng hàng hóa giao dịch trên thị trường còn ít mức huy động vốn chưa cao và số lượng
doanh nghiệp đủ điều kiện tham gia thị trường này còn rất ít.
Trong thị trường bất động sản: Thị trường này trong những năm gần đây đang bị đóng băng. Trước
đó các hoạt động giao dịch chủ yếu diễn ra ngầm không kiểm soát được dẫn đến những cơn sốt giá
đất ở các đô thị lớn như Hà Nội, TP. Hồ Chí Minh.
c) Nhiều thành phần kinh tế tham gia thị trường
Nền KTTT định hướng XHCN ở Việt Nam có nhiều thành phần kinh tế tham gia trong đó kinh tế
nhà nước giữ vai trò chủ đạo. Do vậy nền kinh tế ở nước ta có nhiều loại hình sản xuất hàng hóa

cùng tồn tại đan xen với nhau, trong đó sản xuất hàng hóa nhỏ phân tán, chưa đồng bộ còn phổ biến.
d) Quản lý nhà nước về kinh tế xã hội còn yếu
Trong nhiều năm trở lại gần đây, việc quản lý nhà nước về kinh tế xã hội đã có những tiến bộ, tuy
nhiên vẫn còn yếu kém, cần khắc phục, đổi mới cho phù hợp với tình hình phát triển kinh tế của đất
nước. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng ta nhận định về vấn đề này như
sau: “Hệ thống luật pháp, cơ chế, chính sách chưa đồng bộ và nhất quán, thực hiện chưa nghiêm,
công tác tài chính, ngân hàng giá cả, kế hoạch hóa, quy hoạch xây dựng quản lý đất đai còn nhiều
yếu kém, thủ tục hành chính…đổi mới chậm. Thương nghiệp nhà nước bỏ trống một số trận địa
quan trọng, chưa phát huy tốt vai trò chủ đạo trên thị trường. Quản lý xuất nhập khẩu còn nhiều sơ
hở, tiêu cực, một số trường hợp gây tác động xấu tới sản xuất. Chế độ phân phối còn bất hợp lý. Bội
chi ngân sách và nhập siêu còn lớn. Lạm phát tuy được kiềm chế nhưng chưa vững chắc”.
e) Nền kinh tế mở cửa hội nhập trong tình trạng trình độ phát triển kinh tế thị trường ở nước ta
còn quá thấp so với các nước khác.
Hiện nay xu thế toàn cầu hóa và khu vực hóa về kinh tế đang diễn ra mạnh mẽ. Nó mở ra cho mỗi
nước những thuận lợi nhưng đồng thời cũng là những khó khăn, thách thức. Chúng ta cũng đang chủ
động từng bước hội nhập nền kinh tế vào khu vực và vào thế giới. Tuy nhiên với thực trạng nền kinh
tế của chúng ta như hiện nay vấn đề hội nhập đang đặt ra cho nhà nước và các doanh nghiệp phát
9


huy nỗ lực để chuẩn bị tốt cho quá trình hội nhập. Phải đẩy mạnh CNH - HĐH nền kinh tế để nó đủ
sức cạnh tranh so với các nền kinh tế của các nước khác, hoạt động một cách có hiệu quả.
2. Mục tiêu của nền KTTT ở Việt Nam
Mục tiêu cơ bản của hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta
làm cho nó phù hợp với những nguyên tắc cơ bản của kinh tế thị trường, thúc đẩy kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa phát triển nhanh, hiệu quả, bền vững, hội nhập kinh tế quốc tế thành
công, giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa, thực hiện thắng lợi mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã
hội công bằng, dân chủ, văn minh”, xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ
nghĩa. Mục tiêu này yêu cầu phải hoàn thành cơ bản vào năm 2020.
Đến năm 2020, cần đạt mục tiêu:

Một là, từng bước xây dựng đồng bộ hệ thống pháp luật, đảm bảo cho nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa phát triển thuận lợi. Phát huy vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước đi đôi với
phát triển mạnh mẽ các thành phần kinh tế và các loại hình doanh nghiệp. Hình thành một số tập
đoàn kinh tế, các tổng công ty đa sở hữu, áp dụng mô hình quản lý hiện đại, có năng lực cạnh tranh
quốc tế.
Hai là, đổi mới cơ bản mô hình tổ chức và phương thức hoạt động của các đơn vị sự nghiệp công.
Ba là, phát triển đồng bộ, đa dạng các loại thị trường cơ bản thống nhất trong cả nước, từng bước
liên thông với thị trường khu vực và thế giới.
Bốn là, giải quyết tốt mối quan hệ giữa phát triển kinh tế với phát triển văn hóa, đảm bảo tiến bộ,
công bằng xã hội, bảo vệ môi trường.
Năm là, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý của Nhà nước và phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc,
các đoàn thể chính trị - xã hội và nhân dân trong quản lý, phát triển kinh tế - xã hội.
3. Đặc trưng của KTTT định hướng XHCN ở Việt Nam
a) Đặc trưng về hệ thống mục tiêu của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN là “Dân giàu,
nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”, cụ thể là:
Về mục tiêu kinh tế - xã hội – văn hóa mà nền kinh tế phải đạt là:
Làm cho dân giàu, mà nội dung căn bản của dân giàu là mức bình quân GDP đầu người tăng nhanh
trong một thời gian ngắn và khoảng cách giàu nghèo trong xã hội ta không lớn.
Làm cho nước mạnh, thể hiện ở mức đóng góp to lớn của nó cho ngân sách quốc gia, ở sự gia tăng
ngành kinh tế mũi nhọn, ở sự sử dụng tiết kiệm, có hiệu quả các nguồn tài nguyên quốc gia, ở sự bảo
vệ môi sinh, bảo vệ các bí mật quốc gia về tiềm lực kinh tế, khoa học, công nghệ, ở khả năng thích
ứng khi chiến tranh xảy ra, vừa có thể tự vệ được lực lượng, vừa chuyển hóa nhanh chóng phương
án sản phẩm theo yêu cầu của cuộc kháng chiến.
10


Làm cho xã hội công bằng, văn minh thể hiện ở việc xử lý các quan hệ lợi ích ngay trong nội bộ nền
kinh tế thị trường, ở đó việc góp phần to lớn vào việc giải quyết các vấn đề xã hội, ở việc cung ứng
các hàng hóa và dịch vụ có giá trị không chỉ về kinh tế mà còn có giá trị cao về văn hóa.
Về mục tiêu chính trị: Làm cho xã hội dân chủ, biểu hiện ở chỗ dân chủ hóa nền kinh tế, mọi người,

mọi thành phần kinh tế có quyền tham gia vào hoạt động kinh tế, vào sản xuất kinh doanh, có quyền
sở hữu về tài sản của mình; quyền của người sản xuất và tiêu dùng được bảo vệ trên cơ sở pháp luật
của nhà nước.
b) Đặc trưng về chế độ sở hữu và thành phần kinh tế:
Nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam có cấu trúc từ nhiều loại hình, hình thức sở
hữu và nhiều thành phần kinh tế. Sở hữu toàn dân, sở hữu tập thể và sở hữu tư nhân, trong đó:
Chế độ công hữu về tư liệu sản xuất chủ yếu từng bước được xác lập và sẽ chiếm ưu thế tuyệt đối
khi CNXH được xây dựng xong về cơ bản. Từ các hình thức sở hữu đó hình thành nên nhiều thành
phần kinh tế với những hình thức tổ chức kinh doanh đa dạng, đan xen hỗn hợp.
Các thành phần kinh tế đều là bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng
XHCN, cùng phát triển lâu dài, hợp tác và cạnh tranh lành mạnh, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai
trò chủ đạo, kinh tế nhà nước cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của
nền kinh tế quốc dân.
c) Đặc trưng về cơ chế vận hành kinh tế:
Là cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước để đảm bảo phân bổ hợp lý các lợi ích và nguồn
lực, kích thích phát triển các tiềm năng kinh doanh và các lực lượng sản xuất, tăng hiệu quả và tăng
năng suất lao động; thực hiện việc quản lý vĩ mô đối với kinh tế thị trường trên cơ sở học tập vận
dụng kinh nghiệm có chọn lọc cách quản lý kinh tế của các các nước tư bản, điều chỉnh cơ chế kinh
tế, giáo dục đạo đức kinh doanh phù hợp; thống nhất điều hành, điều tiết và hướng dẫn sự vận hành
nền kinh tế cả nước theo đúng mục tiêu phát triển xã hội.
d) Đặc trưng về hình thức phân phối:
Có nhiều hình thức đan xen, vừa thực hiện theo nguyên tắc phân phối của KTTT và nguyên tắc phân
phối của CNXH. Trong đó cần ưu tiên phân phối theo lao động, theo vốn, theo tài năng và hiệu quả,
đồng thời đảm bảo sự phân phối công bằng và hạn chế bất bình đẳng xã hội.
e) Đặc trưng về nguyên tắc giải quyết các mặt, các mối quan hệ chủ yếu:
Phải kết hợp ngay từ đầu giữa lực lượng sản xuất với quan hệ sản xuất, bảo đảm giải phóng lực
lượng sản xuất, xây dựng lực lượng sản xuất mới kết hợp với củng cố và hoàn thiện quan hệ sản
xuất, nhằm phục vụ cho phát triển sản xuất và công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước; giữa phát
triển sản xuất với từng bước cải thiện và nâng cao đời sống nhân dân, giải quyết tốt các vấn đề xã
hội và công bằng xã hội, ngăn chặn các tệ nạn xã hội; giải quyết tốt các nhiệm vụ chính trị, xã hội,

văn hóa, môi trường.

11


f) Đặc trưng về tính cộng đồng và tính dân tộc:
Mang tính cộng đồng cao theo truyền thống của xã hội Việt Nam, phát triển có sự tham gia của cộng
đồng và vì lợi ích của cộng đồng, hướng tới xây dựng một cộng đồng xã hội giàu có, đầy đủ về vật
chất, phong phú về tinh thần, công bằng, dân chủ, văn minh, đảm bảo cuộc sống ấm no, hạnh phúc
cho mọi người.
g) Về qhệ quốc tế:
KTTT định hướng XHCN dựa vào sự phát huy tối đa nguồn lực trong nước và triệt để tranh thủ
nguồn lực ngoài nước theo phương châm “Kết hợp sức mạnh của dân tộc và sức mạnh của thời đại”
và sử dụng một cách hợp lý, đạt hiệu quả cao nhất, để phát triển nền kinh tế đất nước với tốc độ
nhanh, hiện đại và bền vững.
III. THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP CƠ BẢN ĐỂ PHÁT TRIỂN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA
1. Khái quát tình hình xây dựng và phát triển thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa ở nước ta
a) Những thành tựu
Sau 25 năm đổi mới, nước ta đã chuyển đổi thành công từ thể chế kinh tế kế hoạch hoá tập trung
quan liêu, bao cấp sang thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Đây là một trong
những thành tựu nổi bật của công cuộc đổi mới, biểu hiện cụ thể ở các điểm sau:
Một là, nhận thức lý luận và tư duy kinh tế đã có bước đổi mới, được vận dụng vào xây dựng đường
lối kinh tế của Đảng. Đường lối đổi mới của Đảng đã được thể chế hoá thành Hiến pháp, pháp luật,
tạo hành lang pháp lý cho nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa hình thành và phát
triển.
Hai là, chế độ sở hữu và cơ cấu các thành phần kinh tế đã đổi mới cơ bản, từ sở hữu toàn dân, sở
hữu tập thể, kinh tế quốc doanh và kinh tế tập thể là chủ yếu chuyển sang nhiều hình thức sở hữu,
nhiều thành phần kinh tế đan xen, hỗn hợp, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, tạo động

lực và điều kiện thuận lợi cho khai thác tiềm năng trong và ngoài nước vào phát triển kinh tế - xã
hội.
Ba là, các loại thị trường cơ bản đã ra đời và từng bước phát triển thống nhất trong cả nước, gắn với
thị trường khu vực và thế giới. Cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước đã đi vào cuộc sống,
doanh nghiệp và doanh nhân được Nhà nước bảo vệ, tự chủ, tự do kinh doanh, cạnh tranh lành mạnh
để phát triển.
Bốn là, quản lý nhà nước về kinh tế được đổi mới, từ can thiệp trực tiếp bằng mệnh lệnh hành chính
vào hoạt động sản xuất kinh doanh chuyển sang quản lý bằng luật pháp, chính sách, chiến lược, quy
hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội và các công cụ điều tiết vĩ mô khác.

12


Năm là, việc gắn phát triển kinh tế với giải quyết các vấn đề xã hội, xoá đói, giảm nghèo đạt nhiều
kết quả tích cực.
b) Những hạn chế, yếu kém
Quá trình xây dựng thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa còn chậm, chưa theo kịp
yêu cầu của công cuộc đổi mới và hội nhập kinh tế quốc tế của đất nước, biểu hiện cụ thể ở các điểm
sau:
Một là, hệ thống luật pháp, cơ chế, chính sách chưa đầy đủ, chưa đồng bộ và chưa thống nhất. Việc
xử lý các vấn đề liên quan đến đất đai, tài nguyên, tài sản công còn nhiều bất cập, vướng mắc.
Hai là, vấn đề sở hữu, quản lý và phân phối trong các doanh nghiệp nhà nước chưa giải quyết tốt,
gây khó khăn cho sự phát triển và làm thất thoát tài sản nhà nước, nhất là khi tiến hành cổ phần hoá.
Doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác còn bị phân biệt đối xử.
Ba là, các yếu tố thị trường và các loại thị trường hình thành, phát triển chậm, thiếu đồng bộ, vận
hành chưa thông suốt. Tình trạng cạnh tranh không lành mạnh, gian lận thương mại, trốn, lậu thuế
còn nhiều, chậm được khắc phục.
Bốn là, phân bổ nguồn lực quốc gia chưa hợp lý. Chính sách tiền lương còn mang tính bình quân,
chưa đảm bảo đời sống của người hưởng lương, chưa khuyến khích, thu hút và sử dụng được người
tài. Hệ thống thuế chưa thực hiệntốt chức năng điều tiết và bảo đảm công bằng xã hội, thúc đẩy đầu

tư, đổi mới công nghệ, nuôi dưỡng và phát triển nguồn thu.
Năm là, tổ chức bộ máy, cơ chế vận hành của bộ máy và đội ngũ cán bộ, công chức nhà nước còn
nhiều bất cập, hiệu lực, hiệu quả quản lý còn thấp. Cải cách hành chính chưa đạt được mục tiêu, yêu
cầu đề ra, tệ tham nhũng, quan liêu, lãng phí vẫn nghiêm trọng.
Sáu là, cơ chế, chính sách phát triển các lĩnh vực văn hoá, xã hội đổi mới chậm, chất lượng dịch vụ
y tế, giáo dục - đào tạo còn thấp. Khoảng cách giàu - nghèo giữa các tầng lớp dân cư, giữa các vùng
ngày càng lớn. Hệ thống an sinh xã hội còn kém. Nhiều vấn đề bất cập, bức xúc trong xã hội và bảo
vệ môi trường chưa được giải quyết tốt.
c) Nguyên nhân của những hạn chế, yếu kém
- Việc xây dựng thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta là hoàn toàn mới,
chưa có tiền lệ trong lịch sử.
- Nhận thức về nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và thể chế kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa còn nhiều hạn chế. Công tác lý luận chưa theo kịp đòi hỏi của thực tiễn.
- Nền kinh tế nước ta vẫn trong tình trạng kém phát triển; sự chênh lệch phát triển giữa các vùng,
miền, các thành phần kinh tế và các tầng lớp dân cư còn cao.
- Năng lực thể chế hoá và quản lý, tổ chức thực hiện của các cơ quan quản lý Nhà nước và đội ngũ
cán bộ, công chức còn hạn chế, nhất là trong việc giải quyết các vấn đề kinh tế - xã hội bức xúc.
13


- Vai trò tham gia hoạch định chính sách, thực hiện và giám sát thực hiện chính sách của các cơ
quan dân cử, Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể quần chúng, các tổ chức xã hội, nghề nghiệp còn yếu.
2. Mục tiêu hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
Mục tiêu tổng quát là khi két thúc thời kỳ quá độ là xây dựng song về cơ vản những cơ sở kinh tế
của chủ nghĩa xã hội với kiến trúc thượng tầng về chính trị và tư tưởng van hoá phù hợp,làm cho
nước ta một nước xã hội chủ nghĩa phồn vinh.
Mục tiêu cụ thể là:
+ Đến năm 2005 hình thành một bước kinh té thị trường định hướng XHCN.
+ Đến năm 2010 đưa nước ta ra khỏi tình trạng nghèo nàn và kém Phát triển.
+ Đến năm 2020 kinh tế thị trường ở nước ta phải được hình thành về cơ bản.

3. Một số giải pháp cơ bản tiếp tục phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ Nghĩa
ở Việt Nam
a) Thực hiện nhất quán chính sách kinh tế nhiều thành phần:
Thừa nhận trên thực tế tồn tại nhiều thành phần kinh tê trong thời kỳ quá độ là một trong những điều
kiện cơ sở để thúc đẩy kinh tế hàng hoá phát triển, nhờ đó mà sử dụng có hiệu quả sức mạnh tổng
hợp của mọi thành phần kinh tế.
Cùng với việc đổi mới, củng cố kinh tế nhà nước và kinh tế hợp tác, thừa nhận việc khuyến khích
các thành phần kinh tế cá thế, tư nhân phát triển là nhận thức quan trọng về xây dựng chủ nghĩa
trong thời kỳ quá độ. Theo hướng đó mà khu vực kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể, kinh tế cá thể và
các hình thức kinh tế hỗn hợp khác đều được khuyến khích phát triển theo định hướng tiến lên chủ
nghĩa xã hội. Tất cả các thành phần kinh tế đều bình đẳng trước pháp luật, tuy vị trí, quy mô, tỷ
trọng, trình độ có khác nhau nhưng tất cả đều là nội lực của nền kinh tế phát triển theo định hướng
xã hội chủ nghĩa.
b) Mở rộng phân công lao động, phát triển kinh tế vùng, lãnh thổ, tạo lập đồng bộ các yếu tố thị
trường:
Phân công lao động là cơ sở của việc trao đổi sản phẩm. Để đẩy mạnh phát triển kinh tế hàng hoá,
cần phải mở rộng phân công lao động xã hội, phân bố lại lao động và dân cư trong phạm vi cả nước
cũng như từng địa phương, từng vùng theo hướng chuyên môn hoá, hợp tác hoá nhằm khai thác mọi
nguồn lực, phát triển mọi ngành nghề, sử dụng có hiệu quả cơ sở vật chất - kỹ thuật hiện có và tạo
việc làm cho người lao động. Cùng với mở rộng phân công lao động xã hội trong nước, phải tiếp tục
mở rộng quan hệ kinh tế với nước ngoài nhằm gắn phân công lao động trong nước và phân công lao
động quốc tế, gắn thị trường trong nước và thị trường quốc tế. Nhờ đó mà thị trường trong nước
từng bứơc được mở rộng, tiềm năng về lao động, tài nguyên, cơ sở vật chất hiện có được khai thác
có hiệu quả. Thị trường được khai thông trên khắp mọi miền của đất nước, gắn liền với thị trường
thế giới.
14


Cần phải tiếp tục phát triển mạnh thị trường hàng hoá và dịch vụ, hình thành thị trường sức lao động
có tổ chức, quản lý chặt chẽ đất đai và thị trường nhà cửa, xây dựng thị trường vốn, từng bước hình

thành thị trường chứng khoán.
Để khai thác có hiệu quả tiềm năng về vốn, sức lao động, công nghệ, tài nguyên, thực hiện mở rộng
phân công lao động xã hội, cần phải từng bước hình thành đồng bộ các loại thị trường tiền tệ, vốn,
sức lao động, chất xám, thông tin, tư liệu sản xuất và tư liệu tiêu dùng… Điều này sẽ đảm bảo cho
việc phân bố và sử dụng các yếu tố đầu vào, đầu ra của quá trình sản xuất phù hợp với nhu cầu của
sự phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
c) Đẩy mạnh công tác nghiên cứu ứng dụng khoa học công nghệ, đẩy mạnh công nghiệp hoá,
hiện đại hoá
Trong kinh tế thị trường, các doanh nghiệp chỉ có thể đứng vững trong cạnh tranh nếu thưòng xuyên
đổi mới công nghệ để hạ chi phí, nâng cao chất lượng sản phẩm. Muốn vậy phải đẩy mạnh công tác
nghiên cứu và ứng dụng các thành tựu mới của cuộc cách mạng khoa học vào quá trình lưu thông
hàng hoá. So với thế giới, trình độ công nghệ sản xuất của ta còn thấp kém, không đồng bộ do vậy
khả năng cạnh tranh của hàng hoá nước ta so với hàng hoá nước ngoài trên thị trường cả nội địa và
thế giới còn kém. Bởi vậy, để phát triển kinh tế hàng hoá, chúng ta phải đẩy mạnh công nghiệp hoá
hiện đại hoá.
Hệ thống kết cấu hạ tầng cơ sở và dịch vụ hiện đaị, đồng bộ cũng đóng vai trò quan trọng cho sự
phát triển kinh tế xã hội. Hệ thống đó ở nước ta đã quá lạc hậu, không đồng bộ mất cân đôí nghiêm
trọng nên đã cản trở nhiều đến quyết tâm của các nhà đầu tư trong cả nước lẫn nước ngoài, cản trở
phát triển hàng hoá ở mọi miền đất nứơc. Vì thế cần gấp rút xây dựng và củng cố các yếu tố của hệ
thống kết cấu đó. Trước mắt, nhà nước cần tập trung ưu tiên xây dựng nâng cấp một số yêu tố thiêt
yếu như đường sá, cầu cống, bến cảng, sân bay, điện, nước hệ thống thông tin liên lạc, ngân hàng
dịch vụ bảo hiểm…
d) Giữ vững ổn định chính trị, hoàn thiện hệ thống luật pháp, đổi mới các chính sách tài chính
tiền tệ giá cả
Sự ổn định chính trị bao giờ cũng là nhân tố quan trọng để phát triển. Nó là điều kiện để các nhà sản
xuất kinh doang trong nước và nước ngoài yên tâm đầu tư. Giữ vững ổn định chính trị ở nước ta
hiện nay là giữ vững vai trò lãng đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, tăng cường hiệu lực và hiệu quả
quản lý của nhà nước, phát huy đầy đủ vai trò làm chủ của nhân dân.
Hệ thống pháp luật đồng bộ là công cụ rất quan trọng để quản lý nền kinh tế hàng hoá nhiều thành
phần. Nó tạo nên hành lang pháp lý cho tất cả mọi hoạt động sản xuất, kinh doanh của các doanh

nghiệp trong và ngoài nước. Với hệ thống pháp luật đồng bộ và pháp chế nghiêm ngặt, các doanh
nghiệp chỉ có thể làm giàu trên cơ sở tuân thủ luật pháp.
Đổi mới chính sách tài chính tiền tệ, giá cả nhằm mục tiêu thúc đẩy phát triển, huy động và sử dụng
có hiệu quả các nguồn lực, bảo đảm quản lý thống nhất nền tài chính quốc gia, giảm bội chi ngân

15


sách, góp phần khống chế và kiểm soát lạm phát; xử lý đúng đắn mối quan hệ giữa tích luỹ và tiêu
dùng.
e) Xây dựng và hoàn thiện hệ thống điều tiết kinh tế vĩ mô, đào tạo đội ngũ quản lý kinh tế và các
nhà kinh doanh giỏi:
Hệ thống điều tiết kinh tế vĩ mô phải được kiện toàn, phù hợp với nhu cầu kinh tế thị trường, bao
gồm điều tiết bằng chiến lược và kế hoạch kinh tế, pháp luật chính sách và các đòn bẩy kinh tế, hành
chính giáo dục, khuyến khích, hỗ trợ và cả răn đe, trừng phạt, ngăn ngừa, điều tiết thông qua bộ máy
nhà nước, các đoàn thể…
Mỗi cơ chế quản lý kinh tế có đội ngũ cán bộ quản lý kinh doanh tương ứng. Chuyển sang phát triển
nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa đòi hỏi chúng ta phải đẩy
mạnh sự nghiệp đào tạo và đào tạo lại đội ngũ quản lý kinh tế, cán bộ kinh tế, cán bộ kinh doanh cho
phù hợp với mục tiêu phát triển kinh tế trong thời kỳ mới. Đội ngũ đó phải có năng lực chuyên môn
giỏi, thích ứng mau lẹ với cơ chế thị trường, dám chịu trách nhiệm. chịu rủi ro và trung thành với
con đường xã hội chủ nghĩa mà Đảng và nhân dân ta đã chọn. Song song với đào tạo và đào tạo lại,
cần phải có phương hướng sử dụng, bồi dưỡng, đãi ngộ đúng đắn với đội ngũ đó, nhằm kích thích
hơn nữa việc không ngừng nâng cao trình độ nghiệp vụ, bản lĩnh quản lý, tài năng kinh doanh của
họ. Cơ cấu của đội ngũ cán bộ cần phải được chú ý đảm bảo ở cả phạm vi vĩ mô cũng như lẫn cả vi
mô, cả cán bộ quản lý cũng như kinh doanh.
f) Thực hiện chính sách đối ngoại có lợi cho phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa
Thực hiện có hiệu quả kinh tế đối ngoại chúng ta phải đa dạng hoá hình thức, đa phương hoá đối tác.
Phải quán triệt nguyên tắc đôi bên cùng có lợi, không can thiệp vào nội bộ của nhau và không phân

biệt chế độ chính trị - xã hội. Cải cách cơ chế quản lý xuất khẩu, thu hút rộng rãi nguồn vốn đầu tư
từ nước ngoài, thu hút kỹ thuật, nhân tài và kinh nghiệm quản lý.
g) Giải quyết những hạn chế còn tồn tại của kinh tế thị trường:
Thị trường Việt Nam hiện nay hoạt động còn yếu, nó chưa đủ mức độ để báo hiệu những co hội
mới. Khu vực tư nhân còn thiếu kỹ năng và kinh nghiệm cần thiết để đáp ứng các tín hiệu về thời cơ
mà họ nhận được. Do đó sự liên lạc có hiệu quả giữa nhà nước và tư nhân là cần thiết, làm cho các
chién lược phát triển nền kinh tế nước nhà có thể thực hiện được.
Nhà nước ta cần xây dựng được hệ thống pháp luật hoàn chỉnh và có tính đồng bộ . Hệ thống pháp
luật cần được bổ sung và hoàn thiện trên các lĩnh vực: sử dụng, chuyển nhượng và cho thuê đất đai,
thị trường bất động sản, thị trường vốn… Bổ sung, điều chỉnh bộ luật thuế tránh bị chồng chéo,
khuyến khích đầu tư trong nước, xác định rõ thẩm quyền và trách nhiệm của cá nhân, xây dựng bộ
luật thương mại, luật ngân sách, luật hành chính nhà nước..
Cải cách gằn liền với đổi mới kinh tế là một nhân tố quyết định đảm bảo nền kinh tế tăng trưởng
nhanh và ổn định, bền vững ở nước ta.

16


Đổi mới cơ chế quản lý và sáp xếp lại doanh nghiệp Nhà nước đồng thời xác định lại mục tiêu chiến
lược phát triển kinh tế xã hội phù hợp với kinh tế xã hội nước ta trong bối cảnh quốc tế hiện nay.
Những giải pháp nói trên tác động qua lại với nhau, sẽ tạo nên sức mạnh thúc đẩy nền kinh tế hàng
hoá nứơc ta phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa.

KẾT LUẬN
Tóm lại để đưa đất nước có thể đuổi kịp các nước phát triển trên thế giới trong một tương lai không
xa đồng thời cũng không để chệch hướng theo con đường xã hội chủ nghĩa mà Đảng và nhân dân ta
đã chọn thì nhất thiết chúng ta phải xây dựng được một nền kinh tế thị trường vững mạnh theo định
hướng xã hội chủ nghĩa và mang bản sắc của người Việt Nam. Những vấn đề đựơc đề cập trên đây
mới chỉ là một vài biện pháp mà chúng ta cần làm trong thời gian trước mắt để tiếp tục ổn định và
khắc phục những hạn chế của nền kinh tế thị trường và sau này trong quá trình phát triển lâu dài của

đất nước.
Nhất là trong quá trình hội nhập nền kinh tế thế giới theo xu hướng toàn cầu hoá nền kinh tế thế giới
thì khi đó sẽ mở ra rất nhiều cơ hội cũng như những thách thức đòi hỏi chúng ta phải thật sáng suốt
nếu không muốn bị lâm vào tình thế bị động trước những diễn biến của nền kinh tế thị trường. Nó có
thể gây ra những hậu quả nghiêm trọng như: sự phân hoá giàu nghèo ngày càng lớn, tệ nạn xã hội
ngày càng tăng và phức tạp, các truyền thống bị thương mại hoá, nạn lạm phát gia tăng…
Chính vì vậy, chúng ta cần phải trau dồi kiến thức cho thật tốt, bên cạnh đó là nhân phẩm của một
người sinh viên, là tầng lớp trí thức trong xã hội sẽ đi đầu trong mọi việc mà Đảng và nhà nước tiến
hành để góp phần vào việc hoàn thiện nền kinh tế thị trường tiến tới việc xây dựng thành công chủ
nghĩa xã hội ở Việt Nam.

17



×