Tải bản đầy đủ (.doc) (20 trang)

Tiểu luận: Phép biện chứng về mâu thuẫn và vận dụng phân tích mâu thuẫn biện chứng trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta doc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (192.38 KB, 20 trang )

Trường Đại Học Ngoại Thương Hà Nội
Khoa Lí Luận Chính Trị
TIỂU LUẬN NGUYÊN LÍ
MÁC-LÊNIN I
Phép biện chứng về mâu thuẫn và vận
dụng phân tích mâu thuẫn biện chứng
trong nền kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa ở nước ta
Nguyễn Thùy Linh
Lớp A6-TC Khóa 48
Giáo viên hướng dẫn: Trần Huy Quang
Hà Nội, ngày 10 tháng 11 năm 2009
Trường Đại Học Ngoại Thương Hà Nội
Khoa Lí Luận Chính Trị
TIỂU LUẬN NGUYÊN LÍ
MÁC-LÊNIN I
Phép biện chứng về mâu thuẫn và vận dụng
phân tích mâu thuẫn biện chứng trong nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa ở nước ta
Nguyễn Thùy Linh
Lớp A6-TC Khóa 48
2
Hà Nội, ngày 10 tháng 11 năm 2009
3
Mục lục
Lời mở đầu 5
Phần I: Lý luận phép biện chứng về mâu thuẫn 6
2. Phân loại mâu thuẫn 7
3. Mâu thuẫn là nguồn gốc của sự vận động và sự phát triển. 8
4. Ý nghĩa phương pháp luận 9


Phần II: Ứng dụng phép mâu thuẫn biện chứng trong việc phân tích nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta 10
1. Tính tất yếu của quá trình hình thành và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa ở nước ta. 10
1.1 Khái niệm kinh tế thị trường 10
1.2 Khái niệm kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. 10
1.3 Cơ sở khách quan của sự tồn tại và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa 11
2. Những mâu thuẫn tồn tại trong nền kinh tế định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
13
2.1 Mâu thuẫn giữa kinh tế thị trường và mục tiêu xây dựng xã hội chủ nghĩa 13
2.2 Mâu thuẫn giữa phát triển kinh tế thị trường và vấn đề phân hóa giàu nghèo 14
2.3 Mâu thuẫn giữa phát triển kinh tế thị trường và vấn đề bảo vệ môi trường. 14
3. Giải pháp để giải quyết mâu thuẫn và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa. 15
3.1 Những phương án để giải quyết mâu thuẫn của nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa. 15
3.2 Những phương án phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
16
Phần III: Kết luận 19
Phép biện chứng về mâu thuẫn đóng một vai trò to lớn trong hoạt động nhận thức cũng
như thực tiễn. Điều quan trọng là cần coi trọng mâu thuẫn, tìm hiều, phân tích đầy đủ các
mặt đối lập để nắm rõ được bản chất, nguồn gốc và đặc điểm của mâu thuẫn; đồng thời
phân biệt được các hình thức mâu thuẫn, xác định cụ thể và chính xác phương pháp giải
quyết mâu thuẫn. Hơn nữa, ta cần nắm vững nguyên lí của giải quyết mâu thuẫn, đó là: sự
đấu tranh giữa các mặt đối lập diễn ra theo qui luật phá bỏ cái cũ để hình thành cái mới
tiến bộ hơn. Điều đó có nghĩa trong xã hội, những hành vi đấu tranh chỉ được coi là chân
chính nếu nó phục vụ cho sự phát triển chung của cộng đồng. 19
Tài liệu tham khảo 20
4

Lời mở đầu
Được khởi xướng bởi Đảng Cộng sản Việt Nam trong những năm đầu thập niên
1980, Chính Sách Đổi Mới đã được thông qua trong Đại hội đại biểu Đảng Cộng sản Việt
Nam lần thứ VI và bắt đầu thực hiện trên toàn quốc. Chính Sách Đổi Mới này đã tạo nên
quá trình chuyển biến trong nền kinh tế nước ta: từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung
bao cấp sang nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, hoạt động theo cơ chế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa. Trong quá trình đổi mới, Nhà Nước đã chấp nhận sự tồn
tại, bình đẳng và hợp pháp của nhiều thành phần kinh tế mà kinh tế Nhà Nước giữ vai trò
chủ đạo. Chính sách là sự tiếp thu những tư tưởng của chủ nghĩa Mác-Lênin cũng như
học thuyết kinh tế thị trường xã hội của Samuelson- người đạt giải Nobel năm 1970 với lí
thuyết nền kinh tế hỗn hợp. Nhờ vậy, công cuộc đổi mới của nước ta đã đạt những thành
tựu to lớn : chặn đứng khủng hoảng kinh tế; thu hút vốn đầu tư nước ngoài; nâng cao các
mặt phúc lợi xã hội, xóa đói giảm nghèo, cải thiện đời sống nhân dân; đẩy mạnh sự phát
triển về văn hóa, xã hội, chính trị,
Tuy nhiên, trong những thành công luôn tồn tại những điểm mâu thuẫn kìm hãm
sự phát triển của công cuộc đổi mới, ví dụ: sự phân hóa giàu nghèo, ảnh hưởng ô nhiễm
nặng nề tác động lên môi trường, tệ nạn xã hội, v.v. Đây là những hạn chế đòi hỏi cần có
sự quan tâm và phương pháp giải quyết nhằm thúc đẩy sự đi lên của nước ta, đưa nước ta
thực sự trở thành nền kinh tế thị trường, sánh vai cùng các nước trên thế giới.
Với tính cấp thiết như trên cùng mong muốn tìm hiểu sâu về nền kinh tế nước ta,
quan điểm lí luận cũng như những giải pháp giải quyết mâu thuẫn tồn tại trong quá trình
phát triển kinh tế, em chọn đề tài “ Phép biện chứng về mâu thuẫn và vận dụng phân tích
mâu thuẫn biện chứng trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước
ta” để viết tiểu luận Triết học Mác-Lênin. Do kiến thức và kinh nghiệm còn hạn chế, bài
tiểu luân của em không tránh khỏi những sai sót. Em mong thầy cô giáo có thể đóng góp
ý kiến để giúp bài tiểu luận của em được hoàn thiện.
5
Phần I: Lý luận phép biện chứng về mâu thuẫn
Trong quá trình vận động và phát triển của sự vật luôn luôn xẩy ra mâu thuẫn, đó
là mâu thuẫn giữa các yếu tố trong bản thân sự vật hay mâu thuẫn giữa các sự vật với

nhau. Triết học Mác-Lênin đã chỉ ra, mâu thuẫn là một tất yếu khách quan, mang tính phổ
biến và có đa dạng các loại mâu thuẫn. Xác định đúng từng loại mâu thuẫn sẽ cho phép
con người tìm ra được những giải pháp phù hợp, tối ưu để giải quyết mâu thuẫn, tạo điều
kiện thúc đẩy sự vật phát triển. Từ lí luận mâu thuẫn, ta xem xét mối quan hệ giữa xây
dựng kinh tế độc lập tự chủ với hội nhập kinh tế quốc tế.
1. Khái niệm mâu thuẫn:
- Trong phép biện chứng, khái niệm mâu thuẫn dùng để chỉ mối liên hệ thống
nhất đấu tranh và chuyển hóa giữa các mặt đối lập của mỗi sự vật, hiện tượng hoặc giữa
các sự vật, hiện tượng với nhau.
Nhân tố tạo nên mâu thuẫn là các mặt đối lập – là những đặc điểm, những thuộc
tính, những tính qui định có khuynh hướng trái ngược tồn tại một cách khách quan trong
tự nhiên, xã hội và tư duy. Các mặt đối lập nằm trong sự liên hệ, tác động qua lại lẫn
nhau tạo thành mâu thuẫn biện chứng. Ví dụ: điện tích âm-điện tích dương trong một
nguyên tử, đồng hóa-dị hóa trong một cơ thể sống, chân lý và sai lầm trong quá trình phất
triển nhận thức, v.v
Hai mặt đối lập tạo thành mâu thuẫn biện chứng tồn tại trong sự thống nhất với
nhau. Sự thống nhất của các mặt đối lập là sự nương tựa lẫn nhau, tồn tại không tách rời
nhau giữa các mặt đối lập, sự tồn tại của mặt này phải lấy sự tồn tại của mặt kia làm tiền
đề. Sự thống nhất của các mặt đối lập còn biểu hiện ở tác động ngang nhau của chúng.
Hai mặt đối lập còn tồn tại trong sự đấu tranh với nhau; qua đó, các mặt đối lập có
sự tác động qua lại theo xu hướng bài trừ và phủ định lẫn nhau.
- Các tính chất chung của mâu thuẫn
+) Mâu thuẫn có tính khách quan và tính phổ biện
Đối lập với các quan điểm của triết học cũ , phép biện chứng duy vật khẳng định
rằng tất cả các sự vật, hiện tượng tồn tại trong thực tại khách quan đều chứa đựng trong
nó mâu thuẫn .sự hình thành và phát triển của mâu thuẫn là do cấu trúc tự thân vốn có
bên trong của sự vật ,hiện tượng quy đinh. Mâu thuẫn tồn tại không phụ thuộc vào bất cứ
hiện tượng siêu nhiên nào, kể cả ý chí của con người. Mỗi sự vật, hiện tượng đang tồn tại
đều là một thể thống nhất các khuynh hướng, các thuộc tính phát triển ngược chiều nhau,
đối lập nhạu Sự liên hệ, tác động qua lại, đấu tranh chuyển hoá, bài trừ và phủ định lẫn

nhau, tạo thành động lực bên trong của mọi quá trình vận động và phát triển khách quan
của chính bản thân các sự vật hiện tương.
Mâu thuẫn là một hiện tượng có trong tất cả các lĩnh vực: tự nhiên, xã hội và tư
duy của con người. Khoa học tự nhiên hiện đại chứng minh rằng thế giới vi mô là sự
thống nhất giữa những thực thể có điện tích trái dấu, hạt và trường, hạt và phản hạt.
Trong sinh học có hấp thụ và bài tiết, di truyền và biến di. Xã hội loài người có những
mâu thuẫn phức tạp hơn, đó là mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất, cơ
sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng; giữa các giai cấp đối kháng giữa chủ nô và nô lệ,
nông dân và địa chủ, tư sản và vô sản. Hoạt động kinh tế mâu thuẫn cũng mang tính phổ
biến, chẳng hạn như cung và cầu , tích luỹ và tiêu dùng, tính kế hoạch hoá của từng xí
6
nghiệp, Công ty với tính vô chính phủ của nền kinh tế hàng hóa,…Trong tư duy của con
người cũng có những mâu thuẫn như chân lý và sai lầm,…
Mâu thuẫn tồn tại từ khi sự vật mới xuất hiện cho tới khi sự vật kết thúc Trong
mỗi sự vật, mâu thuẫn hình thành không phải chỉ có một mà có thể có nhiều mâu thuẫn,
vì sự vật trong cùng một lúc có rất nhiều mặt đối lâp. Mâu thuẫn này mất đi thì mâu thuẫn
khác hình thành Ăng-ghen( chính sự vận động đơn giản nhất của vật chất cũng là một
mâu thuẫn. Vật chất tồn tại ở hình thức vận động cao hơn, mâu thuẫn càng rõ nét hợn Nó
gắn liền với sự vật, xuyên suốt quá trình phát sinh phát triển và diệt vong của sự vât. Đó
chính là những thuộc tính quy định tính khách quan và phổ biến của mâu thuẫn.
+) Mâu thuẫn có tính đa dạng, phong phú
Tính đa dạng của mâu thuẫn biểu hiện ở chỗ: mỗi sự vật, hiện tượng, quá trình
đều có thẻ bao hàm nhiều loại mâu thuẫn khác nhau, biểu hiện khác nhau trong những
điều kiện lịch sử, cụ thể khác nhau; chúng giữ vị trí, vai trò khác nhau với sự tồn tại, vận
động và phát triển của sự vật. Mâu thuẫn được phân chia thành nhiều loại: mâu thuẫn bên
trong/bên ngoài, mâu thuẫn cơ bản/không cơ bản, mâu thuẫn chủ yếu/thứ yếu, v.v
Trong các lĩnh vực khác nhau cũng tồn tại những mâu thuẫn với những tính chất khác
nhau tạo nên tính phong phú trong sự biểu hiện của mâu thuẫn.
2. Phân loại mâu thuẫn
- Căn cứ vào quan hệ đối với sự vật được xem xét, người ta phân biệt các mâu

thuẫn thành mâu thuẫn bên trong và mâu thuẫn bên ngoài.
Mâu thuẫn bên trong là sự tác động qua lại giữa các mặt, các khuynh hướng đối
lập của cùng một sự vật. Mâu thuẫn bên ngoài đối với một sự vật nhất định là mâu thuẫn
diễn ra trong mối quan hệ giữa các sự vật đó với sự vật khác.
Việc phân chia mâu thuẫn thành mâu thuẫn bên trong/bên ngoài chỉ mang tính
tương đối, tùy theo phạm vi xem xét. Trong đó, mâu thuẫn bên trong có quyết định trực
tiếp đối với quá trình vận động và phát triển của sự vật Tuy nhiên, mâu thuẫn bên trong
và bên ngoài không ngừng tác động qua lại lẫn nhau.
- Căn cứ vào ý nghĩa với sự tồn tại và phát triển của toàn bộ sự vật, mâu thuẫn
được chia thành mâu thuẫn cơ bản và mâu thuẫn không cơ bản.
Mâu thuẫn cơ bản là mâu thuẫn qui định bản chất của sự vật, qui định sự phát
triển ở tất cả các giai đoạn của sự vật, nó tồn tại trong suốt quá trình tồn tại các sự vật.
Mâu thuẫn cơ bản được giải quyết thì sự vật sẽ thay đổi căn bản về chất. Mâu thuẫn
không cơ bản là mâu thuẫn chỉ đặc trưng cho một phương diện nào đó của sự vật, nó
không qui định bản chất của sự vật. Mâu thuẫn đó nẩy sinh hay được giải quyết không
làm cho sự vật thay đổi căn bản về chất.
- Căn cứ vào vai trò của mâu thuẫn đối với sự tồn tại và phát triển của sự vật trong
một giai đoạn nhất định, các mâu thuẫn được chia thành mâu thuẫn chủ yếu và mâu
thuẫn thứ yếu.
Mâu thuẫn chủ yếu là mâu thuẫn nổi lên hàng đầu ở một giai đoạn phát triển nhất
định của sự vật, nó chi phối các mâu thuẫn khác trong giai đoạn đó. Giải quyết được mâu
thuẫn chủ yếu trong từng giai đoạn là điều kiện cho sự vật chuyển sang giai đoạn phát
triển mới. Mâu thuẫn thứ yếu là những mâu thuẫn ra đời và tồn tại trong một giai đoạn
phát triển nào đó của sự vật, nhưng nó không đóng vai trò chi phối mà bị mâu thuẫn chủ
7
yếu chi phối. Giải quyết được mâu thuẫn thứ yếu sẽ góp phần vào việc từng bước giải
quyết mâu thuẫn chủ yếu.
- Căn cứ vào tính chất của các quan hệ lợi ích người ta chia mâu thuẫn trong xã
hội thành mâu thuẫn đối kháng và mâu thuẫn không đối kháng.
Mâu thuẫn đối kháng là mâu thuẫn giữa những giai cấp, những tập đoàn người có

lợi ích cơ bản đối lập với nhau. Mâu thuẫn không đối kháng là mâu thuẫn giữa những lực
lượng xã hội có lợi ích cơ bản thống nhất với nhau, chỉ đối lập về lợi ích không cơ bản,
cục bộ, tạm thời.
3. Mâu thuẫn là nguồn gốc của sự vận động và sự phát
triển.
Sự thống nhất và đối lập của các mặt đối lập là hai xu hướng tác động khác nhau
của các mặt đối lập tạo nên mâu thuẫn. Sự thống nhất và đấu tranh không tách rời nhau
trong quá trình vận động, phát triển của sự vật. Quá trình thống nhất và đấu tranh của các
mặt đối lập tất yếu dẫn đến sự chuyển hóa giữa chúng. Lúc mâu thuẫn mới xuất hiện, nó
thể hiện sự khác biệt và phát triển thành hai mặt đối lập. Khi hai mặt đối lập của mâu
thuẫn xung đột với nhau gay gắt và khi điều kiện đã chín muồi, chúng sẽ chuyển hóa lẫn
nhau. Mâu thuẫn cũ mất đi, mâu thuẫn mới được hình thành, quá trình tác động, chuyển
hóa giữa các sự vật được tiếp diễn, làm cho hiện tượng luôn vận động và phát triển.
Tuy nhiên, không phải bất kỳ sự đấu tranh nào của các mặt đối lập đều dẫn đến sự
chuyển hoá giữa chúng. Chỉ có sự đấu tranh của các mặt đối lập phát triển đến một trình
độ nhất định, hội đủ các điểu kiện cần thiết mới dẫn đến chuyển hoá giữa chúng, bài trừ
và phủ định lẫn nhau. Trong giới tự nhiên, chuyển hoá của các mặt đối lập thường diễn ra
một cách tự phát, còn trong xã hội, chuyển hoá của các mặt đối lập nhất thiết phải thông
qua hoạt động có ý thức của con người.
Do đó, không nên hiểu sự chuyển hoá lẫn nhau giữa các mặt đối lập chỉ là sự hoán
đổi vị trí một cách dơn giản máy móc. Thông thường thì mâu thuẫn chuyển hoá theo hai
phương thức:
+ Phương thức thứ nhất: Mặt đối lập này chuyển hoá thành mặt đối lập kia nhưng
ở trình độ cao hơn xét về phương diện chất của sự vât.
+ Phương thức thứ hai: Cả hai mặt đối lập chuyển hoá lẫn nhau để thành hai mặt
đối lập mới hoàn toàn.
Từ những mâu thuẫn trên cho ta thấy trong thế giới hiện thực, bất kỳ sự vật hiện
tượng nào cũng chứa đựng trong bản thân nó những mặt, những thuộc tính có khuynh
hướng phát triển ngược chiều nhau. Sự đấu tranh chuyển hoá của các mặt đối lập trong
điều kiện cụ thể tạo thành mâu thuẫn. Mâu thuẫn là hiện tượng khách quan, phổ biến trên

thế giới. Mâu thuẫn được giải quyết, sự vật cũng mất đi sự vật mới hình thành. Sự vật
mới lại nảy sinh các mặt đối lập và mâu thuẫn mới.
Các mặt đối lập này lại đấu tranh chuyển hoá và phủ định lẫn nhau để tạo thành
sự vật mới hợn cứ như vậy mà các sự vật, hiện tượng trong thế giới khách quan thường
xuyên và biến đổi không ngừng. Vì vậy, mâu thuẫn là nguồn gốc và động lực của mọi
quá trình phát triển.
8
4. Ý nghĩa phương pháp luận.
Trong nhận thức và thực tiễn cần phải coi trọng mâu thuẫn, phát hiện mâu thuẫn,
phân tích đầy đủ các mặt đối lập để nắm được bản chất, nguồn gốc, khuynh hướng của sự
vận động và phát triển. Ngoài ra, cần phải phân biệt đúng vai trò, vị trí của mâu thuẫn
trong từng hoàn cảnh, điều kiện nhất định cùng những đặc điểm của mâu thuẫn đó để tìm
ra phương pháp giải quyết từng loại mâu thuẫn một cách hợp lí nhất.
9
Phần II: Ứng dụng phép mâu thuẫn biện chứng trong
việc phân tích nền kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa ở nước ta.
1. Tính tất yếu của quá trình hình thành và phát triển
nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
ở nước ta.
1.1 Khái niệm kinh tế thị trường.
Kinh tế thị trường là nền kinh tế mà trong đó người mua và người bán tác động
với nhau theo quy luật cung cầu, giá trị để xác định giá cả và số lượng hàng hoá, dịch vụ
trên thị trường.
Về ưu điểm, trong nền kinh tế thị trường, nếu lượng cầu hàng hóa cao hơn lượng
cung, thì giá cả hàng hóa sẽ tăng lên, mức lợi nhuận cũng tăng khuyến khích người sản
xuất tăng lượng cung. Người sản xuất nào có cơ chế sản xuất hiệu quả hơn, thì cũng có tỷ
suất lợi nhuận cao hơn cho phép tăng quy mô sản xuất, và do đó các nguồn lực sản xuất
sẽ chảy về phía những người sản xuất hiệu quả. Những người sản xuất có cơ chế sản xuất
kém hiệu quả sẽ có tỷ suất lợi nhuận thấp, khả năng mua nguồn lực sản xuất thấp, sức

cạnh tranh kém sẽ bị đào thải.
Về nhược điểm, cơ chế phân bổ nguồn lực trong nền kinh tế thị trường có thể dẫn
tới bất bình đẳng. Đấy là chưa kể vấn đề thông tin không hoàn hảo có thể dẫn tới việc
phân bổ nguồn lực không hiệu quả. Do một số nguyên nhân, giá cả có thể không linh hoạt
trong các khoảng thời gian ngắn hạn khiến cho việc điều chỉnh cung cầu không suôn sẻ,
dẫn tới khoảng cách giữa tổng cung và tổng cầu. Đây là nguyên nhân của các hiện tượng
thất nghiệp, lạm phát.
Trong thực tế hiện nay, không có một nền kinh tế thị trường hoàn hảo, cũng như
không có nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung hoàn toàn (trừ nền kinh tế Bắc Triều Tiên).
Thay vào đó là nền kinh tế hỗn hợp. Tùy ở mỗi nước mà các yếu tố thị trường nhiều hay
ít.
Trong thương mại quốc tế, mức độ thị trường hóa nền kinh tế có thể được sử dụng
làm tiêu chí trong xác định điều kiện thương mại giữa hai nước.
1.2 Khái niệm kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là tên gọi một hệ thống kinh tế
được Đảng Cộng sản Việt Nam sáng tạo và chủ trương triển khai tại Việt Nam từ thập
niên 1990.
Cho đến nay, chính Đảng Cộng sản Việt Nam cũng thừa nhận rằng chưa có nhận
thức rõ, cụ thể và đầy đủ về thế nào là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
mà chỉ có giải thích hạn chế và chung chung rằng, đó là một nền kinh tế vận hành theo cơ
chế thị trường có sự quản lý chặt chẽ của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa hướng
tới mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Nguyên nhân
của tình trạng này là hệ thống kinh tế này là hoàn toàn mới, chưa có tiền lệ trong lịch sử.
Thêm vào đó, công tác lý luận ở Việt Nam về hệ thống kinh tế này còn chưa theo kịp
10
thực tiễn. Gần 20 năm theo đuổi chủ trương xây dựng hệ thống kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa, nhưng các thể chế cho hệ thống này hoạt động vẫn chưa có đầy
đủ. Mãi tới hội nghị lần thứ 6 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam
khóa X, Đảng mới ra nghị quyết số 21-NQ/TW ngày 30 tháng 1 năm 2008 về tiếp tục
hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Và, mãi tới ngày 23

tháng 9 năm 2008, Chính phủ Việt Nam mới có nghị quyết số 22/2008/NQ-CP ban hành
Chương trình hành động của Chính phủ để thực hiện nghị quyết 21-NQ/TW.
Hệ thống kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa có các đặc trưng sau:
 Là một nền kinh tế hỗn hợp, nghĩa là vừa vận hành theo cơ chế thị trường,
vừa có sự điều tiết của nhà nước. Các quy luật khách quan của nền kinh tế
thị trường được tôn trọng. Các thông lệ quốc tế trong quản lý và điều hành
kinh tế được vận dụng một cách hợp lý. Nền kinh tế chịu sự chi phối của
các quy luật kinh tế xã hội chủ nghĩa.
 Là một nền kinh tế đa dạng các hình thức sở hữu, nhưng khu vực kinh tế
nhà nước giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế, kinh tế nhà nước và kinh tế
tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế. Đất đai
thuộc sở hữu toàn dân.
 Là nền kinh tế phát triển nhanh, hiệu quả, bền vững và chủ động hội nhập
kinh tế thành công.
 Việc phân phối được thực hiện chủ yếu theo kết quả lao động và theo hiệu
quả kinh tế, đồng thời theo cả mức đóng góp vốn. Chú trọng phân phối lại
qua phúc lợi xã hội. Việc phân bổ các nguồn lực vừa được tiến hành theo
hướng nâng cao hiệu quả, vừa theo hướng giúp thu hẹp khoảng cách phát
triển giữa các địa phương. Phát triển kinh tế gắn với tiến bộ, công bằng xã
hội; công bằng xã hội được chú ý trong từng bước, từng chính sách phát
triển.
 Phát triển kinh tế gắn với bảo vệ môi trường.
 Các tổ chức chính trị-xã hội, tổ chức xã hội, nghề nghiệp và nhân dân
được khuyến khích tham gia vào quá trình phát triển kinh tế.
1.3 Cơ sở khách quan của sự tồn tại và phát triển nền kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Thực tiễn vận động của nền kinh tế thế giới những năm gần đây cho thấy, mô
hình phát triển nền kinh tế thị trường có sự điều tiết vĩ mô từ trung tâm, trong bối cảnh
ngày nay, là mô hình hợp lý hơn cả. Mô hình này, về đại thể có thể đáp ứng những thách
thức của sự phát triển.

Nước ta, việc thực hiện mô hình này, trong thực tế, chẳng những là nội dụng của
công cuộc đổi mới mà hơn thế nưa còn là công cụ, là phương thức để nước ta đi tới mục
tiêu xây dựng CNXH.
Nền kinh tế nước ta hiện nay chỉ có thể nó đang trong giai đoạn quá độ, chuyển
tiếp từ nền kinh tế tập trung, hành chính, bao cấp sang nền kinh tế thị trường có sự quản
lý vĩ mô của Nhà nước theo định hướng XHCN. Do vậy, những đặc điểm của giai đoạn
quá độ trong nền kinh tế nước ta, đương nhiên là một vấn đề rất có ý nghĩa, rất cần được
nghiên cứu, xem xẹt Nhận thức được những đặc điểm phức tạp của giai đoạn quá độ, chi
phối những đặc điểm đó, chúng ta sẽ tránh được những sai lầm chủ quan nóng vội, duy ý
chí hoặc những khuynh hướng cực đoan, máy moc,sáo chép, chấp nhận nguyên bản kinh
tế thị trường từ bên ngoài vạo
11
Như chúng ta đã biết, trong nền kinh tế tập trung , bao cấp, mọi chức năng kinh tế
xã hội của nền kinh tế đều được triển khai trong quá trình kế hoạch hoá ở cấp độ quốc
gia. Tính bao cấp của nhà nước đối với các hoạt động của sản xuất lưu thông, phân phối
khá nặng nề, ở nước ta trước đây, chế độ hạch toán, trên thực tế còn nặng về hình thực
.Lợi ích kinh tế, đặc biệt là lợi ích cá nhân người lao động, một động lực trực tiếp của
hoạt động xã hội chưa được quan tâm đúng mực Vì thế, sự vận động của nền kinh tế nhìn
chung là chậm chạp, kém năng động.
Kể từ đại hội Đảng lần thú VI (121986/) đến nay, theo đường lối đổi mới, đất
nước ta đã từng bước chuyển sang nền kinh tế thị trường với định hướng Xã hội chủ
nghĩa. Và điều đó có ý nghĩa là chúng ta đã đạt được những thành tựu hết sức quan trọng,
những thành tựu cho phép chúng ta “ điều chỉnh và bổ sung nhận thức, làm cho quan
niệm về chủ nghĩa xã hội ngày càng cụ thể: đường lối chủ trương, chính sách ngày càng
đồng bộ, có căn cứ khoa học và thực tiễn. Những thành tựu đó, trong một chừng mực
nhất định cũng gián tiếp khả năng của nền kinh tế thị trường trong việc năng động hoá
nền kinh tế đất nước.
Kinh tế thị trường, như chúng ta đã biết là một quan hệ kinh tế – xã hội mà trong
đó sản xuất và tái sản xuất gắn liền với thị trường, tức là gắn chặt với quan hệ hàng hoa
tiền tệ, với quan hệ cung- cầu … Trong nền kinh tế thị trường , nét biểu hiện có tính chất

bề mặt của đời sống xã hội quan hệ hàng hoá
Nếu như trước đây, nền kinh tế nước ta chỉ có một kiểu sở hữu tương đối thuần
nhất với hai thành phần tập thể và quốc doanh, thì nay, cùng với thành phần sở hữu chủ
đạo là sở hữu Nhà nước, còn tồn tại nhiều hình thức sở hữu khác. Những hình thức sở
hữu đó, trong thực tế vận hành của nền kinh tế, không hẳn đã đồng bộ với nhau, đôi khi
chúng còn có mâu thuẫn với nhạu Song về tổng thể, chúng là những bộ phận khách quan
của nền kinh tế, có khả năng đáp ứng những đòi hỏi đa dạng và năng động của nền kinh
tế thị trượng
Trên con đường công nghiệp hoá, hiện đại hoá, việc chúng ta bước đầu sử dụng
thị trường như là một công cụ, phương thức, trên thực tế đã đem lại những kết quả tích
cực cả về phượng thức, trên thực tế đã đem lại những kết quả tích cực cả về phương diện
thực tiễn và phương diện nhận thực.
Mỗi hành trang có ý nghĩa mà công cuộc đổi mới trang bị cho chúng ta sản xuất
hàng hoá cùng với nền kinh tế nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường, hiện đã
được chúng ta hiểu là không đối lập với CNXH. Với tính cách là sản phẩm của văn minh
nhân loại, một cơ hội để các cộng đồng mở cửa, tiếp xúc với bên ngoài, kinh tế thị trường
rõ ràng là cái khách quan và tất yếu đối với công cuộc xây dựng CNXH ở nước tạ
Trong nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần ở nước ta, thị trường là căn cứ, vừa là đối
tượng của công tác kế hoạch hoá. Việc điều tiết vĩ mô đối với thị thường, một mặt làm
cho nền kinh tế nước ta thực sự trở thành một thị trường thống nhât thống nhất trong cả
nước và thống nhất với thị trường thế giơi mặt khác còn có tác dụng làm cho mỗi đơn vị
kinh tế phải tự khẳng định khả năng và vai trò của mình trong thị trường.
Tuy nhiên, nhận ra sức mạnh của cơ chế thị trường bao nhiêu, chúng ta lại cũng
hiểu rõ hơn bấy nhiêu mặt trái của nó đối với sự vận động của đởi sống xã hội. Sự tăng
trưởng kinh tế đương nhiên là một mục tiêu của phát triển xã hội; nó có khả năng tạo ra
điều kiện để giải quyết các vấn đề xã hội. Nhưng tăng trưởng kinh tế không nhất thiết đi
liền với xã hội. Do vây, những quan niệm của Đảng ta, để thực hiện sự nghiệp xây dựng
CNXH với mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng văn minh, nền kinh tế thị
trường nhất thiết phải có sự quản lý của nhà nước theo định hướng Xã hội chủ nghĩa.
12

2. Những mâu thuẫn tồn tại trong nền kinh tế định
hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
2.1 Mâu thuẫn giữa kinh tế thị trường và mục tiêu xây dựng xã
hội chủ nghĩa.
Quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta từ một nước phong kiến đi lên bỏ
qua giai đoạn tư bản chủ nghĩa nên gặp rất nhiều khó khăn và thử thách, đặc biệt là trong
lĩnh vực kinh tế. Điều đó đòi hỏi nhà nước ta phải có những biện pháp phù hợp để phát
triển nền kinh tế thị trường nhưng vẫn giữ vững được định hướng xã hội chủ nghĩa.
Trước đây để xây dựng nền kinh tế phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa
nước ta đã xây dựng một nền kinh tế kế hoạch với hai hình thức sở hữu là sở hữu toàn
dân và sở hữu tập thể. Vì vậy đã làm kìm hãm sự phát triển nền kinh tế.
Khi đất nước ta hoàn toàn thống nhất, Đảng và Nhà nước ta đã xác định nước ta
sẽ đi lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua giai đoạn tư bản chủ nghĩa. Nhưng lúc đó chúng ta còn
nhận thức đơn giản về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội nên chúng
ta đã coi chủ nghĩa xã hội là một nhà nước của dân và do dân làm chủ, xoá bỏ chế độ tư
hữu về tư liệu sản xuất nên đã thiết lập nên một nền kinh tế mà chỉ có sở hữu toàn dân và
sở hữu tập thể. Do đó đã tạo nên một nền kinh tế quản lý tập trung quan liêu bao cấp. Hậu
quả là cơ quan quản lý nhà nước làm thay chức năng quản lý sản xuất kinh doanh của
doanh nghiệp. Còn các doanh nghiệp vừa bị trói buộc vì không có quyền tự chủ, vừa ỷ lại
vào cấp trên vì không bị ràng buộc với kết quả sản xuất kinh doanh. Thêm vào đó bộ máy
quản lý cồng kềnh làm triệt đi tính năng động sáng tạo của các đơn vị kinh tế, hình thành
cơ chế kìm hãm sự phát triển kinh tế xã hội. Khi đó chủ yếu phát triển kinh tế theo chiều
rộng chứ không phải phát triển kinh tế theo chiều sâu. Vì vậy, tại đại hội Đảng toàn quốc
lần thứ VI năm 1986, Đảng ta đã đề ra phương hướng đổi mới kinh tế là chuyển nền kinh
tế nước ta sang nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường
có sự quản lý của nhà nước.
Như vậy chấp nhận nền kinh tế thị trường là chúng ta chấp nhận sự mâu thuẫn của
nó với tính định hướng xã hội chủ nghĩa vì nền kinh tế thị trường gồm có nhiều thành
phần kinh tế, nhiều hình thức sở hữu và do đó cũng có nhiều hình thức phân phối. Sự
phức tạp và đa dạng của nền kinh tế thị trường làm cho định hướng xã hội chủ nghĩa ngày

càng khó khăn và đòi hỏi phải có sự quản lý chặt chẽ của nhà nước. Mỗi thành phần kinh
tế trong thời kỳ quá độ có bản chất kinh tế xã hội riêng, nên bên cạnh sự thống nhất của
các thành phần kinh tế, còn có những khác biệt và mâu thuẫn khiến cho nền kinh tế thị
trường nước ta phát triển theo những phương hướng khác nhau. Chẳng hạn các thành
phần kinh tế dựa trên chế độ tư hữu tuy có vai trò quan trọng trong việc phát triển sản
xuất, giải quyết việc làm, nhưng vì dựa trên chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất, nên chúng
không tránh khỏi tính tự phát chạy theo lợi nhuận đơn thuần, nảy sinh những hiện tượng
tiêu cực làm tổn hại đến lợi ích chung của xã hội. Vì vậy, thành phần kinh tế nhà nước
phải được xây dựng và phát triển có hiệu quả để thực hiện tốt vai trò của mình; đồng thời
Nhà nước phải thực hiện tốt vai trò quản lý vỹ mô kinh tế – xã hội để đảm bảo cho nền
kinh tế phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
13
2.2 Mâu thuẫn giữa phát triển kinh tế thị trường và vấn đề phân
hóa giàu nghèo.
Nền kinh tế thị trường phát triển, tạo ra nhiều của cải vật chất cho xã hội nhưng
không vì vậy mà đời sống của nhân dân được nâng cao và ổn định. Trái lại cùng với quá
trình chuyển sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, thì cũng diễn ra sự
phân hoá giàu nghèo, sự phân tầng xã hội theo mức sống ngày càng tăng.
Sự phân hoá giàu nghèo ngày càng lan rộng sẽ lan sang các lĩnh vực khác như
giáo dục, chăm sóc sức khoẻ, nhà ở và các dịch vụ cơ bản khác… Điều đó đưa đến hệ
quả không mong muốn, làm xuất hiện những nhóm xã hội dễ bị tổn thương trong nền
kinh tế thị trường, tác động đến tư tưởng, tâm lý, niềm tin về công bằng xã hội. Vì thế,
cần tăng cường vai trò của nhà nước đối với phân phối thu nhập nhằm từng bước thực
hiện mục tiêu của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
2.3 Mâu thuẫn giữa phát triển kinh tế thị trường và vấn đề bảo
vệ môi trường.
Nền kinh tế ngày càng phát triển, đặc biệt là các ngành công nghiệp đã làm cho
môi trường ngày càng ô nhiễm.
Trong suốt những năm qua, con người đã thường xuyên tác động trực tiếp tới
thiên nhiên và cải biến môi trường sống. Con người đã khai thác than đá, sắt, và các kim

loại khác, nắn dòng sông, đào kênh, bạt núi, xây dựng các trạm thuỷ điện với các hồ chứa
nước nhân tạo… những hoạt động đó đã ảnh hưởng tới khí hậu, từ đó tác động mạnh tới
sinh quyển. Trước đây, ở nước ta có 3/4 diện tích đất đai là rừng, nay chỉ còn 1/4 là rừng.
Nhiều loại gỗ quý như gụ, lát hoa, giáng hương, sến, táu… đã bị khai thác đến mức gần
như cạn kiệt.
Rừng bị triệt hạ nhiều làm cho lượng ôxi trong không khí và lượng chất hữu cơ
sản sinh bị giảm sút rõ rệt. Lượng nước dự trữ do rừng giữ lại ngày càng ít dần, làm cho
quá trình sa mạc hoá và thảo nguyên hoá càng tăng nhanh. Quá trình đô thị hoá nhanh
làm cho diện tích đất trồng ngày càng bị thu hẹp. Sự phân phối nước ngọt cho người và
cho vật nuôi, cây trồng cũng bị hạn chế. Tiến bộ khoa học kĩ thuật được ứng dụng tích
cực vào sản xuất đã kéo theo sự nhiễm bẩn của tất cả các quyển. Các chất thải của nhà
máy làm cho các hồ ao, sông ngòi, cửa biển, cảng và biển cả bị nhiễm bẩn ngày càng
nhiều. Các tầu biển đã thải ra biển và đại dương nhiều chất thải độc hại, làm chết nhiều
sinh vật nổi và những sinh vật khác ăn sinh vật nổi cũng chết theo…
Những khí thải của các nhà máy khi vào trong khí quyển đã làm tăng lượng khí CO và
CO2 trong không khí gây hiện tượng hiệu ứng nhà kính, gây thủng tầng ôzôn, làm cho
trái đất nóng lên dẫn đến băng ở hai cực Trái Đất tan ra, vì vậy nước biển sẽ dâng lên và
nhấn chìm đất liền.
Sự ô nhiễm bầu khí quyển làm cho trái đất ngày càng nóng lên dẫn đến sự thay
đổi thời tiết, khí hậu ở Việt Nam cũng như ở các khu vực khác trên thế giới. Gần đây hiện
tượng sóng thần đã gây thiệt hại nặng nề về người và của cho các nước ở khu vực Nam á
và Đông Nam ở nước ta, tuy không nằm trong khu vực ảnh hưởng của sóng thần nhưng
với thời tiết khô và nhiệt độ cao đã gây ra hàng loạt các vụ cháy rừng ở Sơn La và hạn
hán ở Tây Nguyên, Ninh Thuận, Bình Thuận…
Cùng với sự phát triển của nền kinh tế thị trường thì nó đã kéo theo hàng loạt các
nhân tố gây ảnh hưởng đến môi trường sinh thái. Đây là vấn đề quan trọng được đặt ra
không chỉ ở Việt Nam mà cả trên toàn thế giới. Nó đòi hỏi cần phải được giải quyết triệt
14
để nếu không môi trường bị phá huỷ là con người sẽ tự huỷ hoại môi trường sống của
chính bản thân mình.

Sự phát triển của mỗi quốc gia chỉ có thể bền vững khi môi trường sống và thiên
nhiên được bảo vệ tốt, duy trì được mối cân bằng sinh tháI, tránh bị ô nhiễm và biết cách
khai thác, sử dụng, phục hồi một cách hợp lý nguồn tài nguyên thiên nhiên.
3. Giải pháp để giải quyết mâu thuẫn và phát triển nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
3.1 Những phương án để giải quyết mâu thuẫn của nền kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
3.1.1 Giải quyết mâu thuẫn giữa kinh tế thị trường và mục tiêu xây dựng xã hội
chủ nghĩa.
Cần xác lập vai trò chủ đạo của nhà nước trong việc quản lí nền kinh tế chung.
Bên cạnh việc phát triển kinh tế nhà nước để thành phần kinh tế này giữ vai trò chủ đạo
cần giáo dục tư tưởng lý luận cho mọi tầng lớp nhân dân, đặc biệt là tầng lớp trí thức và
những chủ thể sản xuất kinh doanh để họ nhận thức đúng đắn đường lối phát triển đất
nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa của nước ta. Từ đó họ có những phương thức sản
xuất kinh doanh phù hợp với con đường mà Đảng và Nhà nước ta đã chọn.
3.1.2 Giải quyết mâu thuẫn giữa phát triển kinh tế thị trường và vấn đề phân hóa
giàu nghèo.
Cần duy trì tốc độ tăng trưởng nhanh và bền vững, tạo điều kiện để nhân dân có
việc làm, nâng cao vấn đề phúc lợi và an sinh xã hội để dần cải thiện cuộc sống nhân dân.
Chú ý một số biện pháp:
 Tạo môi trường kinh tế – xã hội, cơ chế, chính sách thuận lợi cho các thành phần
kinh tế, mọi công dân được quyền tự do sản xuất, kinh doanh theo pháp luật. Nhờ
đó, huy động tối đa các nguồn lực vào phát triển kinh tế, tạo việc làm, tăng thu
nhập. Đây là giải pháp cơ bản để xoá đói giảm nghèo nhanh và bền vững.
 Phát triển nông nghiệp và nông thôn: phát triển toàn diện nông, lâm, ngư nghiệp
theo hướng sản xuất hàng hoá và gắn với công nghiệp chế biến nông, lâm, thủy
sản. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại
hoá, giảm dần tỷ trọng nông nghiệp, tăng dần tỷ trọng tiểu thủ công nghiệp, công
nghiệp chế biến và dịch vụ, đưa ngành nghề mới vào nông thôn. Việc phát triển
khu vực phi nông nghiệp ở nông thôn có vai trò quan trọng trong việc tạo việc

làm cho người lao động và nâng cao hiệu quả kinh tế nông thôn.
 Tăng cường hỗ trợ cho người nghèo phát triển sản xuất, vươn lên làm giàu: Hỗ trợ
vốn cho người nghèo, hướng dẫn người nghèo làm kinh tế, tăng đầu tư xây dựng
kết cấu hạ tầng nông thôn, đặc biệt cho các xã khó khăn, trước hết là xây dựng
đường giao thông đến các xã, thôn, bản tạo điều kiện cho phát triển kinh tế.
 Tạo cơ hội cho người nghèo tiếp cận các dịch vụ xã hội, đặc biệt là các dịch vụ cơ
bản như y tế, giáo dục, kế hoạch hoá gia đình, nước sạch sinh hoạt…
 Thực hiện tốt chủ trương xã hội hoá công tác xoá đói giảm nghèo. Cụ thể là: Đa
dạng hoá các nguồn lực cho xoá đói giảm nghèo; tuyên truyền nhằm nâng cao
nhận thức, trách nhiệm và quyết tâm xoá đói giảm nghèo từ Trung ương đến cơ sở
15
và người dân, tạo phong trào và sức mạnh tổng hợp xoá đói giảm nghèo; thực
hiện quy chế dân chủ, đảm bảo cho người nghèo tham gia vào các công cuộc xoá
đói, giảm nghèo, công khai về nguồn lực tài chính đảm bảo sự trợ giúp đến được
với người nghèo; tổ chức thực hiện nhân rộng các mô hình xoá đói giảm nghèo
thành công.
3.1.3 Giải quyết mâu thuẫn giữa phát triển kinh tế thị trường và vấn đề bảo vệ môi
trường.
Sản xuất theo chu kỳ khép kín; khử và lọc nước và khí thải; nghiên cứu những
nhiên liệu mới không hoặc ít gây ô nhiễm; thay thế dần các nhà máy công nghiệp đang
dùng bằng các nhà máy có hệ thống nước khép kín.
Bảo đảm lọc nước theo hệ thống ao lọc; phủ xanh các cơ sở công nghiệp; vận
dụng mạnh mẽ hơn các biện pháp đấu tranh sinh học; xây dựng những vùng kinh tế rừng,
xây dựng nhiều khu rừng quốc gia.
Rừng không chỉ sản xuất ra gỗ mà còn là một cỗ máy khổng lồ của thiên nhiên
làm điều hoà khí hậu, giữ ẩm cho đất, góp phần ngăn chặn các nạn lũ lụt, xói mòn đất đai.
Vì vậy, phải có quy hoạch tổng thể khoa học, vừa khai thác rừng, vừa trồng và bảo vệ
rừng, xây dựng các khu rừng cấm quốc gia, tăng cường sử dụng các biện pháp đấu tranh
sinh học, bảo đảm sự cân bằng sinh học trong rừng, chống nạn cháy rừng.
Luật bảo vệ môi trường của nước ta đã được Quốc hội thông qua năm 1993 nêu

lên những quy định tập trung vào các vấn đề sau: bảo vệ các thành phần cơ bản của môi
trường, bảo vệ môi trường tổng hợp ở những khu vực khác nhau, phòng chống ô nhiễm
và tai biến môi trường.
Luật môi trường bao gồm các quy định về việc sử dụng hợp lý tài nguyên thiên
nhiên và môi trường, ngăn chặn tác động tiêu cực, phục hồi các tổn thất, không ngừng cải
thiện tài nguyên thiên nhiên và chất lượng môi trường, nhằm nâng cao đời sống vật chất
và tinh thần của nhân dân. Bảo vệ môi trường bằng pháp luật là biện pháp hết sức quan
trọng.
3.2 Những phương án phát triển nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa.
3.2.1 Thực hiện nhất quán chính sách kinh tế nhiều thành phần
Trước khi xây dựng kinh tế kế hoạch, xoá bỏ kinh tế thị trường, chúng ta thiết lập
một cơ cấu sở hữu đơn giản với hai hình thức là sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể. Vì
vậy, khi chuyển sang kinh tế hàng hoá vận hành theo cơ chế thị trường, cần phải đổi mới
cơ cấu sở hữu cũ, bằng cách đa dạng hoá các hình thức sở hữu, điều đó sẽ đưa đến hình
thành những chủ kinh tế độc lập, có lợi ích riêng, tức là khôi phục một trong những cơ sở
của kinh tế hàng hoá.
Trên cơ sở đa dạng hoá các hình thức sở hữu, thực hiện nhất quán, lâu dài chính
sách phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần. Lấy việc phát triển sức sản xuất,
nâng cao hiệu quả kinh tế – xã hội, cải thiện đời sống nhân dân là mục tiêu quan trọng để
khuyến khích phát triển các thành phần kinh tế và các hình thức tổ chức sản xuất kinh
doanh. Theo tinh thần đó tất cả các thành phần kinh tế đều bình đẳng trước pháp luật, đều
được khuyến khích phát triển.
Trong những năm tới cần phát huy vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước. Muốn
vậy cần tập trung nguồn lực phát triển có hiệu quả kinh tế nhà nước trong những lĩnh vực
trọng yếu của nền kinh tế, sắp xếp lại khu vực doanh nghiệp nhà nước, thực hiện tốt chủ
trương cổ phần hoá và đa dạng hoá sở hữu đối với những doanh nghiệp mà Nhà nước
16
không cần nắm 100% vốn. Xây dựng và củng cố một số tập đoàn kinh tế mạnh trên cơ sở
các tổng công ty nhà nước, có sự tham gia của các thành phần kinh tế. Đẩy mạnh việc đổi

mới kỹ thuật, công nghệ trong các doanh nghiệp nhà nước. Thực hiện chế độ quản lý
công ty đối với tất cả các doanh nghiệp kinh doanh có vốn của Nhà nước, doanh nghiệp
thực sự cạnh tranh bình đẳng trên thị trường, tự chịu trách nhiệm trong sản xuất kinh
doanh.
Phát triển kinh tế kinh tế tập thể dưới nhiều hình thức đa dạng. Trong đó hợp tác
xã là nòng cốt. Nhà nước cần giúp đỡ hợp tác xã về đào tạo cán bộ, xây dựng phương án
sản xuất kinh doanh, mở rộng thị trường. Thực hiện tốt việc chuyển đổi hợp tác xã theo
Luật hợp tác xã.
Khuyến khích kinh tế cá thể, tiểu chủ phát triển ở cả thành thị và nông thôn. Nhà
nước tạo điều kiện và giúp đỡ kinh tế cá thể, tiểu chủ phát triển có hiệu quả. Khuyến
khích kinh tế tư bản tư nhân phát triển trong những ngành nghề sản xuất kinh doanh mà
luật pháp không cấm. Phát triển kinh tế tư bản nhà nước dưới các hình thức liên doanh,
liên kết giữa kinh tế tư nhân trong và ngoài nước: tạo điều kiện để kinh tế có vốn đầu tư
nước ngoài hướng vào mục tiêu phát triển các sản phẩm xuất khẩu, tăng khả năng cạnh
tranh, gắn thu hút vốn với thu hút công nghệ hiện đại.
3.2.2 Đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, ứng dụng nhanh tiến bộ khoa học
– công nghệ; trên cơ sở đó đẩy mạnh phân công lao động xã hội.
Phân công lao động xã hội là cơ sở chung của sản xuất và trao đổi hàng hoá. Vì
vậy, để phát triển kinh tế hàng hoá phải đẩy mạnh phân công lao động xã hội. Nhưng sự
phát triển của phân công lao động xã hội do trình độ phát triển của lực lượng sản xuất
quyết định, cho nên muốn mở rộng phân công lao động xã hội, cần đẩy mạnh công
nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước để xây dựng cơ sở vật chất – kỹ thuật của nền sản xuất
lớn hiện đại.
3.2.3 Hình thành và phát triển đồng bộ các loại thị trường.
Trong nền kinh tế thị trường, hầu hết các nguồn lực kinh tế đều thông qua thị
trường mà được phân bố vào các ngành, các lĩnh vực của nền kinh tế một cách tối ưu. Vì
vậy, để xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, chúng
ta phải hình thành và phát triển đồng bộ các loại thị trường. Trong những năm tới chúng
ta cần phải:
Phát triển thị trường hàng hoá và dịch vụ thông qua việc đẩy mạnh sản xuất, thúc

đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế, phát triển hệ thống giao thông và phương tiện vận tải để
mở rộng thị trường. Hình thành thị trường sức lao động có tổ chức để tạo điều kiện cho
sự di chuyển sức lao động theo yêu cầu phát triển kinh tế và sử dụng có hiệu quả nguồn
nhân lực.
Xây dựng thị trường vốn, từng bước hình thành và phát triển thị trường chứng
khoán để huy động các nguồn vốn vào phát triển sản xuất.
Quản lý chặt chẽ đất đai và thị trường nhà ở. Xây dựng và phát triển thị trường
thông tin, thị trường khoa học công nghệ. Hoàn thiện các loại thị trường đi đôi với xây
dựng khuôn khổ pháp lý và thể chế, tăng cường sự kiểm tra, giám sát của nhà nước, để thị
trường hoạt động năng động, có hiệu quả, có trật tự, kỷ cương trong môi trường cạnh
tranh lành mạnh, công khai, minh bạch, hạn chế và kiểm soát độc quyền kinh doanh. Có
biện pháp hữu hiệu chống buôn lậu và gian lận thương mại.
3.2.4 Mở rộng và nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại
Trong điều kiện hiện nay, chỉ có mở cửa kinh tế, hội nhập vào kinh tế khu vực và
thế giới, mới thu hút được vốn và kỹ thuật và công nghệ hiện đại để khai thác tiềm năng
và thế mạnh của đất nước nhằm phát triển kinh tế.
17
Khi mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại phải quán triệt nguyên tắc bình đẳng, cùng
có lợi, không can thiệp vào nội bộ của nhau. Mở rộng kinh tế đối ngoại theo hướng đa
phương hoá và đa dạng hoá các hình thức kinh tế đối ngoại.
Hiện nay, cần đẩy mạnh xuất khẩu, coi xuất khẩu là trọng điểm của kinh tế đối
ngoại. Giảm dần nhập siêu, ưu tiên nhập khẩu tư liệu sản xuất để phục vụ sản xuất. Tranh
thủ mọi khả năng và bằng nhiều hình thức thu hút vốn đầu tư trực tiếp của nước ngoài,
việc thu hút vốn đầu tư trực tiếp của nước ngoài cần hướng vào những lĩnh vực, những
sản phẩm có công nghệ tiên tiến, có tỷ trọng xuất khẩu cao. Việc sử dụng vốn vay phải có
hiệu quả để trả được nợ, cải thiện được cán cân thanh toán. chủ động tham gia tổ chức
thương mại quốc tế, các diễn đàn, các tổ chức, các định chế quốc tế một cách có chọn lọc
với bước đi thích hợp.
3.2.5 Giữ vững ổn định chính trị, hoàn thiện hệ thống luật pháp.
Sự ổn định chính trị bao giờ cũng là nhân tố quan trọng đầu tiên để phát triển. Nó

là điều kiện để các nhà sản xuất kinh doanh trong nước và nước ngoài yên tâm đầu tư.
Muốn giữ vững sự ổn định chính trị ở nước ta hiện nay cần phải giữ và tăng cường vai trò
lãnh đạo của Đảng Cộng Sản Việt Nam, nâng cao hiệu lực quản lý của nhà nước, phát
huy quyền làm chủ của nhân dân.
Hệ thống pháp luật đồng bộ là công cụ quan trọng để Nhà nước quản lý nền kinh
tế hàng hoá nhiều thành phần. Nó tạo ra hành lang luật pháp cho hoạt động kinh tế, buộc
các doanh nghiệp chấp nhận sự điều tiết của Nhà nước.
3.2.6 Xoá bỏ cơ chế tập trung, quan liêu, bao cấp, hoàn thiện cơ chế quản lý kinh
tế của Nhà nước.
Việc xoá bỏ triệt để cơ chế tập trung, quan liêu, bao cấp, hình thành đồng bộ và
vận hành có hiệu quả cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước có ý nghĩa hết sức
quan trọng đối với sự phát triển kinh tế hàng hoá của nước ta.
Để nâng cao năng lực và hiệu quả quản lý của Nhà nước, cần nâng cao năng lực
của các cơ quan lập pháp, hành pháp và tư pháp, thực hiện cải cách nền hành chính quốc
gia. Nhà nước thực hiện định hướng sự phát triển kinh tế; có hệ thống chính sách nhất
quán để tạo môi trường ổn định và thuận lợi cho hoạt động kinh tế; hạn chế những mặt
tiêu cực của cơ chế thị trường. Nhà nước thực hiện đúng chức năng quản lý nhà nước về
kinh tế và chức năng chủ sở hữu tài sản công, không can thiệp vào chức năng quản trị
kinh doanh để các doanh nghiệp có quyền tự chủ trong sản xuất kinh doanh. Nhà nước sử
dụng các biện pháp kinh tế là chính để điều tiết nền kinh tế, chứ không phải là mệnh lệnh.
Vì vậy, phải tiếp tục đổi mới và hoàn thiện chính sách tài chính, chính sách tiền tệ, chính
sách tiền lương và giá cả.
18
Phần III: Kết luận
Phép biện chứng về mâu thuẫn đóng một vai trò to lớn trong hoạt động nhận thức
cũng như thực tiễn. Điều quan trọng là cần coi trọng mâu thuẫn, tìm hiều, phân tích
đầy đủ các mặt đối lập để nắm rõ được bản chất, nguồn gốc và đặc điểm của mâu
thuẫn; đồng thời phân biệt được các hình thức mâu thuẫn, xác định cụ thể và chính
xác phương pháp giải quyết mâu thuẫn. Hơn nữa, ta cần nắm vững nguyên lí của giải
quyết mâu thuẫn, đó là: sự đấu tranh giữa các mặt đối lập diễn ra theo qui luật phá bỏ

cái cũ để hình thành cái mới tiến bộ hơn. Điều đó có nghĩa trong xã hội, những hành
vi đấu tranh chỉ được coi là chân chính nếu nó phục vụ cho sự phát triển chung của
cộng đồng.
Đất nước ta đã trải qua quá trình gian khổ để đấu tranh, giành lại độc lập, thống
nhất nước nhà. Giờ đây, chúng ta cũng không ngừng nỗ lực vượt qua bao trở ngại để đưa
nước ta đi theo con đường xã hội chủ nghĩa, xây dựng một nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa nhằm phát triển một xã hội Việt Nam giàu mạnh, dân chủ, văn
minh. Từ một nền kinh tế lạc hậu trên chính sách bao cấp quan liêu, , dưới sự lãnh đạo
của Đảng và Nhà Nước, chúng ta đã xây dựng Chính Sách Đổi Mới và bắt đầu thực hiện
từ năm 1986. Chính Sách Đổi Mới là một bước đi đúng đăn, đã có nhiều chuyển biến tích
cực trong nền kinh tế của nước ta. Tuy nhiên vẫn còn rất nhiều thử thách trong tương lai,
trong đó có sự tồn tại của những mâu thuẫn làm kìm hãm sự phát triển của đất nước. Bởi
vậy, vấn đề cấp thiết được đặt ra là phải tìm phương pháp hợp lí để giải quyết các mâu
thuẫn đó. Trong thời gian tới, chúng ta cần phải hoàn thiện hơn chính sách quản lí kinh
tế, nâng cao vai trò của Nhà Nước trong việc quản lí nhưng cũng thúc đẩy, tạo điều kiện
cho các thành phần kinh tế khác phát triển làm ăn; hơn nữa chúng ta cũng cần nâng cao
nhận thức và sự quan tâm đên các vấn đề phúc lợi, an sinh xã hội cùng với vấn đề bảo vệ
môi trường sinh thái để nâng cao, cải thiện và đảm bảo đời sống cho nhân dân. Có như
thế, chúng ta mới thực hiện được mục tiêu phát triển nền kinh tế theo đúng con đường
chúng ta hướng tới và hoàn thiện các vấn đề văn hóa, xã hội, chính trị, quốc phòng, góp
phần xây dựng một nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa vững bền, thịnh vượng.
19
Tài liệu tham khảo
 Giáo trình Triết học Mác-Lênin – Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia – Hà Nội,
2005.
 Giáo trình Những nguyên lí cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin – Nhà xuất bản
Chính trị Quốc gia – Hà Nội, 2009.
 Tổng cục thống kê: “Số liệu về sự biến đổi xã hội Việt Nam thời kỳ đổi mới”-
Nhà xuất bảnThống kê - Hà Nội, 2000.
 Tạp chí Cộng sản điện tử - Lê Xuân Đình - bài báo “Hướng tới nền kinh tế thị

trường hiện đại định hướng xã hội chủ nghĩa”
/>Object=17134728&news_ID=291055685
 Tạp chí Cộng sản điện tử - Nguyễn Hữu Dũng-TS Viện Khoa học Lao Động và
Xã hội – bài báo “Phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và
thực hiện chính sách an sinh xã hội ở nước ta”
/>Object=17134728&news_ID=9642342
 Trang web Wikipedia Tiếng Việt – Kinh tế thị trường
/>%C6%B0%E1%BB%9Dng
 Trang web Wikipedia Tiếng Việt – Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa />%C6%B0%E1%BB%9Dng_%C4%91%E1%BB%8Bnh_h%C6%B0%E1%BB
%9Bng_x%C3%A3_h%E1%BB%99i_ch%E1%BB%A7_ngh%C4%A9a
20

×