Tải bản đầy đủ (.doc) (11 trang)

Tổng quan nội dung lớn sửa đổi BỘ luật TTHS

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (129.01 KB, 11 trang )

Những nội dung lớn sửa đổi, bổ sung trong Bộ luật TTHS năm 2015
(Sưu tầm)
Bộ luật Tố tụng hình sự (BLTTHS) năm 2015 được Quốc hội khóa XIII,
Kỳ họp thứ 10 thông qua ngày 27/11/2015, có hiệu lực từ ngày 01/7/2016. Bộ
luật gồm 510 điều, được bố cục thành 9 phần, 36 chương, trong đó, bổ sung mới
176 điều, sửa đổi 317 điều, giữ nguyên 17 điều, bãi bỏ 26 điều. Đây là đạo luật
quan trọng do Viện kiểm sát nhân dân tối cao được giao chủ trì soạn thảo, liên
quan trực tiếp đến công cuộc đấu tranh chống tội phạm, đến các quyền cơ bản
nhất của con người, của công dân, do đó yêu cầu đặt ra được quán triệt trong
suốt quá trình soạn thảo là phải thể chế hóa đầy đủ, sâu sắc chủ trương cải cách
tư pháp của Đảng, Hiến pháp năm 2013, phải thực sự công tâm, khách quan, vì
cuộc sống bình yên của nhân dân, vì những giá trị văn minh, tiến bộ của nền tư
pháp. Mọi ý kiến tâm huyết, trách nhiệm của các tầng lớp nhân dân, các đại biểu
Quốc hội, các cơ quan, các chuyên gia, các nhà khoa học, các nhà hoạt động
thực tiễn đã được tiếp thu, thể hiện đầy đủ trong Bộ luật này. Bộ luật Tố tụng
hình sự đã được Quốc hội thông qua với sự đồng thuận rất cao (trong tổng số
86% đại biểu Quốc hội tham gia biểu quyết, có 85,63% đại biểu biểu quyết tán
thành).
I. MỤC TIÊU, QUAN ĐIỂM CHỈ ĐẠO SỬA ĐỔI, BỔ SUNG BỘ
LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ
Xác định mục tiêu xây dựng BLTTHS thực sự khoa học, tiến bộ và có
tính khả thi cao; là công cụ pháp lý sắc bén để đấu tranh hữu hiệu với mọi tội
phạm, tháo gỡ những vướng mắc, bất cập trong thực tiễn; tăng cường trách
nhiệm của các cơ quan tố tụng trong việc tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm quyền con
người, quyền công dân đã được Hiến định.
Quan điểm chỉ đạo:
Thứ nhất, thể chế hóa đầy đủ các chủ trương cải cách tư pháp của Đảng và
Hiến pháp năm 2013, bảo đảm mọi hành vi phạm tội đều phải được phát hiện và
xử lý nghiêm minh, chính xác, kịp thời, chống bỏ lọt tội phạm, chống làm oan
người vô tội.
Thứ hai, tăng cường hơn nữa trách nhiệm của các cơ quan tố tụng trong


việc bảo vệ quyền con người, quyền công dân; cụ thể hóa các trình tự, thủ tục tố
tụng, xác định đầy đủ quyền và trách nhiệm luật định, hạn chế tối đa các quy
định chung chung, phải chờ văn bản hướng dẫn thi hành.
Thứ ba, trên cơ sở tổng kết thực tiễn, BLTTHS tiếp tục kế thừa những quy
định còn phù hợp, khắc phục căn bản những vướng mắc, bất cập đặt ra.
Thứ tư, khẳng định tiếp tục duy trì và phát huy những ưu điểm của mô
hình tố tụng thẩm vấn; đồng thời, tham khảo kinh nghiệm quốc tế, tiếp thu có
chọn lọc những hạt nhân hợp lý của mô hình tố tụng tranh tụng, phù hợp với
điều kiện cụ thể của Việt Nam, bảo đảm nguyên tắc tranh tụng trong xét xử.


Thứ năm, bảo đảm thống nhất với các luật mới được Quốc hội ban hành;
nắm bắt các định hướng lớn trong các dự án luật liên quan đang được soạn thảo;
nội luật hóa các điều ước quốc tế liên quan đến tố tụng hình sự mà Việt Nam là
thành viên.
II. NHỮNG NỘI DUNG LỚN SỬA ĐỔI, BỔ SUNG BỘ LUẬT TỐ
TỤNG HÌNH SỰ
1. Phân định mạch lạc, chính xác các giai đoạn tố tụng
Quá trình giải quyết vụ án hình sự phải trải qua nhiều giai đoạn. Mỗi giai
đoạn có những nhiệm vụ riêng với những chủ thể tương ứng; quyền và nghĩa vụ
của các chủ thể cũng khác nhau qua mỗi giai đoạn. Đánh dấu sự bắt đầu và kết
thúc của mỗi giai đoạn là các văn bản tố tụng chuyên biệt gắn với giai đoạn đó
(ví dụ: Giai đoạn khởi tố kết thúc khi có quyết định khởi tố vụ án hoặc không
khởi tố vụ án; giai đoạn điều tra kết thúc khi ban hành kết luận điều tra…). Phân
định chính xác, mạch lạc các giai đoạn tố tụng có ý nghĩa quan trọng, là cơ sở để
quy định đầy đủ quyền, nghĩa vụ, trình tự, thủ tục, thời hạn nhằm thực hiện hiệu
quả mục tiêu, yêu cầu của tố tụng hình sự.
Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 quy định thủ tục khởi tố, điều tra, truy
tố chung trong một phần (Phần thứ Hai) và chỉ có 04 điều luật dành cho giai
đoạn truy tố được đặt ở cuối cùng. Cách thiết kế cũng như số lượng điều luật

như vậy chưa phù hợp với yêu cầu của một giai đoạn của tố tụng. Đồng thời, Bộ
luật bố trí trình tự xét xử sơ thẩm, xét xử phúc thẩm, giám đốc thẩm và tái thẩm
thành 03 phần độc lập (Phần thứ Ba, Phần thứ Tư và Phần thứ Sáu). Quá trình
áp dụng BLTTHS năm 2003 có ý kiến cho rằng, với kết cấu của Bộ luật như vậy
có thể hiểu mỗi trình tự xét xử là một giai đoạn tố tụng. Thi hành án mặc dù
được quy định là một phần trong Bộ luật nhưng luôn là vấn đề gây tranh luận
trong thực tiễn áp dụng. Quá trình thi hành và sửa đổi Bộ luật, nhiều chuyên gia,
nhà khoa học, nhà thực tiễn đề nghị cân nhắc có nên coi thi hành án là một giai
đoạn của tố tụng hình sự hay không.
Nhằm bảo đảm tính khoa học trong phân chia các giai đoạn tố tụng, khắc
phục những hạn chế trong kỹ thuật lập pháp của BLTTHS hiện hành(1),
BLTTHS năm 2015 xác định tố tụng hình sự có 05 giai đoạn: Khởi tố; điều tra;
truy tố; xét xử; thi hành án. Trên cơ sở đó, đã điều chỉnh khung kết cấu của
BLTTHS. Thứ nhất, tách truy tố thành một phần độc lập với 02 chương quy
định đầy đủ nội dung của giai đoạn tố tụng quan trọng này (Phần thứ Ba). Thứ
hai, bố cục thủ tục xét xử sơ thẩm và xét xử phúc thẩm điều chỉnh chung trong
một phần (Phần thứ Tư). Cách thiết kế này ngoài việc phản ánh chính xác
nguyên tắc hai cấp xét xử, còn tạo cơ sở để loại bỏ những quy định trùng lắp,
không nhất thiết phải quy định lặp đi lặp lại ở cả sơ thẩm và phúc thẩm. Thứ ba,
tiếp tục khẳng định thi hành án là một giai đoạn của tố tụng hình sự; đây là giai
đoạn quan trọng, có ý nghĩa đưa kết quả của toàn bộ quá trình tố tụng thực thi
trên thực tế, do đó cần phải tiếp tục điều chỉnh (Phần thứ Năm).
2. Quy định đầy đủ, cụ thể trình tự, thủ tục và các hoạt động tố tụng
trong từng giai đoạn nhằm đấu tranh có hiệu quả với tội phạm


Một trong những mục tiêu quan trọng của việc sửa đổi BLTTHS lần này
là phải tháo gỡ khó khăn, vướng mắc đặt ra trong thực tiễn; xác lập đầy đủ cơ sở
pháp lý để quá trình phát hiện, xử lý tội phạm được tiến hành chính xác, kịp
thời, góp phần bảo đảm an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, bảo vệ cuộc

sống bình yên của nhân dân, thúc đẩy kinh tế đất nước phát triển. Từ yêu cầu đó,
BLTTHS năm 2015 đã có nhiều sửa đổi, bổ sung quan trọng, cụ thể là:
Trong giai đoạn khởi tố: Trên cơ sở 10 điều của Bộ luật hiện hành,
BLTTHS năm 2015 xây dựng Chương khởi tố vụ án hình sự gồm 20 điều luật
với nhiều nội dung sửa đổi, bổ sung. Thứ nhất, làm rõ các khái niệm “tố giác về
tội phạm”, “tin báo về tội phạm”, “kiến nghị khởi tố” nhằm giải quyết những
vướng mắc đặt ra trong thực tiễn (Điều 144). Thứ hai, quy định đầy đủ, cụ thể
thẩm quyền, trình tự, thủ tục tiếp nhận và giải quyết các nguồn tin về tội phạm
nhằm xác định rõ trách nhiệm của các cơ quan nhà nước, đồng thời tạo điều kiện
thuận lợi nhất để khuyến khích người dân tham gia đấu tranh chống tội phạm
(các điều 146, 147, 151, 152). Thứ ba, điều chỉnh thời hạn giải quyết tố giác, tin
báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố từ 02 tháng lên 04 tháng nhằm tháo gỡ khó
khăn trong thực tiễn; đồng thời, để bảo đảm chặt chẽ, Bộ luật quy định việc gia
hạn phải do Viện kiểm sát quyết định nhằm tránh lạm dụng, kéo dài thời gian
giải quyết (Điều 147). Thứ tư, quy định cụ thể các biện pháp được phép áp dụng
trong giai đoạn này nhằm khắc phục khoảng trống của pháp luật hiện hành (Điều
147). Thứ năm, cho phép tạm đình chỉ giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm khi
thuộc các trường hợp luật định (Điều 148). Thứ sáu, quy định đầy đủ nhiệm vụ,
quyền hạn, trách nhiệm của Viện kiểm sát khi thực hiện chức năng công tố và
kiểm sát hoạt động tư pháp nhằm chống bỏ lọt tội phạm, chống làm oan người
vô tội ngay từ giai đoạn đầu của tố tụng (các điều 159, 160, 161).
Trong giai đoạn điều tra: Thứ nhất, bổ sung đầy đủ các biện pháp điều tra
nhằm đáp ứng yêu cầu phát hiện tội phạm, như: Các biện pháp ngăn chặn, các
biện pháp cưỡng chế tố tụng, biện pháp nhận biết giọng nói, định giá tài sản, các
biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt. Thứ hai, quy định chặt chẽ căn cứ và thủ tục
tiến hành các biện pháp điều tra có ảnh hưởng trực tiếp đến các quyền cơ bản
của con người, của công dân, như: Biện pháp khám xét, thu giữ, tạm giữ đồ vật,
tài liệu (Chương XIII). Thứ ba, quy định bắt buộc phải ghi âm, ghi hình khi hỏi
cung bị can tại cơ sở giam giữ hoặc tại trụ sở Cơ quan điều tra (CQĐT) nhằm
phản ánh trung thực quá trình hỏi cung, chống bức cung, nhục hình, đồng thời là

căn cứ quan trọng để bảo vệ các cán bộ tư pháp đã tiến hành tố tụng đúng luật
(Điều 183). Thứ tư, bổ sung và quy định đầy đủ các trường hợp tách, nhập,
chuyển vụ án nhằm bảo đảm việc điều tra đúng thẩm quyền, khách quan, toàn
diện (Điều 169 và Điều 170). Thứ năm, bổ sung trường hợp tạm đình chỉ điều
tra khi đã hết thời hạn điều tra mà chưa có kết quả định giá tài sản, tương trợ tư
pháp (Điều 229).
Trong giai đoạn truy tố: Thứ nhất, bổ sung và quy định đầy đủ nhiệm vụ,
quyền hạn, trách nhiệm của Viện kiểm sát khi thực hiện chức năng công tố và
chức năng kiểm sát trong giai đoạn truy tố (Điều 236 và Điều 237). Thứ hai, quy
định Viện kiểm sát cấp trên phân công cho Viện kiểm sát cấp dưới thực hành


quyền công tố và kiểm sát xét xử tại phiên tòa thay cho quy định “ủy quyền”
hiện nay nhằm tháo gỡ vướng mắc trong thực tiễn (Điều 239). Thứ ba, nhằm
tăng cường kiểm tra, kiểm soát trong nội bộ, Bộ luật quy định mọi quyết định tố
tụng do Viện kiểm sát cấp dưới ban hành phải gửi cho Viện kiểm sát cấp trên;
Viện trưởng Viện kiểm sát cấp trên có quyền rút, đình chỉ, hủy bỏ các quyết
định này nếu thấy trái pháp luật (Điều 240). Thứ tư, bổ sung quy định cho phép
nhập, tách vụ án trong giai đoạn truy tố để phù hợp với thực tiễn giải quyết
(Điều 242). Thứ năm, quy định chặt chẽ các căn cứ trả hồ sơ yêu cầu điều tra bổ
sung nhằm tránh lạm dụng, kéo dài thời gian giải quyết; đồng thời, quy định
trường hợp Tòa án trả hồ sơ yêu cầu điều tra bổ sung mà xét thấy không cần
thiết phải trả cho CQĐT thì Viện kiểm sát trực tiếp bổ sung chứng cứ để đẩy
nhanh tiến độ giải quyết vụ án (Điều 245 và Điều 246).
Trong giai đoạn xét xử: Thứ nhất, nhằm tháo gỡ vướng mắc trong thực
tiễn, Bộ luật bổ sung quy định Tòa án yêu cầu Viện kiểm sát bổ sung chứng cứ
nhưng không nhất thiết phải trả lại hồ sơ cho Viện kiểm sát; quy định cụ thể các
trường hợp Tòa án trực tiếp xác minh, bổ sung chứng cứ (Điều 252 và Điều
284). Thứ hai, quy định khi xác định vụ án không thuộc thẩm quyền xét xử của
mình thì Tòa án trả hồ sơ vụ án cho Viện kiểm sát đã truy tố thay vì chuyển trực

tiếp cho Tòa án có thẩm quyền xét xử như hiện nay (Điều 274). Thứ ba, quy
định chặt chẽ sự có mặt của bị cáo, người bào chữa tại phiên tòa nhằm bảo đảm
quyền bào chữa của họ, đồng thời, tránh lợi dụng làm ảnh hưởng đến kế hoạch
xét xử của Tòa án (Điều 290 và Điều 291); bổ sung quy định về tạm ngừng
phiên tòa với thời hạn tối đa là quá 5 ngày, thay vì mọi trường hợp phải hoãn
phiên tòa với thời hạn tối đa 30 ngày như hiện nay (Điều 251). Thứ tư, sửa đổi
“giới hạn xét xử” trên cơ sở nguyên tắc việc xét xử được giới hạn trong phạm vi
truy tố, truy tố tới đâu – xét xử tới đó; tuy nhiên, trường hợp cần xử bị cáo về tội
danh nặng hơn tội danh Viện kiểm sát truy tố thì Tòa án trả hồ sơ để Viện kiểm
sát truy tố lại, nếu Viện kiểm sát vẫn giữ tội danh đã truy tố thì Tòa án có quyền
xét xử bị cáo về tội danh nặng hơn (Điều 298). Thứ năm, nhằm thể hiện rõ
nguyên tắc tranh tụng trong xét xử, Bộ luật không chia thành thủ tục xét hỏi và
thủ tục tranh luận như hiện hành mà nhập chung thành thủ tục tranh tụng tại
phiên tòa (từ Điều 306 đến Điều 325). Thứ sáu, quy định Tòa án sẽ không mở
phiên tòa nếu có căn cứ xác định việc điều tra, truy tố trước đó vi phạm nghiêm
trọng thủ tục tố tụng; tuyên bố bị cáo vô tội nếu không đủ chứng cứ kết tội (các
điều 280, 260, 326). Thứ bảy, để bảo đảm nguyên tắc hai cấp xét xử, Bộ luật bổ
sung những người có quyền kháng cáo và điều chỉnh phạm vi kháng cáo cho
phù hợp (Điều 331). Thứ tám, quy định cụ thể thủ tục tố tụng tại phiên tòa phúc
thẩm nhằm bảo đảm tranh tụng thay vì cách dẫn chiếu sang thủ tục sơ thẩm như
hiện nay; bổ sung đầy đủ thẩm quyền của Tòa án cấp phúc thẩm (các điều 355,
357, 358).
3. Thực hiện nghiêm túc yêu cầu của Hiến pháp năm 2013 về tôn
trọng, bảo vệ, bảo đảm quyền con người, quyền công dân
Tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm quyền con người, quyền công dân là tư tưởng
xuyên suốt trong Hiến pháp năm 2013. Hiến pháp khẳng định nguyên tắc: Nhà


nước công nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm quyền con người, quyền công dân;
Quyền con người, quyền công dân chỉ có thể bị hạn chế theo quy định của luật

trong trường hợp cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn
xã hội, đạo đức xã hội, sức khỏe của cộng đồng (Điều 14). Đây là nguyên tắc rất
quan trọng, thể hiện tư tưởng pháp quyền, đề cao trách nhiệm của Nhà nước
trước nhân dân, đồng thời, là cơ sở pháp lý cao nhất để mọi người và công dân
bảo vệ và thực hiện quyền con người, quyền công dân của mình.
Thấu suốt tư tưởng của Hiến pháp, BLTTHS năm 2015 đã cụ thể hóa
thành những quy định, yêu cầu cụ thể đối với quá trình giải quyết vụ án hình sự.
Thứ nhất, quy định mọi biện pháp hạn chế quyền con người, quyền công dân
trong quá trình giải quyết vụ án hình sự phải được quy định trong BLTTHS. Thứ
hai, quy định từng biện pháp cưỡng chế tố tụng phải bị điều chỉnh chặt chẽ bởi
05 yếu tố: Căn cứ; thẩm quyền; trình tự; thủ tục; thời hạn. Thứ ba, bổ sung các
quyền và cơ chế bảo đảm quyền của những người tham gia tố tụng một cách
chặt chẽ, khả thi, phù hợp với các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên,
nhất là cơ chế để bảo đảm cho người bị buộc tội nắm được các chứng cứ buộc
tội nhằm thực hiện tốt việc tranh tụng. Thứ tư, bổ sung và quy định đầy đủ nội
dung của nguyên tắc suy đoán vô tội; chừng nào chưa có bản án kết tội của Tòa
án đã có hiệu lực pháp luật thì người bị buộc tội vẫn chưa bị coi là người phạm
tội, nghiêm cấm các cơ quan tố tụng đối xử với họ như người phạm tội; trường
hợp đã áp dụng đầy đủ các biện pháp cần thiết mà vẫn không đủ căn cứ để
chứng minh tội phạm thì phải kết luận họ không có tội. Thứ năm, rút ngắn hợp
lý thời hạn tạm giam để bảo vệ tốt hơn quyền con người, quyền công dân; buộc
các cơ quan tố tụng phải tính toán kỹ thời điểm bắt giam, đồng thời tổ chức lực
lượng để khẩn trương kết thúc vụ án. Thứ sáu, quy định đầy đủ các cơ chế để
người bị buộc tội thực hiện tốt quyền Hiến định “tự bào chữa” và “nhờ người
khác bào chữa”. Thứ bảy, bổ sung các quy định để “nguyên tắc tranh tụng trong
xét xử được bảo đảm” được tổ chức thực thi nghiêm túc trên thực tế; tranh tụng
phải trở thành quyền và nghĩa vụ của tất cả các bên; Tòa án phải thực sự khách
quan, tôn trọng và lắng nghe đầy đủ các ý kiến; phán quyết của Tòa án chỉ căn
cứ vào kết quả tranh tụng và các chứng cứ đã được kiểm tra công khai tại phiên
tòa. Thứ tám, bổ sung và quy định cụ thể các thiết chế bảo vệ người tố giác tội

phạm, người làm chứng, người bị hại để họ an tâm hợp tác với các cơ quan tố
tụng phát hiện tội phạm. Thứ chín, sửa đổi, bổ sung các thủ tục tố tụng nhằm
bảo đảm nguyên tắc “vì lợi ích tốt nhất cho người chưa thành niên”, phù hợp với
chính sách bảo vệ, chăm sóc, giáo dục trẻ em của Đảng, Nhà nước ta và các
chuẩn mực quốc tế; việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người chưa thành
niên chỉ tiến hành trong trường hợp cần thiết, với mục đích chủ yếu là giáo dục,
giúp đỡ các em sớm nhận ra sai lầm để tích cực sửa chữa, sống có trách nhiệm
với bản thân, gia đình, xã hội, trở thành công dân có ích cho đất nước. Thứ
mười, bổ sung các quy định nhằm đề cao trách nhiệm của các cơ quan tố tụng
trong việc tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm quyền con người, quyền công dân, đồng
thời quy định nghiêm khắc các chế tài áp dụng nếu cơ quan tố tụng vi phạm quy
định của luật.


4. Phân định hợp lý thẩm quyền giữa các cơ quan tố tụng và giữa các
cấp tố tụng
Nói đến tố tụng hình sự là nói đến chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, mối
quan hệ giữa các cơ quan tố tụng trong quá trình đi tìm sự thật của vụ án. Yêu
cầu đặt ra là phải tổ chức bộ máy, phân định nhiệm vụ, quyền hạn giữa các cơ
quan tố tụng và giữa các cấp tố tụng một cách khoa học, bảo đảm sự chủ động,
độc lập và kiểm soát lẫn nhau. Làm được điều đó sẽ giúp cho hoạt động tố tụng
hình sự vận hành thông suốt, hiệu quả, đề cao trách nhiệm, tránh sự lạm quyền.
Nhằm thể chế hóa chủ trương của Đảng về cải cách tư pháp và tháo gỡ những
vướng mắc qua thực tiễn thi hành, BLTTHS năm 2015 đã sửa đổi, bổ sung theo
hướng:
Đối với Cơ quan điều tra: Thứ nhất, nhằm giảm số lượng vụ án do cơ
quan tố tụng cấp Trung ương thụ lý, để cấp này tập trung cho công tác chỉ đạo,
điều hành, hướng dẫn, kiểm tra cấp dưới, Bộ luật quy định CQĐT cấp Trung
ương có thẩm quyền điều tra tội phạm đặc biệt nghiêm trọng do Hội đồng Thẩm
phán Tòa án nhân dân tối cao hủy để điều tra lại; tội phạm đặc biệt nghiêm

trọng, phức tạp liên quan đến nhiều tỉnh, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng, phức
tạp liên quan đến nhiều quốc gia nếu xét cần trực tiếp điều tra. Thứ hai, quy định
vụ án thuộc thẩm quyền của cấp huyện nhưng CQĐT cấp tỉnh rút lên để điều tra
phải đáp ứng điều kiện “xảy ra trên địa bàn nhiều huyện, phạm tội có tổ chức
hoặc có yếu tố nước ngoài” thay cho quy định “xét thấy cần trực tiếp điều tra”
hiện nay nhằm tránh sự tùy nghi, lạm dụng. Thứ ba, quy định CQĐT Viện kiểm
sát nhân dân tối cao chuyên trách điều tra tội phạm trong lĩnh vực tư pháp, theo
đó, có thẩm quyền điều tra “tội phạm xâm phạm hoạt động tư pháp, tội phạm về
tham nhũng, chức vụ xảy ra trong hoạt động tư pháp quy định tại Chương
XXIII, Chương XXIV của Bộ luật hình sự mà người phạm tội là cán bộ, công
chức thuộc Cơ quan điều tra, Tòa án, Viện kiểm sát, cơ quan thi hành án, người
có thẩm quyền tiến hành hoạt động tư pháp” (Điều 163). Thứ tư, quy định cụ thể
thủ tục và trách nhiệm chuyển vụ án nhằm bảo đảm việc điều tra đúng thẩm
quyền (Điều 169). Thứ năm, mở rộng diện cơ quan được giao nhiệm vụ tiến
hành một số hoạt động điều tra đối với lực lượng Kiểm ngư nhằm đáp ứng yêu
cầu điều tra tội phạm trên biển và góp phần khẳng định chủ quyền biển đảo từ
phương diện hoạt động tư pháp (Điều 35).
Đối với Viện kiểm sát: Bộ luật bổ sung, tăng cường trách nhiệm của Viện
kiểm sát phải: Thứ nhất, thực hành quyền công tố từ khi CQĐT giải quyết
nguồn tin về tội phạm (Điều 159). Thứ hai, quy định cụ thể trách nhiệm giải
quyết tố giác, tin báo về tội phạm, trực tiếp tiến hành một số hoạt động điều tra
và trách nhiệm chuyển vụ án khi phát hiện việc điều tra không đúng thẩm quyền
(các điều 145, 165, 169). Thứ ba, quy định bắt buộc Kiểm sát viên phải có mặt
khi CQĐT tiến hành khám nghiệm hiện trường, khám nghiệm tử thi, đối chất,
nhận dạng, nhận biết giọng nói, thực nghiệm điều tra, khám xét (các điều 189,
190, 191, 193, 201, 202, 204). Thứ tư, quy định bắt buộc Kiểm sát viên phải hỏi
cung khi bị can kêu oan, bị can khiếu nại hoặc khi phát hiện hoạt động điều tra
vi phạm pháp luật (Điều 183). Thứ năm, để kiểm sát kịp thời, đầy đủ hoạt động



điều tra, Bộ luật quy định: Trong thời hạn 05 ngày kể từ ngày lập biên bản về
hoạt động điều tra, thu thập, nhận được tài liệu liên quan đến vụ án, CQĐT có
trách nhiệm chuyển biên bản, tài liệu này cho Viện kiểm sát để kiểm sát việc lập
hồ sơ vụ án. Trường hợp do trở ngại khách quan thì thời hạn này có thể kéo dài
nhưng không quá 15 ngày. Trong thời hạn 03 ngày, Viện kiểm sát đóng dấu bút
lục và sao lưu biên bản, tài liệu lưu hồ sơ kiểm sát và bàn giao nguyên trạng tài
liệu, biên bản đó cho CQĐT (Điều 88).
Đối với Tòa án: Thứ nhất, phân định hợp lý thẩm quyền giữa các cấp Tòa
án nhằm tháo gỡ khó khăn cho cấp huyện; theo đó, bổ sung cho Tòa án cấp tỉnh
có thẩm quyền xét xử các vụ án có yếu tố nước ngoài, vụ án liên quan đến nhiều
cấp, nhiều ngành, vụ án mà bị cáo là Thẩm phán, Kiểm sát viên, Điều tra viên,
cán bộ lãnh đạo chủ chốt ở cấp huyện, người có chức sắc trong tôn giáo hoặc có
uy tín cao trong dân tộc ít người (Điều 268). Thứ hai, quy định đầy đủ thẩm
quyền xét xử của Tòa án quân sự nhằm khắc phục những vướng mắc của pháp
luật hiện hành (Điều 272). Thứ ba, quy định thẩm quyền của Tòa án trong việc
xem xét, kết luận tính hợp pháp các hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra
viên, Kiểm sát viên, người bào chữa; xem xét, kết luận tính hợp pháp của các
chứng cứ, tài liệu do các chủ thể tố tụng thu thập, cung cấp (Điều 260). Thứ tư,
quy định cụ thể các trường hợp và cách thức Tòa án xác minh, thu thập, bổ sung
chứng cứ (Điều 252). Thứ năm, quy định trách nhiệm của Tòa án trong việc bảo
đảm tranh tụng.
5. Tăng quyền, tăng trách nhiệm cho các chức danh tư pháp
Xây dựng đội ngũ cán bộ có đủ phẩm chất, năng lực, bản lĩnh, trách
nhiệm luôn là mong mỏi của Bác Hồ lúc sinh thời. Giao nhiệm vụ theo tư tưởng
của Bác là phải dân chủ, rõ nhiệm vụ, đề cao tinh thần trách nhiệm, phát huy
tính sáng tạo của cán bộ. Người nói: Khi giao trách nhiệm cho cán bộ phải làm
cho họ yên tâm công tác, hứng thú trong công việc. Muốn thế, người lãnh đạo
phải làm sao cho cán bộ cả gan dám nói, cả gan đề ra ý kiến, cả gan phụ trách,
cả gan làm việc(2). Đây cũng chính là nội dung quan trọng trong các chỉ đạo của
Đảng ta về công tác cán bộ(3). Trong lĩnh vực tư pháp, Nghị quyết số 49NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến

năm 2020 yêu cầu: “tăng quyền và trách nhiệm cho Điều tra viên, Kiểm sát viên
và Thẩm phán để họ chủ động trong thực thi nhiệm vụ, nâng cao tính độc lập và
chịu trách nhiệm trước pháp luật về các hành vi và quyết định tố tụng của
mình”.
Tổng kết thực tiễn hơn 10 năm thi hành BLTTHS năm 2003 chỉ rõ, bên
cạnh những kết quả đạt được, việc phân định thẩm quyền tố tụng còn bộc lộ một
số bất cập. Theo đó, các thẩm quyền chủ yếu tập trung vào thủ trưởng các cơ
quan tố tụng; những người trực tiếp tiến hành tố tụng (Điều tra viên, Kiểm sát
viên, Thẩm phán) có thẩm quyền rất hạn chế. Điều này đã ảnh hưởng không nhỏ
đến chất lượng, tiến độ giải quyết vụ án, thậm chí là nguyên nhân của một số
biểu hiện quan liêu, dựa dẫm, thiếu trách nhiệm trong quá trình tố tụng hình sự.


Thể chế hóa chủ trương cải cách tư pháp của Đảng và nhằm tháo gỡ bất
cập trong thực tiễn, BLTTHS năm 2015 đã phân định một cách hợp lý thẩm
quyền giữa Thủ trưởng cơ quan tiến hành tố tụng với người trực tiếp tiến hành tố
tụng theo hướng: Những thẩm quyền có tính chất quyết định việc “đóng, mở”
một giai đoạn tố tụng, những thẩm quyền liên quan đến việc hạn chế quyền con
người, quyền công dân giao cho Thủ trưởng cơ quan tố tụng quyết định; hầu hết
những thẩm quyền có tính chất phát hiện hoặc làm sáng tỏ sự thật vụ án giao cho
Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán trực tiếp quyết định. Trên cơ sở đó, đã
thực hiện việc tăng thẩm quyền cụ thể như sau:
- Tăng cho Điều tra viên các thẩm quyền: Thứ nhất, yêu cầu hoặc đề nghị
cử, thay đổi người bào chữa; yêu cầu cử, thay đổi người phiên dịch, người dịch
thuật; thứ hai, triệu tập và lấy lời khai người tố giác, báo tin về tội phạm, người
bị tố giác, bị kiến nghị khởi tố, người đại diện theo pháp luật của pháp nhân; thứ
ba, quyết định áp giải người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, người bị bắt, bị
tạm giữ; quyết định dẫn giải người bị tố giác, người bị kiến nghị khởi tố, bị hại;
thứ tư, quyết định giao người dưới 18 tuổi cho cơ quan, tổ chức, cá nhân có
trách nhiệm giám sát; quyết định thay đổi người giám sát người dưới 18 tuổi

phạm tội; thứ năm, thi hành lệnh phong tỏa tài khoản (Điều 37).
- Tăng cho Kiểm sát viên các thẩm quyền: Thứ nhất, trực tiếp giải quyết
và lập hồ sơ giải quyết nguồn tin về tội phạm; thứ hai, triệu tập và lấy lời khai
người tố giác, báo tin về tội phạm, người bị tố giác, người bị kiến nghị khởi tố,
người đại diện theo pháp luật của pháp nhân; thứ ba, yêu cầu hoặc đề nghị cử,
thay đổi người bào chữa; yêu cầu cử, đề nghị thay đổi người phiên dịch, người
dịch thuật; thứ tư, bắt buộc có mặt khi CQĐT tiến hành đối chất, nhận dạng,
nhận biết giọng nói, thực nghiệm điều tra, khám xét; thứ năm, yêu cầu CQĐT
truy nã, đình nã bị can; thứ sáu, quyết định áp giải người bị bắt, bị can; quyết
định dẫn giải người làm chứng, người bị tố giác, bị kiến nghị khởi tố, bị hại; thứ
bảy, quyết định giao người dưới 18 tuổi cho cơ quan, tổ chức, cá nhân để giám
sát; quyết định thay đổi người giám sát người dưới 18 tuổi phạm tội (Điều 42).
- Tăng cho Thẩm phán các thẩm quyền: Thứ nhất, quyết định áp dụng,
thay đổi hoặc hủy bỏ biện biện pháp cưỡng chế; thứ hai, quyết định trưng cầu
giám định, giám định bổ sung hoặc giám định lại, thực nghiệm điều tra; thay đổi
hoặc yêu cầu thay đổi người giám định; yêu cầu định giá tài sản, yêu cầu thay
đổi người định giá tài sản; thứ ba, yêu cầu hoặc đề nghị cử, thay đổi người bào
chữa; thay đổi người giám sát người dưới 18 tuổi phạm tội; thứ tư, yêu cầu cử,
thay đổi người phiên dịch, người dịch thuật; thứ năm, quyết định việc xác minh,
thu thập, bổ sung chứng cứ trong giai đoạn chuẩn bị xét xử (Điều 45).
6. Đổi mới chế định chứng cứ và chứng minh cho phù hợp với tình
hình mới
Chứng cứ và chứng minh là một trong những vấn đề quan trọng nhất của
tố tụng hình sự. Toàn bộ quá trình giải quyết vụ án hình sự thực chất là quá trình
thu thập, kiểm tra, đánh giá chứng cứ, mặc dù cách thức tiến hành ở mỗi giai
đoạn có khác nhau. Tổng kết thực tiễn thi hành BLTTHS năm 2003 đã chỉ ra


một số hạn chế, bất cập trong các quy định hiện hành về chứng cứ làm ảnh
hưởng đến yêu cầu giải quyết vụ án, nhất là chưa đáp ứng yêu cầu đấu tranh

chống tội phạm trong tình hình mới, tội phạm xuyên quốc gia, tội phạm
“mạng”...
Nhằm tháo gỡ những bất cập trong pháp luật hiện hành, BLTTHS năm
2015 đã có những đổi mới quan trọng trong vấn đề chứng cứ và chứng minh.
Thứ nhất, thay đổi khái niệm chứng cứ theo hướng phá thế “độc quyền” trong
việc thu thập chứng cứ (hiện đang chỉ giao cho cơ quan tố tụng); theo đó, bổ
sung cho người bào chữa có quyền thu thập chứng cứ, người bị buộc tội có
quyền đưa ra chứng cứ (Điều 86). Thứ hai, quy định cụ thể cách thức người bào
chữa thu thập chứng cứ nhằm bảo đảm tính khả thi, tránh gây khó khăn trong
thực tiễn thực hiện (Điều 88). Thứ ba, bổ sung và quy định cụ thể trách nhiệm,
trình tự, thủ tục các cơ quan tố tụng tiếp nhận và đánh giá chứng cứ do những
người tham gia tố tụng cung cấp (Điều 88). Thứ tư, bổ sung vào hệ thống nguồn
chứng cứ gồm: Dữ liệu điện tử; kết quả định giá tài sản; kết quả thực hiện ủy
thác tư pháp và hợp tác quốc tế khác (Điều 87). Thứ năm, quy định cụ thể trình
tự, thủ tục thu thập, phục hồi dữ liệu điện tử nhằm bảo đảm tính khách quan,
tính nguyên trạng và tính có thể kiểm chứng của loại chứng cứ đặc thù này
(Điều 107). Thứ sáu, bổ sung nguyên tắc loại trừ chứng cứ “Những gì có thật
nhưng không được thu thập theo trình tự, thủ tục do Bộ luật này quy định thì
không có giá trị pháp lý và không được dùng làm căn cứ để giải quyết vụ án”
nhằm khắc phục những biểu hiện tùy tiện, vi phạm phạm quyền con người,
quyền công dân có thể xảy ra trong quá trình chứng minh về vụ án (Điều 87).
Thứ bảy, bổ sung đầy đủ những vấn đề phải chứng minh trong vụ án hình sự
nhằm đặt yêu cầu đối với các cơ quan tố tụng phải tuyệt đối tuân thủ nguyên tắc
khách quan, toàn diện, tránh tâm lý chủ quan, một chiều trong quá trình chứng
minh về vụ án; theo đó, bổ sung trách nhiệm phải chứng minh: nguyên nhân và
điều kiện phạm tội, những tình tiết khác liên quan đến việc loại trừ trách nhiệm
hình sự, miễn trách nhiệm hình sự, miễn hình phạt (Điều 85).
Có thể nói, những sửa đổi, bổ sung nêu trên đã góp phần hoàn thiện lý
luận về chứng cứ; tạo cơ sở pháp lý vững chắc để đấu tranh hiệu quả hơn với tội
phạm trong thời kỳ đẩy mạnh ứng dụng khoa học công nghệ hiện đại và hội

nhập quốc tế sâu rộng ngày nay.
7. Hoàn thiện chế định giám định tư pháp
Giám định tư pháp là hoạt động đặc biệt, được thực hiện bởi các chuyên
gia nhằm kết luận về chuyên môn đối với những vấn đề được trưng cầu. Những
kết luận này giúp cơ quan tố tụng đưa ra quyết định đúng đắn về vụ án. Nhiều
trường hợp, kết luận giám định còn có nghĩa trực tiếp giúp các cơ quan tố tụng
xác định là tội phạm hay không phải tội phạm, xác định tính chất, mức độ nguy
hiểm của tội phạm làm căn cứ để quyết định hình phạt (giám định thương tích,
nguyên nhân chết người, mức độ ô nhiễm môi trường...). Chất lượng giám định
liên quan chặt chẽ đến chất lượng và hiệu quả của nền tư pháp. Do đó, hoàn


thiện chế định giám định tư pháp là đòi hỏi khách quan của công cuộc đấu tranh
phòng, chống tội phạm.
Tổng kết thực tiễn thi hành BLTTHS năm 2003 chỉ ra nhiều hạn chế xung
quanh chế định này. Bộ luật chỉ dành 05 điều để quy định về giám định là chưa
tương xứng với tầm quan trọng và tính chất phức tạp của vấn đề. Việc thiếu quy
định về thời hạn đang là một trong những nguyên nhân dẫn đến chậm trễ trong
giám định hiện nay; thiếu cơ chế giải quyết xung đột trong trường hợp có nhiều
kết luận khác nhau về cùng một đối tượng trưng cầu, làm bó tay các cơ quan tố
tụng...
Nhằm tháo gỡ những vướng mắc trong thực tiễn điều tra, truy tố, xét xử,
BLTTHS năm 2015 đã có những điều chỉnh quan trọng. Thứ nhất, xây dựng 10
điều luật điều chỉnh đầy đủ các nội dung liên quan đến giám định. Thứ hai, bổ
sung đầy đủ những vấn đề cần phải trưng cầu giám định nhằm bảo đảm tính
chính xác, khách quan, toàn diện trong quá trình chứng minh vụ án (Điều 206).
Thứ ba, phân nhóm hợp lý các vấn đề cần trưng cầu và quy định thời hạn giám
định cho từng nhóm (Điều 206 và Điều 208). Thứ tư, bổ sung những người có
quyền yêu cầu giám định trên cơ sở giải quyết hợp lý mối quan hệ giữa trách
nhiệm chứng minh trong vụ án hình sự với việc bảo đảm quyền và lợi ích hợp

pháp của những người tham gia tố tụng (Điều 207). Thứ năm, xác lập cơ chế
nhằm kiểm soát chặt chẽ quá trình trưng cầu và sử dụng kết quả giám định; theo
đó, quy định trách nhiệm của cơ quan trưng cầu giám định trong thời hạn 24 giờ
phải gửi quyết định trưng cầu giám định và kết luận giám định cho Viện kiểm
sát, trong thời hạn 07 ngày phải thông báo kết luận giám định cho người tham
gia tố tụng (các điều 205, 213, 222). Thứ sáu, nhằm bảo đảm tính khách quan,
Bộ luật quy định cụ thể thành phần và thủ tục giám định bổ sung và giám định
lại (Điều 210 và Điều 211). Thứ bảy, bổ sung cơ chế nhằm giải quyết xung đột
giữa các kết luận giám định; theo đó, quy định trong trường hợp đặc biệt, Viện
trưởng VKSND tối cao, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao có quyền quyết định
giám định lại và kết luận giám định trong trường hợp này có hiệu lực để giải
quyết vụ án (Điều 212).
Những sửa đổi, bổ sung nêu trên sẽ tháo gỡ căn bản những vướng mắc
trong công tác giám định. Đồng thời, đặt ra trách nhiệm cao hơn cho cơ quan tố
tụng và cơ quan giám định phải phối hợp chặt chẽ nhằm bảo đảm nguyên tắc kịp
thời, chính xác, tiết kiệm trong tố tụng hình sự.
8. Luật hóa các biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt
Nhằm đáp ứng yêu cầu phát hiện, xử lý tội phạm, luật pháp quốc tế cho
phép các cơ quan tố tụng được áp dụng biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt. Tuy
nhiên, căn cứ, điều kiện, thẩm quyền, thủ tục phải hết sức chặt chẽ. Công ước
của Liên hợp quốc về chống tội phạm có tổ chức xuyên quốc gia và Công ước
về chống tham nhũng mà Việt Nam là thành viên đều ghi nhận và cho phép áp
dụng các biện pháp điều tra đặc biệt, gồm: Vận chuyển có kiểm soát; các hình
thức giám sát; hoạt động của lực lượng bí mật. Nghiên cứu luật tố tụng hình sự
các nước cho thấy đều có quy định về biện pháp điều tra đặc biệt; có nước dành


riêng một chương trong Luật tố tụng hình sự (Pháp, Đức) hoặc một mục (Nga,
Trung Quốc) hoặc một số điều (Hoa Kỳ) để quy định. Sự khác nhau giữa luật
các nước chủ yếu liên quan đến số lượng các biện pháp, tên gọi và kỹ thuật thể

hiện trong luật để phù hợp với điều kiện cụ thể của từng quốc gia.
Ở Việt Nam, biện pháp điều tra đặc biệt (biện pháp nghiệp vụ) mới chỉ
được đề cập có tính nguyên tắc trong các luật chuyên ngành (Luật An ninh quốc
gia, Điều 24; Luật Phòng, chống ma túy (Điều 13) và giao cho Chính phủ quy
định cụ thể. Do BLTTHS chưa quy định biện pháp điều tra đặc biệt nên chưa
phát huy cao hiệu quả của các biện pháp này, nhiều trường hợp lãng phí nguồn
chứng cứ quan trọng có ý nghĩa trực tiếp chứng minh tội phạm. Trên thực tế, các
Điều tra viên một mặt phải đối diện với những rủi ro trong quá trình đấu tranh
chống tội phạm, nhưng đồng thời cũng gặp không ít khó khăn trong việc chuyển
hóa chứng cứ để được pháp luật công nhận. Đặc biệt, trước yêu cầu của Hiến
pháp năm 2013: Mọi biện pháp hạn chế quyền con người, quyền công dân phải
do luật định đã đặt ra yêu cầu phải nghiên cứu và xử lý nghiêm túc, thấu đáo vấn
đề này.
Trên cơ sở cân nhắc các điều kiện cụ thể của nước ta về mọi mặt, bảo đảm
phù hợp với Hiến pháp, các cam kết quốc tế của Việt Nam và tháo gỡ những
vướng mắc trong thực tiễn, BLTTHS năm 2015 đã bổ sung một chương mới để
luật hóa biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt. Thứ nhất, các biện pháp được phép
áp dụng bao gồm: Ghi âm, ghi hình bí mật; nghe điện thoại bí mật; thu thập bí
mật dữ liệu điện tử (Điều 223). Thứ hai, quy định chặt chẽ các trường hợp áp
dụng chỉ đối với các tội xâm phạm an ninh quốc gia, tội phạm về ma túy, tội
phạm về tham nhũng, tội khủng bố, tội rửa tiền.
Phó Giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Hòa Bình



×