Tải bản đầy đủ (.docx) (28 trang)

Tiểu luận môn phân tích chính sách thuế thuế đánh vào lãi tiết kiệm

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (272.59 KB, 28 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

TIỂU LUẬN
MÔN: PHÂN TÍCH CHÍNH SÁCH THUẾ
ĐỀ TÀI:

ĐÁNH THUẾ VÀO LÃI TIẾT KIỆM
GVHD: TS.NGUYỄN NGỌC HÙNG
NHÓM 5:










NGUYỄN QUANG TÚ
BẠCH PHƯƠNG CÔNG
NGUYỄN THỊ ANH GÁI
LÊ BÁ HANH
NGUYỄN CÔNG NGHĨA
ĐINH NGỌC QUỲNH NHƯ
NGUYỄN NGỌC PHƯƠNG QUỲNH
ĐINH THỊ MỸ TRANG
LÊ THANH TUẤN

TPHCM, tháng 12/2015


NHẬN XÉT CỦA GIẢNG VIÊN HƯỚNG DẪN
1


…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………

…………………………………………………………………………………………
2


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU................................................................................................................. 4
I. THUẾ VÀ TIẾT KIỆM – MÔ HÌNH LÝ THUYẾT VÀ MINH CHỨNG................4
1. Lý thuyết truyền thống.........................................................................................4
2. Minh chứng lãi suất sau thuế tác động đến tiết kiệm..........................................6
3. Lạm phát và thuế tiết kiệm..................................................................................7
II. CÁC MÔ HÌNH TIẾT KIỆM KHÁC.................................................................10
1. Mô hình tiết kiệm phòng ngừa rủi ro.................................................................10
2. Mô hình tự kiểm soát.........................................................................................10
III CHÍNH SÁCH KHUYẾN KHÍCH CỦA THUẾ ĐỐI VỚI TIẾT KIỆM
HƯU TRÍ...............................................................................................................11
1. Trợ cấp thuế hiện hành đối với tiết kiệm hưu trí...............................................11
2. Tại sao trợ cấp thuế lại tăng mức sinh lợi của tiết kiệm...................................13
3. Hiệu ứng lý thuyết đến tiết kiệm hưu trí được trợ cấp thuế...............................15
4. Những hàm ý cho các mô hình tiết kiệm khác...................................................18
IV. ĐỀ XUẤT ĐÁNH THUẾ VÀO TIẾT KIỆM TẠI VIỆT NAM NĂM 2013
VÀ NHỮNG Ý KIẾN PHẢN BIỆN........................................................................19
1. Đề xuất của ông Lê Hoàng Châu – Chủ tịch Hiệp hội BĐS TPHCM ...............19
2. Những ý kiến phản biện với đề xuất đánh thuế vào tiền gửi tiết kiệm...............20
KẾT LUẬN............................................................................................................24

3


MỞ ĐẦU
Chúng ta đã biết quy mô tiết kiệm của xã hội sẽ làm vốn của nền kinh tế dồi dào hơn

và điều này là yếu tố then chốt của tăng trưởng kinh tế. Do vậy một trong những nguồn gốc
của các tranh luận chính sách ở Mỹ và trên thế giới là vai trò thích hợp của đánh thuế vào
thu nhập từ vốn, tức là thuế đánh trên sự sinh lợi của tiết kiệm.
Liệu cấu trúc thuế thu nhập có làm giảm khối lượng tiết kiệm của người dân hay
không? Chính phủ có nên sử dụng luật thuế để khuyến khích người dân tiết kiệm hơn? Nếu
có, các khuyến khích nên được cấu trúc như thế nào?
Bài nghiên cứu này sẽ xem xét các mô hình tiết kiệm, trong đó có mô hình lựa chọn
theo thời gian, mô hình tiết kiệm phòng ngừa rủi ro và mô hình tự kiểm soát – những mô
hình có hàm ý quan trọng đối với chính sách tiết kiệm. Đồng thời, bài nghiên cứu cũng thể
hiện đề xuất đánh thuế vào tiết kiệm tại Việt Nam năm 2013 và những ý kiến nhận định của
các chuyên gia.

4


I. THUẾ VÀ TIẾT KIỆM – MÔ HÌNH LÝ THUYẾT VÀ MINH CHỨNG
1. Lý thuyết truyền thống
Theo lí thuyết truyền thống, vai trò của tiết kiệm là ổn định tiêu dùng theo thời gian.
Điều này có nghĩa là cá nhân có nhiều thu nhập hơn trong thời gian đi làm và ít hơn khi nghỉ
hưu. Vì vậy nếu không tiết kiệm, lúc nghỉ hưu sẽ phải cắt giảm tiêu dùng. Theo quy luật thỏa
dụng biên giảm dần, việc này không đạt được tối đa hóa thỏa dụng, cá nhân sẽ thích tiêu
dùng một lượng ổn định theo thời gian bằng cách giảm chi tiêu lúc thu nhập cao và tăng chi
tiêu lúc thu nhập thấp. Như vậy tiết kiệm thể hiện vai trò ổn định tiêu dùng.
Mô hình lựa chọn theo thời gian
Tiết kiệm = thu nhập cá nhân – tiêu dùng hiện tại
Chúng ta không mô hình hóa tiết kiệm mà mô hình hóa tiêu dùng theo thời gian.
Chúng ta làm việc ngày hôm nay là để tài trợ cho tiêu dùng trong tương lai, tức là có sự đánh
đổi giữa lựa chọn tiết kiệm và tiêu dùng trong hiện tại.
Trước khi đánh thuế
Hình 1. Mô hình lựa chọn theo thời gian trước khi đánh thuế


− C1: Tiêu dùng ở giai đoạn làm việc = Thu nhập (Y) – tiết kiệm (S)
5


− C2: Tiêu dùng ở giai đoạn nghỉ hưu = Tiết kiệm trong giai đoạn 1 (S)
+ lãi sinh ra [S*(1 + r)]

Đường giới hạn ngân sách BC1 được vẽ dựa trên việc nếu một người tiết kiệm toàn bộ
thu nhập ở giai đoạn 1 thì người đó sẽ tiêu dùng Y*(1 + r) ở giai đoạn 2; ngược lại nếu tiêu
dùng toàn bộ ở giai đoạn 1 thì sẽ không có tiêu dùng ở giai đoạn 2. Độ dốc BC 1 là (1 + r),
thể hiện chi phí cơ hội của việc tiêu dùng trong giai đoạn thứ nhất là tiền lãi lẽ ra sẽ nhận
được nếu tiết kiệm.
Sau khi đánh thuế
Hình 2. Mô hình lựa chọn theo thời gian sau đi đánh thuế

Đường ngân sách thoải hơn, từ BC 1 xuống BC2. Độ dốc đường ngân sách chỉ còn
[1 + r*(1 – t)]. Điều này thể hiện chi phí cơ hội của việc tiêu dùng trong giai đoạn thứ nhất
giảm đi vì mỗi $ tiết kiệm ở giai đoạn 1 sẽ mang lại ít tiêu dùng hơn ở giai đoạn 2.
Hiệu ứng thay thế và hiệu ứng thu nhập
Hai hiệu ứng này diễn ra theo hai hướng ngược nhau.
Hiệu ứng thay thế

6


Lãi suất sau thuế [1 + r*(1 – t)] thấp hơn dẫn đến chi phí cơ hội của việc tiêu dùng
trong giai đoạn 1 giảm đi, từ đó làm cho tiêu dùng ở giai đoạn 1 tăng. Thuế đánh vào tiết
kiệm khuyến khích tiêu dùng ở hiện tại
Hiệu ứng thu nhập

Khi tiêu dùng ở giai đoạn 1 tăng làm cho tiết kiệm giảm, điều này dẫn đến thu nhập
sau thuế giảm. Ở mỗi mức tiết kiệm, tiêu dùng ở giai đoạn 2 đều giảm, muốn duy trì mức
tiêu dùng ở giai đoạn 2 thì tiêu dùng ở giai đoạn 1 phải giảm để làm tiết kiệm. Thuế đánh
vào tiết kiệm khuyến khích tiết kiệm.
Hình 3. Hiệu ứng thay thế và hiệu ứng thu nhập

Hiệu ứng thay thế lớn hơn: “lãi suất sau thuế thấp hơn” có tác động lớn hơn dẫn đến
tăng tiêu dùng ở giai đoạn 1, làm giảm tiết kiệm ở giai đoạn 1, giảm tiêu dùng ở giai đoạn 2.
Hiệu ứng thu nhập lớn hơn: “thu nhập sau thuế thấp hơn” có tác động lớn hơn sẽ làm
giảm tiêu dùng ở cả 2 giai đoạn dẫn đến tăng tiết kiệm
2. Minh chứng lãi suất sau thuế tác động đến tiết kiệm

7


Có ít sự đồng tình về tác động của thuế hay lãi suất đến quyết định tiết kiệm.
Việc nghiên cứu mối liên hệ giữa lãi suất sau thuế và tiết kiệm là một vấn đề khó
khăn, nhất là xác định mức lãi suất. Người ta có thể dễ dàng đo tiền lương của một người đi
làm nào đó, nhưng không thể đo lãi suất thỏa đáng cho người tiết kiệm nào đó vì các lí do:

− Lãi suất nào phù hợp phụ thuộc vào tập hợp cơ hội tiết kiệm dành cho mỗi
người.
− Lãi suất của bất kì dạng tiết kiệm nào cũng thay đổi theo thời gian với cách
thức như nhau cho tất cả mọi người.
− Sự co dãn của tiết kiệm theo lãi suất sau thuế là tham số quyết định
3. Lạm phát và thuế tiết kiệm
Sự trườn lên của ngưỡng đánh thuế (bracket creep)
Bracket creep được định nghĩa là tình huống mà lạm phát đẩy thu nhập vào ngưỡng
đánh thuế cao hơn dẫn đến kết quả là gia tăng thuế thu nhập nhưng không gia tăng sức mua
thực tế. Cá nhân có thể cảm nhận được sự tăng lên của thuế suất mặc dù thu nhập thực (theo

đồng đô la cố định) của họ không hề tăng. Tình huống này xảy ra trong thời kì lạm phát cao
vì thuế suất thuế thu nhập thường tốn một khoảng thời gian dài để thay đổi.
Ví dụ:
Tại Mỹ năm 1980, giá cả tăng 11.3% so với 1979; cơ sở đánh thuế giữa 2 năm không
đổi.

Thuế suất

Thuế phải

Thu nhập

biên

nộp

sau thuế

16.500

21%

2.370

14.130

18.365

24%


2.815

15.550

Năm

Thu nhập

1979
1980

8


Thu nhập sau thuế tăng 10.05% trong khi giá cả tăng 11.3%.
Hàm ý: Nếu cá nhân mà thu nhập tăng chỉ vừa đủ để bù đắp tác động của lạm phát thì
sẽ phải nộp thuế nhiều hơn do phần nhiều hơn thu nhập của họ nằm trong ngưỡng chịu thuế
cao hơn.
Vấn đề này đã được Quốc hội Mỹ giải quyết vào năm 1981 bằng cách điều chỉnh cơ
sở đánh thuế đối với thu nhập thường xuyên, thuế suất biên đặt trên cơ sở thu nhập thực,
không phải trên cơ sở thu nhập danh nghĩa.
Lạm phát và thuế vốn
Lãi suất nhận được từ tài khoản tiền gửi ngân hàng là lãi suất danh nghĩa, trong khi để
tăng sức mua thì phải xét đến lãi suất thực, tức là thay vì quan tâm sẽ nhận được bao nhiêu
tiền vào năm tới thì nên quan tâm với số tiền đó sẽ tiêu dùng được bao nhiêu hàng hóa vào
năm tới.

Tiền lãi

Tổng

nguồn
lực sau
thuế

Giá mỗi
túi
không
khí

Số
lượng
túi
không
khí

10%

10

110

1

110

100

10%

5


105

1

105

0%

100

10%

10

110

1,1

100

10%

50%

100

10%

5


105

1,1

95.5

10%

0%

100

21%

21

121

1,1

110

10%

50%

100

21%


10.5

110.5

1.1

100.5

Tỷ lệ
lạm
phát

Thuế
suất đối
với tiền
lãi

Tiết
kiệm

Lãi suất
danh
nghĩa

Không
có lạm
phát

0%


0%

100

0%

50%

Lạm
phát

10%

Lãi suất
thực cố
định

Tình
huống

Lãi suất thực (r) = Lãi suất danh nghĩa (i) - Tỷ lệ lạm phát ( )

9


Khi lạm phát tăng, ngân hàng và doanh nghiệp sẽ phải tăng lãi suất danh nghĩa để thu
hút tiết kiệm. Nếu ngân hàng tăng lãi suất danh nghĩa đề bù đắp hoàn toàn lạm phát, khi
không có thuế, lạm phát sẽ không xói mòn sức mua của tiết kiệm.
Tuy nhiên xảy ra vấn đề là thuế đánh trên thu nhập từ tiền lãi với lãi suất danh nghĩa

chứ không phải lãi suất thực. Vì vậy ngân hàng cũng không thể bù đắp được lạm phát. Mặc
dù “sự trườn lên ngưỡng đánh thuế” đã chấm dứt vào năm 1981 nhưng tác động của lạm
phát trong các luật thuế vẫn đáng kể. Thực tế, lạm phát tăng sẽ làm giảm thu nhập thực sau
thuế từ tiết kiệm.
II. CÁC MÔ HÌNH TIẾT KIỆM KHÁC
1. Mô hình tiết kiệm phòng ngừa rủi ro
Là mô hình mà động cơ tiết kiệm không chỉ là mong muốn ổn định tiêu dùng theo
thời gian mà còn là biện pháp bảo vệ trước các rủi ro trong tương lai như mất việc làm hoặc
gặp các vấn đề về sức khỏe
Mô hình này giả định rằng các nhân không có khả năng vay mượn nếu họ gặp phải
những cú sốc vì họ phải đối mặt với những “giới hạn thanh khoản”, những rào cản khi vay
mượn. Do đó cá nhân phải để dành từ việc tiết kiệm phòng khi có những sự cố bất ngờ xảy
ra.
Minh chứng về mô hình phòng ngừa rủi ro
Một số nghiên nghiên cứu đã được thực hiện nhằm kiểm định mô hình phòng ngừa
rủi ro, kết quả cho thấy khi sự bất trắc tăng lên sẽ dẫn đến tiết kiệm tăng và ngược lại. Và
cũng có một số nghiên cứu cho thấy việc mở rộng các chương trình bảo hiểm xã hội cũng sẽ
làm giảm tiết kiệm. Kết quả phù hợp với quan điểm cho rằng tiết kiệm có động cơ từ việc
phòng ngửa rủi ro.
2. Mô hình tự kiểm soát

10


Là mô hình mà cá nhân sẽ phải đối mặt với sự mâu thuẫn giữa sự ưa thích có hại
trong ngắn hạn và sự ưa thích có lợi trong dài hạn. Vấn đề tự kiểm soát cũng có thể áp dụng
với việc tiết kiệm. Trong mô hình này, yếu tố chủ yếu để xác định hành vi tiết kiệm là khả
năng của cá nhận trong việc tìm ra cách thức tự mình tiết kiệm, để dành thu nhập ngoài
phạm vi “tự thỏa mãn trong ngắn hạn”
Minh chứng mô hình tự kiểm soát


− Ví dụ cổ điển là “Câu lạc bộ Giáng sinh”, một tài khoản ngân hàng mà cá
nhân sẽ bỏ tiền vào đó suốt năm với lãi suất rất thấp, nhằm tích lũy tiền để
mua quà tặng vào dịp Giáng sinh.
− Thử nghiệm của Richard Thaler và Shlomo Benartzi (2004), hai nhà kinh tế
này đưa ra kế hoạch tiết kiệm hưu trí duy nhất dành cho người lao động ở một
nhà máy quy mô vừa. Với kế hoạch “tiết kiệm nhiều hơn ngày mai”, người lao
động cam kết dành một phần trong sự tăng lên của thu nhập tương lai để vào
tiết kiệm hưu trí. Kế hoạch này không có gì hấp dẫn đối với những người tiết
kiệm dựa trên lý trí, nhưng đây chính là một điều hấp dẫn lớn đối với những
người phải đối mặt với vấn đề tự kiểm soát, những người mong muốn giữ một
phần trong thu nhập tăng thêm ở tương lai ngoài tầm tay nhằm hạn chế sự thỏa
mãn bất lợi trong ngắn hạn. Kết quả có 78% số người lao động được mời đã
quyết định tham gia và 80% số người vẫn còn tham gia sau bốn lần tăng
lương, và tỷ lệ tiết kiệm của những người tham gia tăng từ 3,5% lên 13,6%,
sau 40 tháng.
Kết quả trên phù hợp với quan điểm cho rằng người lao động phải đối mặt với vấn đề
tự kiểm soát về hành vi tiết kiệm.
III. CHÍNH SÁCH KHUYẾN KHÍCH CỦA THUẾ ĐỐI VỚI TIẾT KIỆM HƯU
TRÍ
1. Trợ cấp thuế hiện hành đối với tiết kiệm hưu trí

11


Trợ cấp thuế đối với tiền hưu do người sử dụng lao động trả
Một trong những khoản phúc lợi lớn nhất mà người sử dụng lao động dành cho người
lao động là quỹ tiền hưu: người sử dụng lao động tích lũy để trả thu nhập hưu trí cho người
lao động; người lao động có quyền nhận tiền hưu trí trên cơ sở thời gian mà họ làm việc tại
doanh nghiệp. Khi về hưu, doanh nghiệp trả cho họ khoản phúc lợi – hàm số theo thu nhập

mà họ nhận được và theo thời gian làm việc tại doanh nghiệp. Qua thời gian, quỹ tiền hưu trí
trở thành khoản phúc lợi mang tính đóng góp, trong đó người sử dụng lao động đóng góp
một phần trên cơ sở thu nhập của người lao động vào một tài khoản đầu tư, và người lao
động sẽ nhận được tiền tiết kiệm này từ lợi nhuận của tài khoản đầu tư khi họ về hưu.
Tất cả đóng góp của người sử dụng lao động để hình thành tiền hưu trí (kể cả tiền lãi
phát sinh) đều không phải chịu thuế khi tính thuế thu nhập đối với người lao động. Người
lao động phải nộp thuế đối với tiết kiệm hưu trí như là thu nhập thường xuyên lúc nhận tiền
khi về hưu.
Tài khoản 401(k)
Hình thức tiết kiệm hưu trí tăng lên nhanh chóng nhất là những tài khoản dạng
401(k), một chương trình tiết kiệm kiểm soát mang tính cá nhân được cung cấp thông qua
nơi làm việc. Các tài khoản 401(k) cho phép cá nhân tiết kiệm cho giai đoạn về hưu trên cơ
sở được ưu đãi về thuế và người sử dụng lao động thường đóng góp theo mức đóng góp của
người lao động. Lựa chọn 401(k) điển hình tại doanh nghiệp cho phép người lao động đóng
góp đến 10% thu nhập vào tài khoản hưu trí và bất kỳ đôla nào được đóng góp đều không
tính khi xác định thuế thu nhập. Ngoài ra, người sử dụng lao động sẽ đóng góp (trong 5%
thu nhập đầu tiên mà người sử dụng lao động đóng góp) một số tiền bằng với số tiền mà
người lao động đóng góp. Mức giới hạn đóng góp tối đa vào tài khoản 401(k) là 13,000 USD
mỗi năm (năm 2004, tăng lên 15,000 USD năm 2006)
Tài khoản hưu trí cá nhân (IRA)

12


Có vấn đề nảy sinh đối với tiền hưu trí được cấp bởi người sử dụng lao động hoặc tài
khoản 401(k) là cơ chế tiết kiệm mà nhiều cá nhân không được người sử dụng lao động cung
cấp tiền hưu trí. Chỉ có 49% người lao động trong khu vực tư nhân tham gia vào chương
trình hưu trí do người sử dụng lao động cung cấp. Năm 1974, Quốc hội Mỹ đưa ra hình thức
tài khoản hưu trí cá nhân – IRA, một cơ chế tiết kiệm hưu trí được ưu đãi thuế dành cho cá
nhân không bao gồm tiền hưu trí do người sử dụng lao động cung cấp. Vào năm 1981, IRA

được mở rộng đến mức người nào cũng có thể sử dụng, ngay cả đối với những người mà tiền
hưu trí được người sử dụng lao động chi trả. Sau năm 1981, IRA hoạt động với nguyên tắc:







Hầu như tất cả các loại tài sản đều có thể đưa vào TK IRA;
Mức tối đa miễn thuế là 2000 USD;
Tiền lãi từ TK IRA được cộng dồn vào thu nhập miễn thuế;
Không được rút ra trước khi cá nhân tròn 59.5 tuổi, được rút tiền khi 70 tuổi;
Tiền rút từ TK IRA bị đánh thuế như là thu nhập thường xuyên.

Cải cách thuế toàn diện năm 1986 đã hạn chế hình thức IRA. Đối với các hộ gia đình,
thu nhập trung bình và thu nhập thấp (dưới 40,000USD với người độc thân, 60,000USD với
một cặp vợ chồng) thì được tiếp tục tham gia IRA. Nhưng đối với những hộ gia đình có thu
nhập cao thì chỉ có thể sử dụng hình thức IRA không được giảm trừ khi tính thuế thu nhập.
Với IRA thì tiền đóng vào cũng là một phần trong thu nhập chịu thuế nhưng tiền lãi phát
sinh vẫn được giảm trừ khỏi thu nhập chịu thuế.
Tài khoản Keough
Đây là lựa chọn tiết kiệm hưu trí đặc biệt dành cho những người tự làm chủ. Những
cá nhân có tài khoản này có thể tiết kiệm đến 40.000 usd mỗi năm từ thu nhập mà không
phải chịu thuế chỉ khi rút ra sử dụng khi nghỉ hưu thì mới bị đánh thuế. Chức năng của tài
khoản Keough cũng giống hệt như tài khoản 401(k) ngoại trừ việc nó không bị kiểm soát bởi
người sử dụng lao động.
2. Tại sao trợ cấp thuế lại tăng mức sinh lợi của tiết kiệm

13



Cá nhân sẽ bị đánh thuế đối với tiền tiết kiệm hưu trí như bị đánh thuế đối với thu
nhập thường xuyên nếu họ rút tiền từ các tài khoản tiết kiệm. Điều được coi là trợ cấp
thuế ở đây nghĩa là thay vì bị đánh thuế trước khi tiết kiệm, bạn sẽ trì hoãn được việc trả
thuế (trên cả tiền đóng góp ban đầu lẫn tiền lãi nhận được) cho đến khi rút tiền từ các tài
khoản tiết kiệm hưu trí. Giá trị tiền tệ nhận được ngày hôm nay sẽ lớn hơn giá trị tiền tệ
nhận được trong tương lai vì có thêm tiền lãi từ tiền mà nếu bạn nhận được hôm nay. Vì
vậy chi phí trả thuế trong tương lai sẽ thấp hơn chi phí trả thuế hôm nay.
Nói cách khác, với việc tiết kiệm nhưng không được ưu đãi thuế, bạn phải trả thuế
khi bạn kiếm được tiền. Chính phủ sẽ lấy tiền thuế đó gửi vào ngân hàng và kiếm được
tiền lãi trên tiền thuế mà bạn đã trả. Nhưng với tiền tiết kiệm hưu trí được ưu đãi về thuế,
bạn sẽ giữ toàn bộ số thuế mà lý ra bạn phải nộp trên tiền đóng góp ban đầu và tiền lãi
nhận được trên sự đóng góp đó và bạn sẽ nhận được tiền lãi trên số tiền mà lý ra bạn phải
dùng để trả thuế. Sự khác biệt giữa trả thuế trước (là chính phủ sẽ kiếm được tiền lãi trên
số tiền đó) và trả thuế khi rút tiền (do vậy bạn sẽ kiếm được tiền lãi trên số tiền thuế phải
trả) có thể khá lớn.
Ví dụ
Ông A có thu nhập từ công việc là 100USD. Có 2 tình huống xảy ra: gửi tiết kiệm
ngân hàng trong vòng 1 năm hoặc gửi tiết kiệm IRA
Loại tài
khoản
Thông
thường
IRA

Thu
nhập

Thuế thu

nhâp
(25%)

Tiền gửi
ban đầu

Tiền lãi
nhận được
(10%)

Thuế phải trả
khi rút tiền

100

25

75

7.5

7.5* 0.25=1.88

75+7.5-1.88=80.62

100

0

100


10

110*0.25=27.5

100+10-27.5=82.5

Số tiền còn lại được
rút

Chúng ta có thể thấy rằng gửi tiết kiệm IRA mang lại thu nhập lớn hơn.
Bên cạnh đó, lợi điểm của việc trì hoãn thuế của IRA sẽ tăng lên nếu tài sản được
gửi trong đó lâu hơn. Nếu gửi 1 tài sản 30 năm với lãi suất 10% và thuế suất 25%, tài
khoản IRA sẽ giúp nhận được giá trị cao hơn gấp 2 lần so với tài khoản thông thường.
Một lợi điểm khác chính là nhiều người trả thuế họ có thể tự nhận thấy rằng họ sẽ phải trả

14


thuế ở mức thuế suất thấp hơn khi họ về hưu vì thu nhập của họ sẽ thấp hơn so với thu nhập
khi họ đang làm việc. Kết quả là việc trì hoãn thuế cho đến khi về hưu sẽ làm giảm số thuế
phải nộp.
3. Hiệu ứng lý thuyết đến tiết kiệm hưu trí được trợ cấp thuế
Theo lý thuyết, trợ cấp thuế đối với tiết kiệm hưu trí sẽ có tác động theo cơ chế ngược
với cơ chế tác động của thuế đánh trên thu nhập từ lãi.

− Tiền tiết kiệm bị đánh thuế với mức nhẹ hơn
− Đường giới hạn ngân sách dịch chuyển lên trên làm tăng giá cả tiêu dùng
− Tác động không rõ ràng: gây ra hiệu ứng thay thế hướng tới tiết kiệm nhiều
hơn và hiệu ứng thu nhập hướng tới tiết kiệm ít hơn.

Hình 4. Trợ cấp thuế và đánh đổi tiêu dùng theo thời gian

15


C2R

C4R

C3R

16


Các giới hạn đối với trợ cấp thuế trên tiết kiệm hưu trí
Ví dụ:
Giới hạn việc đóng góp hàng năm là $3,000 vào IRA

− Trước khi có IRA, đường giới hạn ngân sách là AB và giá cả của việc tiêu
dùng trong giai đoạn thứ nhất, hay là việc từ bỏ tiêu dùng ở giai đoạn thứ hai
là –[1 + r*(1 – t)].
− Khi có IRA, đường giới hạn ngân sách mới dốc hơn là EB và bằng
–[1 + r*(1 – t*p)]. Với số tiết kiệm trên $3.000 độ dốc của đường giới hạn
ngân sách giống như ban đầu.
Hình 5. IRA và quyết định tiêu dùng theo thời gian

CR
D
$ 3,000
E


A

B
C2W

Trường hợp với người tiết kiệm thấp hơn mức $3,000

17

Y

CW


Tác động của IRA đến tiết kiệm là khá mơ hồ do việc bù trừ giữa hiệu ứng thay thế
và hiệu ứng thu nhập
Hình 6. Tác động của IRA đến người tiết kiệm thấp

18


C2W
S1 C1w
= 1,000

Y[1+r(1-t)]
CR

S2 = 1,000


19


Trường hợp người tiết kiệm cao hơn mức $3,000
Đối với những người tiết kiệm lớn, IRA là một phương án thay thế cho tiết kiệm hiện
có: chính phủ làm cho họ nhận được mức thu nhập cao hơn từ tiết kiệm mà họ dự định sẽ để
dành.
Hình 7. Tác động của IRA đến người tiết kiệm cao

20


B

A

21


Tình hình huống áp dụng IRA tại Mỹ: Roth IRA
Năm 1997, Quốc hội Mỹ cho phép thiết lập một phương tiện tiết kiệm hưu trí mới
được ưu đãi thuế là Roth IRA với 3 điểm khác biệt

− Tiền tiết kiệm không chỉ được rút ra khi về hưu mà còn có thể được rút ra khi
mua căn nhà đầu tiên.
− Cá nhân sẽ đóng tiền vào Roth IRA sau khi đã nộp thuế và khi rút tiền thì tiền
rút ra sẽ không bị đánh thuế.
− Cá nhân sẽ không cần có điều kiện để rút tiền từ Roth IRA (với IRA truyền
thống là từ khi 70 tuổi)

4. Những hàm ý cho các mô hình tiết kiệm khác
Tiết kiệm phòng ngừa rủi ro
Có những rủi ro luôn tồn tại như rủi ro mất việc, rủi ro bệnh tật… làm cho người ta bị
hạn chế nếu tham gia các chương trình tiết kiệm hưu trí. Vì thế, sẽ có những tài khoản tiết
kiệm hưu trí nhưng không phải vì mục tiêu hưu trí mà vì lý do phòng ngừa rủi ro.
Mô hình tự kiểm soát
Dấu hiệu của mô hình tiết kiệm tự kiểm soát là việc tìm kiếm các công cụ mang tính
cam kết nhằm thực hiện việc tự kiểm soát. Việc cam kết đóng góp hằng tháng làm cá nhân
không thể tiếp cận tiết kiệm cho đến khi họ về hưu và thỏa mãn các nhu cầu có lợi trong dài
hạn. Do vậy, các tài khoản tiết kiệm hưu trí sẽ làm tăng tiết kiệm nhiều hơn, ngoài nhu cầu
phát sinh do bởi được ưu đãi thuế, nhu cầu xuất phát từ sự cam kết.
Tiết kiệm cá nhân và tiết kiệm quốc gia
Các chính sách khuyến khích thuế đối với tiền hưu trí làm tang tiết kiệm cá nhân thì
bù lại các khuyến khích này sẽ tạo ra những tác động tiêu cực đối với tiết kiệm quốc gia, bởi
vì chúng được tài trợ bởi cơ sở đánh thuế.

22


So sánh giữa tiết kiệm cá nhân và tiết kiệm quốc gia cũng được đặt ra khi đề cập đến
tác động biên (hành vi mới được khuyến khích) và tác động cận biên (hành vi cũ được đền
bù) của khuyến khích thuế.
Quy mô của các phản ứng biên và cận biên đối với khuyến khích thuế nhằm vào tiết
kiệm sẽ dựa trên hai yếu tố:

− Quy mô của hiệu ứng thu nhập và hiệu ứng thay thế đối với những người tiết
kiệm hưu trí đang tiết kiệm dưới mức.
− Tỷ phần của những người tiết kiệm hưu trí – những người ở trên giới hạn tiết
kiệm, có phản ứng cận biên: không có tiết kiệm mới được khuyến khích cho
nhóm người này bởi vì không có hiệu ứng thay thế.

IV. ĐỀ XUẤT ĐÁNH THUẾ VÀO TIẾT KIỆM TẠI VIỆT NAM NĂM 2013 VÀ
NHỮNG Ý KIẾN PHẢN BIỆN
1. Đề xuất của ông Lê Hoàng Châu – Chủ tịch Hiệp hội Bất động sản TPHCM
(HOREA)
Chủ tịch HOREA Lê Hoàng Châu đã gửi kiến nghị đến Chính phủ và NHNN về việc:
thu nhập từ các khoản tiền gửi tiết kiệm từ 500 triệu đồng trở lên cần được đánh thuế nhằm
thúc đẩy dòng vốn từ ngân hàng chảy vào đầu tư sản xuất, kinh doanh. HOREA cũng kiến
nghị cần sửa ngay chính sách lãi suất tiết kiệm thực dương (cao hơn chỉ số lạm phát) và
chính sách không đánh thuế trên thu nhập từ tiền gửi tiết kiệm.
Theo ông Châu, từ năm 2008 đến 2013 tổng số dư tiền gửi tiết kiệm rất lớn, ước tính
mỗi năm trung bình 2.5 triệu tỷ đồng gửi tiết kiệm. Nếu tính trung bình với lãi suất tại thời
điểm đó là 10%/năm thì tiền lãi thu được ước khoảng 250,000 tỷ đồng. Nếu trước đó lãi tiền
gửi ở mức 19-20%/năm thì con số này tăng gấp đôi. Vì vậy không đánh thuế tiền gửi tiết
kiệm là "vô lý".
Mặc dù trong số các đối tượng gửi tiết kiệm có cả người già, hưu trí, người lao động,
nhưng theo ông Châu, tiền gửi tiết kiệm dưới 500 triệu đồng chiếm tỷ lệ rất thấp, nếu đánh

23


thuế sẽ không ảnh hưởng nhiều và nếu muốn bảo vệ quyền lợi của người về hưu, người lao
động thì trừ đối tượng này ra. Ông Châu cũng nhận định việc đánh thuế này chủ yếu nhắm
vào đối tượng có thu nhập khá trở lên và cần thiết để bổ sung thêm nguồn thu cho ngân sách,
khuyến khích đầu tư kinh doanh sản xuất để thúc đẩy nền kinh tế phát triển
2. Những ý kiến phản biện với đề xuất đánh thuế vào tiền gửi tiết kiệm của
HOREA
Vào thời điểm năm 2013 khi HOREA có kiến nghị về việc đánh thuế vào tiền gửi tiết
kiệm, nhiều chuyên gia và đại diện các cơ quan có liên quan cũng như người dân đã có
những ý kiến phản hồi về vấn đề này, trong đó phần nhiều là phản đối việc đánh thuế.
TS.Lê Xuân Nghĩa, nguyên Phó Chủ tịch Ủy bán Giám sát Tài chính Quốc gia

“Kiến nghị này tác động trực tiếp đến người gửi tiết kiệm là vô lý. Vì nó là loại vốn
quyết định sự tồn tại của hệ thống ngân hàng thương mại (NHTM). Nếu đánh may ra chỉ
đánh thuế lợi nhuận của tiền gửi tiết kiệm chứ không ai đánh thuế trực tiếp vào tiền gửi tiết
kiệm cả. Nhưng trong điều kiện của Việt Nam thì ngay cả việc đánh vào lợi nhuận tiền gửi
tiết kiệm cũng chưa nên. Nhà nước đã đánh thuế vào lợi nhuận của doanh nghiệp rồi thì hà
tất gì đánh thuế vào lợi nhuận tiền gửi tiết kiệm vào lúc này. Dân chúng có toàn quyền lựa
chọn lĩnh vực mà họ đầu tư. Trong trường hợp không lựa chọn được họ gửi vào ngân hàng
coi như ngân hàng lựa chọn đầu tư cho họ. Ngân hàng cho vay như thế nào vào loại doanh
nghiệp nào là việc của ngân hàng. Ngân hàng cũng là người phân bổ tài chính hiệu quả nhất.
Nên chuyện đánh thuế tiền gửi tiết kiệm không nên làm và không thể làm.”
TS.Alan Phan, nguyên Chủ tịch Quỹ Đầu tư Viasa Fund tại Hong Kong.
“…Bất động sản đang bờ vực phá sản nên họ phải tìm mọi cách để nói này nói kia.
Tuy nhiên, việc thu thuế tiền gửi tiết kiệm là không thực tế. Vì trong thời buổi kinh tế khó
khăn này, tăng thuế này thế kia chỉ làm cho nền kinh tế co cụm lại hơn là phát triển. Chính
bởi vậy, đề xuất này chẳng qua là để làm áp lực lên Chính phủ kiếm chút lợi ích về mình.
Trên thế giới họ đánh thuế trên lợi tức. Nghĩa là anh thu nhập cao anh sẽ bị đánh thuế cao.

24


Thu nhập ít hơn sẽ đánh thuế thấp hơn. Đã là thuế thì phải bằng nhau chứ không có chuyện
anh này đóng anh kia không đóng. Người gửi tiền tiết kiệm 1 tỉ chẳng hạn được lãi 10 triệu,
cộng toàn bộ thu nhập một tháng người đó sẽ phải chịu thuế chứ không phải gửi tiết kiệm sẽ
bị đánh thuế. Tuy nhiên, mấy người giàu có tiền tỉ họ cũng không dễ dàng gửi tiền ở ngân
hàng để mà chịu đánh thuế cả.
Để không khuyến khích người gửi tiết kiệm có nhiều cách như hạ lãi suất tiền gửi
xuống. Chứ đánh thuế tiền gửi tiết kiệm lại là hình thức tăng lãi suất tiền gửi, làm tăng chi
phí vốn và từ đó làm tăng lãi suất cho vay. Cuối cùng doanh nghiệp chả làm được gì. Vì toàn
bộ chi phí đánh thuế đó sẽ được cộng vào chi phí vốn của doanh nghiệp.”
Bà Nguyễn Thị Cúc, nguyên Phó Tổng cục trưởng Tổng cục Thuế, Chủ tịch Hội

Tư vấn thuế Việt Nam
“Nguyên tắc nếu tính thuế thu nhập cá nhân (TNCN) đối với người gửi tiền tiết kiệm
là tính trên số lãi tiền gửi mà người gửi được hưởng chứ không phải trên số tiền gửi, chẳng
hạn như với lãi suất tương ứng, số lãi hằng tháng nhận được 5 triệu đồng, 10 triệu đồng,…
thì dựa vào đó mới tính được mức thuế. Trong khi đó, HOREA đề xuất mức tiền gửi từ 500
triệu đồng trở lên phải chịu thuế là chưa có cơ sở, thiếu căn cứ và chưa hiểu gì về thuế
TNCN, hay nói đúng hơn là không có đạo lý tính thuế.
Trước đây khi soạn thảo Dự thảo Luật Thuế TNCN, ban soạn thảo cũng đã đưa ra
việc tính thuế TNCN đối với người gửi tiền tiết kiệm. Thời điểm đó, mức chịu thuế đang ở
mức 4 triệu đồng/tháng, giảm trừ gia cảnh 1.6 triệu đồng/tháng, ban soạn thảo đã đưa ra mức
chịu thuế áp dụng với trường hợp lãi là trên 5 triệu đồng/tháng, một năm 60 triệu đồng. Tuy
vậy sau khi cân nhắc ý kiến các bộ, ngành, chuyên gia và các đối tượng chịu thuế thì thấy
cách làm này không hợp lý và không biết sẽ tiến hành thu ra sao. Tiền gửi tiết kiệm mang
đặc thù riêng, được chia nhiều loại sổ từng thời điểm, việc xác định, tổng hợp lại bình quân
năm rất khó khăn, phức tạp. Với ý kiến từ NHNN và các NHTM cho thấy không thể thu lãi
từ khoản tiền tiết kiệm người gửi và gây khó cho hoạt động NH. Do đó, nội dung tính thuế
TNCN đối với loại hình gửi tiết kiệm cá nhân được loại ra khỏi Luật Thuế TNCN.

25


×