Tải bản đầy đủ (.docx) (16 trang)

Tiểu luận môn phân tích chính sách thuế chính sách thuế và vấn đề tăng trưởng kinh tế bền vững

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (161.05 KB, 16 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP.HỒ CHÍ MINH
LỚP CAO HỌC K24 – GĐ A314

ĐỀ TÀI:

CHÍNH SÁCH THUẾ VÀ VẤN ĐỀ TĂNG
TRƯỞNG KINH TẾ BỀN VỮNG

GVHD: PGS.TS. NGUYỄN NGỌC HÙNG
Học viên: Nguyễn Thị Diễm Chi
MSSV: 7701240780A

12-2015

1


LỜI MỞ ĐẦU

Trong lịch sử hình thành Nhà nước đi kèm với nó là phải có vật chất đảm bảo
cho sự tồn tại và hoạt động theo chức năng của mình. Điều này chỉ có thể thực
hiện được nhờ vào ngân sách Nhà nước. Đồng thời, Nhà nước dùng quyền lực
chính trị để ban hành những qui định pháp luật cần thiết làm công cụ phân phối lại
một phần của cải của xã hội dưới hình thức giá trị sáng tạo và hình thành quỹ tiền
tệ nhờ vào thuế.
Thuế không chỉ là nguồn thu chủ yếu cho ngân sách Nhà nước, thuế còn là
công cụ điều tiết vĩ mô thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế. Bởi vậy, thuế có một
vai trò cực kỳ to lớn đối với mỗi quốc gia. Đặc biệt là “ Để duy trì quyền lực công
cộng cần phải có sự đóng góp của những người công dân cho Nhà nước, đó là thuế
má” - F.Anghen. Thuế bao giờ cũng là hình thức động viên, mang tính bắt buộc
gắn liền với quyền lực chính trị của Nhà nước, được thể hiện bằng các sắc Luật


thuế do Nhà nước qui định.
Chính nhờ vai trò quan trọng của thuế, chính sách thuế cũng góp phần ảnh
hưởng đến vấn đề tăng trưởng kinh tế bền vững của một quốc gia. Để hiểu rõ hơn
về đề tài “Chính sách thuế và vấn đề tăng trưởng kinh tế bền vững”, tôi tập trung
nghiên cứu vào các khía cạnh: thuế và vai trò của chính sách thuế; thế nào là tăng
trưởng kinh tế bền vững?; các yếu tố nào tác động đến tăng trưởng kinh tế bền
vững; tác động của chính sách thuế đối với tăng trưởng kinh tế bền vững ….

2


CHÍNH SÁCH THUẾ VÀ VẤN ĐỀ TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ BỀN VỮNG

I. Thuế và vai trò của chính sách thuế đối với nền kinh tế
1. Khái niệm về thuế - chính sách thuế
1.1. Khái niệm thuế
Cho đến nay trong các sách báo kinh tế trên thế giới vẫn chưa có thông nhất
tuyệt đối về khái niệm thuế. Đứng trên các góc độ khác nhau theo các quan điểm
của các nhà kinh tế khác nhau thì có định nghĩa về thuế khác nhau.
Theo nhà kinh tế học Gaston Jeze trong cuốn “Tài chính công” đưa ra một
định nghĩa tương đối cổ điển về thuế: “ Thuế là một khoản trích nộp bằng tiền, có
tính chất xác định, không hoàn trả trực tiếp do các công dân đóng góp cho nhà
nước thông qua con đường quyền lực nhằm bù đắp những chi tiêu của Nhà Nước.”.
Trên góc độ phân phối thu nhập: “ Thuế là hình thức phân phối và phân phối
lại tổng sản phẩm xã hội và thu nhập quốc dân nhằm hình thành các quý tiền tệ tập
trung của nhà nước để đáp ứng các nhu cầu chi tiêu cho việc thực hiện các chức
năng, nhiệm vụ của nhà nước.”
Trên góc độ người nộp thuế: “ Thuế là khoản đóng góp bắt buộc mà mỗi tổ
chức, cá nhân phải có nghĩa vụ đóng góp cho nhà nước theo luật định để đáp ứng
nhu cầu chi tiêu cho việc thực hiện các chức năng , nhiệm vụ của nhà nước.”

Trên góc độ kinh tế học :” Thuế là một biện pháp đặc biệt, theo đó, nhà nước
sử dụng quyền lực của mình để chuyển một phần nguồn lực từ khu vực tư sang khu
vực công nhằm thực hiện các chức năng kinh tế – xã hội của nhà nước.”
Theo từ điển tiếng việt :” Thuế là khoản tiền hay hiện vật mà người dân hoặc
các tổ chức kinh doanh, tuỳ theo tài sản, thu nhập, nghề nghiệp… buộc phải nộp
cho nhà nước theo mức quy định.”
Từ các định nghĩa trên ta có thể rút ra được một số đặc trưng chung của thuế
là:


Thứ nhất, nội dung kinh tế của thuế được đặc trưng bởi các mỗi quan hệ tiền
tệ phát sinh dưới nhà nước và các pháp nhân, các thể nhân trong xã hội.
3




Thứ hai, những mỗi quan hệ dưới dạng tiền tệ này được nảy sinh một cách
khách quan và có ý nghĩa xã hội đặc biệt- việc chuyển giao thu nhập có tính
chất bắt buộc theo mệnh lệnh của nhà nước.



Thứ ba, xét theo khía cạnh pháp luật, thuế là một khoản nộp cho nhà nước
được pháp luật quy định theo mức thu và thời hạn nhất định.

Từ các đặc trưng trên của thuế , ta có thể nêu lên khái niệm tổng quát về thuế
là: “ Thuế là một khoản đóng góp bắt buộc từ các thể nhân và pháp nhân cho nhà
nước theo mức độ và thời hạn được pháp luật quy định nhằm sử dụng cho mục
đích công cộng.”

1.2. Đặc điểm của thuế
Thuế có những thuộc tính tương đối ổn định qua từng giai đoạn phát triển và
biểu hiện thành những đặc trưng riêng có của nó, qua đó giúp ta phân biệt thuế với
các công cụ khác. Những đặc trưng đó là:
*Đặc điểm thứ nhất : Thuế là một biện pháp tài chính của Nhà nước mang
tính quyền lực, tính cưỡng chế, tính pháp lý cao nhưng sự bắt buộc này là phi hình
sự.
Quá trình động viên nguồn thu từ thuế của Nhà nước là quá trình chuyển đổi
quyền sở hữu một bộ phận thu nhập của các pháp nhân và thể nhân thành quyền sở
hữu của Nhà nước. Do đó Nhà nước phải dùng quyền lực để thực hiện quyền
chuyển đổi. Tính quyền lực tạo nên sự bắt buộc là một tất yếu khách quan, nhưng
vì các hoạt động thu nhập của thể nhân và pháp nhân không gây cản trở cho xã hội
nên tính bắt buộc này là phi hình sự. Vì vậy có thể nói việc đánh thuế không mang
tính hình phạt.
Đặc điểm này được thể chế hoá trong hiến pháp của mọi quốc gia, việc đóng
góp thuế cho nhà nước được coi là một trong những nghĩa vụ bắt buộc đối với
công dân. Mọi công dân làm nghiã vụ đóng thuế theo những luật thuế được cơ
quan quyền lực tối cao quy định và nếu không thi hành sẽ bị cưỡng chế theo những
hình thức nhất định.
* Đặc điểm thứ hai: Thuế tuy là biện pháp tài chính của Nhà nước mang tính
bắt buộc, song sự bắt buộc đó luôn luôn được xác lập trên nền tảng kinh tế-xã hội
của người làm nhiệm vụ đóng thuế, do đó thuế bao giờ cũng chứa đựng các yếu tố
kinh tế xã hội.
4


+ Yếu tố kinh tế thể hiện : Hệ thống thuế trước hết phải kể đến thu nhập bình
quân đầu người của một Quốc gia, cơ cấu kinh tế, thực tiễn vận động của cơ cấu
kinh tế đó, cũng như chính sách, cơ chế quản lý của Nhà nước. Cùng với yếu tố đó
còn phải kể đến phạm vi, mức độ chi tiêu của Nhà nước nhằm thực hiện các chức

năng kinh tế của mình.
+ Yếu tố xã hội thể hiện : Hệ thống thuế phải dựa trên phong tục, tập quán
của quốc gia, kết cấu giai cấp cũng như đời sống thực tế của các thành viên trong
từng giai đoạn lịch sử. Mặt khác thuế còn thực hiện phân phối lại thu nhập xã hội
đảm bảo công bằng xã hội.
Như vậy mức động viên qua thuế trong GDP của một quốc gia phụ thuộc vào
nhu cầu chi tiêu của Nhà nước và các vấn đề kinh tế, xã hội của quốc gia đó.
* Đặc điểm thứ ba: Thuế là một khoản đóng góp không mang tính chất hoàn
trả trực tiếp. Nghiã là khoản đóng góp của công dân bằng hình thức thuế không đòi
hỏi phải hoàn trả đúng bằng số lượng và khoản thu mà nhà nước thu từ công dân
đó như là một khoản vay mượn. Nó sẽ được hoàn trả lại cho người nộp thuế thông
qua cơ chế đầu tư của Ngân sách nhà nước cho việc sản xuất và cung cấp hàng hoá
công cộng.
Đặc điểm này làm nổi rõ sự khác nhau giữa thuế và lệ phí. Lệ phí được coi là
một khoản đối giá giữa Nhà nước với công dân, khi công dân thừa hưởng những
dịch vụ công cộng do nhà nước cung cấp phải trả một phần thu nhập của mình cho
nhà nước. Tuy nhiên việc trao đổi này thường không tuân thủ theo hình thức trao
đổi ngang giá dựa trên quy luật của thị trường.
Tóm lại, Thuế là một biện pháp kinh tế của mọi Nhà nước, nó được thực thi
khi hoạt động kinh tế tạo ra thu nhập hoặc sử dụng nguồn thu nhập tạo ra. Đặc biệt,
trong nền kinh tế thị trường vai trò của Nhà nước ngày càng trở nên quan trọng thì
vai trò của thuế cũng chiếm vị trí không thể thiếu được trong công tác quản lý và
điều tiết vĩ mô nền kinh tế.Hệ thống thuế ở Việt Nam
1.3. Hệ thống thuế tại Việt Nam
Hệ thống thuế là tổng hợp các hình thức thuế khác nhau mà giữa chúng có
mỗi quan hệ mật thiết với nhau để thực hiện các nhiệm vụ nhất định của nhà nước
trong từng thời kỳ.

5



2. Chức năng – vai trò của thuế đối với nền kinh tế
Chức năng của thuế là sự thể hiện công dụng vốn có của thuế, và nó có tính
ổn định tương đối. Trong suốt thời gian tồn tại và phát triển thuế luôn luôn thực
hiện hai chức năng cơ bản sau:
2.1. Chức năng huy động nguồn lực tài chính cho nhà nước
Ngay từ lúc phát sinh, thuế luôn luôn có công dụng là phương tiện đông viên
nguồn tài chính cho nhà nước, là chức năng cơ bản của thuế. Nhờ chức năng huy
động nguồn lực tài chính mà quỹ tiền tệ tập trung của nhà nước được hình thành,
qua đó đảm bảo cơ sở vật chất cho sự tồn tại và hoạt động của nhà nước. Chức
năng này đã tạo ra những tiền đề để nhà nước tiến hành phân phối và phân phối lại
tổng sản phẩm của xã hội và thu nhập quốc dân trong xã hội. Thuế là một nguồn
chiếm tỷ trọng lớn nhất cho ngân sách nhà nước.
2.2. Chức năng điều tiết kinh tế
Chức năng điều tiết kinh tế của thuế được thực hiện thông qua việc quy định
các hình thức thu thuế khác nhau, xác định đúng đắn đối tượng chịu thuế và đối
tượng nộp thuế, xây dựng chính xác các mức thuế phải nộp có tính đến khả năng
của người nộp thuế, sử dụng linh họat các ưu đãi và miễn giảm thuế. Trên cơ sở
6


đó, nhà nước kích thích các hoạt động kinh tế đi vào quỹ đạo chung, phù hợp lợi
ích của xã hội. Như vậy, bằng cách điều tiết và kích thích, chức năng điều tiết kinh
tế của thuế đã được thực hiện
Giữa chức năng huy động nguồn lực tài chính và chức năng điều tiết kinh tế
có mỗi quan hệ gắn bó mật thiết với nhau. Chức năng huy động nguồn lực tài
chính quy định sự tác động và sự phát triển của chức năng điều tiết. Ngược lại, nhờ
sự vận dụng đúng đắn chức năng điều tiết kinh tế đã làm cho chức năng huy động
nguồn lực tài chính của thuế có điều kiện phát triển. Chức năng huy động nguồn
lực tài chính càng tăng lên nhằm đảm bảo nguồn thu nhập cho nhà nước đã tạo ra

những điều kiện để nhà nước tác động một cách sâu rộng đến các quá trình kinh tế
và xã hội. Điều này tạo ra tiền đề tăng thêm thu nhập cho các doanh nghiệp và các
tầng lớp dân cư, do đó mở rộng cơ sở thực hiện chức năng huy động nguồn lực tài
chính.
Cùng với sự thống nhất đó, thì giữa hai chức năng này của thuế cũng không
loại trừ những mặt mâu thuẫn. Sự tăng cường chức năng huy động tập trung tài
chính làm cho mức thu nhập của nhà nước tăng lên. Điều đó đồng nghĩa với việc
mở rộng khả năng của nhà nước trong việc thực hiện các chương trình kinh tế- xã
hội. Mặt khác, việc tăng cường chức năng huy động một cách quá mức sẽ làm tăng
gánh nặng thuế và hậu quả của nó là giảm động lực phát triển kinh tế và làm xói
mòn vai trò điều tiết kinh tế.
Do vậy, trong quá trình quản lý thuế, hoạch định các chính sách thuế ở mỗi
giai đoạn phát triển kinh tế khác nhau cần phải chú ý đến mỗi quan hệ giữa chức
năng điều tiết kinh tế và chức năng huy động nguồn tài chính của thuế.
II. Tăng trưởng kinh tế bền vững và các nhân tố tác động đến tăng trưởng
kinh tế.
1. Khái niệm tăng trưởng kinh tế bền vững
1.1. Tăng trưởng kinh tế là gì?
Tăng trưởng kinh tế là sự gia tăng của tổng sản phẩm quốc nội (GDP) hoặc
tổng sản lượng quốc gia (GNP) hoặc quy mô sản lượng quốc gia tính bình quân
trên đầu người (PCI) trong một thời gian nhất định.
1.2. Tăng trưởng kinh tế bền vững?
7


Tăng trưởng kinh tế bền vững là khái niệm hiện đại để xác định mục tiêu và
các nhân tố tốt cho một nền kinh tế nhờ tăng trưởng bền vững. Theo đó, tăng
trưởng không chỉ hiểu đơn thuần là tăng thu nhập bình quân đầu người, mà phải
gắn với phát triển bền vững, chú trọng tới cả ba nhân tố: kinh tế, xã hội và môi
trường. Để duy trì tốc độ tăng trưởng cao trong dài hạn, tăng thu nhập cần phải gắn

với tăng chất lượng cuộc sống hay tăng phúc lợi và xóa đói nghèo. Tăng trưởng
không nhất thiết phải đạt tốc độ quá cao, mà chỉ cần cao ở mức hợp lý nhưng bền
vững.
Trên bình diện toàn thế giới hay tại mỗi khu vực và ở mỗi quốc gia xuất hiện
biết bao vấn đề bức xúc lại mang tính phổ biến. Kinh tế càng tăng trưởng thì tình
trạng khan hiếm các loại nguyên liệu, năng lượng do sự cạn kiệt các nguồn tài
nguyên không tái tạo được ngày càng tăng thêm, môi trường thiên nhiên càng bị
hủy hoại, cân bằng sinh thái bị phá vỡ, dẫn tới sự trả thù của thiên nhiên gây ra
những thiên tai vô cùng thảm khốc. Đó là sự tăng trưởng kinh tế không cùng nhịp
với tiến bộ và phát triển xã hội, đôi khi ngược chiều với phát triển xã hội. Cụ thể
là, có tăng trưởng kinh tế nhưng không có tiến bộ và công bằng xã hội; tăng trưởng
kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, đô thị hóa, dẫn tới làm méo mó nông thôn;
tăng trưởng kinh tế nhưng thu nhập của người lao động không tăng; tăng trưởng
kinh tế nhưng văn hóa, đạo đức bị suy đồi; tăng trưởng kinh tế lại làm dãn cách
hơn sự phân hóa giàu nghèo trong xã hội, dẫn tới sự bất ổn trong xã hội và điều
này đã trở thành một trong những vấn đề nóng bỏng ở nhiều quốc gia. Vậy nên,
quá trình phát triển có sự điều tiết hài hòa giữa tăng trưởng kinh tế với bảo đảm
bình ổn xã hội và bảo vệ môi trường đang trở thành yêu cầu bức thiết đối với toàn
thế giới.
2. Các nhân tố tác động đến tăng trưởng kinh tế bền vững
Dựa vào khái niệm trên ta nhận thấy, tăng trưởng kinh tế bền vững là mục tiêu
chung của tất cả các nước trên thế giới. Nếu như các nhân tố tác động đến tăng
trưởng kinh tế bao gồm các nhân tố làm tăng chỉ số cơ học cụ thể sau khi nghiên
cứu về tăng trưởng kinh tế của các nước phát triển lẫn các nước đang phát triển,
những nhà kinh tế học đã phát hiện ra rằng động lực của phát triển kinh tế phải
được đi cùng trên bốn bánh xe, hay bốn nhân tố của tăng trưởng kinh tế là nguồn
nhân lực, nguồn tài nguyên, tư bản và công nghệ. Bốn nhân tố này khác nhau ở
8



mỗi quốc gia và cách phối hợp giữa chúng cũng khác nhau đưa đến kết quả tương
ứng. Các nhân tố tác đông đến tăng trưởng kinh tế bền vững mang ý nghĩa nội
hàm của các quốc gia nhiếu hơn như bảo vệ môi trường, dựa vào sức mạnh nội
tại, bình đẳng trong thu nhập, xác lập một thị trường lao động thống nhất xây
dựng một hệ thống an sinh xã hội lành mạnh.
III.

Chính sách thuế và vấn đề tăng trưởng kinh tế bền vững

Thuế với các đặc điểm của mình và chức năng chính là công cụ của nhà nước
để thực thi các mục tiêu và chính sách góp phần không nhỏ cho mục tiêu lớn là
tăng trưởng kinh tế bền vững.
Trong hai mươi năm thực hiện đổi mới, hệ thống thuế đã có nhiều
cải cách lớn, đã được đổi mới khá căn bản và trở nên ngày càng hoàn
thiện hơn trên tất cả các mặt chính sách thuế, tổ chức bộ máy thu thuế
và công tác quản lý hành chính thuế.
Hiện nay, hệ thống thuế đã chuyển hẳn từ một hệ thống thu ngân
sách trong kinh tế kế hoạch hóa tập trung, không dựa trên nền tảng
thuế, sang thu ngân sách dựa vào các luật thuế; đã xây dựng được một
hệ thống thuế thống nhất, bao gồm khá đầy đủ các sắc thuế cần thiết để
điều tiết các hoạt động kinh tế cần điều tiết qua thuế. Hiện nay hệ thống
thuế đã hình thành tương đối đầy đủ các sắc thuế cần thiết của một hệ
thống thuế hiện đại từng bước phù hợp với kinh tế thị trường. Trong đó
các sắc thuế gián thu, đánh vào tiêu dùng đã được chú trọng hoàn chỉnh
hơn các sắc thuế trực thu cho phép khai thác được ưu điểm dễ thu của
thuế gián thu, góp phần thu ngân sách nhà nước.
Trong điều tiết vĩ mô, câc cuộc cải cách đã đưa thuế trở thành một
trong những công cụ điều tiết vĩ mô sắc bén đối với nền kinh tế- xã hội,
được Bộ Tài chính và Nhà nước tích cực sử dụng nhằm góp phần kích
thích tăng trưởng kinh tế, kiềm chế lạm phát, thúc đẩy xuất khẩu, bảo

hộ sản xuất trong nước, thúc đẩy đầu tư và tăng trưởng kinh tế, tăng
nguồn thu giải quyết các vấn đề về xã hội, quốc phòng và an ninh.
Dưới góc độ hội nhập quốc tế, cải cách thuế đã có bước tiến hòa
nhập với môi trường thuế quốc tế, ký kết các hiệp định tránh đánh thuế
9


hai lần; xây dựng và thực hiện lộ trình hội nhập quốc tế về thuế khi
tham gia AFTA, WTO...
1. Thuế và bảo vệ môi trường.
Thuế môi trường là khoản thu của ngân sách nhà nước, nhằm điều tiết các
hoạt động có ảnh hưởng tới môi trường và kiểm soát ô nhiễm môi trường. Mục tiêu
của thuế môi trường. Mục tiêu của thuế môi trường là tạo nguồn thu cho ngân sách
nhà nước lấy từ người gây ô nhiễm và gây thiệt hại cho môi trường để bù đắp cho
các chi phí xã hội. Thuế môi trường có thể chia thành 2 loại:
- Thuế gián thu: Đánh vào giá trị hàng hóa gây ô nhiễm môi trường.
- Thuế trực thu: Đánh vào lượng chất thải độc hại với môi trường do cơ sở sản xuất
gây ra.
Tại Việt Nam, Luật Thuế Bảo vệ môi trường đã được Quốc hội thông qua
ngày 15/11/2010. Theo Luật Thuế Bảo vệ môi trường, đối tượng chịu thuế gồm 8
nhóm: Xăng, dầu, mỡ, nhờn; Than đá; Dung dịch HCFC; Túi ni lông; Thuốc diệt
cỏ (loại hạn chế sử dụng); thuốc trừ mối (hạn chế sử dụng); Thuốc bảo quản lâm
sản (hạn chế sử dụng); Thuốc khử trùng kho (hạn chế sử dụng). Ngày 8/8/2011,
Chính phủ đã ban hành Nghị định số 67/2011/NĐ-CP quy định chi tiết và hướng
dẫn thi hành một số điều của Luật Thuế bảo vệ môi trường. Nghị định này quy
định về đối tượng chịu thuế, căn cứ tính thuế, khai thuế, tính thuế, nộp thuế và
hoàn thuế bảo vệ môi trường. Nghị định có hiệu lực thi hành từ ngày 1/1/2012.
2. Thuế và sức mạnh nội tại của một quốc gia
Sức mạnh tổng hợp quốc gia hay còn gọi là Thực lực quốc gia là một khái
niệm trong lĩnh vực quan hệ quốc tế, dùng để chỉ toàn bộ thực lực đảm bảo cho sự

tồn tại và phát triển của một quốc gia bao gồm các nhân tố vật chất (phần cứng);
tinh thần (phần mềm); ảnh hưởng trong quan hệ quốc tế. Một yếu tố góp phần quan
trọng tạo nên sức mạnh nội tại quốc gia là ngân sách của quốc gia. Thu ngân sách
nhà nước là tiền đề cần thiết để duy trì quyền lực chính trị và thực hiện các chức
năng, nhiệm vụ của nhà nước.
Một nền tài chính quốc gia lành mạnh phải dựa chủ yếu vào nguồn thu từ nội
bộ nền kinh tế quốc dân.Tất cả các nhu cầu chi tiêu của Nhà nước đều được đáp
ứng qua các nguồn thu từ thuế, phí và các hình thức thu khác như: vay mượn, viện
10


trợ nước ngoài, bán tài nguyên quốc gia, thu khác.... Song thực tế các hình thức thu
ngoài thuế đó có rất nhiều hạn chế, bị ràng buộc bởi nhiều điều kiện. Do đó thuế
được coi là khoản thu quan trọng nhất vì khoản thu này mang tính chất ổn định và
khi nền kinh tế càng phát triển thì khoản thu này càng tăng. Ở Việt Nam, Thuế
thực sự trở thành nguồn thu chủ yếu của Ngân sách Nhà nước từ năm 1990. Điều
này được thể hiện qua tỷ trọng số thuế trong tổng thu ngân sách.
Thuế đóng góp chủ yếu trong các khoản thu ngân sách Nhà nước. Thuế là một
khoản đóng góp bắt buộc cho nhà nước do luật quy định đối với các pháp nhân và
thể nhân nhằm đáp ứng nhu cầu chi tiêu của nhà nước. Thuế phản ánh các quá
trình phân phối lại thu nhập trong xã hội,thể hiện các mối quan hệ tài chính giữa
nhà nước với các pháp nhân và thể nhân trong phân phối các nguồn tài chính và là
công cụ cơ bản thực hiện phân phối tài chính.
Thuế còn là công cụ góp phần điều chỉnh các mục tiêu kinh tế vĩ mô. Chính
sách thuế được đặt ra không chỉ nhằm mang lại số thu đơn thuần cho ngân sách mà
yêu cầu cao hơn là qua thu góp phần thực hiện chức năng việc kiểm kê, kiểm soát,
quản lý hướng dẫn và khuyến khích phát triển sản xuất, mở rộng lưu thông đối với
tất cả các thành phần kinh tế theo hướng phát triển của kế hoạch nhà nước, góp
phần tích cực vào việc điều chỉnh các mặt mất cân đối lớn trong nền kinh tế quốc
dân.

Ngày nay, hướng vào việc xử lý các mục tiêu của kinh tế vĩ mô là nhiệm vụ
trọng tâm của mọi chính phủ. Sự thành công hay thất bại của việc quản lý Nhà
nước, nền kinh tế là giải quyết các mục tiêu của kinh tế vĩ mô. Trong nền kinh tế
thị trường hiện đại, người ta thường xác định 4 mục tiêu cơ bản của kinh tế vĩ mô
mà mọi chính phủ phải theo đuổi. Bốn mục tiêu đó là:
- Đảm bảo thúc đẩy sự tăng trưởng kinh tế một cách hợp lý .
- Tạo được công ăn việc làm đầy đủ cho người lao động.
- ổn định giá cả, tiền tệ, chống lạm phát.
-Thực hiện sự cân bằng cán cân thanh toán quốc tế.
Với 4 mục tiêu trên ta có thể thấy rõ Thuế là một công cụ hết sức quan trọng
nhằm biến 4 mục tiêu đó thành hiện thực.
11


Một quốc gia muốn phát triển bền vững phải dực vào tiềm lực và sức mạnh
nội tại của chính mình, có tiềm lực đủ mạnh mới có khả năng duy trì được sự bền
vững và thuế đóng góp vai trò rất quan trọng trong việc tạo dựng nên sức mạnh của
quốc gia.
3. Thuế và bình đẳng trong thu nhập
Người giàu cần đóng thuế nhiều. Nếu những bất bình đẳng có dấu hiệu tăng
lên, sẽ làm tổn hại đến tăng trưởng kinh tế. Phân phối thu nhập bình đẳng là một
chỉ số quan trọng thể hiện bình đẳng xã hội và chính quyền luôn cần đẩy mạnh cải
cách hệ thống phân phối thu nhập để đảo chiều xu hướng chênh lệch thu nhập đang
tăng lên hiện nay.
Bất bình đẳng về thu nhập thường có tính hai mặt khá rõ, thể hiện: vừa liên
quan chặt chẽ với tăng trưởng kinh tế, vừa phản ánh thực trạng phát triển xã hội;
vừa là động lực cho tăng trưởng, vừa có thể làm giảm tăng trưởng. Hơn nữa, Bất
bình đẳng gia tăng gắn liền với sự chia sẻ không đều cơ hội dịch chuyển xã hội,
đồng thời cản trở dịch chuyển xã hội liên thế hệ, làm suy giảm niềm tin xã hội và
niềm tin vào thể chế của người dân. Chênh lệch phân phối thu nhập được thể hiện

rõ nét trên tất cả các khía cạnh: Chênh lệch giữa những người giàu nhất và nghèo
nhất; giữa nông thôn và thành thị; giữa các thành phố và vùng miền; giữa các
ngành kinh tế và các giới. Nguyên nhân của Bất bình đẳng gắn với mô hình tăng
trưởng theo bề rộng và chuyển dịch về mô hình sản xuất từ nông nghiệp sang phi
nông nghiệp; với sự khác biệt đặc điểm và cơ cấu nguồn thu, nguồn thu nhập chính
giữa các vùng miền, giữa các ngành, các khu vực, các nhóm dân tộc; cũng như với
vai trò không chính đáng của quan hệ, quyền thế, tiền bạc trong xin việc làm, nhất
là việc làm trong khu vực công …
Để giải quyết bất bình đẳng thu nhập, Việt Nam cần xây dựng được một chiến
lược tăng trưởng kinh tế mới cùng với các chính sách phân phối thu nhập thích
hợp, tập trung vào cải cách thể chế pháp luật, thị trường cạnh tranh, công bằng và
mở, tạo sân chơi bình đẳng cho cả các doanh nghiệp lớn, vừa và nhỏ; tăng đầu tư
vào nguồn lực con người và khuyến khích tạo việc làm, khuyếnn khích hình thành
một tầng lớp trung lưu rộng lớn trong xã hội; thiết kế hệ thống thuế sao cho không
triệt tiêu động lực làm giàu của những người giàu. Tăng đầu tư công vào những
khu vực kém phát triển; đồng thời, nâng cao chất lượng quản lý đầu tư công cũng
12


như cải thiện chất lượng các dịch vụ công, để các kết quả đầu tư đến với người
dân, đặc biệt là người nghèo. Một trong những cơ sở quan trọng cho việc ra chính
sách giảm bất bình đẳng là tập trung vào tăng cơ hội tiếp cận giáo dục, từ đó giảm
bất bình đẳng thu nhập. Nói cách khác, luôn tồn tại quan hệ giữa tăng trưởng kinh
tế và giải quyết công bằng xã hội. Theo đó, tăng trưởng kinh tế cần đi đôi với bình
đẳng trong phân phối thu nhập; Nguồn lợi thu được từ tăng trưởng kinh tế cần
được phân phối lại theo hướng ngày càng được cải thiện hoặc ít nhất là không xấu
đi, thông qua chính sách phân phối lại tài sản (của cải, đất đai, thuế) và chính sách
phân phối lại từ tăng trưởng (các dịch vụ công); như chính sách nhằm tăng cường
cơ hội giáo dục-đào tạo, chăm sóc y tế cho nhiều người. Các chính sách thuế đánh
vào thu nhập hiện nay như thuế thu nhập cá nhân, thuế thu nhập doanh nghiệp,…

và các thuế suất vào các lĩnh vực khác góp phần hỗ trợ chính phủ giảm tình trạng
bất bình đẳng thu nhập.
Kinh tế thị trường làm ra tăng sự phân hoá giàu nghèo, sự phân hoá này có
những khi bất hợp lý và làm giảm tính hiệu quả kinh tế-xã hội. Do vậy, cần phải có
những biện pháp phân phối lại của cải xã hội nhằm hạn chế sự phân hoá này, làm
lành mạnh xã hội.
Nhà nước dùng thuế để điều tiết phần chênh lệch giữa người giàu và người
nghèo, thông qua việc trợ cấp hoặc cung cấp hàng hoá công cộng. Thông qua thuế
thu nhập, Nhà nước thực hiện vai trò điều chỉnh vĩ mô trong lĩnh vực tiền lương và
thu nhập, hạn chế sự phân hoá giàu nghèo và tiến tới công bằng xã hội. Một khía
cạnh khác của chính sách thuế nhằm điều chỉnh thu nhập là các khoản thuế đánh
vào tiêu dùng: Thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế Giá trị gia tăng.
Với những hàng hóa dịch vụ thiết yếu việc giảm thuế sẽ có lợi cho người
nghèo hơn và sự chênh lệch về thu nhập cũng được giảm bớt. Trái lại những mặt
hàng xa xỉ, cao cấp việc tăng thuế sẽ góp phần phân phối lại một bộ phận thu nhập
của người giàu trong xã hội. Tuy nhiên, khi sử dụng công cụ thuế để điều chỉnh thu
nhập, mức thu nên xây dựng hợp lý tránh tình trạng điều tiết quá lớn làm giảm khát
vọng làm giàu của nhà kinh doanh và giảm khả năng tăng trưởng kinh tế của đất
nước.
4. Thuế và xác lập một thị trường lao động thống nhất và xây dựng một hệ
thống an sinh xã hội lành mạnh
13


Xác lập một thị trường lao động thống nhất là nhân tố quan trọng, đồng thời
cần chuẩn mực và tạo cơ chế đảm bảo các cơ hội việc làm bình đẳng
Xây dựng một hệ thống an sinh xã hội lành mạnh dựa trên cơ sở bảo hiểm xã
hội, trợ cấp xã hội và phúc lợi, trong đó nòng cốt là hệ thống lương hưu tốt, dịch
vụ y tế cơ bản và trợ cấp an sinh. Chính phủ cũng cần cải thiện hệ thống cho thuê
nhà ở giá rẻ và giải quyết nhanh những khó khăn về nhà ở đối với những gia đình

đang có thu nhập thấp ở đô thị.
Thuế cũng góp phần kích thích sự tăng trưởng kinh tế tạo công ăn việc làm.
Để thực hiện các mục tiêu này, một trong những công cụ quan trọng mà nhà nước
sử dụng là chính sách thuế. Nội dung điều tiết của thuế gồn hai mặt: Kích thích và
hạn chế. Nhà nước đã sử dụng chính sách thuế một cách linh hoạt trong từng thời
kỳ nhất định, bằng việc tác động vào cung-cầu nhằm điều chỉnh chu kỳ kinh
doanh- một đặc trưng vốn có của nền kinh tế thị trường.
Khi nền kinh tế suy thoái, tức là khi đầu tư ngừng trệ, sản xuất và tiêu dùng
đều giảm thì nhà nước dùng thuế để kích thích đầu tư và khuyến khích tiêu dùng.


Bằng việc giảm thuế đánh vào sản xuất, giảm thuế đối với hàng sản xuất ra
để khuyến khích tạo lợi nhuận, kích thích việc đầu tư vào sản xuất.



Bằng việc giảm thế đánh vào tiêu dùng nhằm khuyến khích tiêu dùng.



Để hạn chế và gây áp lực đối với việc lưu giữ vốn không đưa vào đầu tư, có
thể tăng thuế đánh vào thu nhập về tiền gửi tiết kiệm và thu nhập về tài sản
dự trữ, từ đó sẽ khuyến khích việc đưa vốn vào đầu tư, sản xuất kinh doanh.

Khi nền kinh tế hưng thịnh, để ngăn chặn nguy cơ một nền kinh tế “nóng”
phát triển dẫn đến lạm phát và khủng hoảng thừa thì nhà nước dùng thuế để giảm
tốc độ đầu tư ồ ạt và giảm bớt mức tiêu dùng của xã hội. Song việc tăng thuế phải
được xem xét trong một giới hạn cho phép để đảm bảo vừa tăng nguồn thu cho
NSNN vừa điều chỉnh cơ cấu ngành nghề hợp lý.
Như vậy, có thể thấy sự tác động của thuế có ảnh hưởng rất lớn đến nền kinh

tế, đến việc điều tiết kinh tế thị trường của Nhà nước. Thông qua thuế, Nhà nước
thực hiện định hướng phát triển sản xuất. Chính sách thuế có định hướng phân biệt,
có thể góp phần tạo ra sự phát triển cân đối hài hoà giữa các ngành, các khu vực,
các thành phần kinh tế, làm giảm bớt chi phí xã hội và thúc đẩy tăng trưởng kinh
14


tế. Trong nền kinh tế thị trường xảy ra các chu kỳ kinh doanh đó là chu kỳ dao
động lên xuống về mức độ thất nghiệp và tỷ lệ lạm phát, sự ổn định nền kinh tế với
tình trạng có đầy đủ công ăn việc làm, lạm phát ở mức thấp để thúc đẩy nền kinh tế
tăng trưởng bền vững là hướng phấn đấu nỗ lực của mọi chính phủ nhằm san bằng
chu kỳ kinh doanh, đưa giá cả về mức ổn định.
Nhà nước dùng ngân sách để hỗ trợ cho người nghèo, những người khuyết
tật... thông qua các chương trình kinh tế - xã hội, các quỹ trợ cấp, trợ giá, tín dụng
ưu đãi... Ngoài ra còn vận động nhân dân góp quỹ xóa đói, giảm nghèo, giúp đỡ
vùng gặp thiên tai.
Nhà nước tăng các dịch vụ công, như dự án y tế công cộng, bệnh viện miễn
phí cho người nghèo, chương trình nước sạch, chương trình dinh dưỡng cho trẻ
nghèo trước tuổi đến trường, chăm sóc người già cô đơn không nơi nương tựa, trẻ
mồ côi. Vì phần lớn người nghèo ở các nước đang phát triển là nông dân, nên phải
coi trọng chương trình phát triển toàn diện nông thôn.

KẾT LUẬN
Thuế không chỉ tạo nguồn thu cho ngân sách nhà nước mà còn là công cụ hữu
hiệu để nhà nước thực thi, điều chỉnh các chính sách kinh tế vĩ mô. Vai trò và chức
năng của thuế góp phần quan trọng trong việc thực hiện mục tiêu lớn tăng trưởng
kinh tế bền vững.
Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011 – 2020 đã xác định một trong ba
khâu đột phá là phát triển nhanh nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất
lượng cao, tập trung vào việc đổi mới căn bản và toàn diện nền giáo dục quốc dân;

gắn kết chặt chẽ phát triển nguồn nhân lực với phát triển và ứng dụng khoa học
công nghệ
Các yếu tố tác động đến tăng trưởng kinh tế bền vững bao gồm: bảo vệ môi
trường, dựa vào sức mạnh nội tại, bình đẳng trong thu nhập, xác lập một thị trường
lao động thống nhất xây dựng một hệ thống an sinh xã hội lành mạnh. Thuế góp
phần lớn trong việc thực thi và điều tiết các mục tiêu kinh tế vĩ mô của chính phủ.
Từ đó góp phần thực hiện mục tiêu to lớn tăng trưởng kinh tế bền vững

15


Mục lục

16



×