Tải bản đầy đủ (.doc) (33 trang)

Tiểu luận : Tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tôc pot

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (929.93 KB, 33 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC MỞ TP.HCM
KHOA QUẢN TRỊ KINH DOANH
LỚP NL01

ĐỀ TÀI TIỂU LUẬN BỘ MÔN : “ TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH ”:
Tư tưởng Hồ Chí Minh
về vấn đề dân tộc
GVHD: Cô Nguyễn Thị Mộng Tuyền
Nhóm thực hiện: Nhóm 2
Tháng 2, Năm 2012
Tiểu luận: Tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc
Nhóm thực hiện: NHÓM 2
Thành viên
Họ và Tên Mã số sinh viên Ghi Chú
1.Nguyễn Phương Linh – 1054010262 - Nhóm trưởng( ĐT - 0907752511)
2.Nguyễn Thị Quế Chinh – 1054010046
3.Nguyễn Thị Mai Phương – 1054010425
4.Lý Đặng Quế Phương – 1054010421
5.Đoàn Lê Tuấn – 1054010664
6. Bùi Thị Trung Hiếu – 1054012595
7.Lê Thanh Phong – 1054012408
8.Nguyễn Huy Hoàng – 1054012177
9.Võ Anh Thuỷ – 1054010566
10.Hà Thanh Hương – 1054010208
Nhóm 2 Trang 2
Tiểu luận: Tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc
MỤC LỤC
Về vấn đề giai cấp: 20
TỔNG KẾT……………………….…………………………….…………………………………………………… 30
Nguồn tham khảo:
 Giáo trình tư tưởng Hồ Chí Minh – Bộ Giáo dục và đào tạo, NXB Chính trị quốc gia năm


2010.
 Giáo trình tư tưởng Hồ Chí Minh – Hội đồng trung ương, NXB Chính trị quốc gia năm
2010
 Trang web:


,

Nhóm 2 Trang 3
Tiểu luận: Tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc
PHẦN I: SƠ LƯỢC QUAN
ĐIỂM CỦA MÁC, ĂNGGHEN,
LÊNIN VỀ VẤN ĐỀ DÂN TỘC
Dân tộc là vấn đề rộng lớn, mang tính lịch sử, bao gồm những quan hệ về chính
trị, kinh tế, lãnh thổ, pháp lý, tư tưởng và văn hoá giữa các dân tộc, các nhóm dân tộc và bộ
tộc.
Theo quan điểm của Chủ nghĩa Mác-Lênin, dân tộc là sản phẩm của quá trình
phát triển lâu dài của lịch sử.
 Mác-Ăngghen đã đặt nền móng tư tưởng cho việc giải quyết vấn đề dân
tộc một cách khoa học:
 Hình thức cộng đồng tiền dân tộc: thị tộc, bộ tộc, bộ lạc. Sự phát
triển của chủ nghĩa tư bản dẫn đến sự ra đời của các dân tộc tư bản chủ nghĩa. Chủ
nghĩa tư bản bước sang giai đoạn đế quốc chủ nghĩa, các nước đế quốc thi hành
Nhóm 2 Trang 4
Tiểu luận: Tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc
chính sách vũ trang xâm lược, cướp bóc, nô dịch các dân tộc nhỏ từ đó xuất hiện
vấn đề dân tộc thuộc địa.
 Mác và Ăngghen nêu lên quan điểm cơ bản có tính chất phương
pháp luận để nhận thức và giải quyết vấn đề nguồn gốc, bản chất của dân tộc,
những quan hệ cơ bản của dân tộc, thái độ của giai cấp công nhân và Đảng của giai

cấp công nhân về vấn đề dân tộc.
 Lênin kế thừa và phát triển những quan điểm trên thành một hệ thống lý
luận toàn diện, sâu sắc, tạo cơ sở cho cương lĩnh, đường lối , chính sách dân tộc của các
Đảng cộng sản về vấn đề dân tộc. Trong đó đáng chú ý là các vấn đề:
 Sự thức tỉnh ý thức dân tộc, phong trào đấu tranh chống áp bức dân
tộc sẽ dẫn đến hình thành các quốc gia dân tộc độc lập.
 Với việc tăng cường và phát triển các mối quan hệ giữa các dân tộc
sẽ dẫn tới việc phá hủy hàng rào ngăn cách giữa các dân tộc, thiết lập sự thống nhất
quốc tế của Chủ nghĩa tư bản, của đời sống kinh tế - chính trị - xã hội . . .
 Các dân tộc hoàn toàn bình đẳng.
 Các dân tộc có quyền tự quyết trong việc lựa chọn chế độ chính trị,
xu hướng phát triển đi lên.
 Đoàn kết giai cấp công nhân, những người lao động chính quốc và
thuộc địa chống Chủ nghĩa đế quốc, khắc phục tâm lý dân tộc nước lớn, kỳ thị dân
tộc, tự ti dân tộc.
Nhóm 2 Trang 5
Tiểu luận: Tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc
Nhóm 2 Trang 6
Tiểu luận: Tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc
PHẦN II: TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
VỀ VẤN ĐỀ DÂN TỘC
Là dân nước thuộc địa, Nguyễn Ái Quốc sớm nhận thức vấn đề dân tộc, nhận thức
sâu sắc tình cảnh, nguyện vọng các dân tộc thuộc địa, nung nấu ý chí quyết tâm giải phóng
dân tộc. Người tiếp thu và phát triển sáng tạo, độc đáo những quan điểm chủ nghĩa Mác Lê
Nin về vấn đề dân tộc, đặt cách mạng giải phóng dân tộc vào quỹ đạo cách mạng vô sản,
giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người, thống nhất với nhau trong
cách mạng vô sản.
1. Vấn đề dân tộc thuộc địa :
a. Thực chất của vấn đề dân tộc thuộc địa:
Đấu tranh chống chủ nghĩa thực dân, giải phóng dân tộc:

Nhóm 2 Trang 7
Tiểu luận: Tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc
Hồ Chí Minh không bàn về vấn đề dân tộc nói chung.Xuất phát từ nhu cầu khách
quan của dân tộc Việt Nam, đặc điểm của thời đại, Người quan tâm đến các thuộc địa.
Khi các nước đế quốc đi xâm chiếm thuộc địa để mở rộng thị trường, chúng thực
hiện sự áp bức về chính trị, bóc lột về kinh tế, nô dịch về văn hoá đối với các nước bị xâm
chiếm - thì vấn đề dân tộc trở thành vấn đề dân tộc thuộc địa.
Vấn đề dân tộc thuộc địa thực chất là vấn đề đấu tranh giải phóng dân tộc thuộc địa
là vấn đề đấu tranh chống chủ nghĩa thực dân, xoá bỏ ách thống trị, áp bức, bóc lột của
nước ngoài,giải phóng dân tộc, giành độc lập dân tộc, thực hiện quyền dân tộc tự quyết,
thành lập Nhà nước dân tộc độc lập.
Mục đích chính của công cuộc "khai hoá vǎn minh" mà bọn tư bản châu Âu tiến
hành ở các thuộc địa là bóc lột về kinh tế, nô dịch về chính trị. Vì vậy, mục tiêu của những
chính sách, những cải cách hay những luật lệ được ban hành ở thuộc địa chỉ là: Kìm hãm
sự phát triển công nghiệp ở thuộc địa, hướng nó vào việc phục vụ nền kinh tế chính quốc
vào quyền lợi của các công ty của bọn tư bản độc quyền. Với chính sách công nghiệp của
chủ nghĩa thực dân. Những người nông dân, công nhân ở các thuộc địa bị bóc lột tận
xương tuỷ và trở thành những người nô lệ mới.

Những vấn đề trên đây đã được Hồ Chí Minh vạch ra tìm thấy trong hàng loạt bài
viết của Người. Người ký tên Nguyễn Ái Quốc đǎng trên các báo chí đầu những nǎm 20
như báo Le Paria, L' Humanite, tập san Inprekorr, trong các bài phát biểu trên nhiều diễn
đàn quốc tế như Quốc tế Cộng sản, Quốc tế Công hội đó Đây là kết quả hơn chục nǎm
lao động, khảo sát của Nguyễn Ái Quốc tại nhiều thuộc địa, ở nhiều châu lục. Trong các
bài viết của mình, Người đưa ra nhiều con số, nhiều sự kiện, con người, địa danh do chính
Người đã tiếp xúc, đã đi qua Vì vậy, những nhận định đánh giá của Người mang tính
khái quát cao, phản ánh trung thực sự kiện.
Nhóm 2 Trang 8
Tiểu luận: Tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc
Tờ báo Le Paria (Người cùng khổ)

Nhóm 2 Trang 9
Tiểu luận: Tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc
Nguyễn Ái Quốc phát biểu tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ 18
Đảng Xã hội Pháp ở Tua, ủng hộ luận cương của Lênin về vấn đề dân tộc
và thuộc địa. Người tham gia sáng lập Đảng Cộng sản Pháp và trở thành
người cộng sản Việt Nam đầu tiên (12/1920). Ảnh tư liệu: TTXVN
Có thể nói, nửa đầu những nǎm 20 Nguyễn Ái Quốc viết rất nhiều về chủ nghĩa
thực dân, trong đó có nhiều bài về chính sách cai trị, bóc lột ở các thuộc Pháp. Đó là: Tội
ác của chủ nghĩa thực dân (1921), Dưới cuộc khai hoá cao cả, Những kẻ khai hoá, Khai
hoá hiện đại, (1922), Chế độ thực dân, chính sách thực dân Anh (1923), Công cuộc
khai hoá giết người, Chủ nghĩa thực dân bị lên án, Tâm địa thực dân, chính sách ngu dân
(1924), Bản án chế độ thực dân Pháp, Chủ nghĩa đế quốc Pháp ở Viễn Đông, Lối cai trị
người Anh, Lênin và các dân tộc thuộc địa, Phong trào cách mạng ở Đông Dương (1925),
Vǎn minh Pháp ở Đông Dương (1926), Sự thống trị của đế quốc Pháp ở Đông Dương,
Đường cách mệnh (1927), Chủ nghĩa đế quốc, kẻ tiêu diệt người bản xứ (1928), v.v Đây
là những bài viết vô cùng phong phú về nội dung cũng như cách thể hiện. Trong đó,
Nguyễn Ái Quốc vừa lên án bọn thực dân mở rộng xâm chiếm thuộc địa vừa tố cáo những
thủ đoạn bóc lột tàn bạo của chúng. Bằng số liệu thống kê, Người đã chỉ rõ: diện tích
các thuộc địa Anh gấp 252 lần nước Anh và với Pháp là 19 lần. Số dân các thuộc địa Anh
đông gấp 8 lần rưỡi dân số nước Anh, còn dân Pháp ít hơn dân thuộc địa của họ là 16.600
Nhóm 2 Trang 10
Tiểu luận: Tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc
người. Nếu tính trên phạm vi thế giới, thì toàn bộ lãnh thổ các nước thuộc địa gấp 5 lần
lãnh thổ chính quốc, còn dân số chính quốc lại chưa bằng 3/5 số dân thuộc địa .
Qua những con số thống kê, so sánh ấy đã thể hiện một bức tranh tương phản, chứa
đựng trong đó bạo nghịch lý, chất chồng mâu thuẫn giữa số ít tư bản châu Âu với hàng
chục triệu nười dân châu á, châu Phi; và từ đó Nguyễn Ái Quốc đã vạch trần thủ đoạn bóc
lột rất tàn bạo của thực dân Anh cũng như thực dân Pháp đối với người bản xứ. Người
nông dân ở ấn Độ trước sự xâm lấn của thực dân Anh cũng như người nông dân xứ Đông
Dương ở châu á hay người xứ Đahômây ở Tây Phi trước sự "khai hoá vǎn minh" của người

Pháp đều có chung một số phận: bị đuổi ra khỏi ruộng đất của mình để sau đó lại bị trói
chặt vào ruộng đất đồn điền của ông chủ mới, hoặc bị đưa vào các trại lính rồi sau đó bị
dồn sang châu Âu làm bia đỡ đạn cho các ông chủ. Tại diễn đàn Quốc tế Cộng sản (Đại hội
V, phiên 22), Nguyễn Ái Quốc đã tố cáo: "Bộ Thuộc địa đã đặt ra kế hoạch biến nhiều
vùng ở châu Phi thành những vùng đồn điền rộng lớn của tư nhân, và biến dân bản xứ ở
những nước này thành những dân nô lệ thật sự, bị trói buộc vào ruộng đất của những ông
chủ mới ". Còn "Chính quyền thực dân ở Đông Dương đã biến thành những kẻ buôn nô lệ
và bán những người dân Bắc Kỳ cho các chủ đồn điền ở trên các đảo Thái Bình Dương;
chúng kéo dài thời hạn đi lính của dân bản xứ từ 2 đến 4 nǎm"
Số phận của những người nông dân ở đây khó khǎn hơn nhiều so với những nông
dân ở Anh và nhiều nước khác trong thời kỳ tích luỹ tư bản nguyên thuỷ trước đây. Nếu
như người nông dân ở nước Anh sau khi bị đuổi khỏi ruộng đất của mình do hậu quả của
chính sách "Rào đất cướp ruộng" thì họ vẫn lại được thu nạp vào các nhà máy xí nghiệp ở
các thành thị, các khu công nghiệp. Còn những người nông dân châu á, châu Phi, trước các
chính sách của "các quan khai hoá" thì thân phận của họ lại tồi tệ hơn, bị bóc lột nhiều hơn.
Còn đối với nền công, thương nghiệp thuộc địa ở đây thì sao? Không phải chủ
nghĩa thực dân bỏ rơi nó, cắt đứt quan hệ với họ. Chính sách của bọn thực dân là: Kìm hãm
sự phát triển công nghiệp của bản địa, bắt nền công nghiệp bản địa phục vụ nền công
nghiệp chính quốc, tǎng cường bóc lột công nhân thuộc địa.
Chính sách ấy chỉ có thể tạo ra một nền công nghiệp yếu ớt, phụ thuộc. Chính sách
ấy cũng chỉ có thể sản sinh ra những nhà tư sản dân tộc yếu đuối, què quặt "tiên thiên bất
túc", phụ thuộc mà thôi. Còn số phận của những người công nhân thì ngày một khó khǎn
thêm. Đúng như Nguyễn Ái Quốc đã đánh giá tổng quát: "Với sự giúp đỡ hào hiệp của chủ
nghĩa đế quốc Pháp, ở Đông Dương thật ra là đã phục hồi chế độ nô lệ". Vì vậy, kết cục là:
"ở đây, nền vǎn minh đã bị tiêu tan".
Nhóm 2 Trang 11
Tiểu luận: Tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc
Những văn bản do Nguyễn Ái Quốc soạn thảo trong thời gian hoạt động ở nước ngoài.
Cuốn sách “Bản án chế độ thực dân Pháp” (1925) và “Bản án yêu sách 8 điểm gửi Hội
nghị Véc xây đòi các quyền tự do, độc lập cho các dân tộc thuộc địa” (1919), Báo Le Paria.

Ảnh: T
Những bài nói, bài viết của Nguyễn Ái Quốc về các thuộc địa (trong đó chủ yếu là
các thuộc địa của Pháp) trước Cách mạng Tháng Tám nǎm 1945 (chủ yếu trong nǎm 20)
không chỉ là những lời tố cáo bản chất cướp bóc của chủ nghĩa thực dân mà còn là những
luận điểm khoa học mang tính cách mạng sáng tạo lớn, ít thấy ở những tác giả cùng thời.
Đó là sự đánh giá cao vai trò chủ động và cách mạng của thuộc địa và thường xuyên gắn
bó những vấn đề kinh tế với những vấn đề chính trị - xã hội. Những quan điểm cách mạng
trên đây được thể hiện nhất quán trong các bài viết cũng như các tác phẩm Bản án chế độ
thực dân Pháp, Đường cách mệnh. Những nǎm 20 cũng như trong Chính cương vắn tắt,
Chương trình Việt Minh, "Tuyên ngôn độc lập" trong những nǎm 30, 40 của Người.
Nếu như C.Mác bàn nhiều về cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa tư bản, V.I.Lênin
bàn về cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa đế quốc, thì Hồ Chí Minh tập trung bàn về cuộc
đấu tranh chống chủ nghĩa thực dân. C.Mác và V.I. Lênin bàn nhiều về đấu tranh giai cấp ở
các nước tư bản chủ nghĩa, thì Hồ Chí Minh bàn nhiều về đấu tranh giải phóng dân tộc ở
thuộc địa.
Nhóm 2 Trang 12
Tiểu luận: Tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc
Lựa chọn chọn đường phát triển của dân tộc:
Hồ Chí Minh khẳng định phương hướng phát triển của dân tộc trong bối cảnh thời
đại mới là chủ nghĩa xã hội, vì thế Người đã tiến hành cuộc tìm tòi lịch sử và cuộc hành
trình ra thế giới để xem xét họ làm thế nào nhằm trở về "giúp đồng bào chúng ta", mở rộng
nhận thức của Người về vấn đề dân tộc và con người. Người đã thấy không chỉ dân tộc
mình mất tự do mà nhiều dân tộc khác cũng "cùng chịu chung một nỗi đau khổ: sự bạo
ngược của chế đô thực dân" và không chỉ đồng bào mình bị đối xử như nô lệ mà nhân dân
lao động các nước khác không kể chủng tộc, màu da hay quốc tịch cũng "đều là nạn nhân
của một kẻ sát nhân : chủ nghĩa tư bản quốc tế". Người nhận xét: "Vậy là dù màu da có
khác nhau, trên đời này chỉ có hai giống người: giống người bóc lột và giống người bị bóc
lột, mà cũng chỉ có một mối tình hữu ái là thật mà thôi: Tình hữu áí vô sản". Từ nhận thức
chung đó, Hồ Chí Minh coi vấn đề giải phóng dân tộc và con người không chỉ là vấn đề
của dân tộc mình mà phải là vấn đề toàn cầu "Mặc dầu chúng ta là những người khác

giống: khác nước, khác tôn gíáo chúng ta đấu tranh vì một lý tưởng chung: giải phóng
đồng bào chúng ta và giành độc lập cho Tổ quốc chúng ta" và trong cuộc chiến đấu đó
"chúng ta không đơn độc vì chúng ta có tất cả các dân tộc của chúng ta ủng hộ". Có thể
nói, hiểu biết của Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc và con người Việt Nam đã mở rộng ra
tầm thế giới và nhân loại nó đã bổ sung thêm tiêu chuẩn cho Hồ Chí Minh trong sự lựa
chon con đường cho cách mạng Việt Nam trước thời đại lịch sử mới: con đường đó phải
giải quyết vấn đề dân tộc và con người không chỉ cho dân tộc và con người Việt Nam mà
cho tất cả các dân tộc bị áp bức và nhân dân lao động bị bóc lột trên toàn thế giới.
Như thế, từ và vì vấn đề dân tộc - con người của Việt Nam để đi ra thế giới, hòa
nhập vào nhân loại và hướng theo dòng tiến hóa của thời đại quan niệm của Hồ Chí Minh
về giải phóng dân tộc: giải phóng xã hội, giải phóng con người theo học thuyết cách mạng
khoa học, bằng con đường cách mạng vô sản hướng tới CNXH với đầy đủ các yếu tố Dân
tộc - Nhân loại - Thời đại. Sự thống nhất đó đã khẳng định ngay từ đầu những nhân tố cơ
bản cho sự thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Như vậy, con đường của cách mạng hướng
đến CNXH ở Việt Nam không phải là ý muốn chủ quan nào mà là đòi hỏi nội tại của dân
tộc, phù hợp với hướng tiến hóa của nhân loại trong thời đại mới sau Cách mạng Tháng
Mười, nó hội đủ các yếu tố thiên thời - địa lợi - nhân hòa. Điều đó giải thích tại sao trong
khi các học thuyết khác không có cơ hội bám rễ ở Việt Nam thì chủ nghĩa Mác - Lênin:
con đường cách mạng vô sản được Hồ Chí Minh truyền bá vào nước ta đã được tiếp nhận
nhanh chóng, phát triển vững chắc và cuộc cách mạng ở Việt Nam luôn được sự hậu thuẫn
mạnh mẽ của các dân tộc và nhân dân lao động toàn thế giới.
Vấn đề dân tộc trong thang giá trị truyền thống của văn hóa Việt Nam cùng với lý
luận Mác - Lênin không chỉ là cơ sở là tiêu chí quyết định con đường cách mạng hướng tới
Nhóm 2 Trang 13
Tiểu luận: Tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc
mục tiêu XHCN vì Dân tộc của Hồ Chí Minh mà còn giúp Người giải quyết một cách sáng
tạo trong cách mạng nước ta, từ xây dựng lý luận cách mạng đến chỉ đạo hoạt động thực
tiễn: từ việc xây dựng đường lối, hoạch định chính sách, tổ chức lực lượng, xác định
phương pháp cách mạng đến bước đi của cách mạng Việt Nam, trong cả sự nghiệp giải
phóng dân tộc và phục hưng đất nước, thích hợp với điều kiện trong nước và sự vận động

của quan hệ quốc tế.
Sự sáng tạo được thể hiện ngay trong việc Hồ Chí Minh xây dựng, hình thành sự
kết hợp các nhân tố dẫn tới sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam: Chủ nghĩa Mác -
Lênin, phong trào yêu nước và phong trào của giai cấp công nhân. Trong Chính cương
Sách lược và Điều lệ vắn tắt của Đảng, Hồ Chí Minh xác định mục tiêu cuối cùng là xây
dựng CNCS ở Việt Nam, đồng thời Người cũng cụ thể hóa mục tiêu là làm cho Việt Nam
hoàn toàn độc lập, giải phóng công nông khỏi áp bức của đế quốc và phong kiến, thiết lập
nền dân chủ mới trên tất cả các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa xã hội, thực hiện giải
phóng dân tộc giải phóng xã hội và giải phóng con người và tạo ra những điều kiện phát
triển mới vì lợi ích dân tộc và con người Việt Nam.
"Đi tới xã hội cộng sản" là hướng phát triển lâu dài. Nó quy định vai trò lãnh đạo
của Đảng cộng sản, đoàn kết mọi lực lượng dân tộc, tiến hành các cuộc cách mạng chống
đế quốc và chống phong kiến triệt để.
Con đường đó phù hợp với hoàn cảnh lịch sử cụ thể ở thuộc địa. Đó cũng là nét độc
đáo, khác biệt với con đường phát triển của các dân tộc, khác biệt với con đường phát triển
của các dân tộc đã phát triển lên chủ nghĩa tư bản ở phương Tây.
b. Độc lập dân tộc – nội dung cốt lõi của vấn đề dân tộc thuộc địa:
Nhóm 2 Trang 14
Tiểu luận: Tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc
Cách tiếp cận từ quyền con người:
Hồ Chí Minh hết sức trân trọng quyền con người. Người đã tìm hiểu và tiếp xúc với
Tuyên ngôn độc lập 1776 của Mỹ và Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền 1791 của Cách
mạng Pháp, như quyền bình đẳng, quyền được sống, quyền tự do và quyèn mưu cầu hạnh
phúc. Đó là "những lẽ phải không ai chối cãi được".
Từ quyền con người, Người đã khái quát chân lý: “Tất cả các dân tộc trên thế giới
sinh ra đều có quyền bình đẳng, dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và
quyền tự do”. Đây là một tư tưởng vĩ đại, chẳng những mang tính quốc tế, tính thời đại
rộng lớn mà còn mang tính nhân văn sâu sắc.
Nội dung của độc lập dân tộc:
 Là dân nước nô lệ đi tìm đường cứu nước, nhiều lần chứng kiến tội ác dã

man của chủ nghĩa thực dân đối với đồng bào mình và các dân tộc bị áp bức trên thế giới,
Người thấy rõ một dân tộc không có quyền bình đẳng vì dân tộc đó mất độc lập, tự do.
 Hồ Chí Minh đã thấu hiểu cảnh sống nô lệ, lầm than, đói rét và tủi nhục
của nhân dân các dân tộc Việt Nam trong thời thực dân, phong kiến. Bởi vậy, một trong
những nhiệm vụ quan trọng có ý nghĩa quyết định của sự nghiệp giải phóng xã hội, giải
phóng con người, theo Hồ Chí Minh là phải xoá bỏ nghèo nàn và lạc hậu, vươn tới xây
dựng cuộc sống ấm no, tự do và hạnh phúc thật sự cho tất cả mọi người.
Đó là ước nguyện, là ham muốn tột bậc của Hồ Chí Minh và là ước nguyện mong mỏi bao
đời nay của nhân dân các dân tộc Việt Nam. Người nói: “Tôi chỉ có một sự ham muốn,
ham muốn tột bậc, là làm sao cho nước ta hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do,
đồng bào ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành.”
 Muốn có bình đẳng dân tộc thì các dân tộc thuộc địa phải được giải phóng
khỏi chủ nghĩa thực dân. Nên độc lập dân tộc phải thể hiện ở 3 điểm sau:
 Dân tộc đó phải được độc lập toàn diện về chính trị, kinh tế, an
ninh, toàn vẹn lãnh thổ và quan trọng nhất là độc lập về chính trị.
 Mọi vấn đề chủ quyền quốc gia phải do người dân nước đó tự
quyết định.
Nhóm 2 Trang 15
Tiểu luận: Tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc
 Nền độc lập thực sự phải được thể hiện ở cuộc sống ấm no, tự do,
hạnh phúc của người dân.
 Giải quyết vấn đề dân tộc ở Việt Nam - một nước thuộc địa nửa phong
kiến, trước hết phải tiến hành cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, đánh đuổi quân xâm lược,
đánh đổ bọn tay sai, giành độc lập cho dân tộc, tự do cho nhân dân, hoà bình và thống nhất
đất nước.
 Độc lập, tự do, hoà bình và thống nhất đất nước là khát vọng cháy bỏng
của người dân mất nước. Bởi, mất nước là mất tất cả. Sống trong cảnh nước mất, nhà tan,
mọi quyền lực nằm trong tay quân xâm lược và bọn tay sai thì quyền sống của con người
cũng bị đe doạ chứ nói gì đến quyền bình đẳng, tự do, dân chủ của mọi người. Nếu có, đó
chỉ là thứ tự do cướp bóc, bắt bớ, giết hại và tù đày của quân xâm lược và bọn tay sai.

Chính vì vậy mà “Không có gì quý hơn độc lập tự do”, một trong những tư tưởng lớn của
Hồ Chí Minh trong cách mạng Việt Nam đã trở thành chân lý của dân tộc Việt Nam và của
cả nhân loại có lương tri.
 Độc lập cho dân tộc, tự do cho nhân dân – tư tưởng đó của Hồ Chí Minh
đã trở thành mục tiêu hàng đầu của cách mạng Việt Nam. Tư tưởng đó được quán triệt
trong toàn bộ tiến trình cách mạng Việt Nam và nó được thể hiện nổi bật trong các thời
điểm có tính bước ngoặt lịch sử.
 Tất cả các dân tộc trên thế giới phải được độc lập hoàn toàn và thật sự. Độc
lập trên tất cả các mặt kinh tế, chính trị, quân sự, ngoại giao, toàn vẹn lãnh thổ. Mọi vấn đề
của chủ quyền quốc gia do dân tộc đó tự quyết định. Theo Hồ Chí Minh độc lập tự do là
khát vọng lớn nhất của các dân tộc thuộc địa và theo nguyên tắc: Nước Việt Nam là của
người Việt Nam, do dân tộc Việt Nam quyết định, nhân dân Việt Nam không chấp nhận
bất cứ sự can thiệp nào từ bên ngoài. Trong nền độc lập đó mọi người dân đều ấm no, tự
do, hạnh phúc, nếu không độc lập chẳng có nghĩa gì. Hồ Chí Minh nói: “chúng ta đã hy
sinh, đã giành được độc lập, dân chỉ thấy giá trị của độc lập khi ăn đủ no, mặc đủ ấm”. Tư
tưởng này thể hiện tính nhân văn cao cả và triệt để cách mạng của Hồ Chí Minh. Độc lập
tự do là quyền tự nhiên của dân tộc, thiêng liêng và vô cùng quý giá.
 Trong hành trình tìm đường cứu nước cho dân tộc khi còn ở Pháp, Nguyễn
Ái Quốc đấu tranh để đòi các quyền cho nhân dân An Nam:
Nhóm 2 Trang 16
Tiểu luận: Tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc
 Một là, đòi quyền bình đẳng về chế độ pháp lý cho người bản xứ
Đông Dương như đối với châu Âu, xoá bỏ chế độ cai trị bằng sắc lệnh, thay thế
bằng chế độ đạo luật.
 Hai là, đòi quyền tự do dân chủ tối thiểu cho nhân dân, tự do ngôn
luận, tự do báo chí, hội họp, tự do cư trú
 Ngày 18/6/1919, Nguyễn Ái Quốc thay mặt những người Việt
Nam yêu nước tại Pháp gửi đến hội nghị Véc-xây bản yêu sách của nhân dân An-nam đòi
quyền bình đẳng cho dân tộc Việt Nam. Bản yêu sách không được chấp nhận, Nguyễn Ái
Quốc rút ra bài học: Muốn bình đẳng thực sự phải đấu tranh giành độc lập dân tộc- làm

cách mạng, muốn giải phóng dân tộc chỉ có thể trông cậy vào chính mình, vào lực lượng
của bản thân mình.
 Điều này thể hiện ở mục tiêu của cách mạng Việt Nam là: Đánh đổ Đế
quốc Pháp và phong kiến, làm cho nước Nam hoàn toàn độc lập. Sau Cách mạng Tháng 8
thành công, Hồ Chí Minh đã đọc bản tuyên ngôn độc lập và khẳng định: “Nước Việt Nam
có quyền hưởng tự do và độc lập, và sự thật đã thành một nước tự do, độc lập. Toàn thể
dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ
quyền tự do độc lập ấy”.
 Hồ Chí Minh luôn giương cao ngọn cờ đấu tranh vì độc lập dân tộc, song
người cũng là hiện thân của khát vọng hoà bình. Hoà bình chân chính trong nền độc lập
dân tộc để nhân dân xây dựng cuộc sống ấm no hạnh phúc cũng là quyền cơ bản của dân
tộc. Hoà bình không thể tách rời độc lập dân tộc, và muốn có hoà bình thật sự thì phải có
độc lập thật sự. Hồ Chí Minh đã nêu: “Nhân dân chúng tôi thành thật mong muốn hoà
bình. Nhưng nhân dân chúng tôi cũng kiên quyết chiến đấu đến cùng để bảo vệ độc lập và
chủ quyền thiêng liêng nhất: toàn vẹn lãnh thổ cho Tổ quốc và độc lập cho đất nước”. Tinh
thần “chúng ta muốn hoà bình” đã dẫn dắt nhân dân ta chiến đấu và chiến thắng mọi thế
lực xâm lược ngoại bang. Chân lý có giá trị cho mọi thời đại: “Không có gì quý hơn độc
lập, tự do”. Độc lập dân tộc phải gắn liền với sự thống nhất toàn vẹn lãnh thổ quốc gia.

 Đã là người Việt Nam, chắc chắn không ai có thể quên sự kiện lịch sử về lễ
Tuyên ngôn Độc lập của nước Việt Nam Dân chủ cộng hoà tại quảng trường Ba Đình lịch
sử mùa thu 1945. Ngày 2 tháng 9 năm 1945, tại quảng trường Ba Đình của Thủ đô Hà Nội,
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã thay mặt Chính phủ lâm thời nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà
và toàn thể quốc dân Việt Nam, trịnh trọng đọc bản Tuyên ngôn Độc lập, tuyên bố trước
Nhóm 2 Trang 17
Tiểu luận: Tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc
toàn thế giới về sự ra đời của nước Việt Nam mới, khẳng định những quyền cơ bản của dân
tộc Việt Nam và quyết tâm của nhân dân Việt Nam trong bảo vệ những quyền thiêng liêng
đó. Sự kiện đó đã đặt một mốc son lịch sử về sự bắt đầu của thời kỳ phát triển mới của dân
tộc Việt Nam. Bản Tuyên ngôn Độc lập của nước Việt Nam mới đã trở thành một di sản

văn hoá bất hủ của dân tộc Việt Nam, đồng thời là văn bản pháp lý khẳng định quyền của
dân tộc Việt Nam đứng ngang hàng với các dân tộc trong thế giới đương đại.
 Theo Hồ Chí Minh, trong một đất nước, quyền lợi của mỗi cá nhân bao giờ
cũng gắn liền với quyền lợi của cả dân tộc, đất nước. Nước mất thì nhà tan, nước độc lập
thì dân tộc mới độc lập, con người mới có tự do. Trích dẫn những tư tưởng bất hủ trong hai
bản Tuyên ngôn của nước Mỹ và nước Pháp, Hồ Chí Minh muốn khẳng định một điều: tất
cả những quyền mà hai bản tuyên ngôn tư sản đó nêu lên đã không tồn tại đối với đất nước
và dân tộc Việt Nam. Hơn tám mươi năm bọn thực dân Pháp đã lợi dụng lá cờ tự do, bình
đẳng, bác ái đến cướp nước Việt Nam, áp bức dân tộc Việt Nam. Hành động đó là trái với
đạo lý, cũng tức là trái với lẽ tự nhiên như tư tưởng của hai bản tuyên ngôn tư sản đã khẳng
định. Vì lẽ đó, dân tộc Việt Nam phải đứng lên, quyết giành lấy những quyền thiêng liêng
nhất của con người và của dân tộc và khi đã giành được thì quyết bảo vệ đến cùng. Sau này
Người còn có dịp phát triển quyết tâm đó trong lời kêu gọi nhân dân cả nước nêu cao ý chí
quyết chiến, quyết thắng giặc Mỹ xâm lược: “Chiến tranh có thể kéo dài 5 năm, 10 năm, 20
năm hoặc lâu hơn nữa. Hà Nội, Hải Phòng và một số thành phố, xí nghiệp có thể bị tàn
phá, song nhân dân Việt Nam quyết không sợ! Không có gì quý hơn độc lập tự do”.
Nhóm 2 Trang 18
Tiểu luận: Tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc
 Quyền độc lập, bình đẳng dân tộc là quyền thiêng liêng, quý giá nhất và
bất khả xâm phạm. “Không có gì quý hơn độc lập tự do” là lẽ sống, là triết lý Cách mạng
Hồ Chí Minh và của dân tộc VIệt Nam. Đó cũng là nguồn cổ vũ to lớn đối với các dân tộc
bị áp bức, đấu tranh cho một nền độc lập tự do, thống nhất đất nước, dân chủ, ấm no, hạnh
phúc của người dân. . Nó là nguồn sức mạnh làm nên chiến thắng không chỉ của dân tộc
Việt Nam mà còn của các dân tộc bị áp bức trên thế giới. Vì lẽ đó, Người không chỉ được
tôn vinh là “Anh hùng giải phóng dân tộc” của Việt Nam mà còn là “Người khởi xướng
cuộc đấu tranh giải phóng của các dân tộc thuộc địa trong thế kỷ 20”.
c. Chủ nghĩa dân tộc – Một động lực lớn của đất nước:
Chủ nghĩa yêu nước và tinh thần dân tộc là một động lực to lớn của đất nước. Hồ
Chí Minh đã từng nhận xét: "Dân ta có một lòng nồng nàn yêu nước. Đó là một truyền
thống quý báu của ta. Từ xưa đến nay, mỗi khi Tổ quốc bị xâm lăng, thì tinh thần ấy lại sôi

nổi, nó kết thành một làn sóng vô cùng mạnh mẽ, to lớn, nó lướt qua mọi sự nguy hiểm,
khó khăn, nó nhấn chìm tất cả lũ bán nước và lũ cướp nước".
Chủ nghĩa dân tộc bản xứ là chủ nghĩa yêu nước và chủ nghĩa dân tộc chân chính,
động lực to lớn để phát triển đất nước, khác với chủ nghĩa Xô-vanh, chủ nghĩa dân tộc hẹp
hũi của các nước tư bản. Do kinh tế chưa phát triển, nên sự phân hóa giai cấp ở Đông
Dương chưa triệt để, sự dấu tranh giai cấp không giống như ở Phương Tây, mâu thuẫn
chưa đến mức đối kháng quyết liệt. Ở những nước thuộc địa như nước ta, mâu thuẫn giữa
dân tộc với chủ nghĩa đế quốc quyết liệt hơn mâu thuẫn giữa giai cấp nông dân với địa chủ,
giữa công nhân với tư sản. Vì thế, trong bối cảnh này, “cuộc đấu tranh giai cấp không diễn
ra giống như ở phương Tây”, không thể giải quyết vấn đề giai cấp rồi mới giải quyết vấn
đề dân tộc, mà chỉ có thể giải phóng dân tộc mới giải phóng được giai cấp, quyền lợi dân
tộc, đất nước phải đặt lên trên quyền lợi giai cấp. Xuất phát từ luận điểm trên, Nguyễn Ái
Quốc từng kiến nghị Cương lĩnh hành động của Quốc tế Cộng sản "phát động chủ nghĩa
dân tộc bản xứ nhân danh quốc tế cộng sản" "Khi chủ nghĩa dân tộc của họ thắng
lợi nhất định chủ nghĩa dân tộc ấy sẽ biến thành chủ nghĩa quốc tế".
Nguyễn Ái Quốc đánh giá cao sức mạnh của chủ nghĩa dân tộc với chủ nghĩa yêu
nước và tinh thần dân tộc chân chính, coi đó là một động lực lớn mà những người cộng sản
phải nắm lấy và phát huy, không để ngọn cờ dân tộc rơi vào tay giai cấp nào khác, phải
nhận thức và giải quyết vấn đề dân tộc trên lập trường của giai cấp vô sản, kết hợp chủ
nghĩa dân tộc với chủ nghĩa quốc tế.
Nhóm 2 Trang 19
Tiểu luận: Tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, chủ nghĩa yêu nước chân chính "là một bộ phận của
tinh thần quốc tế"," khác hẳn với tinh thần "vị quốc" của bọn đế quốc phản động".
2. Mối quan hệ giữa vấn đề dân tộc và vấn đề giai
cấp
Về vấn đề giai cấp:
Tất cả của cải vật chất trong xã hội, đều do công nhân và nông dân làm ra. Nhờ sức lao
động của công nhân và nông dân, xã hội mới sống còn và phát triển. Song đa số người lao
động thì suốt đời nghèo khó, mà thiểu số người không lao động thì lại hưởng thụ thành quả

lao động đó. Đó là do một số ít người đã chiếm làm tư hữu những tư liệu sản xuất của xã
hội. Họ có tư liệu sản xuất nhưng họ không làm lụng, họ bắt buộc người khác làm cho họ
hưởng. Do đó mà có giai cấp. Những người chiếm tư liệu sản xuất không làm mà hưởng, là
giai cấp bóc lột hay giai cấp tư sản. Những người lao động mà không được hưởng giá trị
thặng dư và thành quả lao động là giai cấp bị bóc lột hay giai cấp công nhân.
a. Vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp có quan hệ chặt chẽ với nhau
Chủ nghĩa Mác Lê Nin đã giải quyết triệt để vấn đề này: vấn đề dân tộc luôn gắn với vấn
đề giai cấp, phụ thuộc vào vấn đề giai cấp, và dân tộc bao giờ cũng do một giai cấp đại
diện, quan hệ này là quan hệ lợi ích, giai cấp phong kiến và tư sản đã từng đại diện cho dân
tộc và giải quyết quan hệ lợi ích giai cấp và lợi ích dân tộc nhưng không triệt để, còn nhiều
mâu thuẫn .
Hồ Chí Minh rất coi trọng vấn đề dân tộc, đề cao sức mạnh của chủ nghĩa yêu nước, nhưng
Người luôn đứng trên quan điểm giai cấp để nhận thức và giải quyết vấn đề dân tộc. Sự kết
hợp vấn đề giai cấp và vấn đề dân tộc của Hồ Chí Minh thể hiện:
Nhóm 2 Trang 20
Tiểu luận: Tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc
- Khẳng định vai trò lịch sử của giai cấp công nhân và quyền lãnh đạo duy nhất của Đảng
Cộng sản trong quá trình cách mạng Việt Nam.
- Chủ trương đại đoàn kết dân tộc rộng rãi trên nền tảng liên minh công nhân, nông dân và
tầng lớp trí thức, dưới sự lãnh đạo của Đảng.
- Sử dụng bạo lực cách mạng của quần chúng để chống lại bạo lực phản cách mạng của kẻ
thù.
- Thiết lập chính quyền nhà nước của dân, do dân và vì dân.
- Gắn kết mục tiêu độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội.
Ngày nay với tính chất, đặc điểm và địa vị lịch sử của mình chỉ có giai cấp công nhân mới
có thể đại diện cho dân tộc và giải quyết đúng đắn quan hệ lợi ích này. Chỉ có giai cấp
công nhân mới xóa bỏ triệt để nạn người bóc lột người, nhờ đó xóa bỏ tình trạng dân tộc
này nô dịch dân tộc khác, giải phóng giai cấp công nhân cũng là giải phóng mọi giai tầng,
xã hội khỏi sự phân chia thành giai cấp, mâu thuẫn xung đột giai cấp, vì thế giai cấp công
nhân phải giành lấy chính quyền, tự mình vươn lên thành giai cấp dân tộc.

b. Giải phóng dân tộc là vấn đề trên hết, trước hết độc lậo dân tộc gắn
liền với chủ nghĩa xã hội
Khác với con đường cứu nước của ông cha, gắn độc lập dân tộc với chủ nghĩa
phong kiến (cuối thế kỷ XIX) hoặc chủ nghĩa tư bản (đầu thế kỷ XX) , con đường cứu nước
của HỒ Chí Minh là độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội.
Chứng kiến cảnh sống lầm than, khổ cực, bị bóc lột tới thậm tệ của giai cấp công
nhân và nhân dân lao động ở thuộc địa và chính quốc, chứng kiến cảnh sống trái ngang của
bọn tư sản, thực dân giàu có và gian ác, nên con đường giải phóng xã hội, giải phóng con
người mà cả Hồ Chí Minh và C. Mác, Ph. Ăngghen, V. I. Lênin đều khẳng định là phải
tiến lên chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản, chứ không phải là đi theo con đường tư
bản chủ nghĩa, càng không phải là quay trở lại chế độ phong kiến.
Đối với Việt Nam, Hồ Chí Minh khẳng định trước sau như một, là chỉ có chủ nghĩa
xã hội mới có đủ cơ sở và điều kiện để thực hiện công cuộc giải phóng con người một cách
triệt để và thiết thực. Tức là thực hiện được đầy đủ các quyền của con người, trong đó có
quyền sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc của tất cả mọi người.
Cũng chính vì vậy mà con đường đi lên chủ nghĩa xã hội và độc lập phải gắn liền với chủ
nghĩa xã hội trở thành nội dung cốt lõi trong tư tưởng Hồ Chí Minh, và là mục tiêu chiến
Nhóm 2 Trang 21
Tiểu luận: Tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc
lược trong sự nghiệp cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam suốt hai phần ba thế kỷ và
mãi mãi về sau.
Xuất phát từ hoàn cảnh của Việt Nam, đi lên chủ nghĩa xã hội từ một nước nông
nghiệp nghèo nàn, hậu quả của bọn thực dân, phong kiến để lại rất nặng nề nên Hồ Chí
Minh cho rằng: “Chủ nghĩa xã hội là làm sao cho nhân dân đủ ăn, đủ mặc, ngày càng sung
sướng, ai nấy được học hành, ốm đau có thuốc, già không lao động thì được nghỉ, những
phong tục tập quán không tốt dần dần được xoá bỏ… tóm lại, xã hội ngày càng tiến, vật
chất ngày càng tăng, tinh thần ngày càng tốt, đó là chủ nghĩa xã hội.”
Đối với Đảng Cộng sản Việt Nam, ngay từ khi mới thành lập, trong ''Chính cương
vắn tắt'' do Nguyễn Ái Quốc khởi thảo đã khẳng định: ''Chủ trương làm tư sản dân quyền
cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản''. Như vậy là, lần đầu tiên trong

lịch sử cách mạng Việt Nam, với Hồ Chí Minh, sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc gắn
liền với cách mạng XHCN. Cuộc cách mạng này kết hợp trong bản thân nó tiến trình của
hai sự nghiệp giải phóng: giải phóng dân tộc khỏi ách nô lệ thực dân và giải phóng giai cấp
khỏi ách áp bức bóc lột. Vấn đề dân tộc được giải quyết trên lập trường của giai cấp công
nhân - điều đó phù hợp với xu thế thời đại và lợi ích của các giai cấp và lực lượng tiến bộ
trong dân tộc. Sức mạnh đi tới thắng lợi của cách mạng Việt Nam không phải là cái gì khác
mà là mục tiêu dân tộc luôn thống nhất với mục tiêu dân chủ trên cơ sở định hướng
XHCN. Đặc điểm nổi bật của cách mạng Việt Nam là cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân
triệt để, tạo tiền đề cho bước chuyển sang thời kỳ quá độ lên CNXH; tức là, cách mạng
XHCN là bước kế tiếp ngay khi cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân thắng lợi và giữa hai
cuộc cách mạng này không có một bức tường nào ngăn cách. Đây là quan điểm hết sức căn
bản của tư tưởng Hồ Chí Minh: chỉ có hoàn thành cách mạng giải phóng dân tộc mới có
điều kiện để tiến lên CNXH và chỉ có cách mạng XHCN mới giữ vững được thành quả
cách mạng giải phóng dân tộc, mới mang lại cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc cho mọi
tầng lớp nhân dân, mới có độc lập dân tộc thực sự.
Tư tưởng Hồ Chí minh về sự gắn bó thống nhất giữa độc lập dân tộc và chủ nghĩa
xã hội vừa phản ánh quy luật khách quan của sư nghiệp giải phóng dân tộc trong thời đại
cách mạng vô sản, vừa phản ánh mối quan hệ khăng khít giữa mục tiêu giải phóng dân tộc
với mục tiêu giải phóng giai cấp và giải phóng con người. Chỉ có chế độ sở hữu công cộng
về tư liệu sản xuất mới xóa bỏ được tận gốc tình trạng áp bức bóc lột; chỉ có thiết lập một
nhà nước kiểu mới, một nhà nước thực sự của dân do dân vì dân mới đảm bảo quyền làm
chủ của người lao động. Do đó, giành được độc lập rồi phải tiến lên chủ nghĩa xã hội vì
chủ nghĩa xã hội là “ làm sao cho dân giàu, nước mạnh”. Sự phát triển của đất nước theo
con đường của chủ nghĩa xã hội là một bảo đảm vững chắc cho nền độc lập của dân tộc.
Nhóm 2 Trang 22
Tiểu luận: Tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc
Người khẳng định: “Yêu tổ quốc, yâu nhân dân gắn liền với yêu chủ nghĩa xã hội,
vì có tiến lên chủ nghĩa xã hội thì nhân dân mình nỗi ngày một ấm no thêm,Tổ quốc mỗi
ngày một giàu mạnh thêm”.
Như vậy, đến Hồ Chí Minh, chủ nghĩa yêu nước truyền thống đã phát triển thành

chủ nghĩa yêu nước hiện đại, độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội.
c. Giải phóng dân tộc tạo tiền đề để giải phóng giai cấp
Hồ Chí Minh giải quyết vấn đề dân tộc theo quan điểm giai cấp, nhưng đồng thời
đặt vấn đề giai cấp trong vấn đề dân tộc.Giải phóng dân tộc khỏi ách thống trị của chủ nghĩa
thực dân là điều kiện để giải phóng giai cấp. Vì thế lợi ích của giai cấp phải phục tùng của lợi
ích của dân tộc. Hồ Chí Minh đã khẳng định : quyền tự do, độc lập là quyền bất khả xâm
phạm của các dân tộc ,”dân tộc nào cũng có quyền sống ,quyền sung sướng và quyền tự do”.
Là một chiến sĩ quốc tế chân chính, Hồ Chí Minh không chỉ đấu tranh cho dân tộc mình mà
còn đấu tranh cho độc lập của tất cả các dân tộc bị áp bức.Ở Hồ Chí Minh chủ nghĩa yêu
nước chân chính luôn luôn thống nhất với chủ nghĩa quốc tế trong sáng.
Như chúng ta đều biết, Hồ Chí Minh đã đi từ chủ nghĩa yêu nước đến với chủ
nghĩa Mác - Lênin. Từ đó, Người đã phát huy cao độ chủ nghĩa yêu nước truyền thống Việt
Nam, trong sự thống nhất với chủ nghĩa quốc tế vô sản. Bởi vậy, trong tư tưởng Hồ Chí
Minh, đúng như Ph. Ăng-Ghen đã nói: Những tư tưởng dân tộc chân chính đồng thời cũng
là những tư tưởng quốc tế chân chính. Sự phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh đã chỉ đạo sự
phát triển của thực tiễn cách mạng Việt Nam, trong sự thúc đẩy lẫn nhau giữa dân tộc và
giai cấp, ý thức giác ngộ về cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc là tiền đề quyết định nhất,
cũng là động lực chủ yếu để Nguyễn Ái Quốc đến với chủ nghĩa Mác - Lênin và tiếp thu
quan điểm mác-xít về giai cấp. Đó chính là nhân tố đảm bảo tính khoa học và cách mạng
cho sự phát triển tinh thần dân tộc đúng đắn ở người chiến sĩ cộng sản Nguyễn Ái Quốc.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về sự kết hợp, gắn bó hữu cơ giữa hai quá trình đấu tranh cách
mạng: giải phóng dân tộc và cách mạng vô sản không phải chỉ là chứng minh cho sự đúng
đắn của chủ nghĩa Mác - Lênin, mà còn là sự phát triển sáng tạo và có giá trị định hướng
rất cơ bản. Qua thực tiễn đấu tranh và lãnh đạo cách mạng Việt Nam, luôn bám sát đặc
điểm thực tiễn Việt Nam và tham khảo kinh nghiệm các nước khác, Hồ Chí Minh đã có
những giải pháp đúng đắn, sáng tạo, đáp ứng đòi hỏi của lịch sử, góp phần làm phong phú
thêm kho tàng lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin; đó cũng chính là nguồn gốc sức mạnh
của cách mạng nước ta trong suốt bảy thập kỷ qua. Bởi lẽ:
Nhóm 2 Trang 23
Tiểu luận: Tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc

Một là, cách mạng giải phóng dân tộc trong thời đại ngày nay muốn thành công
triệt để nhất định phải đi theo quỹ đạo và là một bộ phận khăng khít của cách mạng vô sản.
Cuộc cách mạng đó phải đưa vào lực lượng của nhân dân, nòng cốt là liên minh công
nông, do chính Đảng của giai cấp công nhân lãnh đạo. Hồ Chí Minh nhận thức rất rõ, nếu
chỉ đưa vào lực lượng của riêng giai cấp công nhân, thậm chí cả giai cấp nông dân là hoàn
toàn không đủ, mà theo Người, chỉ có phát động cả dân tộc tham gia mới biến sức mạnh
dân tộc thành lực lượng vô địch.
Hai là, cuộc đấu tranh giải quyết mâu thuẫn giai cấp trong nội bộ dân tộc (mâu
thuẫn địa chủ - nông dân, mâu thuẫn tư sản - vô sản) không tách rời cuộc đấu tranh giải
quyết mâu thuẫn giữa toàn thể dân tộc với các thế lực đế quốc xâm lược. Ở giai đoạn đầu
của cách mạng, cần đặt vấn đề dân tộc, độc lập dân tộc lên trên hết. ''Nếu không giải quyết
được vấn đề dân tộc, không đòi được độc lập tự do cho toàn thể dân tộc, thì chẳng những
toàn thể dân tộc còn chịu mãi kiếp ngựa trâu mà quyền lợi của bộ phận giai cấp đến vạn
năm cũng không đòi lại được''. ''Chính lập trường và lợi ích giai cấp công nhân đòi hỏi
trước hết phải giải phóng dân tộc''. Ở đây rõ ràng cái giai cấp được biểu hiện ở cái dân tộc,
cái dân tộc được giải quyết theo lập trường giai cấp công nhân, chứ đâu phải là “hy sinh cái
nọ cho cái kia” như có người từng cố chứng minh.
Ba là, cách mạng giải phóng dân tộc và cách mạng vô sản ở chính quốc như ''hai
cánh của một con chim'', phải thực hiện sự liên minh giữa vô sản ở chính quốc với vô sản
và nhân dân các nước thuộc địa thì cách mạng mới thắng lợi. Cách mạng giải phóng dân
tộc ở các nước thuộc địa không phụ thuộc một chiều vào cách mạng vô sản ở chính quốc,
mà có thể và phải chủ động tiến lên giành thắng lợi, thậm chí có thể giành thắng lợi trước,
từ đó góp phần tích cực hỗ trợ cho cách mạng ở các nước tư bản. Đó là nhận định hết sức
đúng đắn, táo bạo và sáng tạo của Hồ Chí Minh.
Bốn là, sau khi giải phóng dân tộc khỏi ách thống trị ngoại bang, khỏi chế độ thuộc
địa, dân tộc vừa được giải phóng phải quá độ lên CNXH và trong bước quá độ ấy phải tự
mình tìm tòi con đường, phương thức riêng phù hợp với tình hình và đặc điểm đất nước,
tránh giáo điều, dập khuôn những hình thức, bước đi, biện pháp của nước khác.
Nhóm 2 Trang 24
Tiểu luận: Tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc

Chiến thắng Điện Biên Phủ 7-5-1954 Chiến thắng 30-4-1975 mãi là niềm tự hào của dân tộc
d. Giữ vững độc lập của dân tộc mình, đồng thời tôn trọng độc lập của
các dân tộc khác
Chủ nghĩa yêu nước chân chính và chủ nghĩa quốc tế không đối lập mà thống nhất với
nhau. Vì thế:

Mỗi dân tộc phải đấu tranh giành và giữ độc lập cho dân tộc mình đồng thời phải ủng
hộ cuộc đấu tranh giành độc lập của các dân tộc khác. Đây là sự gắn bó giữa chủ nghĩa yêu
nước chân chính với chủ nghĩa quốc tế trong sáng, giữa tinh thần dân tộc tự quyết với nghĩa
vụ quốc tế.
Trong mối quan hệ giữa sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại, Hồ Chí Minh coi
nguồn lực bên trong giữ vai trò quyết định, nguồn lực bên ngoài là quan trọng, nó chỉ phát huy
sức mạnh thông qua nguồn lực bên trong. Người nêu cao khẩu hiệu “tự lực cánh sinh, dựa
vào sức mạnh là chính”; “muốn người ta giúp cho thì trước hết mình phải tự giúp lấy mình”;
“Một dân tộc không tự lực cánh sinh mà cứ ngồi chờ dân tộc khác giúp đỡ thì không xứng
đáng được độc lập”
- Muốn tranh thủ sức mạnh của thời đại phải có đường lối đúng đắn, phát huy độc lập tự
chủ, kết hợp chặt chẽ mục tiêu đấu tranh cho độc lập, thống nhất của dân tộc mình với mục
tiêu của thời đại: hòa bình độc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội.
- Hồ Chí Minh đã thực hiện nhất quán đường lối độc lập tự chủ, vì vậy mà đã tranh thủ
được sự giúp đỡ của cả Liên Xô và Trung Quốc, khi hai nước có bất đồng sâu sắc, góp phần
vào sự hàn gắn sự rạn nứt trong phong trào cộng sản quốc tế.
Nhóm 2 Trang 25

×