Tải bản đầy đủ (.doc) (27 trang)

Tổng quát về công ty chứng khoán

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (154.19 KB, 27 trang )

MỤC LỤC
PHẦN I - LỜI NÓI ĐẦU……………….
………………………………………1
PHẦN II - NỘI DUNG…………………………………………..
……………...2
1. Những vấn đề chung về
CTCK…………………………………........2
Vai trò, chức năng của CTCK…………………………………...…..2
Mô hình, tổ chức của CTCK…………………………………...……4
2. Các nghiệp vụ của CTCK………………………………..
…………..6
Các nghiệp vụ chính……………………………………………..…..6
Các nghiệp vụ phụ trợ……………………………………………......9
3. Các CTCK tại Việt
Nam………………………………………….....10
Tổng quan về CTCK tại Việt Nam…………………………...……..10
Một số quy định theo Luật chứng khoán đối với các CTCK…...…...11
Một số nguyên tắc chung về tổ chức và hoạt động của CTCK tại Việt
Nam………………………………………………………………….12
Một số thách thức đối với CTCK tại Việt Nam hiện nay………........13
PHẦN III - TỔNG
KẾT…………………………………………………………17

1


PHẨN I - LỜI MỞ ĐẦU
Để hình thành và phát triển thị trường chứng khoán có hiệu quả, một
yếu tố không thể thiếu được là các chủ thể tham gia kinh doanh trên thị
trường chứng khoán. Mục tiêu của việc hình thành thị trường chứng
khoán là thu hút vốn đầu tư dài hạn cho phát triển kinh tế và tạo ra tính


thanh khoản cho các loại chứng khoán. Do vậy, để thúc đẩy thị trường
chứng khoán hoạt động một cách có trật tự, công bằng và hiệu quả thì
cần có sự ra đời và hoạt động của các công ty chứng khoán (CTCK).
Mặt khác, nguyên tắc trung gian là một trong những nguyên tắc hoạt
động cơ bản nhất của thị trường chứng khoán. Theo nguyên tắc này, mọi
hoạt động mua bán diễn ra trên thị trường chứng khoán tập trung đều
phải thông qua tổ chức trung gian, đó là CTCK. CTCK là tác nhân quan
trọng thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế nói chung và của thị trường
chứng khoán nói riêng. Nhờ các CTCK mà các cổ phiếu và trái phiếu lưu
thông buôn bán tấp nập trên thị trường chứng khoán, qua đó một lượng
vốn khổng lồ được đưa vào đầu tư.
Chính tầm quan trọng vô cùng to lớn của CTCK như vậy nên việc ra
đời và hoạt động ngày càng phát triển là một tất yếu của nền kinh tế thị
trường.

2


PHẦN II - NỘI DUNG
1. Những vấn đề chung về CTCK
Vai trò, chức năng của CTCK
Chức năng cơ bản của CTCK
CTCK là tác nhân quan trọng thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế
nói chung và của thị trường chứng khoán nói riêng. Nhờ các CTCK mà
chứng khoán được lưu thông từ nhà phát hành tới người đầu tư và có tính
thanh khoản, qua đó huy động nguồn vốn từ nơi nhàn rỗi để phân bổ vào
những nơi sử dụng có hiệu quả. Vì vậy, CTCK có những chức năng cơ
bản sau:
+ Tạo ra cơ chế huy động vốn linh hoạt giữa người có tiền nhàn rỗi
đến người sử dụng vốn ( thông qua cơ chế phát hành và bảo lãnh phát

hành).
+ Cung cấp cơ chế giá cả cho giao dịch (thông qua hệ thống khớp giá
hoặc khớp lệnh).
+ Tạo tính thanh khoản cho chứng khoán ( hoán đổi chứng khoán ra
tiền mặt, và ngược lại từ tiền mặt ra chứng khoán một cách dễ dàng).

3


+ Góp phần điều tiết và bình ổn thị trường (thông qua hoạt động tự
doanh hoặc vai trò của nhà tạo lập thị trường).
Vai trò của CTCK
CTCK có vai trò quan trọng đối với những chủ thể khác nhau trên thị
trường chứng khoán.
+ Đối với các tổ chức phát hành ( TCPH): Mục tiêu khi tham gia vào
thị trường chứng khoán của các TCPH là huy động vốn thông qua việc
phát hành các chứng khoán. Vì vậy, thông qua hoạt động đại lý phát
hành, bảo lãnh phát hành, các CTCK có vai trò tạo ra cơ chế huy động
vốn phục vụ các nhà phát hành.
Một trong những nguyên tắc hoạt động của thị trường chứng khoán là
nguyên tắc trung gian. Nguyên tắc này yêu cầu những nhà đầu tư và
những nhà phát hành không được mua bán trực tiếp chứng khoán mà
phải thông qua các trung gian mua bán. Các CTCK sẽ thực hiện vai trò
trung gian cho cả người đầu tư và nhà phát hành, và khi thực hiện công
việc này thì CTCK đã tạo ra cơ chế huy động vốn cho nền kinh tế thông
qua thị trường chứng khoán.
+ Đối với các nhà đầu tư: Thông qua các hoạt động như môi giới, tư
vấn đầu tư, quản lý danh mục đầu tư, CTCK có vai trò làm giảm chi phí
và thời gian giao dịch, do đó nâng cao hiệu quả các khoản đầu tư. Đối
với hànghoá thông thường, mua bán qua trung gian sẽ làm tăng chi phí

cho người mua và bán. Tuy nhiên, đối với thị trường chứng khoán, sự
biến động thường xuyên của giá cả chứng khoán cũng như mức độ rủi ro
cao sẽ làm cho những nhà đầu tư tốn kém chi phí, công sức và thời gian
tìm hiểu thông tin trước khi quyết định đầu tư. Nhưng thông qua các
CTCK, với trình độ chuyên môn cao và uy tín nghề nghiệp sẽ giúp các
nhà đầu tư thực hiện các khoản đầu tư một các hiệu quả.
+ Đối với thị trường chứng khoán: CTCK thể hiện 2 vai trò chính:
4


• Góp phần tạo lập giá và điều tiết thị trường. Giá cả chứng khoán là
do thị trường quyết định. Tuy nhiên, để đưa ra mức giá cuối cùng, người
mua và bán phải thông qua các CTCK vì họ không được tham gia trực
tiếp vào quá trình mua bán. Các CTCK là những thành viên của thị
trường, do vậy họ cũng góp phần tạo lập giá cả thị trường thông qua đấu
giá.
• Góp phần làm tăng tính thanh khoản của các tài sản tài chính
Thị trường chứng khoán có vai trò là môi trường làm tăng tính thanh
khoản của các tài sản tài chính. Nhưng các CTCK mới là người thực hiện
tốt vai trò đó vì CTCK tạo ra cơ chế giao dịch trên thị trường. Trên thị
trường cấp 1, do thực hiện các hoạt động như bảo lãnh phát hành, chứng
khoán hoá, các CTCK không những huy động được một lượng vốn lớn
đưa vào sản xuất kinh doanh cho nhà phát hành mà còn làm tăng tính
thanh khoản cho các tài sản tài chính được đầu tư vì các chứng khoán
qua đợt phát hành sẽ được mua bán giao dịch trên thị trường cấp 2. Điều
này làm giảm rủi ro, tạo tâm lý yên tâm cho người đầu tư. Trên thị
trường cấp 2, do thực hiện các giao dịch mua và bán các CTCK giúp cho
người đầu tư chuyển đổi chứng khoán thành tiền mặt và ngược lại.
Những hoạt động đó có thể làm tăng tính thanh khoản của những tài sản
tài chính.

+ Đối với các cơ quan quản lý thị trường: CTCK có vai trò cung cấp
thông tin về thị trường chứng khoán cho các cơ quan quản lý thị trường
để thực hiện mục tiêu đó. Các CTCK thực hiện được vai trò này bởi vì
họ vừa là người bảo lãnh phát hành cho các chứng khoán mới, vừa là
trung gian mua bán và thực hiện các giao dịch trên thị trường. Một trong
những yêu cầu của thị truờng chứng khoán là các thông tin cần phải
được công khai hoá dưới sự giám sát của các cơ quan quản lý thị trường.
Việc cung cấp thông tin vừa là quy định của hệ thống luật pháp, vừa là
5


nguyên tắc nghề nghiệp của CTCK vì CTCK cần phải minh bạch và
công khai trong hoạt động.
Các thông tin CTCK có thể cung cấp bao gồm thông tin về các giao dịch
mua, bán trên thị trường, thông tin về các cổ phiếu, trái phiếu và tổ chức
phát hành, thông tin về các nhà đầu tư… Nhờ các thông tin này, các cơ
quan quản lý thị trường có thể kiểm soát và chống các hiện tượng thao
túng, lũng đoạn, bóp méo thị trường.
Tóm lại, CTCK là một tổ chức chuyên nghiệp trên thị trường chứng
khoán, có vai trò cần thiết và quan trọng đối với các nhà đầu tư, các nhà
phát hành đối với cơ quan quản lý thị trường và đối với thị trường chứng
khoán nói chung.
1.2. Mô hình, tổ chức của CTCK
1.2.1. Mô hình CTCK
1.2.1.1. Mô hình chứng khoán đa năng
Theo mô hình này, CTCK được tổ chức dưới hình thức một tổ hợp
dịch vụ tài chính tổng hợp bao gồm kinh doanh chứng khoán, kinh doanh
tiền tệ và các dịch vụ tài chính. Theo đó, các ngân hang thương mại hoạt
động với tư cách là chủ thể kinh doanh chứng khoán, bảo hiểm và kinh
doanh tiền tệ. Mô hình này được biều hiện dưới 2 hình thức sau:

+ Loại đa năng một phần: Ngân hàng muốn kinh doanh chứng khoán,
bảo hiểm phải lập công ty độc lập. Mô hình này được gọi là mô hình
ngân hàng kiểu Anh
+ Loại đa năng toàn phần: Ngân hàng kinh doanh chứng khoán, bảo
hiểm bên cạnh kinh doanh tiền tệ. Mô hình này gọi là mô hình ngân hàng
kiểu Đức.
Ưu điểm của mô hình này là các ngân hàng có thể kết hợp nhiều lĩnh
vực kinh doanh, nhờ đó giảm bớt rủi ro trong hoạt động kinh doanh bằng
việc đa dạng hoá đầu tư. Ngoài ra nó còn làm tăng khả năng chịu đựng
6


của ngân hàng trước những biến động trên thị trường tài chính. Mặt
khác, các ngân hàng sẽ tận dụng được lợi thế của mình là tổ chức kinh
doanh tiền tệ có vốn lớn, cơ sở vật chất hiện đại và hiểu biết rõ về khách
hàng cũng như các doanh nghiệp khi họ thực hiện nghiệp vụ cấp tín dụng
và tài trợ dự án.
Tuy nhiên, mô hình cũng có những hạn chế, đó là do vừa là tổ chức
tín dụng vừa là tổ chức kinh doanh chứng khoán, do đó khả năng chuyên
môn không sâu như các CTCK chuyên doanh. Điều này làm cho thị
trường chứng khoán kém phát triển vì các ngân hàng thường có xu
hướng bảo thủ và thích hoạt động cho vay hơn là thực hiện các nghiệp vụ
của thị trường chứng khoán như: bảo lãnh phát hành chứng khoán, tư
vấn đầu tư chứng khoán, quản lý danh mục đầu tư. Đồng thời, do khó
tách bạch hoạt động ngân hàng và hoạt động kinh doanh chứng khoán,
trong môi trường pháp luật không lành mạnh, các ngân hàng dễ gây nên
tình trạng lũng đoạn thị trường, và khi đó các biến động trên thị trường
chứng khoán sẽ tác động mạnh tới kinh doanh tiền tệ, gây tác động dây
chuyền và dẫn đến khủng hoảng thị trường tài chính. Bên cạnh đó, do
không có sự tách biệt rõ ràng giữa các nguồn vốn nên các ngân hang có

thể sử dụng tiền gửi tiết kiệm của dân cư để đầu tư chứng khoán, và khi
thị trường chứng khoán biến động theo chiều hướng xấu sẽ tác động tới
công chúng thông qua việc ồ ạt rút tiền gửi, làm cho ngân hàng mất khả
năng chi trả.
1.2.1.2. Mô hình CTCK chuyên doanh
Hoạt động kinh doanh chứng khoán sẽ do các công ty độc lập và
chuyên môn hoá trong lĩnh vực chứng khoán đảm trách, các ngân hàng
không được tham gia kinh doanh chứng khoán.

7


Ưu điểm của mô hình này là hạn chế được rủi ro cho hệ thống ngân
hàng, tạo điều kiện cho các công ty chứng khoán đi vào chuyên môn hoá
sâu trong lĩnh vực chứng khoán để thúc đẩy thị trường phát triển.
Nhưng nó còn có mặt hạn chế, đó là không tận dụng được các ưu
điểm của ngân hàng (vốn, chuyên môn…).
Tuy nhiên, do xu thế hình thành nên các tập đoàn tài chính khổng lồ
nên ngày nay một số thị trường cũng cho phép kinh doanh trên nhiều
lĩnh vực tiền tệ, chứng khoán, bảo hiểm, nhưng được tổ chức thành các
công ty mẹ, công ty con và có sự quản lý, giám sát chặt chẽ và hoạt động
tương đối độc lập với nhau.
1.2.2. Tổ chức của CTCK
1.2.2.1. Công ty hợp danh
Công ty hợp danh là loại hình kinh doanh từ hai chủ sở hữu trở lên.
Thành viên tham gia vào quá trình ra quyết định quản lý được gọi là
thành viên hợp danh. Các thành viên hợp danh phải chịu trách nhiệm vô
hạn, tức là phải chịu trách nhiệm với những khoản nợ của công ty hợp
danh bằng toàn bộ tài sản của mình. Ngược lại, các thành viên không
tham gia điều hành công ty được gọi là thành viên góp vốn, họ chỉ chịu

trách nhiệm với những khoản nợ của công ty trong giới hạn vốn góp của
họ. Thông thường khả năng huy động vốn của công ty hợp danh bị giới
hạn trong số vốn mà các hội viên có thể đóng góp.
1.2.2.2. Công ty trách nhiệm hữu hạn
Đây là loại công ty đòi hỏi trách nhiệm của những thành viên giới
hạn trong số vốn mà họ đã góp. Vì thế điều này gây tâm lý nhẹ nhàng
hơn đối với người đầu tư. Mặt khác, về phương diện huy động vốn, cũng
đơn giản và linh hoạt hơn so với công ty hợp danh. Đồng thời, vấn đề
tuyển đội ngũ quản lý cũng năng động hơn, không bị bó hẹp trong một
số đối tác như công ty hợp danh.
8


1.2.2.3. Công ty cổ phần
Công ty cổ phần là một pháp nhân độc lập, với các chủ sở hữu là các
cổ đông. Đại hội đồng cổ đông có quyền bầu hội đồng quản trị. Hội đồng
này sẽ định ra các chính sách của công ty và chỉ định giám đốc cùng các
chức vụ quản lý khác để điều hành công ty theo các sách lược kinh
doanh đã đề ra. Công ty vẫn tồn tại khi quyền sở hữu của công ty bị thay
đổi.
Các ưu điểm của công ty cổ phần:
+ Đây là loại hình công ty tồn tại liên tục không phụ thuộc vào việc
thay đổi cổ đông hoăc cổ đông nghỉ hưu hay qua đời.
+ Rủi ro mà chủ sở hữu của công ty phải chịu được hạn chế ở mức
nhất định hay là trách nhiệm hữu hạn trong vốn góp.
+ Quyền sở hữu được chuyển nhượng dễ dàng thông qua việc mua
bán cổ phiếu.
+ Nếu tổ chức theo hình thức công ty cổ phần và được niêm yết tại sở
giao dịch thì họ đã được quảng cáo miễn phí.
+ Linh hoạt trong việc thay đổi quy mô.

Do các ưu điểm trên, ngày nay các công ty chứng khoán chủ yếu tồn
tại dưới hình thức công ty cổ phần.
• Cơ cấu tổ chức của CTCK:
Cơ cấu tổ chức của CTCK phụ thuộc vào loại hình nghiệp vụ chứng
khoán mà công ty thực hiện cũng như quy mô hoạt động kinh doanh
chứng khoán của nó. Tuy nhiên, nhìn chung thì cơ cấu tổ chức của
CTCK có mô hình như sau:

9


Giám đốc

Phó GĐ phụ trách

Phòng
môi
giới

Phòng
tự
doanh

Phòng
phân
tích
và tư
vấn

Phó GĐ phụ trách


Phòng
bảo
lãnh và
phát
hành

Phòng
kế
toán
và lưu


Phòng
tổ chức
hành
chính

2. Các nghiệp vụ của CTCK
2.1. Các nghiệp vụ chính
2.1.1. Nghiệp vụ môi giới chứng khoán
Môi giới chứng khoán là hoạt động trung gian hoặc đại diện mua,
bán chứng khoán cho khách hàng để hưởng hoa hồng. Theo đó, công ty
chứng khoán đại diện cho khách hàng tiến hành giao dịch thông qua cơ
chế giao dịch tại SGDCK hoặc thị trường OTC mà chính khách hàng
phải chịu trách nhiệm đối với giao dịch của mình.
Đặc điểm của nghiệp vụ môi giới chứng khoán:
• Đối với CTCK:
+ Giúp lệnh mua/ bán của khách hàng gặp nhau.
+ Cung cấp thông tin chứng khoán cho khách hang, nó được thể

hiện ở các bảng tin ở các CTCK.
+ Tư vấn cho khách hàng đưa ra các quyết định đầu tư hợp lý như
loại chứng khoán, giá cả, thời điểm mua bán thích hợp…Khắc phục

10


trạng thái xúc cảm quá mức để khách hang đưa ra quyết định đầu tư tỉnh
táo.
+ Thu phí môi giới từ khách hàng. Đây là hình thức mà các CTCK
cạnh tranh với nhau để thu hút khách hàng.
• Đối với khách hàng:
+Tự đưa ra các quyết định mua/bán (khối lượng, giá cả, thời điểm).
+ Cung cấp thông tin chứng khoán cho khách hàng.
+ Được hưởng và tự chịu trách nhiệm về kết quả mua/ bán chứng
khoán của mình.
+ Phải trả phí môi giới cho CTCK.
• Đối với nhân viên làm nghề môi giới:
+ Công việc vất vả nhưng trái lại thù lao mà họ nhận được lại rất
tương xứng.
+ Phẩm chất: kiên nhẫn, giỏi phân tích tâm lý, ứng xử.
+ Nỗ lực cá nhân song song với hỗ trợ của công ty.
Bên cạnh các đặc điểm về công việc môi giới chứng khoán thì người
làm công việc môi giới chứng khoán cần phải có các kỹ năng như: kỹ
năng truyền đạt thông tin, kỹ năng tìm kiếm khách hàng,kỹ năng khai
thác thông tin, kỹ năng bán hàng…
2.1.2. Nghiệp vụ tự doanh chứng khoán
Tự doanh là việc CTCK tự tiến hành các giao dịch mua/ bán chứng
khoán cho chính CTCK, vì lợi ích của chính công ty.
Nghiệp vụ này hoạt động song hành với nghiệp vụ môi giới, vừa

phục vụ lệnh cho khách hàng đồng thời cũng phục vụ cho chính mình, vì
vậy trong quá trình hoạt động có thể dẫn đến xung đột lợi ích giữa thực
hiện lợi ích cho khách hàng và cho bản thân công ty. Do đó, luật pháp
của các nước đều yêu cầu tách biệt rõ ràng giữa các nghiệp vụ môi giới
và tự doanh.
11


Vì vậy có các yêu cầu đối với các CTCK:
+ Tách biệt quản lý: Các CTCK phải có sự tách biệt giữa nghiệp vụ
tự doanh và nghiệp vụ môi giới để đảm bảo tính minh bạch, rõ ràng
trong hoạt động. Sự tách biệt này bao gồm tách biệt về: yếu tố con
người, quy trình nghiệp vụ, vốn và tài sản của khách hàng và công ty.
+ Ưu tiên khách hàng: CTCK phải tuân thủ nguyên tắc ưu tiên khách
hàng khi thực hiện nghiệp vụ tự doanh. Nguyên tắc này đảm bảo sự công
bằng cho khách hàng trong quá trình giao dịch chứng khoán.
+ Góp phần bình ổn thị trường: Các CTCK hoạt động tự doanh nhằm
góp phần bình ổn giá cả thị trường. Trong trường hợp này, hoạt động tự
doanh được tiến hành bắt buộc theo luật định. Các CTCK có nghĩa vụ
mua vào khi giá chứng khoán giảm và bán ra khi giá chứng khoán lên
nhằm giữ giá chứng khoán ổn định.
+ Hoạt động tạo thị trường: Khi được phát hành, các chứng khoán
mới chưa có thị trường giao dịch. Để tạo thị trường cho các chứng khoán
này, các CTCK thực hiện tự doanh thông qua việc mua và bán chứng
khoán, tạo tính thanh khoản trên thị trường cấp 2.
2.1.3. Nghiệp vụ bảo lãnh phát hành
Nghiệp vụ bảo lãnh phát hành là việc CTCK có chức năng bảo lãnh
giúp tổ chức phát hành thực hiện các thủ tục trước khi chào bán chứng
khoán, tổ chức việc phân phối chứng khoán và giúp bình ổn giá chứng
khoán trong giai đoạn đầu sau khi phát hành. Hiện nay, nghiệp vụ bảo

lãnh phát hành của các CTCK là nghiệp vụ chiếm tỷ lệ doanh thu khá
cao trong tổng doanh thu của CTCK.
Quy trình của hoạt động bảo lãnh phát hành chứng khoán:
Bước 1: Thực hiện tư vấn.
Bước 2: Hoàn tất hồ sơ và làm thủ tục xin phép bảo lãnh

12


+ Thành lập tổ hợp bảo lãnh phát hành: thỏa thuận phí quản lý, phí
nhượng bán, phí bảo lãnh (phí bảo lãnh từ 3% đến 5%).
+ Ký kết hợp đồng bảo lãnh phát hành: xác định giá chào bán và cách
thức bảo lãnh (bảo lãnh toàn bộ, bảo lãnh từng phần…).
+ Hoàn tất hồ sơ bảo lãnh phát hành và nộp cho cơ quan quản lý.
Bước 3: Thăm dò thị trường, tổ chức roadshow.
Bước 4: Phân phối và kết thúc.
2.1.4. Nghiệp vụ tư vấn đầu tư chứng khoán
Tư vấn đầu tư chứng khoán là việc CTCK thông qua hoạt động phân
tích để đưa ra các lời khuyên, phân tích các tình huống và có thể thực
hiện một số công việc dịch vụ khác liên quan đến phát hành, đầu tư và cơ
cấu tài chính cho khách hàng.
• Các nguyên tắc chung :
+ Chuyên viên tư vấn có kiến thức chuyên môn sâu rộng.
+ Không bảo đảm chắc chắn về giá trị của chứng khoán.
+ Luôn nhắc nhở khách hàng rằng những lời tư vấn có thể sẽ không
hoàn toàn chính xác và nhà đầu tư phải tự chịu trách nhiệm về quyết định
đầu tư.
+ Không được cung cấp thông tin sai sự thật. Không dụ dỗ, mời gọi
khách hàng mua hay bán một loại chứng khoán nào đó.
+ Không được quyết định thay cho khách hàng.

+ Phải tư vấn đầu tư phù hợp với mục tiêu và tình hình tài chính của
khách hàng.
• Nội dung tư vấn:
+ Tư vấn chiến lược (nên đầu tư vào cổ phiếu nào? Ngắn hạn hay dài
hạn?) và kỹ thuật giao dịch.
+ Cung cấp kết quả phân tích chứng khoán và thị trường chứng
khoán.
13


• Trách nhiệm của người tư vấn: Phải thu thập các thông tin vể khách
hàng trước khi tư vấn. Bao gồm:
+ Tình hình tài chính của khách hàng.
+ Thu nhập của khách hàng.
+ Mục tiêu đầu tư của khách hàng.
+ Khả năng chấp nhận rủi ro của khách hàng.
+ Kinh nghiệm và hiểu biết vể đầu tư của khách hàng.
2.1.5. Nghiệp vụ quản lý danh mục đầu tư
Đây là nghiệp vụ quản lý vốn ủy thác của khách hang để đầu tư vào
chứng khoán thông qua danh mục đầu tư nhằm sinh lợi cho khách hàng
trên cơ sở tăng lợi nhuận và bảo toàn vốn cho khách hàng.
Quy trình quản lý danh mục đầu tư có thể được khái quát gồm các
bước như sau:
Bước 1: Xúc tiến tìm hiểu và nhận quản lý: CTCK và khách hàng
tiếp xúc và tìm hiểu về khả năng tài chính, chuyên môn từ đó đưa ra các
yêu cầu về quản lý vốn ủy thác.
Bước 2: Ký hợp đồng quản lý: CTCK ký hợp đồng quản lý giữa
khách hàng và công ty theo yêu cầu, nội dung về vốn, thời gian ủy thác,
mục tiêu đầu tư…
Bước 3: Thực hiện hợp đồng quản lý: CTCK thực hiện đầu tư vốn ủy

thác của khách hàng theo các nội dung đã cam kết và phải đảm bảo tuân
thủ các quy định về quản lý vốn, tài sản tách biệt giữa khách hàng và
chính công ty.
Bước 4: Kết thúc hợp đồng quản lý: Khách hang có nghĩa vụ thanh
toán các khoản phí quản lý theo hợp đồng ký kết và xử lý các trường hợp
khi CTCK bị ngưng hoạt động, giải thể hoặc phá sản.
2.2. Các nghiệp vụ phụ trợ
2.2.1. Lưu ký chứng khoán
14


Lưu ký chứng khoán là việc lưu giữ, bảo quản chứng khoán của
khách hang thông qua tài khoản lưu ký chứng khoán. Đây là quy định
bắt buộc trong giao dich chứng khoán. Khi thực hiện dịch vụ lưu ký
chứng khoán cho khách hang, CTCK sẽ nhận được các khoản thu phí
lưu ký chứng khoán, phí gửi, phí rút và phí chuyển nhượng chứng
khoán.
2.2.2. Quản lý thu nhập của khách hàng
Xuất phát từ việc lưu ký chứng khoán cho khách hàng, CTCK sẽ theo
dõi tình hình thu lãi, cổ tức của chứng khoán và đứng ra làm dịch vụ thu
nhận và chi trả cổ tức cho khách hàng thông qua tài khoản của khách
hàng.
2.2.3. Nghiệp vụ tín dụng
Đối với các thị trường phát triển, bên cạnh nghiệp vụ môi giới chứng
khoán cho khách hàng để hưởng hoa hồng, CTCK còn triển khai dịch vụ
cho vay chứng khoán để khách hàng thực hiện giao dịch bán khống hoặc
cho khách hàng vay tiển để khách hàng thực hiện nghiệp vụ mua ký quỹ.
3. Các CTCK tại Việt Nam
3.1. Tổng quan về CTCK tại Việt Nam
CTCK là tổ chức có tư cách pháp nhân hoạt động kinh doanh chứng

khoán, bao gồm một, một số hoặc toàn bộ các hoạt động: môi giới chứng
khoán, tự doanh chứng khoán, bảo lãnh phát hành, tư vấn đầu tư chứng
khoán. Thị trường chứng khoán Việt Nam đang phát triển với tốc độ rất
nhanh, từ đó kéo theo hàng loạt các CTCK ra đời. Khi thị trường chứng
khoán Việt Nam mới ra đời thì chỉ có 3 CTCK, trong đó có 2 CTCK là
của Nhà nước, còn 1 CTCK là của tư nhân. Nhưng đến thời điểm
30/6/2005 thì có 13 CTCK đó là:
+ Công ty cổ phần chứng khoán Bảo Việt

15


+ Công ty TNHH chứng khoán ngân hang Đầu tư và phát triển Việt
Nam
+ Công ty cổ phần chứng khoán Sài Gòn
+ Công ty cổ phần chứng khoán Đệ Nhất
+ Công ty TNHH chứng khoán Thăng Long
+ Công ty TNHH chứng khoán ACB
+ Công ty TNHH chứng khoán ngân hang Công thương Việt Nam
+ Công ty TNHH chứng khoán Agribank
+ Công ty TNHH chứng khoán Vietcombank
+ Công ty cổ phần chứng khoán Mêkong
+ Công ty cổ phần chứng khoán TP HCM
+ Công ty TNHH chứng khoán ngân hang Đông Á
+ Công ty cổ phần chứng khoán Hải Phòng
Đến năm 2006 có 55 CTCK và đến nay thị trường chứng khoán Việt
Nam có đến 80 CTCK đã đi vào hoạt động, 100 CTCK đang chờ được
cấp phép, số lượng tài khoản được mở khoảng 300000 tài khoản. Các
CTCK có mặt tại 4 tỉnh thành phố lớn: Hà Nội, Hải Phòng, TP HCM,
tỉnh Bình Dương.

Nhiệm vụ chủ yếu ban đầu của CTCK là môi giới thì bây giờ hầu hết
các CTCK đã triển khai tự doanh, bảo lãnh phát hành, quản lý danh mục
đầu tư.
Các CTCK muốn thực hiện các nghiệp vụ của mình thì đòi hỏi phải
có một lượng vốn pháp định cho mỗi nghiệp vụ, cụ thể:
• Môi giới chứng khoán: 25 tỷ.
• Tự doanh chứng khoán: 100 tỷ.
• Bảo lãnh phát hành chứng khoán: 165 tỷ.
• Tư vấn đầu tư chứng khoán: 10 tỷ.

16


CTCK chỉ được phép thực hiện nghiệp vụ bảo lãnh phát hành chứng
khoán khi thực hiện nghiệp vụ tự doanh. Từ 1/1/2007, CTCK không
được thực hiện nghiệp vụ quản lý danh mục mà hoạt động này được
chuyển sang cho công ty quản lý quỹ, quy định này nhằm tránh xung đột
giữa môi giới và tự doanh.
3.2. Một số quy định theo Luật chứng khoán đối với các CTCK
3.2.1. Luật chứng khoán quy định về hạn chế đối với CTCK
Luật chứng khoán quy định tại điều 73 những hạn chế đối với CTCK
như sau:
1. Không được đưa ra nhận định hoặc bảo đảm với khách hàng về
mức thu nhập hay mức lợi nhuận đạt được trên khoản đầu tư của mình
hoặc đảm bảo khách hàng không bị thua lỗ, trừ trường hợp đầu tư vào
chứng khoán có thu nhập cố định.
2. Không được tiết lộ thông tin về khách hàng, trừ trường hợp được
khách hàng đồng ý hoặc theo yêu cầu của cơ quan quản lý Nhà nước có
thẩm quyền.
3. Không được thực hiện những hành vi làm cho khách hàng và nhà

đầu tư hiểu nhầm về giá chứng khoán.
4. Không được cho khách hàng vay tiền để mua chứng khoán, trừ
trường hợp Bộ Tài Chính có quy định khác.
5. Cổ đông sáng lập, thành viên sáng lập của CTCK, công ty quản lý
quỹ không được chuyển nhượng cổ phần hoặc phần vốn góp của mình
trong thời hạn 3 năm, kể từ ngày được cấp giấy phép thành lập và hoạt
động, trừ trường hợp chuyển nhượng cho cổ đông sáng lập, thành viên
sáng lập khác của công ty.
3.2.2. Nghĩa vụ của CTCK
Theo quy định tại điều 71 của Luật chứng khoán thì CTCK có các
nghĩa vụ sau:
17


1. Thiết lập hệ thống kiểm soát nội bộ, quản trị rủi ro và giám sát,
ngăn ngừa những xung đột lợi ích trong nội bộ công ty và trong giao
dịch với những người có liên quan.
2. Quản lý tách biệt chứng khoán của từng nhà đầu tư, tách biệt tiền
và chứng khoán của nhà đầu tư với tiền và chứng khoán của CTCK.
3. Ký hợp đồng bằng văn bản với khách hàng khi cung cấp dịch vụ
cho khách hàng, cung cấp đầy đủ, trung thực thông tin cho khách hàng.
4. Ưu tiên thực hiện lệnh của khách hàng trước lệnh của công ty.
5. Thu thập, tìm hiểu thông tin về tình hình tài chính, mục tiêu đầu
tư, khả năng chấp nhận rủi ro của khách hàng, bảo đảm các khuyến nghị,
tư vấn đầu tư của công ty cho khách phải phù hợp với khách hàng đó.
6. Tuân thủ các quy định bảo đảm vốn khả dụng theo quy định của
Bộ Tài Chính.
7. Mua bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp cho từng nghiệp vụ kinh
doanh chứng khoán tại công ty hoặc trích lập quỹ bảo vệ nhà đầu tư để
bồi thường thiệt hại cho nhà đầu tư do có sự cố kỹ thuật và sơ suất của

nhân viên trong công ty.
8. Lưu giữ đầy đủ các chứng từ và tài khoản phản ánh chi tiết, chính
xác các giao dịch của khách hàng và của công ty.
9. Thực hiện việc bán hoặc cho khách hang bán chứng khoán khi
không sở hữu chứng khoán và cho khách hang vay chứng khoán để bán
theo quy định của Bộ Tài Chính.
10. Tuân thủ các quy định của Bộ Tài Chính về nghiệp vụ kinh
doanh chứng khoán.
11. Thực hiện chế độ kế toán, kiểm toán, thống kê, nghĩa vụ tài chính
theo quy định của pháp luật.
12. Thực hiện công bố thông tin theo quy định tại điều 104 của Luật
chứng khoán và chế độ báo cáo theo quy định của Bộ Tài Chính.
18


3.3. Một số nguyên tắc chung về tổ chức và hoạt động của CTCK
tại Việt Nam
• Cơ cấu tổ chức của CTCK phải đảm bảo tách biệt về văn phòng
làm việc, nhân sự, hệ thống dữ liệu, báo cáo giữa các bộ phận nghiệp vụ
có xung đột giữa lợi ích của CTCK và của khách hàng hoặc giữa lợi ích
của các khách hàng với nhau.
• Vốn điều lệ của CTCK phải đáp ứng yêu cầu về vốn pháp định đối
với từng nghiệp vụ kinh doanh chứng khoán.
• CTCK phải duy trì tỷ lệ vốn khả dụng trên tổng vốn nợ điều chỉnh
tối thiểu bằng 5%.
• Tỷ lệ nợ trên vốn chủ sở hữu của CTCK không được vượt quá 6
lần.
• Nợ ngắn hạn tối đa bằng nguồn vốn ngắn hạn.
• Hạn chế đầu tư của CTCK:
+ Đầu tư vào cổ phiếu hoặc phần vốn góp của công ty có sở hữu trên

50% vốn điều lệ của CTCK.
+ Cùng với người có liên quan đầu tư từ 5% trở lên vốn điều lệ của
cùng CTCK khác.
+ Đầu tư từ 20% trở lên tổng số cổ phiếu đang lưu hành của một tổ
chức niêm yết.
+ Đầu tư từ 15% trở lên tổng số cổ phiếu đang lưu hành của một tổ
chức không niêm yết.
+ Đầu tư hoặc góp vốn từ 15% trở lên tổng số vốn góp của một công
ty trách nhiệm hữu hạn.
3.4. Một số thách thức đối với CTCK tại Việt Nam hiện nay
3.4.1. Thực trạng hoạt động của các CTCK Việt Nam hiện nay
Với kết quả kinh doanh 6 tháng đầu năm 2007 khá vượt trội của
nhiều CTCK trong bối cảnh thị trường rơi vào xu thế trầm lắng, kéo dài
19


sang các tháng của quý III/2007, đã phần nào phản ảnh rõ nét những
bước đi vững chắc của các khối CTCK. Sự ra đời của hàng loạt các
CTCK đã góp phần đáp ứng được nhu cầu dịch vụ cho số lượng đông
đảo nhà đầu tư đang ngày một gia tăng, đồng thời tạo ra áp lực cạnh
tranh buộc các CTCK phải tự hoàn thiện mình, nâng cao chất lượng dịch
vụ khách hàng và đảm bảo lợi ích cho khách hàng.
Mặc dù vậy, do hiện nay tỷ lệ người dân Việt Nam tham gia đầu tư
chứng khoán vẫn còn rất nhỏ, nên việc số lượng các CTCK gia tăng
nhanh trong một khoảng thời gian khá ngắn đã dẫn đến một số công ty
gặp nhiều khó khăn trong hoạt động kinh doanh. Với khả năng tài chính
và kinh nghiệm còn hạn chế, vì mục tiêu lợi nhuận của mình một số
CTCK đã sử dụng những biện pháp cạnh tranh không lành mạnh, gây ra
những ảnh hưởng xấu đến sự phát triển chung của thị trường, tạo tâm lý
lo ngại cho các nhà đầu tư. Trên thực tế, hiện nay với số lượng trên 80

CTCK được cấp phép và đi vào hoạt động nhưng phải chia nhau một thị
trường quá nhỏ chỉ với trên dưới 250.000 khách hàng (là các nhà đầu tư,
tổ chức và cá nhân, trong khi đó các CTCK lớn và hoạt động lâu năm
như SSI, VCBS, ACBS, BCVS, SBS... đã thâu tóm khoảng 85% lượng
khách hàng, những CTCK mới và quy mô vốn nhỏ phải chật vật chia
nhau 15% thị phần còn lại (chưa kể số CTCK mới đang nộp hồ sơ chờ
cấp phép tại UBCKNN). Nhiều CTCK đã phải bỏ ra hàng chục tỷ đồng
để mua sắm trang thiết bị, thuê mặt bằng... nhưng thực tế hoạt động
trong thời gian gần đây số lượng khách hàng đến đầu tư không đáng kể,
khiến nhiều CTCK bị thâm hụt vốn sở hữu.
Để hút khách trên thị trường, nhiều công ty đã mở rộng dịch vụ repo
và hạ phí... Tuy nhiên, nóng bỏng hơn cả là cuộc đua hạ phí. Theo quy
định, phí giao dịch thu từ các nhà đầu tư là 0,5% trên giá trị giao dịch.
Nhưng hiện nay đã bị một số CTCK hạ đến mức thấp nhất, thậm chí có
20


CTCK không thu phí trong 3 tháng đầu hoạt động. Đặc biệt, nhiều
CTCK mới thành lập đã sử dụng chiêu khuyến mại bằng cách tặng tiền
cho khách hàng mở tài khoản giao dịch tại công ty và trừ dần vào phí
giao dịch. Trên thực tế trong thời gian gần đây, thông tin về việc giảm,
miễn phí giao dịch của các CTCK liên tục được công bố trên thị trường.
Trong đó, tất cả các CTCK lớn nhỏ lần lượt vào cuộc, dù đây là nguồn
thu đáng kể, nhất là với những thành viên mới hoạt động. Cuộc cạnh
tranh phí giao dịch được giới chuyên môn nhận định là đang ở hồi căng
thẳng. Đỉnh điểm của cuộc đua giảm phí giao dịch giữa các CTCK tập
trung từ đầu tháng 9 này, nhân dịp kỷ niệm ngày Cách mạng tháng 8 và
Quốc khánh 2/9. Mức giảm phổ biến từ 1/2 phí giao dịch hiện hành; một
số miễn phí 100%. Với CTCK, đây là một hình thức khuyến mãi, kéo
nhà đầu tư đến sàn giao dịch... Nhưng với nhiều công ty nhỏ, mới tham

gia thị trường, kinh doanh đang lỗ thì việc giảm phí sẽ là một gánh nặng
lớn.
3.4.2 Những thách thức tiềm ẩn
3.4.2.1 Nguồn nhân lực
Trong khi thị trường chứng khoán Việt Nam đang phát triển với tốc
độ nhanh thì số lượng nhân viên môi giới chứng khoán còn hạn chế.
Thiếu hụt nguồn nhân lực cho một thị trường đang lên là vấn đề “nóng”
của tất cả các CTCK trong giai đoạn hội nhập.
Hiện nay các sàn giao dịch của thị trường chứng khoán luôn trong
tình trạng quá tải, trong khi đó đội ngũ nhân viên giao dịch của CTCK
vẫn còn quá ít ỏi. Mỗi ngày, một nhân viên của CTCK có khi phải phụ
trách khoảng 100 khách hàng. Mặc dù, nguồn nhân lực cho các CTCK
đang thiếu, nhưng mỗi CTCK đều có một quy trình tuyển dụng khắt khe
nhằm đem về cho công ty mình những người xuất sắc nhất. Trong cuộc
đua này, có lẽ lợi thế thuộc về những người tốt nghiệp tại các trường về
21


tài chính- ngân hang, nhất là những người đã tự biết trang bị cho mình
các kiến thức về thị trường chứng khoán. Rõ ràng, thị trường chứng
khoán Việt Nam đang phát triển sôi động.Sự thiếu hụt nhân lực của các
CTCK, cũng như của thị trường chứng khoán, đang mở ra nhiều cơ hội
để tìm việc làm mới cho giới trẻ trong môi trường kinh doanh đang thay
đổi hàng ngày hiện nay.
Một thực tế hiện nay, khả năng cung ứng không “chạy” kịp thực tế.
Dù mỗi năm nước ta có hàng nghìn sinh viên tốt nghiệp ngành tài chính
cả trong và ngoài nước nhưng con số đó vẫn chưa thể đáp ứng được nhu
cầu tuyển dụng hiện nay của các CTCK, nhất là đối với nhân lực cao
cấp. Theo các chuyên gia trong ngành thì nhân lực chứng khoán hiện nay
không chỉ thiếu về số lượng và còn thiếu cả sự chuyên nghiệp. Các vị trí

mà các CTCK thiếu nhiều thường tập trung vào 3 lĩnh vực: chuyên viên
công nghệ thông tin (IT), chuyên viên môi giới và chuyên viên tư vấn tài
chính doanh nghiệp.
Trong khi thị trường chứng khoán nước ngoài đã hình thành và phát
triển trên 3 thế kỷ, do đó tính chuyên nghiệp trong đào tạo là rất cao, phù
hợp với sự phát triển của thị trường thì thị trường chứng khoán Việt Nam
lại chỉ mới chập chững những bước đi đầu tiên. Vậy nên chương trình
đào tạo nhièu lúc chưa đáp ứng được nhu cầu thực tế, tính chuyên nghiệp
cũng chưa thể đạt được với các nước trên thế giới. Việc đào tạo của
trường đại học trong thời gian qua chưa chú ý và dành sự quan tâm đúng
mức đối với lĩnh vực này và hiện nay thì đào tạo chứng khoán ở nước ta
cũng mới chỉ ở giai đoạn “khởi động”.
Theo đánh giá của các nhà tuyển dụng nhân sự chứng khoán thì về
cơ bản, sinh viên các trường đại học chỉ đáp ứng điều kiện cần, tức là có
nền tảng về tài chính, kinh tế để tiếp cận được lĩnh vực này. Trong khi
đó, để trở thành một nhân viên thực sự chuyên nghiệp thì họ cần phải trải
22


qua một quá trình đào tạo lâu dài ở các công ty chứng khoán. Bên cạnh
đó họ cần phải có những tố chất cần thiết khác như sự nhanh nhẹn, sự tập
trung cao độ trong công việc và tính trung thực. Thị trường chứng khoán
Việt Nam mới hình thành trong vài năm trở lại đây trong khi việc đào tạo
ở các trường học chưa chuyên sâu nên nhu cầu về nhân sự cao cấp trong
các CTCK là đặc biệt lớn.
Nguồn nhân lực là tài sản quan trọng nhất đối với các CTCK nên
hiện nay giữa các CTCK đang diễn ra một cuộc chiến giành nhân lực
chứng khoán.
Sự thiếu hụt nhân lực đã khiến các CTCK bước vào một cuộc chạy
đua để tuyển dụng nhân sự mới với hàng loạt ưu đãi khác nhau về lương

bổng, cơ hội thăng tiến, quyền được mua cổ phiếu ưu đãi…
Cơ hội việc làm hấp dẫn ở các CTCK đã phần nào được giải quyết
khi có sự chuyển dịch nhân sự của ngành ngân hàng sang làm việc cho
các CTCK vì hai lĩnh vực này vốn có mối tương tác và liên thông với
nhau tương đối mật thiết.
Sự chênh lệch giữa cung và cầu hiện nay của thị trường chứng khoán
lại chính là cơ hội cho các bạn trẻ muốn tham gia vào lĩnh vực này nếu
có khả năng phù hợp.
Nhằm sớm giải quyết sự khan hiếm về nguồn nhân lực trong lĩnh
vực chứng khoán và nâng cao hơn nữa chất lượng đào tạo, hướng đi của
các trường đại học là kết hợp đào tạo kiến thức cơ bản chuyên ngành với
kiến thức thực tế. Một số công ty đã triển khai kế hoạch nhân sự dài hạn
bằng cách liên kết với các CTCK nước ngoài để hợp tác với nhau lĩnh
vực đào tạo nguồn nhân lực, sẵn sàng đương đầu với cạnh tranh ngày
càng khốc liệt hơn trong tương lai.
3.4.2.2. Về công nghệ

23


Khi thị trường chứng khóan phát triển nhanh trong thời gian qua
khiến các CTCK đang bị quá tải về nghiệp vụ môi giới và tư vấn niêm
yết cho doanh nghiệp. Họ có rất ít thời gian để đầu tư cho công nghệ.
Đầu tư công nghệ đang bị đẩy lùi về phía sau trong lịch trình hoạt động
của CTCK.
Trong khi đó, sự cấp phép thành lập CTCK một cách ồ ạt vào cuối
năm 2006 vừa qua đã nảy sinh nhiều vấn đề. Trong số những CTCK mới
ra đời cuối 2006, bên cạnh một số có sự chuẩn bị kỹ lưỡng, phần lớn số
còn lại đều trong tình trạng con người và công nghệ còn yếu kém, và
điều này sẽ gây khó khăn không ít cho sự hoạt động suôn sẻ. Theo nhận

xét chung, tại thời điểm hiện nay, cơ sở hạ tầng của ngành chứng khoán
nói chung và các CTCK nói riêng còn khá lạc hậu, thiếu đồng bộ và có
thể nói là chưa an toàn. Với bất kỳ sự thay đổi nhỏ nào về giải pháp kỹ
thuật hay phương thức trong giao dịch đều sẽ có những ảnh hưởng đến
việc quản lý giao dịch tại các CTCK.
Với số lượng công ty chứng khoán tăng nhanh, Ủy ban chứng khoán
Nhà nước đang lo ngại về khả năng đáp ứng nhân lực và yêu cầu đảm
bảo công nghệ. Ngay bản thân hệ thống phần cứng và phần mềm của
HASTC và HOSTC cũng đang gặp thách thức khi muốn “nói chuyện”
với tất cả các công ty chứng khoán. HOSTC đang xây dựng và dự kiến
áp dụng hình thức giao dịch không sàn vào cuối năm 2007, và khi đó
những công ty nào không đáp ứng được sự tương thích công nghệ tất
nhiên sẽ rời cuộc chơi.
Nhu cầu của các công ty chứng khoán đang rất lớn, từ việc chăm sóc
khách hàng, phân loại nhà đầu tư đến việc quản lý dữ liệu tập trung, quản
lý bảo mật các giao dịch thông qua mã hóa và chữ ký điện tử... Đó là
chưa kể nhiều nghiệp vụ chứng khoán mới sẽ ra đời, như kết hợp giữa
chứng khoán - ngân hàng, chứng khoán - bảo hiểm, hay đáp ứng nhu cầu
24


về các kênh giao dịch mới như qua điện thoại di động, SMS, WAP và
PDA, qua hệ thống online, IVR, hệ thống trả lời tự động.
Bài toán đầu tư công nghệ cần phải được xây dựng một cách tổng thể
và triển khai đầu tư đồng bộ theo hướng mở, nếu không sẽ dẫn đến thiếu
đồng nhất đối với tất cả các CTCK, khả năng tích hợp giữa các CTCK
với trung tâm giao dịch chứng khoán cũng sẽ gặp vấn đề.
3.4.3. Giải pháp và kiến nghị
Mặc dù hiện tại hoạt động kinh doanh của các CTCK khá khó khăn
theo bối cảnh chung của thị trường, hướng cạnh tranh chính và lâu dài

nhất là các công ty không nên quá chú trọng tới việc cạnh tranh bằng phí
giao dịch, thay vào đó nên đầu tư công nghệ và tăng tiện ích. Về phía cơ
quan quản lý thị trường, hiện nay Bộ Tài chính đã giao nhiệm vụ cho
UBCKNN sớm hoàn thiện đề án về chính sách phí, lệ phí đối với các đối
tượng tham gia thị trường, trong đó có phí giao dịch.
Về vấn đề nhân lực, trên cơ sở theo dõi hoạt động của các CTCK, cơ
quan quản lý thị trường nên ban hành Quy chế người hành nghề chứng
khoán, tạo điều kiện để các CTCK có số người hành nghề đảm bảo theo
quy định pháp luật hiện hành.

25


×