Tải bản đầy đủ (.pdf) (16 trang)

BÀI TIỂU LUẬN LIÊN MINH AN NINH MỸ NHẬT BẢN SAU CHIẾN TRANH THẾ GIỚI THỨ II

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (316.26 KB, 16 trang )

TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
KHOA: LỊCH SỬ
BỘ MÔN: LỊCH SỬ QUAN HỆ QUỐC TẾ

BÀI TIỂU LUẬN
LIÊN MINH AN NINH MỸ - NHẬT BẢN SAU
CHIẾN TRANH THẾ GIỚI THỨ II

GIẢNG VIÊN HƢỚNG DẪN: TS. LÊ PHỤNG HOÀNG
HỌ VÀ TÊN SINH VIÊN: LÊ NGÔ QUẾ ANH
MSSV: K38.608.041
LỚP: QTH – K38 – B


 MỤC LỤC 

I.
II.

III.

IV.

LỊCH SỬ QUAN HỆ MỸ - NHẬT SAU CHIẾN TRANH THẾ
GIỚI THỨ II .........................................................................................2
CƠ SỞ HỢP TÁC .................................................................................2
1. Lý thuyết về cơ sở hợp tác an ninh ...................................................2
2. Phía Mỹ .............................................................................................3
3. Phía Nhật Bản....................................................................................4
NỘI DUNG HỢP TÁC .........................................................................5
1. Các nguyên tắc duy trì Liên minh .....................................................5


2. Phạm vi đối tượng và hình thức phối hợp .........................................6
2.1. Phạm vi đối tương ...................................................................6
2.2. Hình thức phối hợp .................................................................7
3. So sánh liên minh Mỹ - Nhật và Mỹ - Hàn .......................................8
3.1. Vành đai an ninh ở Châu Á của Mỹ .......................................8
3.2. Khác biệt trong xu hướng phát triển .......................................9
TÁC ĐỘNG CỦA AN NINH MỸ - NHẬT ......................................10
1. Tác động đến quan hệ của các nước lớn trong khu vực Châu Á –
Thái Bình Dương .............................................................................10
1.1. Quan hệ Mỹ - Xô – Nhật: đối đầu hệ tư tưởng căng thẳng và
những vấn đề lãnh thổ ...........................................................10
1.2. Quan hệ Trung – Mỹ .............................................................11
2. Tác động đến cục diện Chiến tranh Lạnh ........................................12
2.1. Hợp tác an ninh Mỹ - Nhật là chất xúc tác Chiến tranh Lạnh
lan rộng .................................................................................12
2.2. Hợp tác an ninh Mỹ - Nhật góp phần kiềm chế lẫn nhau giữa
các nước lớn tại khu vực .......................................................14

CÁC TÀI LIỆU THAM KHẢO ...................................................................... 15

1


I.

LỊCH SỬ QUAN HỆ MỸ - NHẬT SAU CHIẾN TRANH THẾ GIỚI THỨ II
Sau thế chiến II, Nhật Bản là nước bại trận còn phe Đồng Minh gồm Mỹ, Anh,
Pháp và Liên Xô là những nước thắng trận. Ngày 14/08/1945, Nhật Hoàng tuyên bố
đầu hàng quân đội Đồng Minh vô điều kiện, Nhật Bản chịu sự chiếm đóng của lực
lượng quân Đồng Minh . Tướng Douglas MacArthur được chỉ định giữ chức Tổng

chỉ huy tối cao các lực lượng Đồng Minh. Mục tiêu chủ yếu của lực lượng Đồng
Minh chiếm đóng ở Nhật Bản là thủ tiêu chủ nghĩa quân phiệt và thiết lập dân chủ
hóa nước Nhật. Song, lực lượng Đồng Minh chiếm đóng ở Nhật lúc này chủ yếu là
người Mỹ nên các chính sách thực thi của họ không nằm ngoài mục tiêu đảm bảo
Nhật Bản không thể trở thành mối đe dọa với nước Mỹ.
Tuy nhiên, sự chiếm đóng của Mỹ ở Nhật diễn ra đồng thời với việc Mỹ giúp đỡ
Nhật Bản phục hồi kinh tế và phát triển văn hóa. Cùng với kế hoạch Marshall ở
Châu Âu, Mỹ viện trợ kinh tế và khoa học kỹ thuật cho Nhật. Phong cách Mỹ và lối
sống Mỹ bắt đầu xâm nhập xã hội Nhật Bản.
Năm 1949, khi Cách mạng Trung Quốc thành công với sự ra đời của nước Cộng
hòa Nhân dân Trung Hoa, Mỹ thực hiện “đường lối đảo ngược”, đẩy mạnh quan hệ
với Nhật Bản nhằm ngăn chặn làn sóng cộng sản ở Châu Á.
Tóm lại, Nhật Bản bại trận trong Chiến tranh Thế giới thứ II đã mở ra một thời kỳ
mới trong quan hệ Mỹ - Nhật. Kết thúc chiến tranh cũng có ý nghĩa là mở đầu thời
kỳ chiếm đóng của Mỹ ở Nhật Bản. Điều này phản ánh đúng thực trạng của hai nước
sau chiến tranh, một bên thắng trận và một bên bại trận. Kẻ bại trận bị nhiều điều
khoản ràng buộc mang tính quốc tế và bị kiệt quệ về kinh tế. Quan hệ Mỹ - Nhật vốn
là cựu thù trong chiến tranh nay đã trở thành đồng minh chiến lược.

II.

CƠ SỞ HỢP TÁC
Giữa Mỹ và Nhật Bản, quan hệ đặc biệt được xác lập trong suốt giai đoạn chiến
tranh lạnh, đó là mối quan hệ giữa người bảo trợ và người được bảo trợ. Sau thất bại
trong chiến tranh thế giới thứ II, Nhật Bản đã chọn con đường phát triển kinh tế
bằng toàn bộ sức lực của mình, phó thác công việc phòng vệ Nhật Bản vào tay Mỹ nước thắng Nhật trong chiến tranh. Mối quan hệ bất bình đẳng này tồn tại trong một
thời gian dài vì nó phục vụ cho lợi ích của cả Mỹ và Nhật Bản.
1. Lý thuyết về cơ sở hợp tác an ninh
Trong quá trình để bảo vệ chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ và các lợi ích quốc gia,
các quốc gia có cùng chung mục đích hoặc có chung kẻ thù đã liên kết với nhau

để kết hợp các khả năng quân sự, chính trị tạo nên sức mạnh chung nhằm đạt
được mục đích đề ra. Do các quốc gia có sự khác nhau về đặc điểm dân cư, địa
lý, giới cầm quyền, văn hóa… nên luôn tồn tại các mâu thuẫn. Vì vậy, việc quốc
gia này liên minh hợp tác với quốc gia khác để bảo vệ an ninh quốc gia là việc
thường thấy từ thời cổ đại. Có những liên minh tạm thời, lỏng lẻo, nhưng cũng
tồn tại những liên minh tồn tại lâu dài, chặt chẽ.
An ninh quốc gia được đảm bảo khi không có các mối đe dọa đến các lợi ích của
nó hoặc nếu có thì quốc gia này có khả năng ngăn chặn và đẩy lùi các đe dọa đó.
Các quốc gia thường lựa chọn tham gia vào một liên minh là giải pháp đem lại
cho quốc gia nhiều mặt lợi.
2


Thứ nhất, môt liên minh sẽ giúp quốc gia bổ sung được sức mạnh. Do các quốc
gia luôn bị giới hạn về nguồn lực nên những quốc gia sẽ phải đối mặt với những
hạn chế nhất định khi phải tự đối phó với các nguy cơ an ninh. Với sự kết hợp
thành liên minh, khả năng kết hợp sức mạnh để tăng cường sức mạnh của cả hai.
Ngoài ra, hợp tác an ninh là một phương cách hợp lí và có hiệu quả để góp phần
thực hiện được các mục tiêu an ninh của một quốc gia thông qua việc tăng cường
khả năng chống chọi với các mối đe dọa, giảm được chi phí, tiết kiệm nguồn lực,
răn đe đối thủ và tạo dựng mối quan hệ tốt hơn với đồng minh.
Thêm vào đó, các nhà hiện thực chủ nghĩa cho rằng mục đích cơ bản của các chủ
thể trong chính trị quốc tế là bảo vệ quyền lợi và lợi ích dân tộc, mà trước hết là
an ninh. Trong một thế giới vô chính phủ, để đảm bảo an toàn của mình trước
một nước hoặc một nhóm các nước đang tăng cường quyền lực quá mức và do
đó đe dọa sẽ thống trị cả thế giới hay một phần thế giới, các quốc gia thường thi
hành chính sách cân bằng lực lượng bằng cách tạo ra một đối trọng sức mạnh
tương dương nhờ vào việc tăng cường sức mạnh của chính mình hoặc thiết lập
liên minh phòng thủ với một số nước khác. Trong bối cảnh chiến tranh lạnh, khi
mà hai nước đối đầu là Liên Xô và Mỹ đều đang tìm cách để nâng cao sức mạnh,

mở rộng tầm ảnh hướng của mình, đồng thời kìm chế sức mạnh của đối phương
thì việc tìm thêm cho mình một đồng minh là rất quan trọng. Để đối phó với
Liên Xô và chủ nghĩa cộng sản đang ngày càng lớn mạnh, Mỹ và Nhật Bản đã
lựa chọn cách liên minh với nhau. Đối với Mỹ thì Nhật Bản là một minh quan
trọng trong khu vực Châu Á – Thái Bình Dương, là căn cứ tiền tiêu của Mỹ
chống lại Liên Xô và các nước cộng sản. Còn với Nhật Bản, thì sự có mặt của
Mỹ ở đây để đảm bảo cho an ninh nước này khi mà Liên Xô và Trung Quốc bên
cạnh đang ngày càng tăng cường khả năng quân sự, đặc biệt là vũ khí hạt nhân
của hai nước này lúc nào cũng lăm le đe dọa đến Nhật Bản. Giữa Mỹ và Nhật,
quan hệ đặc biệt đã được xác lập trong suốt giai đoạn chiến tranh lạnh, đó là
quan hệ giữa người bảo trợ và người được bảo trợ. Mới nhìn qua, có thể thấy
được tính bất cân đối, bất bình đẳng trong mối quan hệ này, tuy vậy hai nước
vẫn là đồng minh với nhau ngay cả khi chiến tranh lạnh kết thúc, có lẽ, phần lớn
là do nó còn phục vụ những lợi ích riêng của hai nước.
2. Phía Mỹ
Chính sách đối ngoại của Mỹ sau thế chiến thứ II nhằm thực hiện hai mục đích:
 Xóa bỏ hoàn toàn trật tự thế giới cũ của các đế quốc Tây Âu, đưa toàn bộ
hệ thống thế giới tư bản chủ nghĩa vào một trật tự chính trị và kinh tế mới
do Hoa Kỳ khống chế.
 Làm suy yếu, ngăn chặn sự phát triển và lan rộng ảnh hưởng của Liên Xô
và chủ nghĩa xã hội.
Trong thời kỳ chiến tranh lạnh, Mỹ chọn mục tiêu thứ hai làm chủ đạo, thực hiện
chính sách “ngăn chặn cộng sản”.
Học thuyết quân sự Mỹ trong thời kỳ này nhằm tìm cách giành ưu thế quân sự
trên phạm vi toàn cầu; bao vây cô lập Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa; xây
dựng các khối quân sự để vừa kiếm soát các đồng minh, vừa tạo cơ sở cho hoạt
động quân sự khi cần thiết.
3



Ờ Tây Âu, Mỹ xây dựng khối Hiệp ước Bắc Đại Tây Dương (NATO). Trong khi
đó, ở Châu Á – Thái Bình Dương, Mỹ xây dựng hàng trăm căn cứ quân sự thành
các phòng tuyến nhiều tầng nấc, trong đó Mỹ coi việc xây dựng một Hiệp ước
phòng thủ lâu dài với Nhật Bản là hết sức cần thiết, thậm chí, coi Nhật Bản như
một NATO phương Đông.
Lợi ích chiến lược của Mỹ ở Châu Á được xác định vào khoảng thời gian 1949 –
1950. Tháng 1/1950, Ngoại trưởng Mỹ Dean Acheson đã tuyên bố: Phạm vi
phòng thủ của Mỹ trải dài từ Alaska đến Nhật Bản và tiếp tục đến tận quần đảo
Kyushu và Philippine.
Chính sách của Mỹ đối với Nhật Bản thời kỳ sau Chiến tranh thế giới thứ II phản
ánh chiến lược toàn cầu của Mỹ nhằm thực hiện cuộc chiến tranh lạnh mà nội
dung chính của nó là cô lập và tiến tới xóa bỏ hệ thống XHCN theo mô hình Xô
Viết. Việc chiếm đóng Nhật Bản sau chiến tranh và giúp Nhật khôi phục và phát
triển kinh tế nằm trong những tình toán chiến lược của nước này. Một mặt Mỹ
muốn chứng tỏ với công luận Nhật Bản và thế giới rằng cuộc chiến tranh đã qua,
sự giúp đỡ đối với Nhật Bản là cần thiết và qua đó nhằm xóa đi hình ảnh không
tốt đẹp của quân đội chiếm đóng. Mặt khác dùng Nhật như một căn cứ tiền tiêu
để răn đe hai siêu cường cộng sản là Liên Xô và Trung Quốc.
Bên cạnh đó, hiệp ước an ninh Nhật – Mỹ là ý định của Mỹ nhằm biến Nhật
thành một bàn đạp cho các lực lượng của Mỹ ở Viễn Đông, lôi kéo Nhật vào liên
minh chống Liên Xô và các nước xã hội chũ nghĩa, gây chiến tranh xâm lược ở
Triều Tiên (1950 – 1953), chống nhân dân hai nước Trung – Triều, đàn áp phong
trào dân chủ đang phát triển mạnh mẽ ở Nhật Bản.
Hơn nữa, việc liên minh với Nhật Bản, đặc biệt là sau sự ra đời của Hiệp ước
phòng thủ giữa hai nước còn là cơ ở pháp lý cho việc có mặt dài hạn của các căn
cứ quân sự Mỹ ở Nhật, đồng thời Mỹ cũng muốn kiểm oát trực tiếp và kiếm chế
khả năng quân sự của Nhật Bãn. Một liên minh quân sự với Nhật cũng là một sự
đảm bảo cho sự có mặt của Mỹ trong khu vực và sự an tâm của Nhật trước các
thách thức lớn như Liên Xô, Trung Quốc hay Triều Tiên.
3. Phía Nhật Bản

Chính sách của Nhật Bản được bắt đầu với “Học thuyết Yoshida” và được cũng
cố phát triển vào những năm 1960 dưới thời các chính phủ Ikeda và Sato bao
gồm ba điểm cốt lõi:
 Trong chiến tranh lạnh, Nhật tự coi mình là một thành viên của phương
Tây, xác định phương châm: “thoát Á, nhập Âu”.
 Dựa vào Mỹ để đảm bảo an ninh quốc phòng, hạn chế đến mức nhỏ nhất
việc xây dựng lực lượng phòng vệ của riêng mình. Nhật hoàn toàn phụ
thuộc vào Mỹ, tranh thủ sự trợ giúp của Mỹ về ann ninh, quốc phòng để
tập trung phát triển kinh tế.
 Coi trọng khôi phục và phát triển kinh tế.
Đặc trung của chính sách ngoại giao kinh tế này là đuổi kịp và vượt các nước
phát triển khác. Tôn chỉ của Nhật trong thời kỳ này là “chỗ ngồi thấp, lợi nhuận

4


cao”. Do đó, thêm một hiệp ước an ninh Mỹ - Nhật dường như đóng vai trò tích
cực cho chiến lược phát triển của Nhật hơn là những tiêu cực nó đưa lại.
Chiến tranh thế giới thứ hai để lại cho Nhật Bản những hậu quả nặng nề (gần 3
triệu người chết và mất tích, kinh tế bị tàn phá, 13 triệu người thất nghiệp, đói
rét…), bị Mỹ chiếm đóng dưới danh nghĩa Đồng minh (1945 – 1952). Trong tình
hình hết sức khó khăn như vậy và thêm sức ép của các nước thắng trận Nhật đã
cam kết đi theo chính sách hòa bình và chỉ duy trì một lực lượng quân sự mang
tính phòng thủ. Theo điều 9 Hiến pháp năm 1947 của Nhật quy định Nhật không
được quyền sở hữu các lực lượng bộ binh, hải quân và không quân, cấm xuất
khẩu vũ khí cũng như không cho phép Nhật giải quyết tranh chấp bằng vũ lực.
Với những hạn chế như thế và trước một nước Nga hùng mạnh với vô số đầu đạn
hạt nhân và một Trung Quốc muốn khẳng định mình thì Nhật không còn cách
nào tốt hơn là hợp tác an ninh với Mỹ, dựa Mỹ và ô dù hạt nhân của Mỹ.
Bên cạnh đó, việc ký hiệp ước với Mỹ sẽ giúp Nhật tiết kiệm được một khoản

chi phí quốc phòng lớn và cho phép Nhật chỉ tập ttrung vào một mối quan tâm
chủ yếu là phát triển kinh tế. Ngoài ra, cũng phải ghi nhận rằng sự phục hồi sau
chiến tranh chưa tạo cho Nhật một vị trí đủ mạnh để mặc cả với Mỹ khi hiệp ước
giữa hai nước được ký kết.
III. NỘI DUNG HỢP TÁC
1. Các nguyên tắc duy trì Liên minh
Hiệp ước hòa bình công nhận Nhật Bản là một quốc gia có chủy quyền, có
quyền tham gia vào các thỏa thuận an ninh tập thể, và hơn nữa, điều lệ của
Liên Hợp Quốc cũng công nhận tất cả các quốc gia có quyền cổ hữu của cá
nhân.
Trong thực hiện các quyền này, Nhật Bản mong muốn, như một sắp xếp tạm
thời cho quốc phòng của mình, rằng Hoa Kỳ sẽ duy trì lực lượng vũ trang của
riêng minh và về Nhật Bản để ngăn chặn cuộc tấn công vũ trang vào Nhật.
Hoa Kỳ cung cấp các lực lượng không quân và lực lượng biển cho Nhật Bản.
Các lực lượng này có thể được sử dụng để góp phần duy trì hòa bình và an
ninh ở vùng Viễn đông và an ninh của Nhật Bản, bao gồm cả những hổ trợ
theo yêu cầu của chính phủ Nhật để chống lại những cuộc bạo loạn và rối
loạn quy mô lớn ở Nhật. (Điều 1)
Trong quá trình thực hiện điều 1, Nhật Bản sẽ không cấp bất kỳ cơ sở của đơn
vị đồn trú hoặc của cơ động, hoặc quá cảnh mặt đất, không khí hay lực lượng
hải quân nào đến bên thứ ba nếu không có sự cho phép của Mỹ.
Hiệp ước này sẽ hết hạn bất cứ khi nào, theo ý kiến của hai chính phủ.
Theo hiệp ước, cả hai bên có nghĩa vụ để duy trì và phát triển năng lực của họ
để chống lại cuộc tấn công vũ trang và để hỗ trợ lẫn nhau trong trường hợp
tấn công vũ trang vào vùng lãnh thổ thuộc quyền quản lý của Nhật Bản, tuy
nhiên, Nhật Bản không thể giúp đỡ Hoa Kỳ vì nó được Hiến pháp quy định về
việc gửi quân vũ trang ra nước ngoài.
Hiệp ước cũng thể hiện sự từ bỏ của người dân Nhật về “mối đe dọa hoặc sử
dụng vũ lực nhưng một phương tiện giải quyết tranh chấp quốc tế”. Điều 6
5



của Hiệp ước quy định về việc đóng quân của lực lượng Hòa Kỳ tại Nhật
Bản, với chi tiết cụ thể về cung cấp cơ sở và các khu vực sử dụng của họ và
chính quyền của công dân Nhật Bản. Biên bản thỏa thuận các điều ước quy
định rằng chính phủ Nhật Bản phải được tư vấn trước khi thay đổi trong việc
triển khai lực lượng Hoa Kỳ tại Nhật Bản hay việc sử dụng các căn cứ Nhật
Bản cho các hoạt động chiến đấu khác trong quốc phòng của Nhật Bản.
Phạm vi của hiệp ước năm 1960 không mở rộng đến quần đảo Kyushu, nhưng
trong trường hợp của một cuộc tấn công vũ trang trên đảo , cả hai chính phủ
sẽ tham khảo ý kiến và có hành động thích hợp.
Năm 1960, Mỹ - Nhật ký hiệp ước an ninh Nhật Bản, với yêu cầu duy nhất là
Nhật phải cung cấp cơ sở trang thiết bị cho quân đội Mỹ đóng quân ở đó.
Hiệp ước ký năm 1960 cho phép quân đội Mỹ đưa vũ khí nguyên tử vào Nhật
Bản mà không cần hỏi ý kiến trước. Hiệp ước này vô hiệu hóa các thỏa thuận
hai nước đã ký trước đó, theo đó, Mỹ phải hỏi ý kiến Nhật Bản trước khi đưa
vũ khí nguyên tử tới nước này.
2. Phạm vi, đối tƣợng và hình thức phối hợp
2.1.Phạm vi đối tƣợng
Hiệp ước này ký kết tại Whasington ngày 19/1/1960, gắn bó hai cựu thù
của Chiến tranh thế giới thứ II trong mối quan hệ đối tác an ninh chiến
lược. Mỹ cam kết bảo vệ Nhật Bản – nước thực thi Hiến pháp hòa bình –
bằng sự hiện diện quân sự dài lâu tại nước này. Mỹ sẽ giúp Nhật đáp trả
các cuộc tấn công vào Nhật Bản – “không chỉ đóng góp vào nền an ninh
của quốc gia mà còn góp phần vào sự ổn định và phát triển của khu vực
Châu Á – Thái Bình Dương”. Theo hiệp ước, khoảng 47.000 binh lính Mỹ
hiện đồn trú tại Nhật Bản, trong đó hơn một nửa số binh lính có mặt tại
miền Nam đảo Okinawa. Lần sửa đổi thứ nhất năm 1960, khu vực mà
hiệp ước an ninh Mỹ - Nhật trực tiếp nhằm vào là vùng Cận Đông với
mục đích ngăn chặn Nga và chủ nghĩa cộng sản.

“Hiệp ước phòng thủ chung” này đã tồn tại tới năm 1978 mà không có
thêm bất cứ sửa đổi bổ sung nào. Từ cuối những năm 70, tình hình quốc tế
có nhiều biến đổi và theo đánh giá của Nhật Bản và Hoa Kỳ, thì sự biến
đổi là bất lợi cho họ. Việc Liên Xô lúc đó chuẩn bị đưa quân vào
Afghanistan đã gây lo ngại cho Nhật Bản và phương Tây. Việc suy giảm
ảnh hưởng của Mỹ ở Đông Nam Á gây ra một cú sốc cho một số đồng
minh của Mỹ ở khu vực này. Trước bối cảnh đó, Nhật Bản và Hoa Kỳ đã
điều chỉnh một bước chiến lược hợp tác an ninh song phương vào cuối
1978. Có thể nói đây là lần điều chỉnh đầu tiên của chương trình hợp tác
phòng thủ Nhật Bản – Hoa Kỳ kể từ khi họ ký kết hiệp ước an ninh 1960.
Lần điều chỉnh thứ hai diễn ra từ giữa những năm 1980. Có thể nói sự
điều chỉnh này chỉ mang tính chất chiến thuật chứ không phải chiến lược.
Bởi vì hầu như không có sửa đổi gì so với lần sửa đổi 1978. Trong lần sửa
đổi năm 1978, “chiến lược hợp tác phòng vệ Nhật Bản” xác định khu vực
phòng thủ của liên minh Nhật bản – Hoa Kỳ là “vùng Viễn Đông”, không
bao gồm Trung Quốc và Nam Triều Tiên. Đây là một bước mở rộng so
6


với hiệp ước an ninh Nhật Bản – Hoa Kỳ ký năm 1960. Hiệp ước này xác
định, khu vực phòng vệ chung Nhật Bản – Hoa Kỳ được giới hạn trong
phạm vi 200 hải lý mà điểm mốc là căn cứ vào ba eo biển của Nhật Bản là
Tsugaru, Tushima và Soya.
Sự điều chỉnh chương trình hợp tác an ninh lần này chỉ mang tính chiến
thuật bởi vì thời kỳ đó Nhật Bản tỏ ra kiên quyết ủng hộ các hành động
quân sự và ngoại giao cứng rắn của Mỹ nhằm chống lại “chủ nghĩa phiêu
lưu” của Liên Xô. Đồng thời Nhật Bản cũng tham gia chương trình “sáng
kiến phòng thủ chiến lược – cuộc chiến tranh giữa các vì sao” do Hoa Kỳ
khởi xướng. Còn nội dung hợp tác an ninh mà hai nước đã thỏa thuận
trước đó không có gì thay đổi.

Trên thực tế, những điều chỉnh chiến lược hợp tác an ninh giữa Nhật Bản
và Hoa Kỳ suốt thời kỳ Chiến tranh Lạnh vẫn thiên về học thuyết lấy
phòng vệ làm “phương châm chỉ đạo” và sẵn sàng đối đáp lại đối phương
nếu nước Nhật bị tấn công.
2.2.Hình thức phối hợp
Có thể thấy hiếm có cơ chế hợp tác ssong phương nào có sự phối hợp toàn
diện như liên minh Mỹ - Nhật. Theo hiệp ước, mỗi chính phủ sẽ hỗ trợ
nhau trong trường hợp bị tấn công, bất cứ bên nào bị tấn công thì bên kia
cũng coi như sự tấn công đó nhằm vào quốc gia mình. Chính phủ Nhật có
những điều khoản hỗ trợ trang thiết bị, máy móc phương tiện cho sự hoạt
động để đảm bảo an nin của quân đội Mỹ tại Nhật. Có thể thấy, có tới
75% chi phí quân sự của Mỹ trên đất Nhật do nước chủ nhà cung cấp.
Chương trình viện trợ quân sự đã cung cấp cho việc mua lại của Nhật Bản
vốn, trang thiết bị và các dịch vụ thiết yếu cho quốc phòng của quốc gia.
Mặc dù Nhật Bản không còn nhận được viện trợ từ Hoa Kỳ, những năm
1960, thỏa thuận tiếp tục phục vụ như là cơ sở để mua và cấp giấy phép
thỏa thuận đảm bảo khả năng chuyển giao công nghệ quốc phòng của hai
quốc gia như vũ khí, việc phát hành các dữ liệu đã được phân loại vào
Nhật Bản, bao gồm cả tình báo quốc tế báo cáo và thông tin kỹ thuật phân
loại.
3. So sánh liên minh Mỹ - Nhật và liên minh Mỹ - Hàn
3.1.Liên minh Mỹ - Nhật và Mỹ - Hàn: vành đai an ninh ở khu vực Châu
Á của Mỹ
Về cơ bản, cơ sở hình thành hai liên minh này là đều hình thành dựa trên
lợi ích của Mỹ lúc bấy giờ là ngăn chặn sự lan rộng của chủ nghĩa Cộng
sản bằng việc viện trợ để tìm kiếm đồng minh tại Châu Á, duy trì các lực
lượng quân đội cần thiết tại các điểm nóng: Triều Tiên hay Đông Nam Á.
Ngược lại, cả Nhật Bản và Hàn Quốc đêu muốn tận dụng Chiến tranh
Lạnh làm thời cơ để tái thiết đất nước sau cuộc chiến tranh thế giới thứ hai
mà Nhật là nước bại trận và cuộc chiến tranh Triều Tiên sau khi Hàn

Quốc đã bị chiến tranh tàn phá nặng nề.
Ngoài ra, bản chất của liên minh đều có tính một chiều, do Mỹ lãnh đạo,
còn Hàn Quốc và Nhật Bản là hai quốc gia bị động về cính trị và quân sự.
7


Sau khi Mỹ ký với Nhật Bản và Hàn Quốc hai hiệp ước về an ninh, Mỹ
đều duy trì sự có mặt về quân sự và ảnh hưởng của mình tại hai quốc gia
này nhằm hạn chế khả năng quân sự của hai nước cũng như duy trì chúng
trong vòng cương tỏa mà Mỹ có thể kiểm soát được. Nhờ đó, Mỹ biến
Hàn Quốc và Nhật Bản trở thành hai thành trì vững chắc nhất chống lại sự
lan rộng ảnh hưởng của Chủ nghĩa Cộng sản tại Châu Á.
Cũng giống Hiệp ước Mỹ - Nhật, liên minh Mỹ - Hàn nằm trong chiến
lược xây dựng đồng minh của Mỹ tại khu vực Châu Á – Thái Bình Dương
trong giai đoạn đầu Chiến Tranh Lạnh. Được ký tại Whasington ngày
1/10/1953, và có hiệu lực ngày 17/11/1954. Theo đó, Mỹ nhận trách
nhiệm bảo vệ Hàn Quốc. Hiệp ước phòng thủ song phương là một thể chế
pháp lý cho phép lực lượng quân đội Mỹ đồn trú tại Hàn Quốc giúp Hàn
Quốc ngăn chặn cuộc chiến trên bán đảo Triều Tiên, đe dọa tới an ninh
nước này và đồng thời là cơ sở pháp lý để hình thành hệ thống Liên kết
phòng thủ. Các bên liên quan sẽ tham khảo ý kiến của nhau và hỗ trợ quân
sự bất cứ khi nào họ thấy có nguy cơ đe dọa tới an ninh của họ. Hai bên sẽ
duy trì và phát triển các phương tiện thích hợp để ngăn chặn cuộc tấn
công vũ trang đó. Bất cứ một cuộc tấn công vũ trang nào tại khu vực Châu
Á – Thái Bình Dương vào khu vực kiểm soát của hai bên, có thể gây nguy
hiểm cho an ninh quốc gia và khu vực, hai bên cam kết sẽ cùng hành động
để đáp trả những mối nguy hiểm đó. Theo đó, không có bên nào bị bắt
buộc phải trợ cấp quân sự cho bên kia, và Mỹ cũng không được hiểu là
phải đáp ứng mọi đòi hỏi trợ giúp quân sự từ phía Hàn Quốc trừ khi Mỹ
nhận thấy có nguy cơ bên ngoài tấn công tới lãnh thổ Hàn Quốc.

Nếu xét về đối tượng và hình thức phối hợp, cả hai Hiệp ước duy trì liên
minh có điểm giống nhau là đều bỏ ngỏ và tương đối không rõ ràng về đối
tượng và địa bàn hoạt động.
Có thể thấy rằng cả hai Liên minh đều có mục đích ra đời tương đới giống
nhau, cơ sở hình thành cũng như vai trò có những nét tương đồng, đều là
những cơ chế hợp tác an ninh ra đời và bị chi phối mạnh mẽ của cuộc
Chiến tranh Lạnh, những liên minh có phần thiên về sự bảo trợ quân sự
của Mỹ. Tuy nhiên, vì sự khác biệt về đặc điểm các quốc gia và ý đồ riêng
của Hàn Quốc, Nhật Bản và Mỹ nên mỗi cơ chết hợp tác lại thể hiện theo
các hình thức phối hợp, vận hành và cách thức duy trì Liên minh theo các
cách riêng của nó.
3.2.Khác biệt trong xu hƣớng phát triển
Sau khi Mỹ với Nhật ký hiệp ước an ninh, Nhật Bản gần như hoàn toàn
độc lập với Mỹ về chính trị và kinh tế. Theo một số tài liệu, thậm chí Mỹ
còn không để tâm đến việc xóa bỏ chủ nghĩa quân chủ tại Nhật nhằm thực
hiện các cải cách xã hội tiến bộ. Do đó, liên minh Mỹ - Nhật chủ yếu là
liên minh về quân sự để tạo điều kiện cho Mỹ có quân đội đóng chiếm tại
Nhật.
Ngược lại, liên minh với Hàn Quốc lại làm thay đổi hoàn toàn bộ mặt
chính trị - quân sự - kinh tế nước này. Sau khi Mỹ ký kết hiệp ước với
8


Hàn Quốc, nước này đã có những cuộc cải cách đất nước sâu rộng nhằm
thực thi một nền dân chủ mới mang đậm nét phương Tây. Cũng nhờ có sự
hiện diện của Mỹ mà Hàn Quốc có một nên quân sự dần dần hiện đại hòa.
Văn hóa nước này cũng chịu ảnh hưởng nhiều từ văn hóa Mỹ. Do đó, liên
minh Mỹ - Hàn có tính sâu sắc và phát triển rộng trên nhiều lĩnh vực,
không giới hạn về an ninh như Nhật.
Bên cạnh đó, cũng có một điểm khác nhau trong tư duy về mối quan hệ

của Mỹ. Gần như trong mối quan hệ với Nhật, Mỹ luôn tìm cách kiểm
chế Nhật ở mức độ cao nhất vì lo sợ Chủ nghĩa quân phiệt Nhật một khi
nó trỗi dây, sẽ có một sử chuyển biến từ sức mạnh kinh tế sang sức mạnh
quân sự. Còn với Hàn Quốc, nỗi lo tương tự như thế gần như không xuất
hiện. Nhìn chung, sự kiềm chế Hàn Quốc của Mỹ trong lĩnh vực kinh tế
và quân sự không lớn như Nhật Bản. Bằng chứng là trong những năm 50,
viện trợ kinh tế của Mỹ cho Hàn Quốc còn cao hơn cho bất kỳ nước nào
tại Châu Âu và Hàn Quốc được quyền duy trì quân đội riêng biệt với tiềm
lực mạnh.
Từ những nguyên tắc duy trì Liên minh Mỹ - Hàn, có thể thấy rằng, liên
minh Mỹ - Nhật có cách xác định lực lượng quân đồn trú trong hiệp ước
rõ ràng hơn và cách phối hợp cũng toàn diện hơn. Cơ chế hợp tác trong
Liên minh Mỹ - Nhật đưa ra chi tiết và mạch lạc hơn, phần lớn giải cho
điều này là sự phụ thuộc của Nhật Bản bởi các vấn đề của lịch sử, cũng
như nghĩa vụ, vai trò và trách nhiệm của Mỹ với Nhật Bản.
Tuy nhiên, chính sự gắn kết và ràng buộc an ninh theo tính chất cho –
nhận giữa Mỹ và Nhật –cả hai quốc gia đều có những quan điểm và vấn
đề an ninh tồn tại riêng biệt và cá nhân mà làm cho liên minh này gặp
nhiều vấn đề. Khi sự sống còn của một quốc gia đặt troong tay một quốc
gia khác thì vấn đề trở nên phức tạp hơn, tuy nhiên, liên minh Mỹ - Nhật
trong Chiến tranh Lạnh cũng có thể thấy là một sự kết hợp tương đối gắn
kết.
IV. TÁC ĐỘNG CỦA LIÊN MINH AN NINH MỸ - NHẬT
1. Tác động đến quan hệ giữa các nƣớc lớn trong khu vực Châu Á – Thái
Bình Dƣơng
1.1.Quan hệ Mỹ - Xô – Nhật: Sự đối đầu hệ tƣ tƣởng căng thẳng và
những vấn đề lãnh thổ chƣa đƣợc giải quyết
Ngay sau khi bước ra khỏi cuộc chiến, mối quan hệ đồng minh mỏng
manh Mỹ - Xô dường như bật tung với những đối đầu về hệ tư tưởng và
tranh giành ảnh hưởng lan rộng ra bình diện toàn cầu. Sự cân bằng đàng

sợ và chạy đua vũ trang giữa Mỹ và Liên Xô đã bùng lên mạnh mẽ và
Liên minh Mỹ - Nhật cũng góp phần thổi bùng lên ngọn lửa ấy ở Châu Á
cũng như cục diện Chiến tranh Lạnh, cũng như sự đe dọa Mỹ bao trùm
ảnh hưởng lên khu vực. Việc chuyển Chiến tranh Lạnh sang khu vực
Châu Á làm cho Liên Xô không khỏi e ngại, và phải tìm cách để tăng
cường sức mạnh ra Châu Á bằng sự hỗ trợ cho Triều Tiên và ủng hộ
9


phong trào đấu tranh ở Đông Nam Á. Hiệp ước an ninh Mỹ - Nhật 1960
với những cam kết về hỗ trợ vũ khí hạt nhân cho phòng vệ Nhật Bản
khiến cho căng thẳng leo thang và chạy đua vũ trang bùng nổ mạnh mẽ
giữa Xô – Mỹ.
Rõ ràng, sự xuất hiện và tồn tại của Hiệp ước đã tác động mạnh mẽ tới
quan hệ Xô – Mỹ. Đó không chỉ là bằng chứng cho một căn cứ quân sự
nhắm thẳng vào Liên Xô mà còn làm cho mối quan hệ Xô – Nhật trở nên
đối đầu và tranh chấp đảo ở phía Bắc khó giải quyết hơn. Với hiệp ước ký
kết với Mỹ, Nhật Bản chính thức tuyên bố đồi đầu trực diện với Liên Xô
trong vai trò đồng minh của Mỹ.
Như vậy, sau khi Tổng thống Mỹ Roosevelt qua đời, thì Tổng thống
Truman lên kế nhiệm và thực thi đường lối cứng rắn khác hẳn với đường
lối mà người tiền nhiệm của ông đã làm.
Như vậy, có thể khẳng định, việc ký với Nhật một hiệp ước có nhiều
thuận lợi cho Mỹ tại khu vực này rõ ràng là hành động khai chiến, góp
phần khẳng định chính sách chuyển từ hợp tác sang đối đầu của Mỹ với
Liên Xô. Quan hệ hai bên ngày càng căng thẳng. Liên minh Mỹ - Nhật
tuyên chiến với các giá trị của Liên Xô ở Châu Á và thể hiện sự kiếm chế
ảnh hưởng của chủ nghĩa Cộng sản do Liên Xô đứng đầu.
Trong khuôn khổ Chiến tranh Lạnh, mọi liên minh quân sự giữa hai phe
luôn nhằm thẳng vào việc tập hợp lực lượng để kìm hãm, lật đổ đối

phương. Và việc Mỹ kỳ kết với Nhật một hiệp ước như thế đã ngay lập
tức làm cho Liên Xô phải xem xét lại chính sách của mình theo hướng gia
tăng đối đầu với Mỹ và Tây Âu, trong đó có việc tích cực viện trợ hơn
nữa cho các nước đồng minh tại Châu Á – Thái Bình Dương nhằm tạo thế
cân bằng trước Hoa Kỳ và Tây Âu. Đỉnh cao là vào năm 1955, khối Hiệp
ước Warsaw ra đời, là liên minh quân sự quan trọng hàng đầu của Liên
Xô nhằm đối kháng trực tiếp với NATO của Hoa Kỳ.
Như thế, có thể khẳng định rằng, sự kiện Mỹ - Nhật ký kết với nhau một
hiệp ước an ninh đã góp phần làm gia tăng căng thẳng giữa hai phe, thúc
đẩy chi1h sách đối đầu được thực thi một cách thường xuyên hơn giữa Xô
– Mỹ tại khu vực Châu Á , sau đó là Trung Đông và Mỹ Latin.
1.2.Quan hệ Trung – Mỹ
Sau sự kiện tháng 10/1949, nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa chính
thức ra đời, đánh dấu một bước thắng lợi quan trọng cho phe Cộng sản.
Mà theo cuộc tiếp xúc bí mật giữa Stalin và Mao Trạch Đông vào năm
1949, hai bên nhận định rằng “Tình thế cách mạng” đã xuất hiện. Tiếp
theo đó, dưới sự dẫn dắt của Mao Trạch Đông, Trung Quốc tiến hành rầm
rộ công cuộc xây dựng Chủ nghĩa xã hội với những giá trị và cách thức
riêng của người Trung Hoa như Mai vẫn tuyên truyền. Chính sách của
Trung Quốc lúc bấy giờ là tích cực ủng hộ phong trào Cộng sản, cũng như
chống Chủ nghĩa Thực dân và Đế quốc của các dân tộc thuộc địa. Do đó,
sự hiện diện về mặt quân sự của Mỹ tại Châu Á ngay sau khi Hiệp ước an
ninh Mỹ - Nhật ra đời như một đòn bẩy đẩy Trung Quốc xích lại gần Liên
10


Xô. Hơn thế, do vị trí của Nhật ngay sát Trung Quốc, do đó, sau khi Hiệp
ước ra đời trao cho Mỹ những quyền hạn đặc biệt về quân sự Nhật Bản và
những vùng lân cận, Trung Quốc không thể không lo ngại một sự gia tăng
quá mức nào đó ảnh hưởng của quân đội Mỹ tại dây sẽ đe dọa an ninh của

bản thân Trung Quốc. Bởi thế, người Trung Quốc nghĩ ngay đến Liên Xô
để đẩy lùi mối họa chung.
Liên minh Mỹ - Nhật tái khẳng định năm 1960, khiến cho Trung Quốc
không khỏi suy nghĩ tính toán, mặc dù không cho rằng, Liên minh này
đang nhắm trực tiếp vào mình nhưng Trung Quốc cũng không khỏi e ngại
với vấn đề Đài Loan, vùng lãnh thổ mà Trung Quốc đang phản đối mạnh
mẽ ảnh hưởng của Mỹ. Trung Quốc đã phải lựa chọn con đường tự lực gia
tăng ảnh hưởng của mình tại khu vực và chọn con đường “Chống Mỹ,
chống Xô”.
Mặc dù vậy, đối với Trung Quốc, hiệp ước an ninh Mỹ - Nhật trong Chiến
tranh Lạnh cũng có tác động tích cực tới tính toán chiến lược của mình,
đặc biệt là trong việc hạn chế tầm ảnh hưởng của Liên Xô và kiểm chế
Nhật Bản. Mục đích của một Liên minh quân sự của Mỹ ở Đông Bắc Á
trong Chiến tranh Lạnh là hướng trực tiếp tới việc ngăn chặn Liên Xô và
chủ nghĩa cộng sản. Những bất đồng Xô – Trung khiến Trung Quốc chấp
nhận Liên minh này chứ không phải là những phản ứng quyết liệt, Dù sức
mạnh của Mỹ vượt xa Nhật Bản, nhưng Trung Quốc vẫn coi liên minh
này góp phần cho sự ổn định của khu vực, vì họ sợ Nhật Bản hơn Mỹ, sợ
một chủ nghĩa quân phiệt mới nếu Nhật Bản có khả năng quân sự. Một
Liên minh Mỹ - Nhật về quân sự trong Chiến tranh Lạnh là dấu mốc cho
những tính toán lợi ích chiến lược của Trung Quốc để đảm bảo an ninh và
sự phát triển của mình tại khu vực.
2. Tác động đến cục diện chiến tranh lạnh
2.1.Hợp tác an ninh Mỹ - Nhật là chất xúc tác cho Chiến tranh Lạnh lan
rộng nhanh chóng từ Âu sang Á.
Nếu giai đoạn từ 1945 – 1949 được xem là giai đoạn cuộc chiến tranh
diễn ra chủ yếu tại Châu Âu thì trong những năm 50, Chiến tranh Lạnh
được xem là đã lan ra và chủ yếu diễn ra tại Châu Á cũng như Châu Phi
và Mỹ Latin mà tiêu biểu là hai cuộc chiến tranh nóng Triều Tiên và Việt
Nam. Vào năm 1950, cộng đồng thế giới khắc phục những hậu quả của

cuộc Chiến tranh thế giới lần thứ II, thì ở một nơi xa xôi của Châu Á,
Chiến tranh Lạnh bất ngờ trở nên nóng bỏng – các nước Hoa Kỳ, Nhật
Bản và đồng minh, rồi cả Liên Xô, Bắc Triều Tiên và cả Trung Quốc cũng
bị kéo vào cuộc chiến.
Việc ký kết hiệp ước an ninh Mỹ - Nhật làm tăng thêm nghi kỵ vốn có
trong quan hệ giữa các nước lớn trong nền chính trị quốc tế ở Châu Á –
Thái Bình Dương. Căng thẳng leo thang tại khu vực khi các lực lượng
quân sự Mỹ chính thực lập căn cứ tại Nhật Bản với danh nghĩa bảo vệ
đồng minh và sẵn sàng can thiệp vào những khu vực nhạy cảm nhằm ngăn
chặn làn sóng đỏ, và hỗ trỡ cho khối NATO khi cần thiết.
11


Để đáp lại những khối quân sự do Mỹ lập nên như SEATO (9/1954),
ANZUS (1951) và đặc biệt Hiệp ước an ninh Mỹ - Nhật với việc thiết lập
hơn 60.000 quân tại nước này với hàng ngàn căn cứ quân sự, với trang bị
vũ khí hiện đại có thể ngay lập tức tiến tới các khu vực quan trọng thiết
yếu với cả hai bên. Liên Xô cũng tiến hành đưa hàng ngàn quân ở Mông
Cổ vào biên giới Xô – Trung để tạo thế cân bằng trước những đe dọa của
Mỹ. Chiến tranh Lạnh tại khu vực leo thang khiến cho cục diện Châu Á
trở nên căng thẳng khó lường. Bất cứ một hành động quân sự nào cũng trở
thành xung đột vũ trang trên diện rộng và đòi hỏi những phản ứng quân sự
nhanh và quyết liệt. Vì vậy, liên minh Mỹ - Nhật đóng vai trò thiết yếu
nhằm đạt được mục tiêu của Mỹ, nhưng cũng gây ra một loạt các phản
ứng dây chuyền làm cho tình hình khu vực trở nên căng thẳng hơn.
Hiệp ước an ninh Mỹ - Nhật cũng khiến cho vấn đề Triều Tiên trở nên
khó khăn hơn. Tháng 6/1950, cuộc chiến tranh Triều Tiên bùng nổ, một
bên là quân đội Mỹ, các nước đồng minh của Mỹ với một bên là quân đội
Cộng hòa dân chủ nhân dân Triều Tiên, quân chí nguyện Trung Quốc với
sự hậu thuẫn về mọi mặt của Liên Xô. Các lực lượng quân sự ở Nhật Bản

sau hiệp ước an ninh 1951 là hành động thúc đẩy chiến tranh Triều Tiên
và tuyên bố sự tham chiến quân sự của Mỹ chống lại ảnh hưởng của cộng
sản ở điểm nóng này. Cuộc chiến ở Triều Tiên bùng lên mạnh mẽ với đối
đầu quân sự trực tiếp chứ không còn trên phạm vi chạy đua quân sự, tình
hình khu vực xấu đi và khó giải quyết.
Tháng 2/1950, ngoại trưởng Mỹ Acheson đã đọc diễn văn tại câu lạc bộ
tin tức trong toàn quốc ở Whasington và chỉ ra rằng hai quần đảo
Alecatainnes – Nhật Bản – quần đảo Kyushu à “tuyến phòng ngự” của Mỹ
ở Đông Bắc Á. Đây là một căn cứ xua đi nỗi hoài nghi của Stalin lo sợ
việc Mỹ đưa quân đến can thiệp Triều Tiên. Stalin hoàn toàn không muốn
xảy ra xung đột quân sự trực tiếp với Mỹ. Như vậy, việc ngoại trưởng Mỹ
khẳng định như vậy đã loại trừ Triều Tiên ra khỏi tuyến phòng ngự của
mình và từ đó tính toán rằng Mỹ không có khả năng đưa quân can thiệp
vào Triều Tiên. Điều này vô tình khiến nguyện vọng của Stalin về một
Triều Tiên thống nhất theo mô hình miền Bắc lại càng mãnh liệt. Suy
đoán về “tuyến phòng ngự” của Mỹ cũng là một nguyên nhân khiến chiến
tranh Triều Tiên bùng nổ nhanh chóng mà sau này cũng nhanh chóng
bùng nổ thành một cuộc chiến mang tính quốc tế.
Sự bùng nổ chiế tranh Triều Tiên mà diễn biến của nó chính là cục diện
Chiến tranh Lạnh có quan hệ mật thiết với việc đánh giá không chuẩn xác
về “tuyến phòng ngự” của hai bên.
Sau khi chiến tranh Triều Tiên bùng nổ, để ngăn chặn cái gọi là “sự bành
trường của chủ nghĩa Cộng sản”, Mỹ bắt đầu lao vào những cuộc chiến
tranh ở Châu Á – Thái Bình Dương. Trong thời gian này, Mỹ ký hòa ước
với Nhật (1951) và dành quyền đóng quân trên đất Nhật. Đây được coi là
một hành động công khai của Mỹ muốn tham chiến và mở rộng ảnh
hưởng của mình ở khu vực này. Theo hiệp ước đã ký, Mỹ sẽ tham gia giải
12



quyết các vấn để liên quan đến việc bất kỳ khi nào có một sự đe dọa đến
an ninh Nhật Bản hoặc hòa bình an ninh ở khu vực Viễn Đông (Điều IV,
điều V). Phát xít Nhật bước ra từ cuộc chiến tranh thế giới thứ II đã từng
được coi là kẻ thù của Chủ nghĩa Cộng sản, việc Mỹ và Nhật bắt tay nhau
thực sự gây ra những mâu thuẫn ý thức hệ ngày càng sâu sắc trong mối
quan hệ giữa các nước lớn. Cục diện phân liệt trên bán đảo Triều Tiên là
kết quả của việc Liên Xô - Mỹ tạm phân chia thế lực ở khu vực này cũng
như phản ảnh tình hình so sánh lực lượng của hai siêu cường ở Đông Bắc
Á. Vì thế, bất kỳ một động thái nhỏ nào cũng có khả năng dẫn đến đối
kháng xung đột Đông – Tây nghiêm trọng. Vì thế, sự lôi kéo Nhật Bản
vào chiến tranh Triều Tiên cũng như những phản ứng gay gắt của chính
quyề Truman điều quân từ các căn cứ quân sự tại Nhật Bản và tham gia
trực tiếp chính trường Triều Tiên đã khiến cho cuộc chiến tranh Triều
Tiên từ một cuộc nội chiến trở thành một cuộc giao tranh quân sự nghiêm
trọng Đông – Tây.
Với những diễn biến như vậy, Trung Quốc cũng sớm bị lôi kéo vào cuộc
chiến này. Ngày 18/10/1950 Trung Quốc gửi quân chí nguyện vào Triều
Tiên tham chiến, ủng hộ cuộc đấu tranh cứu nước của nhân dân Triều
Tiên dưới sự lãnh đạo của Kim Nhật Thành. Sự hợp tác giữa ba nước
Trung – Triều – Xô đã thể hiện tinh thần quốc tế của Chủ nghĩa Cộng sản,
càng khiến đối đầu Xô – Mỹ trở nên gay gắt.
Như vậy, rõ ràng trong thời kỳ Chiến tranh Lạnh, dù cố ý hay không, Nhật
Bản cũng trở thành một tuyến phòng thủ đắc lực cho Mỹ trong cuộc chạy
đưa quân sự hóa, khiến Chiến tranh Lạnh tiến vào một giai đoạn hết sức
căng thẳng và ác liệt.
Hợp tác an ninh Mỹ - Nhật dù ít nhiều góp phần đưa xô – Mỹ đến bờ vực
chiến tranh, khiến cho cục diện Chiến tranh Lạnh “nóng” hơn bao giờ hết.
2.2.Hợp tác an ninh Mỹ - Nhật góp phần kiềm chế lẫn nhau giữa các
nƣớc lớn tại khu vực
Theo thuyết Domino, nếu Mỹ không nhảy vào các cuộc xung đột khu vực

như Việt Nam, Triều Tiên hay Afghanistan thì có thể Đảng cộng sản Liên
Xô (đang thắng thế sau thế chiến II) và Trung Quốc sẽ bành trướng ra
Đông Nam Á bao gồm Indonesia, Thái Lan thậm chí là cả Ấn Độ. Một số
người còn cho rằng nếu Mỹ không có hành động cứng rắn ở Đông Dương
thì Liên Xô sẽ dám lao vào cơn nguy hiểm để mở rộng ảnh hưởng khắp
nơi trên thế giới, đặc biệt là Trung Đông. Như vậy, theo một tư duy cố
định của học thuyết Domino có thể hiểu được tại sao Mỹ tích cực lôi kéo
đồng minh Nhật Bản như một trong những đồng minh quan trọng nhất
khu vực này đến như vậy. Khu vực Đông Bắc Á đã phản ảnh tình hình so
sánh lực lượng của hai siêu cường khi cả hai đều muốn lôi kéo đồng minh
và tạo ảnh hưởng. Một đặc điểm rõ ràng trong đối kháng Đông Tây trong
Chiến tranh Lạnh đó là: Hai cường quốc dù trực tiếp hay gián tiếp tham
gia các cuộc chiến nhưng đều muốn tránh xảy ra đối kháng quân sự trực
tiếp.
13


Tiếp theo phải tính đến nhân tố Trung Quốc với sự đánh dấu sự ra đời của
Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa (10/1949) phần nào cũng báo hiệu sự lớn
mạnh của Trung Quốc trong khu vực. Chiến tranh Trung – Nhật trong Thế
chiến II (1937 - 1945) vẫn để lại những dư âm không tốt trong mối quan
hệ Trung – Nhật. Sự bắt tay Mỹ - Nhật rõ ràng là một diễn biến không có
lợi cho Trung Quốc. Tuy nhiên chính điều này lại kiểm chế Trung Quốc ở
một mức độ nào đó, làm giảm mối lo ngại của Mỹ đối với Trung Quốc và
nhìn chung đó lại là một sự kiếm chế lẫn nhau giữa các cường quốc trong
Chiến tranh Lạnh. Các nước đều có thể lường trước được những hậu quả
vô cùng khủng khiếp khi cuộc chiến quân sự mà có thể là cuộc chiến hạt
nhân xảy ra. Điều này rõ ràng không những không có lợi cho bất kỳ ai mà
nếu xảy ra lại có tác động đến hầu hết tất cả các quốc gia liên quan. Một
lần nữa, điều này lại khiến các nhà lãnh đạo suy nghĩ lại.

Sự lôi kéo đồng minh này vô hình chung lại chính là tư duy logic trong
Chiến tranh Lạnh, khiến cân bằng lực lượng, kiểm chế sự đối kháng trực
tiếp. Như vậy, có thể thấy rõ ràng, tuy việc Mỹ - Nhật bắt tay nhau trong
Chiến tranh Lạnh đã có những ảnh hưởng không nhỏ đến tư duy các nước
lớn, khiến mâu thuẫn ý thức hệ càng trở nên sâu sắc hơn. Từ đó, tạo thành
nhân tố thúc đẩy Chiến tranh Lạnh đi đến giai đoạn xung đột gay gắt và
mạnh mẽ hơn, Tuy nhiên, hợp tác an ninh giữa Mỹ và Nhật Bản giai đoạn
này lại tạo nên thế kiềm chế lẫn nhau giữa các nước lớn trong cục diện
Chiến tranh Lạnh tại khu vực Châu Á – Thái Bình Dương.

14


CÁC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Trƣơng Tiểu Minh, Chiến tranh Lạnh và di sản của nó, NXB Chính
trị Quốc gia, 2003
2. Hiệp ƣớc an ninh Mỹ - Nhật (B ản tiếng Anh)
3. Tạp chí nghiên cứu Quốc tế
4. Các website trên mạng

15



×