Tải bản đầy đủ (.docx) (16 trang)

Tiểu luận tư tưởng hồ chí minh về độc lập dân tộc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (160 KB, 16 trang )

I.

Mở đầu

Hồ Chí Minh là một chiến sĩ cách mạng quốc tế, anh hùng giải phóng dân
tộc, danh nhân văn hóa thế giới; cuộc đời và sự nghiệp cách mạng của chủ tịch
Hồ Chí Minh là một huyền thoại, đầy sức hấp dẫn, được nhân dân ta và bạn bè
quốc tế ngưỡng mộ, kính yêu. Có thể tiếp cận cuộc đời và tưởng Hồ Chí Minh ở
nhiều góc độ, người đã để lại cho chúng ta một di sản tinh thần vô cùng quý giá,
và ở phương diện nào Bác cũng để lại những bài học giản dị mà sâu sắc.
Trong tâm khảm của mọi người dân Việt Nam và những người tiến bộ trên
toàn thế giới, chủ tịch Hồ Chí Minh là một lãnh tụ vĩ đại, một nhà tư tưởng lớn,
một anh hùng giải phóng dân tộc, danh nhân văn hóa kiệt xuất. Cuộc đời hoạt
động cách mạng của người đã để lại dấu ấn không thể phai mờ trong quá trình
phát triển của nhân loại, góp phần vào cuộc đấu tranh vì hòa bình, độc lập dân
tộc dân chủ và tiến bộ xã hội.
Trong toàn bộ di sản về tư tưởng mà Người đã để lại cho toàn Đảng, toàn
dân, vấn đề độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội luôn là một trong
những vấn đề trung tâm và được thể hiện rõ ràng, xuyên suốt qua quá trình hoạt
động thực tiễn của cách mạng trong nước và trên thế giới.
Độc lập dân tộc là điều kiện tiên quyết thực hiện CNXH và CNXH là cơ sở
đảm bảo vững chắc cho độc lập dân tộc. Không giành được độc lập dân tộc thì
không có điều kiện để xây dựng CNXH. Độc lập dân tộc thật sự đòi hỏi xóa bỏ
áp bức, nô dịch của dân tộc này với dân tộc khác, gắn liền độc lập dân tộc với tự
do, bình đẳng, hạnh phúc của nhân dân, do đó chỉ có thể gắn liền với sự phát
triển xã hội XHCN.
Sáu mươi sáu năm đã trôi qua kể từ ngày đầu tiên của nền độc lập non trẻ.
Giá trị của độc lập là vô giá, không gì có thể so sánh được. Nhưng có một câu
hỏi khác, thành quả đích thực mà nền độc lập đem lại cho người dân là gì? Với
câu hỏi ấy, chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng trả lời rất thấu đáo và chính xác:
"Nếu nước được độc lập mà dân không được hưởng hạnh phúc, tự do thì độc


lập cũng không có ý nghĩa gì".
Trên cơ sở phân tích mối quan hệ giữa độc lập dân tộc phải gắn với con
đường xây dựng chủ nghĩa xã hội theo tư tưởng Hồ Chí Minh, chúng ta hãy
cùng làm rõ luận điểm trên.
II.
1.

Nội dung phân tích

Quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin về độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
1

1


1.1

1.2

-

Quan điểm của Mác
C.Mác là người đã đặt nền tảng xây dựng nên học thuyết cách mạng, khoa
học và nhân đạo để giải phóng giai cấp, xã hội, con người. Đó là chủ nghĩa xã
hội, giai đoạn đầu của chủ nghĩa cộng sản.
Theo Mác , mục tiêu cao nhất là giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp,
tiến tới giải phóng con người một cách triệt để nhất. Chủ nghĩa xã hội không chỉ
dừng lại ở ý thức, ở khẩu hiệu giải phóng con người mà phải từng bước thực
hiện hóa qua thực tiễn sự nghiệp giải phóng con người khỏi chế độ áp bức, bóc
lột giữa người với người và tiến tới mục tiêu cao cả nhất: “biến con người từ

vương quốc của tất yếu sang vương quốc của tự do”, “tạo nên một thể liên hiệp
trong đó sự phát triển tự do của mỗi người là điều kiện cho sự phát triển tự do
của tất cả mọi người”. Để có thể giải phóng con người một cách triệt để nhất,
cần phải giải phóng từ sự áp bức về kinh tế. Những cuộc cách mạng trước đây
vốn chỉ mang tính chính trị, nó được kết thúc bằng việc lật đổ ách thống trị của
giai cấp này, thay thế bằng ách thống trị của giai cấp khác. Như vậy, người lao
động mãi mãi bị thống trị, không có chút nào gọi là độc lập tự do cả. Bởi vậy,
việc trước hết cần làm để giải phóng con người chính là thay đổi vị trí, vai trò
của người lao động đối với tư liệu sản xuất chủ yếu. Nói cách khác chính là thay
thế chế độ chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất bẳng chế độ
sở hữu xã hội chủ nghĩa với những hình thức thích hợp, thực hiện những biện
pháp cần thiết gắn người lao động với tư liệu sản xuất. Không chỉ có vậy, nhà
nước xã hội chủ nghĩa còn phát triển lực lượng sản xuất, không ngừng nâng cao
năng suất lao động, từ đó dần dần cải thiện đời sống của người dân. Như vây,
Mác muốn xây dựng sở hữu công cộng về tư liệu sản xuất, hướng xã hội tới sự
bình đẳng. con người được giải phóng.
Quan điểm của Lênin
Nếu như xét quan điểm của Mác, dễ nhận thấy người tiếp cận vấn đề này ở
góc độ lý luận thì sang quan điểm của Lênin, người lại tiếp cận từ thực tiễn.
Điều này được thể hiện rõ ràng qua cuộc cách mạng Tháng Mười cùng những
chính sách kinh tế mà Lênin đưa ra, từ chính sách cộng sản thời chiến cho đến
chính sách kinh tế mới – NEP.
Về độc lập dân tộc:
Sau Cách mạng Tháng Hai, nước Nga xuất hiện tình trạng 2 chính quyền
song song tồn tại: chính phủ lâm thời của giai cấp tư sản và xô viết đại biểu
công nhân và binh lính. Sau khi nắm được chính quyền, chính phủ lâm thời đã
2

2



-




không giải quyết những vấn đề đã hứa trước đó như vấn đề ruộng đất của nông
dân, việc làm cho công nhân, tình trạng thiếu lương thực và nhất là quyết theo
đuổi chiến tranh đế quốc đến cùng. Trước tình hình đó, Lênin quyết định lật đổ
chính quyền lâm thời, xây dựng chính quyền Xô viết.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng Bolshevik, nhân dân Xô viết đã đứng lên khởi
nghĩa, sau một thời gian dài đấu tranh, Cách mạng tháng Mười đã giành được
thắng lợi. Đây là cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa, do giai cấp vô sản tiến hành,
thắng lợi của cuộc cách mạng đã hình thành nhà nước chuyên chính vô sản đầu
tiên trên thế giới, đưa nước Nga đi theo con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Liền sau đó, trong đêm 7 tháng 11 năm 1917 (25 tháng 10 theo lịch Nga), Đại
hội Xô Viết toàn Nga lần thứ hai tuyên bố khai mạc tại điện Smoniyl và tuyên
bố thành lập chính quyền Xô Viết do Lênin đứng đầu.
Các sắc lệnh đầu tiên của chính quyền Xô Viết đã được thông qua là Sắc
lệnh hòa bình và Sắc lệnh ruộng đất. Chính quyền Xô Viết còn thực hiện các
biện pháp thủ tiêu các tàn tích của chế độ cũ như xóa bỏ sự phân biệt đẳng cấp,
những đặc quyền của giáo hội, nam nữ bình đẳng. Đối với các dân tộc, chính
phủ Xô Viết công bố bản Tuyên ngôn về quyền các dân tộc ở Nga khẳng định
quyền bình đẳng của các dân tộc và cho phép các dân tộc có quyền tự quyết như
công nhận nền độc lập của Ba Lan, Phần Lan. Cuối cùng, nước Nga độc lập,
Lênin đã hoàn toàn giải phóng cho con người nơi đây, đồng thời cũng mở ra
con đường giải phóng cho các dân tộc khác.
Về chủ nghĩa xã hội:
Sau khi cách mạng tháng Mười Nga thành công, chính quyền Xô Viết tranh
thủ giải quyết những vấn đề cấp bách, củng cố chính quyền của giai cấp vô sản,

đặt nền móng cho việc xây dựng nên kinh tế xã hội chủ nghĩa. Tuy nhiên, đến
năm 1918, nước Nga có nội chiến (giai cấp địa chủ và tư bản bị lật đổ đã nổi
dậy chống chính quyền Xô Viết). Từ bên ngoài có sự can thiệp vũ trang của 14
nước để quốc do Anh, Pháp cầm đầu hòng bóp chết nhà nước Xô Viết còn non
trẻ.
Cuộc nội chiến và can thiệp nước ngoài làm nước Nga càng thêm khó khăn
chồng chất. Để đối phó với tình hình đó, Lênin nêu ra khẩu hiệu: “Tất cả cho
tiêu diệt kẻ thù” và thi hành chính sách “ Kinh tế cộng sản thời chiến” :
Tất cả nền công nghiệp được quốc hữu hóa và áp dụng cơ chế quản lý tập trung
nghiêm ngặt.
Giới thiệu độc quyền nhà nước về ngoại thương.
3

3









1.3

Kỷ luật nghiêm khắc đối với người lao động, và đình công có thể bị xử bắn.
Nghĩa vụ lao động công ích bắt buộc áp dụng cho “tầng lớp không lao động”.
Phân chia lương thực – trưng thu thặng dư nông sản từ nông dân theo giá trị tối
thiểu để phân phối tập trung cho dân số còn lại.
Lương thực và phần lớn hàng hóa được phối cấp và phân phối theo phương thức

tập trung.
Xí nghiệp tư nhân là bất hợp pháp.
Quản lý đường sắt theo dạng quân sự được giới thiệu.
Nhờ thực hiện chính sách “Kinh tế cộng sản thời chiến” mà Nhà nước Xô
Viết mới có lương thực để cung cấp cho quân đội và nhân dân, đảm bảo đánh
thắng thù trong giặc ngoài. Hơn thế nữa, trong thời gian này, khí thế lao động
của quần chúng được lên cao, “Ngày thứ bảy lao động Cộng sản chủ nghĩa”
được thực hiên trên toàn nước Nga. Cũng trong những năm này, Lênin đã tổ
chức lại toàn bộ nền kinh tế, trên cơ sở sử dụng năng lượng điện, xây dựng kế
hoạch điện khí hóa nước Nga – kế hoạch kinh tế quốc dân dài hạn đầu tiên của
Liên Xô: quy định 10- 15 năm thay đổi bộ mặt của nước Nga, cải tạo nền kinh
tế về cơ bản, đặt nền móng vững chắc cho chủ nghĩa xã hội.
Tuy nhiên, chính sách này chỉ mang tính tạm thời, trong hoàn cảnh có nội
chiến và can thiệp, cùng với việc kéo dài chính sách đó, nền kinh tế nước Nga bị
lâm vào tình trạng khủng hoảng trầm trọng. Nội chiến kết thúc, đến năm 1921,
đảng cộng sản Bolshevik đã chủ trương thay chính sách “ Kinh tế cộng sản thời
chiến” bằng chính sách “ Kinh tế mới” – NEP. Tổng sản lượng lương thực của
Liên Xô năm 1921 là 42,2 triệu tấn đã tăng lên đến 74,6 triệu tấn năm 1925.
Tổng sản lượng công nghiệp năm 1925 so với năm 1913 đạt 75, 5% ( đến năm
1926 khôi phục được 100%), nhiều ngành vượt mức trước chiến tranh.
Chính sách kinh tế mới đã tạo điều kiện phát triển lực lượng sản suất ở cả
thành thị và nông thôn, vì nó đáp ứng được yêu cầu của quy luật kinh tế của nền
sản xuất xã hội chủ nghĩa còn mang tính chất hàng hóa và có nhiều thành phần.
Nhờ đó, trong một thời gian ngắn, Nhà nước Xô Viết đã khôi phục được nền
kinh tế quốc dân bị chiến tranh tàn phá; đã tiến được một bước dài trong việc
củng cố khối liên minh công nông; một Nhà nước công nông nhiều dân tộc đầu
tiên trên thế giới đã được thành lập, đó là Liên bang Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Xô Viết.
Thực tiễn cách mạng Việt Nam.


4

4


-

Cuộc Cách mạng tháng Tám nǎm 1945 do Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh
lãnh đạo thắng lợi đã mở ra kỷ nguyên mới trong lịch sử dân tộc Việt Nam: kỷ
nguyên đất nước được độc lập, thống nhất, nhân dân lao động làm chủ xã hội và
tạo ra những tiền đề cần thiết, từng bước đưa đất nước phát triển theo con
đường xã hội chủ nghĩa.
Cách mạng nước ta có những thuận lợi lớn. Hệ thống chính quyền cách
mạng được xây dựng từ Trung ương tới cơ sở trên cả nước. Từ hoạt động bí
mật, Đảng ta đã trở thành Đảng lãnh đạo chính quyền. Đảng, Mặt trận Việt
Minh và Chủ tịch Hồ Chí Minh có uy tín lớn trong dân tộc, chính quyền cách
mạng được toàn dân ủng hộ. Phong trào cách mạng, tinh thần yêu nước của
nhân dân dấy lên từ cao trào giải phóng dân tộc và tổng khởi nghĩa tiếp tục phát
triển với những hình thức và nội dung mới nhằm xây dựng, bảo vệ chính quyền,
giữ vững thành quả cách mạng.
Bên cạnh những thuận lợi do thắng lợi của Cách mạng tháng Tám đem lại,
nhân dân ta và chính quyền cách mạng phải đương đầu với những khó khǎn, thử
thách nặng nề.
Những khó khǎn, thử thách to lớn cả về quân sự, chính trị, kinh tế và xã hội
đặt chính quyền cách mạng và vận mệnh đất nước ta trong thế "ngàn cân treo
sợi tóc". Tình hình trên đòi hỏi Đảng và chính quyền cách mạng có đường lối
chiến lược và sách lược đúng đắn, phát huy sức mạnh của toàn dân mới có thể
bảo vệ và phát triển thành quả cách mạng.
Về kinh tế - tài chính
Để giải quyết nạn đói, trước mắt Chính phủ kêu gọi toàn dân đoàn kết giúp

đỡ lẫn nhau qua các phong trào “hũ gạo cứu đói”, “Ngày cứu đói”. Ngoài ra
Chính phủ còn thực hiện các biện pháp tiết kiệm lương thực, cung cấp lương
thực để nấu rượu, làm quà bánh. Đồng thời, ban hành một số sắc lệnh nhằm giải
quyêt khó khăn về lương thực như Sắc lệnh cấm đầu cơ tích trữ lương thực ( 5 –
9 – 1945) , cho tự do lưu thông thóc gạo giữa các vùng. Để giải quyết tận gốc
nạn đói, Chính phủ đề ra phải đẩy mạnh sản xuất nông nghiệp, có biện pháp để
hỗ trợ cho nông dân như quy định giảm tô 25% cho nông dân, tạm cấp ruộng
đất công, ruộng của bọn Việt gian phản động và của thực dân Pháp cho nông
dân cày cấy, tổ chức nhân dân hàn khẩu những quãng đê bị vỡ, vận động nông
dân nhanh chóng cấy tái giá, giúp nông dân vay vốn , cung cấp giống, nhiều
nông cụ.
5

5


Về công nghiệp, Chính phủ chủ trương là kiên quyết giữ vững chủ quyền,
nhưng vẫn tiếp tục duy trì quan hệ với Pháp. Một số xí nghiệp của tư bản Pháp
và nước ngoài được tiếp tục kinh doanh như các xí nghiệp điện, nước nhưng
phải tuân theo luật lệ và chịu sự kiểm soát của Chính phủ. Chính phủ khuyến
khích tư bản tư nhân Việt Nam kinh doanh, phát triển sản xuất. Nhà nước ban
hành dự thảo luật Lao động, bảo vệ quyền lợi tối thiểu của người công nhân như
tiền lương, điều kiện làm việc, tiền trợ cấp khi thôi việc, quyền hưởng những
quyền lợi ngang nhau giữa nam và nữ công nhân, quyền tự do lập nghiệp đoàn,
tự do bãi công.
Về thương nghiệp, Chính phủ ra sắc lệnh thủ tiêu luật lệ ngăn sông, cấm chợ
do Pháp – Nhật đặt ra trước đây, sắc lệnh về việc bãi bỏ các nghiệp đoàn độc
quyền kinh doanh. Đồng thời, Chính phủ chủ trương khuyến khích buôn bán,
vận động các nhà buôn thành lập hội thương gia Việt Nam, phòng thương mại.
Về tài chính, Chính phủ kêu gọi sự đóng góp tự nguyện, ủng hộ và giúp đỡ

của nhân dân, thông qua phong trào “Quỹ độc lập”, theo sắc lệnh của Chính phủ
ngày 4- 9- 1945, “Tuần lễ vàng” được tổ chức ngày 19- 9 -1945 nhằm thu gom
số vàng trong nhân dân và nhất là của các nhà giàu dùng vào việc cần gấp và
quan trọng nhất của chúng ta lúc này là quốc phòng. Ngoài ra, Chính phủ còn
vận động sự giúp đỡ của nhân dân thông qua “hũ gạo nuôi quân”, “ nhận nuôi
cán bộ”.
Để tạo điều kiện cho nhân dân an tâm sản xuất, giảm bớt sưu cao, thuế nặng,
Chính phủ đã có biện pháp kịp thời và đúng đắn về chính sách thuế, bãi bỏ thuế
bất công vô lý vào ngày 7- 9-1945 như thuế thân, thuế rượu, muối và thuốc
phiện. Ngày 22-9-1945, miễn giảm thuế môn bài kinh doanh nhỏ dưới 50 đồng,
thuế chợ, xe đò, xe tay. Ngày 26-10-1945, Chính phủ ban hành nghị định giảm
thuế điền thổ 20%, miến thuế cho các vùng bị lụt ở Nam Bộ và Nam Trung Bộ.
Để bù vào khoản thiểu hụt ngân sách, Chính phủ đặt ra nguồn thu mới: “đảm
phụ đặc biệt” đánh vào ngành vận tải, bưu điện, “đảm phụ quốc phòng”. Chấn
chỉnh các nguồn thu đi dôi với việc thành lập bộ máy quản lý thu. Ngày 10-91945, Sở thuế quan và thuế gián thu, Nha thuế trực thu, Nha thuế trước bạ, cộng
sản và điền thổ được thành lập.
Cùng với đấu tranh tiền tệ, cuối tháng 10- 1945 ( đấu tranh với ngân hàng
Đông Dương đổi tiền, đối phó với “tiền quan kim” và “quốc tệ”), chúng ta đã bí
mật in tiền. Tháng 12- 1945, chúng ta cho lưu hành tiền lẻ, để giải quyết nạn
6

6


-

-

khan hiếm tiển lẻ và cho nhân dân làm quen với tiền mới của chính quyền cách
mạng sau đó từng bước tiến hành phát hành tiền trong cả nước.

Về văn hóa
Ngày 8 - 9 - 1945, Hồ Chí Minh ra quyết định thành lập Nha Bình dân học
vụ và kêu gọi nhân dân tham gia xóa nạn mù chữ. Từ 8 - 9 - 1945 đến 8–91946, có 76.000 lớp học và 2,5 triệu người được xóa nạn mù chữ.Trường phổ
thông các cấp và đại học khai giảng sớm với nội dung học và dạy đổi mới. Và
như vậy, đã đẩy lùi được giặc dốt.
Về chính trị
Như đã nói, cách mạng tháng Tám thành công, chính quyền ta còn hết sức
non trẻ, nhưng lại phải tiếp thu một gia tài đổ nát do chế độ cũ để lại. Hơn thế
nữa, các thế lực đế quốc, phản động quốc tế cấu kết bao vây, chống phá hòng
thủ tiêu thành quả cách mạng của nhân dân ta. Không chỉ có vậy, chính quyền
mới còn phải đấu tranh với sự chống phá của các thế lực phản động trong nước.
Chủ tịch Hồ Chí Minh rất coi trọng và thực thi nhiều biện pháp để tập hợp, sử
dụng nhân sĩ, trí thức, nhân tài phục vụ cho sự nghiệp kháng chiến và kiến quốc.
Nhiều nhân sĩ, trí thức được mời tham gia bộ máy hành chính và cơ quan
chuyên môn ở các cấp, nhất là ở Trung ương. Vĩnh Thuỵ (Bảo Đại) đã được cử
làm cố vấn Chính phủ lâm thời dân chủ cộng hoà theo Sắc lệnh số 23-SL do
Chủ tịch Hồ Chí Minh ký ngày 10-9-1945. Một trong những nhiệm vụ quan
trọng hàng đầu để củng cố và tăng cường chính quyền là phải thực hiện quyền
dân chủ cho quần chúng, phải "xúc tiến việc đi đến Quốc hội để quy định Hiến
pháp, bầu Chính phủ chính thức" . Vì vậy, ngày 3-9-1945, tức là một ngày sau
khi Nhà nước cách mạng ra đời, trong phiên họp đầu tiên của Chính phủ lâm
thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói:
"Trước chúng ta đã bị chế độ quân chủ chuyên chế cai trị, rồi đến chế độ thực
dân không kém phần chuyên chế, nên nước ta không có Hiến pháp. Nhân dân ta
không được hưởng quyền tự do dân chủ. Chúng ta phải có một Hiến pháp dân
chủ. Tôi đề nghị Chính phủ tổ chức càng sớm càng hay cuộc tổng tuyển cử với
chế độ phổ thông đầu phiếu. Tất cả công dân trai gái 18 tuổi đều có quyền ứng
cử và bầu cử, không phân biệt giầu, nghèo, tôn giáo, dòng giống ..." . Sau một
thời gian chuẩn bị, đẩy mạnh "Tăng gia sản xuất, tăng gia sản xuất ngay, tăng
gia sản xuất nữa" để chống đói, tiêu diệt giặc dốt, "biết chữ để cầm lá phiếu

thực hiện quyền công dân", ngày 6-1-1946, cuộc Tổng tuyển cử đã diễn ra. Lần
7

7


đầu tiên trong lịch sử dân tộc, nhân dân ta được thực hiện quyền làm chủ, bầu
những đại biểu chân chính vào các cơ quan quyền lực cao nhất của Nhà nước.
Thắng lợi của cuộc Tổng tuyển cử tháng 1-1946 đánh dấu mốc phát triển
nhảy vọt đầu tiên về thể chế dân chủ của nước Việt Nam.
Bên cạnh đó, các mặt của đời sống cũng đạt được những thành tích nhất định.
Về kinh tế, chỉ trong một thời gian ngắn – từ tháng 9 đến tháng 12- 1945,
diện tích trồng hoa màu ở Bắc Bộ tăng 3 lần. Năm 1946 so với năm 1944, sản
lượng lúa vượt 38,8%, nhờ đó nạn đói bị chặn đứng. Công nghiệp cũng được
phục hồi, nhiều xí nghiệp đóng cửa nay đã được khôi phục như mỏ than Làng
Cẩm, Phấn Mễ, Quyết Thắng, mỏ thiếc Tĩnh Túc, nhà máy cơ khí ở Trường Thi,
nhà mát giấy Đấp Cầu. Không chỉ có vậy, chúng ta còn khôi phục được 50 trong
số 60 chiếc cầu bị phá, sửa chữa được 500 km đường bộ, tu sửa 32 km đường
sắt chỉ sau hơn một tháng sau cách mạng tháng 8.
Về văn hóa, giáo dục, từ ngày 8 -9- 1945 đến ngày 8 – 9 – 1946, có 76000
lớp học và 2,5 triệu người được xóa nạn mù chữ. Các trường phổ thông và đại
học khai giảng sớm hơn với nội dung học và dạy đổi mới. Giặc dốt đã bị đẩy
lùi.
Về chính trị, bộ máy nhà nước được củng cố, trở nên vững mạnh hơn, nhận
được sự tín nhiệm của toàn thể nhân dân.

8

8



2.

II.1

Tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
Hồ Chí Minh đã nói: “ Yêu Tổ quốc, yêu nhân dân phải gắn liền với yêu chủ
nghĩa xã hội, vì có tiến lên chủ nghĩa xã hội thì nhân dân mình mỗi ngày một no
ấm thêm, Tổ quốc mỗi ngày một giàu mạnh thêm”.
Cơ sở lựa chọn mục tiêu độc lập – dân tộc.
Ngay từ đầu những năm 20 của thế kỷ XX, trong nhận thức về con đường
giải phóng dân tộc, Hồ Chí Minh đã sớm nhận ra hạn chế của các nhà yêu nước
đương thời. Do chưa có một đường lối kháng chiến rõ ràng, bất cập trước lịch
sử, dựa trên ý thức hệ phong kiến hoặc xu hướng dân chủ tư sản nên không
tránh khỏi thất bại và bị thực dân Pháp thẳng tay đàn áp các phong trào yêu
nước của nhân dân ta. Từ đó, Hồ Chí Minh đã đi bắt đầu con đường đi tìm
đường cứu nước.
Trong quá trình bôn ba ở nước ngoài, Hồ Chí Minh đã tìm hiểu các cuộc
cách mạng lớn trên thế giới, tìm hiểu nghiên cứu các kiểu nhà nước và khảo sát
cuộc sống của nhân dân các dân tộc bị áp bức. Tiếp xúc với Luận cương của
Lênin về các vấn đề dân tộc và thuộc địa, Hồ Chí Minh đã tìm thấy con đường
chân chính cho sự nghiệp cứu nước giải phóng dân tộc. Sự kiện đó đánh dấu
bước chuyển biến về chất trong tư tưởng Hồ Chí Minh, từ CN yêu nước đến CN
Lênin, từ giác ngộ dân tộc đến giác ngộ giai cấp, từ người yêu nước thành người
cộng sản. Lý luận về cách mạng không ngừng của Lênin có ảnh hưởng rất sâu
sắc đến tư tưởng của Người, cho thấy sự gắn bó chặt chẽ giữa 2 cuộc cách
mạng: cách mạng giải phóng dân tộc và cách mạng XHCN, cách mạng giải
phóng dân tộc là tiền đề cho cách mạng XHCN và cách mạng XHCN là sự
khẳng định của thành quả cách mạng của giải phóng dân tộc.
Theo Hồ Chí Minh, đối với các nước thuộc địa như nước Việt Nam giai đoạn

này, độc lập dân tộc trước nhất chỉ có thể có được khi cách mạng giải phóng
dân tộc thành công . Tuy nhiên, theo Hồ Chí Minh, mục tiêu cuối cùng của độc
lập dân tộc không chỉ dừng lại ở giai đoạn hoàn thành cuộc cách mạng giải
phóng dân tộc mà phải thực hiện tiếp cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa.
Có thể nhận thấy rằng dưới góc độ giải phóng, giành được độc lập dân tộc
mới chỉ là cấp độ đầu tiên. Giải phóng về mặt chính trị, tự bản thân nó chưa
phải là công cuộc giải phóng hoàn toàn, hay nói cách khác, độc lập dân tộc là
tiền đề đầu tiên để tiến lên chủ nghĩa xã hội, đi tới cuộc sống ấm no, tự do, hạnh
phúc. Lôgíc lịch sử tự nhiên của sự vận động phong trào giải phóng dân tộc tất
yếu dẫn tới chủ nghĩa xã hội do bản chất cách mạng triệt để của nó.
9

9


Nghiên cứu Cương lĩnh dân tộc của Lênin: bình đẳng, tự quyết, đoàn kết giai
cấp công nhân các dân tộc, Hồ Chí Minh đã nhận thấy rằng sau khi cách mạng
giải phóng dân tộc thắng lợi, phải tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa, độc
lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội.
- Độc lập dân tộc đòi hỏi trước hết phải đảm bảo cho dân tộc đó quyền tự quyết
dân tộc, quyền lựa chọn chế độ chính trị, lựa chọn con đường và mô hình phát
triển, độc lập cả về chính trị, kinh tế, văn hóa. Vì vậy, chỉ có thể tiến hành thành
công cuộc cách mạng giải phóng dân tộc, đất nước giành được độc lập thì dân
tộc ấy mới có thể chọn lựa con đường phát triển đất nước đi theo chủ nghĩa xã
hội. Nói cách khác, giành được độc lập dân tộc là tiền đề cho việc xây dựng chế
độ XHCN.
- Độc lập dân tộc cũng đòi hỏi phải thực sự bảo đảm quyền làm chủ của nhân
dân, nhân dân có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, con người được phát triển
toàn diện, hạnh phúc; con người được phát triển toàn diện, có năng lực làm chủ.
Độc lập tự do đòi hỏi phải xóa bỏ tình trạng áp bức bóc lột, nô dịch của dân tộc

này đối với dân tộc khác về kinh tế, chính trị và tinh thần. Sự trao đổi, hợp tác
kinh tế, văn hóa giữa các nước dựa trên nguyên tắc tôn trọng chủ quyền của
nhau, bình đẳng và cùng có lợi, vì một thế giới không có chiến tranh, không có
sự hoành hành của cái ác, của những sự tàn bạo và bất công, bảo đảm cho con
người sống trong an ninh và hạnh phúc. Vì vậy, để đảm bảo độc lập dân tộc
thực sự và giữ vững thành quả ấy, cả nước phải tiến lên chủ nghĩa xã hội, đó là
quy luật của thời đại, đáp ứng nguyện vọng ngàn đời của nhân dân ta là độc lập,
tự do, ấm no, hạnh phúc. Người nói “chúng ta tranh được tự do độc lập rồi mà
dân cứ chết đói, chết rét thì tự do, độc lập thì tự do, độc lập cũng không làm gì”.
Để giữ vững độc lập, tự chủ, để đảm bảo cho nhân dân một cuộc sống ấm no
hạnh phúc, chúng ta không có con đường nào khác là phải tiến lên chủ nghĩa xã
hội.
Với ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, cuộc cách mạng giải phóng
dân tộc không chỉ mang lại độc lập thống nhất cho tổ quốc, mà trong từng bước
phải mang lại tự do, hạnh phúc cho toàn dân.
II.2 Con đường thực hiện mục tiêu độc lập dân tộc và CNXH.
a, Cách mạng giải phóng dân tộc.
"Trên đời ngàn vạn điều cay đắng
Cay đắng chi bằng mất tự do".
(Nhật ký trong tù)
10

10


Và để có tự do, thì trước hết là phải giành lại độc lập cho Tổ quốc, giành lại
quyền dân chủ cho nhân dân Việt Nam.
Theo Hồ Chí Minh, cách mạng giải phóng dân tộc muốn thắng lợi trước nhất
phải đi theo con đường cách mạng vô sản, tư tưởng này thể hiện rõ qua luận
điểm “chỉ có giải phóng giai cấp vô sản thì mới giải phóng được dân tộc, cả hai

cuộc giải phóng chỉ có thể sự nghiệp của chủ nghĩa cộng sản và cuộc cách mạng
thế giới”. Người đã sớm chỉ ra cách mạng giải phóng dân tộc phải đi theo con
đường của cách mạng vô sản và cách mạng Việt Nam là một bộ phận khăng khít
của cách mạng thế giới. Lập trường dứt khoát này của Chủ tịch Hồ Chí Minh
vừa phù hợp với trào lưu tiến hóa của lịch sử, vừa nói đến tính triệt để trong tư
tưởng Hồ Chí Minh khi đặt cách mạng giải phóng dân tộc trong quỹ đạo của
cách mạng vô sản.
Cách mạng giải phóng dân tộc muốn thắng lợi còn phải do Đảng của giai cấp
công nhân lãnh đạo. Quan điểm này đã được Hồ Chí Minh khẳng định: muốn
cách mạng giải phóng dân tộc thành công trước hết phải có Đảng Cách mệnh
… Đảng có vững thì cách mạng mới thành công … Đảng muốn vững thì phải
có chủ nghĩa làm nòng cốt … bây giờ học thuyết nhiều, chủ nghĩa nhiều, nhưng
chủ nghĩa chân chính nhất, chắc chắn nhất, cách mạng nhất là chủ nghĩa Mác Lênin.
Bên cạnh đó, Người cũng chỉ rõ cách mạng giải phóng dân tộc là sự nghiệp
đoàn kết của toàn dân, trên cơ sở liên minh công – nông. Người nhận định rằng
cách mạng giải phóng dân tộc là việc chung của cả dân chúng chứ không phải
việc của một hai người, vì vậy phải đoàn kết toàn dân, sĩ, nông, công, thương
đều nhất trí chống lại cường quyền. Nhưng trong sự tập hợp rộng rãi đó không
được quên cái cốt của nó là công – nông: “công - nông là người chủ cách mệnh
… công nông là gốc cách mệnh”.
Hồ Chí Minh cũng chỉ rằng muốn giải phóng dân tộc phải thực hiện con
đường cách mạng bạo lực. Người khẳng định: "Dân tộc Việt Nam nhất định
phải được giải phóng. Muốn giải phóng thì phải đánh
phát xít Nhật và Pháp. Muốn đánh chúng thì phải có lực lượng quân sự. Muốn
có lực lượng quân sự thì phải có tổ chức. Muốn tổ chức thành công thì phải có
kế hoạch, có quyết tâm". Khẳng định giải phóng dân tộc bằng con đường cách
mạng bạo lực, song Hồ Chí Minh luôn chủ động, tích cực đưa ra giải pháp để
tranh thủ khả năng hòa bình và phát triển của cách mạng.
b, Cách mạng xã hội chủ nghĩa.
11


11


-

-

-

-

-

Ở Chủ tịch Hồ Chí Minh, độc lập dân tộc luôn gắn liền với tự do, hạnh phúc
của nhân dân. Bác nói "...nếu nước độc lập mà dân không hưởng hạnh phúc, tự
do, thì độc lập cũng không có ý nghĩa gì”.
Có được độc lập chưa đủ, độc lập nhưng người dân phải được hưởng hạnh phúc,
tự do. Đấy chính là đòi hỏi chính đáng, điều mà không phải ai khác chính cụ Hồ
đã chỉ ra. Hạnh phúc, tự do mới chính là mục đích cuối cùng, là mong ước thẳm
sâu nhất của mỗi người dân nước Việt. Mục tiêu của CNXH là: “CNXH trước
hết nhằm làm cho nhân dân lao động thoát nạn, bần cùng, làm cho mọi người có
công ăn việc làm, được ấm no và sống một đời hạnh phúc” ; “độc lập, tự do cho
dân tộc, hạnh phúc cho nhân dân, không ngừng nâng cao đời sống vật chất và
tinh thần của nhân dân, trước hết là nhân dân lao động”; “CNXH là làm sao cho
nhân dân đủ ăn, đủ mặc, ngày càng sung sướng, ai nấy được đi học, ốm đau có
thuốc, gì cả không lao động được thì nghỉ ngơi, những phong tục tập quán
không dần dần được xóa bỏ. Tóm lại xã hội ngày càng tiến, vật chất ngày càng
tăng, tinh thần ngày càng tốt đó là CNXH”. Chỉ có CNXH mới đem lại hạnh
phúc, ấm no cho nhân dân.

Từ những lời phát biểu ngắn gọn của Chủ tịch Hồ Chí Minh, chúng ta có thể
khái quát những nét đặc trưng bản chất sau đây của CNXH:
Một là CNXH là chế độ do nhân dân lao động làm chủ, nhà nước phải phát huy
quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động để huy động được tính tích cực và
sáng tạo của nhân dân vào sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Hai là CNXH là một xã hội có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lưc lượng sản
xuất ngày càng hiện đại và chế độ công hữu về tư liệu sản xuất chủ yếu nhằm
không ngừng nâng cao đời sống vật chất cho nhân dân, trước hết là nhân dân lao
động.
Ba là CNXH là một xã hội phát triển cao về văn hóa, đạo đức, trong đó, người
với ngừơi là bạn bè, là đồng chí là anh em, con người được giải phóng khỏi áp
bức, bóc lột, có cuộc sống tinh thần phong phú, được tạo điều kiện để phát triển
hết mọi khả năng sẳn có của mình.
Bốn là CNXH là một xã hội công bằng và hợp lý, làm nhiều hưởng nhiều, làm ít
hưởng ít, không làm thì không hưởng, các dân tộc đều bình đẳng, miền núi được
giúp đỡ để tiến kịp miền xuôi
Năm là CNXH là công trình tập thể của nhân dân, do nhân dân tự xây dựng lấy
dưới sự lãnh đạo của Đảng .

12

12


Đó là những bản chất của CNXH và cũng là những mục tiêu mà Đảng và
nhân dân ta đang ra sức phấn đấu để đạt tới.
Hệ thống động lực của chủ nghĩa xã hội trong tư tưởng Hồ Chí Minh rất
phong phú, trong đó bao trùm lên tất cả là động lực con người, trên cả hai bình
diện: cộng đồng và cá nhân. Đó là phát huy sức mạnh đoàn kết của cả cộng
đồng dân tộc - động lực chủ yếu để phát triển đất nước. Đó là phát huy sức

mạnh của con người được giải phóng để làm chủ. Muốn phát huy sức mạnh này
phải tác động vào nhu cầu, lợi ích của con người, phát huy động lực chính trị,
tinh thần đạo đức, truyền thống, quyền làm chủ của người lao động, thực hiện
công bằng xã hội … Đó là khắc phục các trở lực kìm hãm sự phát triển của chủ
nghĩa xã hội, bao gồm đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân, đấu tranh chống
tham ô, lãng phí, quan liêu, chống chủ quan, bảo thủ, giáo điều, lười biếng,
không chịu học tập cái mới.
Về con đường quá độ lên CNXH ở Việt Nam, Hồ Chí Minh cũng đã chỉ ra
những đặc điểm và mâu thuẫn của thời kỳ quá độ lên CNXH ở Việt Nam nhưng
bao trùm, “to nhất” là đặc điểm từ một nước nông nghiệp lạc hậu tiến thẳng lên
CNXH, không phải kinh qua giai đoạn phát triển TBCN”.
Về độ dài của thời kỳ quá độ, Người nói “xây dựng CNXH là một cuộc đấu
tranh cách mạng phức tạp, gian khổ lâu dài”.
Về nhiệm vụ lịch sử của thời kỳ quá độ, về phương diện kinh tế - văn hóa,
Hồ Chí Minh chỉ rõ: “.. phải xây dựng nền tảng vật chất và kỹ thuật của CNXH
…có công nghiệp và nông nghiệp hiện đại, có văn hóa và khoa học tiên tiến.
Trong quá trình cách mạng XHCN, chúng ta phải cải tạo nền kinh tế cũ và xây
dựng nền kinh tế mới mà xây dựng nhiệm vụ chủ chốt và lâu dài”. Về chính trị,
nội dung quan trọng nhất để đảm bảo thắng lợi của công cuộc cách mạng này là
giữ vững, tăng cường và phát huy vai trò lãnh đạo của Đảng. Đảng phải được
chỉnh đốn, nâng cao sức chiến đấu, có hình thức tổ chức phù hợp để đáp ứng
các yêu cầu, nhiệm vụ mới. Mặt khác phải củng cố, tăng cường vai trò của Nhà
nước, xây dựng những thể chế dân chủ, dựa vào dân, liên hệ chặt chẽ với dân,
lắng nghe ý kiến và chịu sự kiểm soát của nhân dân, thực sự là Nhà nước của
nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Củng cố và mở rộng Mặt trận dân tộc
thống nhất; xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội, trên cơ sở liên minh công
nhân, nông dân và trí thức, do Đảng Cộng sản lãnh đạo; củng cố và tăng cường
sức mạnh toàn bộ hệ thống chính trị cũng như từng thành tố của nó trong suốt
13


13


3.

thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là tư tưởng nhất quán của Hồ Chí Minh,
đồng thời phải xây dựng đội ngũ cán bộ đủ đức và tài, đáp ứng yêu cầu của sự
nghiệp cách mạng XHCN. Về phương diện quốc tế, theo Hồ Chí Minh, sự
nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta buộc chúng ta phải có ý thức độc
lập, tự chủ, tự lực, tự cường, tranh thủ các điều kiện quốc tế thuận lợi, hạn chế
những khó khăn để xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội.
Về bước đi của thời kỳ quá độ, Người đã chỉ rõ: “Ta xây dựng CNXH từ 2
bàn tay trắng đi lên thì khó khăn còn nhiều và lâu dài”, “phải làm dần dần”,
“không thể một sớm một chiều”, “ai nói dễ là chủ quan và sẽ thất bại”. Tư
tưởng chủ đạo của Hồ Chí Minh về bước đi của thời kỳ quá độ ở Việt Nam phải
qua nhiều bước, “bước ngắn, bước dài, tuỳ theo hoàn cảnh”, nhưng chớ ham
làm mau, ham rầm rộ … đi bước nào vững chắc bước ấy, cứ tiến dần dần ..”
Về phương pháp, biện pháp, cách thức tiến hành xây dựng CNXH ở Việt
Nam, Người luôn nhắc nhở phải nêu cao tinh thần độc lập, tự chủ, sáng tạo,
chống giáo điều rập khuôn kinh nghiệm nước ngoài, phải suy nghĩ, tìm tòi, sáng
tạo ra cách làm phù hợp với thực tiễn Việt Nam.
Liên hệ với quá trình đổi mới của Việt Nam hiện nay.
Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh vào thực tiễn đi lên CNXH ở nước ta giai
đoạn hiện nay, Đại hội lần thứ IX của Đảng đã khẳng định:
Trước tình hình hiện nay, mặc dù CNXH đang ở vào giai đoạn thoái trào tuy
nhiên CNXH vẫn là sự phát triển tất yếu của lịch sử xã hội loài người và sự lựa
chọn đi theo con đườg XHCN của Hồ Chí Minh và nhân dân là sự lựa chọn duy
nhất đúng đắn. Đất nước đang đứng trước những thử thách lớn lao của thời đại,
hoàn cảnh lịch sử đòi hỏi Đảng và Nhà nước ta phải kiên định con đường mục
tiêu của mình và phải lấy chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền

tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động .
Con đường đi lên của nước ta là sự phát triển quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ
qua chế độ tư bản chủ nghĩa, tức là bỏ qua việc xác lập vị trí thống trị của quan
hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng tư bản chủ nghĩa, nhưng tiếp thu, kế thừa
những thành tựu mà nhân loại đã đạt được dưới chế độ tư bản chủ nghĩa, đặc
biệt về khoa học công nghệ, để phát triển nhanh lực lượng sản xuất, xây dựng
nền kinh tế hiện đại. Ngày nay, để giữ vững độc lập dân tộc trong xây dựng
CNXH giai đoạn hiện nay là bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ, giữ vững định hướng
XHCN, tự chủ về kinh tế và giữ gìn phát huy bản sắc văn hóa dân tộc. Nhân tố
quyết định và đảm bảo cho sự phát triển đất nước đúng định hướng đó là tăng
14

14


cường vai trò lãnh đạo của Đảng, sự quản lý hiệu quả của Nhà nước, sự đoàn
kết thống nhất của các tổ chức chính trị và đội ngũ cán bộ đản g viên.
Với sự soi đường của tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng đã xác định cụ thể những
bước đi như sau :
“Xây dựng chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, tạo ra sự biến
đổi về chất của xã hội trên tất cả các lĩnh vực là sự nghiệp rất khó khăn, phức
tạp, cho nên phải trải qua một thời kỳ quá độ lâu dài với nhiều chặng đường,
nhiều hình thức tổ chức kinh tế, xã hội có tính chất quá độ. Trong các lĩnh vực
của đời sống xã hội diễn ra sự đan xen và đấu tranh giữa cái mới và cái cũ…”.
“Động lực chủ yếu để phát triển đất nước là đại đoàn kết toàn dân trên cơ sở
liên minh giữa công nhân, nông dân và trí thức do Đảng lãnh đạo, kết hợp hài
hòa các lợi ích cá nhân, tập thể và xã hội, phát huy mọi tiềm năng và nguồn lực
của các thành phần kinh tế, của toàn xã hội”.
Đảng và Nhà nước ta chủ trương thực hiện nhất quán và lâu dài chính sách
phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị

trường, có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa; đó chính
là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Mục đích của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là phát
triển lực lượng sản xuất, phát triển kinh tế để xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật
của chủ nghĩa xã hội, nâng cao đời sống nhân dân. Phát triển lực lượng sản xuất
hiện đại gắn liền với xây dựng quan hệ sản xuất mới phù hợp trên cả ba mặt sở
hữu, quản lý và phân phối.
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa có nhiều hình thức sở hữu,
nhiều thành phần kinh tế, trong đó kinh tế Nhà nước giữ vai trò chủ đạo; kinh tế
Nhà nước cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc.
"Tăng trưởng kinh tế gắn liền với bảo đảm tiến bộ và công bằng xã hội ngay
trong từng bước phát triển. Tăng trưởng kinh tế đi đôi với phát triển văn hóa và
giáo dục, xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, làm
cho chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh giữ vai trò chủ đạo trong đời
sống tinh thần của nhân dân, nâng cao dân trí, giáo dục và đào tạo con người,
xây dựng và phát triển nguồn nhân lực của đất nước".
Tóm lại, tư tưởng Hồ Chí Minh về CNXH về con đường quá độ lên CNXH ở
VN thực sự là nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho sự nghiệp đổi mới của
chúng ta hiện nay. Vấn đề là phải tiếp tục làm quá triệt những tư tưởng ấy trong
cơ chế, chính sách và pháp luật của Đảng và Nhà nước. Trong tổ chức và hành
15

15


động của mỗi cán bộ, Đảng viên, chỉ có bằng hiệu quả thực tế trong đổi mới
kinh tế và chính trị, đem lại sự cải thiện vật chất và tinh thần cho nhân dân,
chúng ta mới củng cố được trong quần chúng niềm tin mà Hồ Chí Minh đã
khẳng định: “Con đường tiến tới của CNXH của các dân tộc là con đường
chung của thời đại, của lịch sử, không ai ngăn cản nổi”.

III.

Kết luận

Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định “Nếu nước độc lập mà dân được hưởng
hạnh phúc, tự do thì độc lập không có ý nghĩa gì”.
Cũng như bao nhà Nho yêu nước khác có cùng quan điểm "ái quốc là ái dân"
nhưng trong tư tưởng Người không dừng lại ở ý thức mà trở thành ý chí, quyết
tâm thực hiện đến cùng sự nghiệp giải phóng giai cấp, dân tộc.
Hơn thế nữa, độc lập dân tộc ở tư tưởng Hồ Chí Minh luôn gắn liền với tự
do, hạnh phúc của nhân dân. Giành được độc lập thôi chưa đủ, trong nền độc
lập đó mọi người đều phải được hưởng ấm no, tự do, hạnh phúc, nếu không độc
lập chẳng có nghĩa lý gì. Hồ Chí Minh nói: “Chúng ta đã hy sinh, đã giành được
độc lập, dân chỉ thấy giá trị của độc lập khi ăn no mặc đủ ấm”.
Mặc dù hiện nay đất nước ta trong môi trường hòa bình xây dựng CNXH,
nhưng các lực lượng thù địch đang ra sức dùng nhiều con đường, bằng nhiều
biện pháp khác nhau, từ kinh tế đến văn hóa, khoa học, công nghệ, dân tộc và
tôn giáo, nhằm thay đổi bản chất của chế độ chúng ta. Hơn lúc nào hết mỗi cán
bộ, đảng viên và nhân dân phải luôn nâng cao cảnh giác cách mạng, đồng thuận
trong nhận thức và hành động để hiện thực hóa và phát huy tư tưởng của Bác
Hồ kính yêu về độc lập dân tộc gắn liền với CNXH .
Giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc và CNXH, bước vào thế kỷ XXI, dưới
sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, nhân dân ta tiếp tục tiến lên để gặt
hái thêm nhiều thắng lợi to lớn hơn trong công cuộc đổi mới, đẩy mạnh công
nghiệp hoá, hiện đại hoá, xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội và bảo vệ vững
chắc Tổ quốc vì mục tiêu dân giàu nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh,
tiến kịp và sánh vai cùng các nước giàu có trong khu vực và trên thế giới.

16


16



×