TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP.HỒ CHÍ MINH
VIỆN ĐÀO TẠO SAU ĐẠI HỌC
ĐỀ TÀI TIỂU LUẬN:
PHÂN TÍCH TÁC ĐỘNG CỦA THUẾ THU NHẬP
CÁ NHÂN ĐỐI VỚI THU NHẬP TỪ HOẠT ĐỘNG
SẢN XUẤT KINH DOANH
Giáo viên hướng dẫn: PGS. TS Nguyễn Ngọc Hùng
Học viên: Nguyễn Thuận Hiếu
MSSV: 7701240437A – Khoa NH –K24
TP. Hồ Chí Minh, ngày 15 tháng 12 năm 201
LỜI MỞ ĐẦU
a. Lý do chọn đề tài
Thuế thu nhập cá nhân là một trong những loại thuế quan trọng nhất của Nhà
nước. Một mặt, thuế thu nhập cá nhân góp phần điều tiết thu nhập của người giàu,
làm giảm khoảng cách giàu nghèo đang ngày một nới rộng trong nền kinh tế thị
trường. Mặt khác, thuế thu nhập cá nhân là nguồn thu ngân sách quan trọng, góp
phần vào công cuộc xây dựng và phát triển đất nước. Do đó, việc xem xét, nghiên
cứu chính sách thuế thu nhập cá nhân, đánh giá những mặt ưu điểm và mặt nhược
điểm của nó, từ đó rút ra những bài học để xây dựng một chính sách phù hợp nhất,
vừa thực hiện được các mục tiêu của quốc gia vừa không tạo gánh nặng lên người
dân là rất cần thiết.
b. Mục tiêu nghiên cứu
Đề tài hướng vào phân tích, đánh giá các thành tựu và các điểm còn hạn chế
của chính sách thuế thu nhập cá nhân trong thời gian qua trong việc tác động đến thu
nhập từ hoạt động sản xuất kinh doanh. Từ đó, đề tài góp phần xây dựng những kiến
nghị, giải pháp phù hợp để hoàn thiện chính sách thuế thu nhập cá nhân trong thời
gian tới.
c. Phương pháp nghiên cứu
Để nghiên cứu và tiếp cận đề tài, phương pháp luận được sử dụng gồm:
Phương pháp duy vật lịch sử, phương pháp duy vật biện chứng và các phương pháp
khác như phương pháp thống kê, phương pháp so sánh, phương pháp logic,…
d. Phạm vi nghiên cứu:
Nội dung đề tài gồm 3 chương:
- Chương I - Khung lý thuyết
- Chương II - Thực trạng thuế TNCN từ hoạt động sản xuất, kinh doanh tại
Việt Nam hiện nay
- Chương III – Kiến nghị
CHƯƠNG I: KHUNG LÝ THUYẾT
1. Khái niệm:
I.1.
-
Thuế Thu nhập cá nhân:
Thuế thu nhập cá nhân là loại thuế trực thu đánh vào thu nhập thực nhận của các cá
nhân trong một năm, từng tháng hoặc từng lần không phân biệt nguồn phát sinh thu
nhập.
1.2. Thuế Thu nhập cá nhân từ hoạt động sản xuất, kinh doanh:
Theo quy định tại Điều 3 Luật thuế Thu nhập các nhân; Điều 3 Nghị định số
100/2008/NĐ-CP của Chính phủ; và khoản 1 mục II, phần A Thông tư số
84/2008/TT-BTC ngày 30/9/2008 của Bộ Tài chính hướng dẫn thi hành Luật thuế Thu
nhập cá nhân, thì :
Thuế Thu nhập cá nhân từ hoạt động sản xuất, kinh doanh là khoản thuế thu từ các cá
nhân có thu nhập từ hoạt động sản xuất, kinh doanh hàng hóa, dịch vụ trong các lĩnh
vực sau:
- Thu nhập từ sản xuất, kinh doanh hàng hoá, dịch vụ thuộc tất cả các lĩnh
vực , ngành nghề kinh doanh theo quy định của pháp luật như : sản xuất, kinh doanh
hàng hoá; xây dựng; vận tải; kinh doanh ăn uống; kinh doanh hàng hoá, xây dựng;
vận tải; kinh doanh ăn uống; kinh doanh dịch vụ, kể cả dịch vụ cho thuê nhà, cho thuê
mặt bằng..
- Hoạt động hành nghề độc lập của cá nhân trong những lĩnh vực, ngành nghề
được cấp giấy phép hoặc chứng chỉ hành nghề theo quy định như: bác sĩ, luật sư, kế
toán, kiểm toán, họa sĩ, kiến trúc sư, nhạc sĩ ....
- Hoạt động sản xuất, kinh doanh nông nghiệp, lâm nghiệp, làm muối, nuôi
trồng, đánh bắt thuỷ sản mà không đáp ứng đủ điều kiện được miễn thuế theo quy
định pháp luật.
2. Đặc điểm, vai trò của thuế thu nhập cá nhân:
2.1. Đặc điểm:
- Thuế thu nhập cá nhân là thuế trực thu, thể hiện ở chỗ người nộp thuế và
người chịu thuế là một, người chịu thuế không thể chuyển gánh nặng thuế cho người
SVTH: Nguyễn Thuận Hiếu – Khoa NH – K24
4
khác.
- Thuế Thu nhập cá nhân có diện thu thuế rất rộng, tạo nguồn thu lớn cho ngân
sách bởi vì đối tượng phải chịu thuế là tất cả cá nhân có thu nhập
- Thuế Thu nhập cá nhân luôn gắn liền với các chính sách xã hội của mỗi quốc
gia. Chính sách thuế thu nhập phải phù hợp với các chính sách xã hội khác như phúc
lợi xã hội, chăm sóc sức khỏe...
- Thuế thu nhập cá nhân thường đánh theo kiểu lũy tiến từng phần, để điều tiết
mạnh người có thu nhập cao và động viên sự đóng góp của những người có thu nhập
thấp hoặc trung bình, góp phần thực hiện công bằng xã hội.
- Xét về góc độ kinh tế, thuế thu nhập cá nhân không ảnh hưởng nhiều đến sự
thay đổi cơ cấu kinh tế, tính trung lập của loại thuế này cao hơn so với các chính sách
thuế khác.
2.2. Vai trò:
2.2.1. Tạo nguồn tài chính cho ngân sách nhà nước:
- Thuế là nguồn thu chủ yếu của ngân sách nhà nước, trong đó thuế thu nhập cá
nhân là một trong những bộ phận quan trọng cấu thành thuế nói chung nên thuế thu
nhập cá nhân cũng góp một phần quan trọng để tạo nguồn tài chính cho ngân sách.
2.2.2.Góp phần thực hiện công bằng xã hội:
Biểu thuế lũy tiến từng phần sẽ điều tiết thu nhập xã hội theo hướng người có
thu nhập cao hơn sẽ phải nộp thuế nhiều hơn, những người cùng thu nhâp chịu thuế
như nhau, do đó góp phần giảm bớt khoảng cách giàu nghèo. Nhà nước sử dụng
nguồn thu này để tiến hành xây dựng cơ sở hạ tầng công cộng phục vụ toàn thể dân
chúng, đồng thời có những chính sách giúp đỡ người nghèo,...
2.2.3. Góp phần hạn chế sự thất thu thuế thu nhập doanh nghiệp:
- Khi doanh nghiệp kê khai chi phí trả cho các thể nhân cao hơn thực tế sẽ làm
giảm thuế thu nhập doanh nghiệp để trốn thuế, nhưng bên cạnh đó các thể nhân nhận
được những khoản tiền trên sẽ phải nộp thuế thu nhập cá nhân với phần thu nhập
được kê khai tăng thêm đó. Vì vậy, thuế thu nhập cá nhân sẽ khắc phục được sự thất
thoát của thuế thu nhập doanh nghiệp.
SVTH: Nguyễn Thuận Hiếu – Khoa NH – K24
5
3. Mối tương quan giữa thuế thu nhập cá nhân và thuế thu nhập doanh
nghiệp:
Khi một cá nhân thực hiện kinh doanh, cá nhân đó sẽ xem xét tính tương quan
giữa thuế thu nhập cá nhân và thuế thu nhập doanh nghiệp để lựa chọn hình thức kinh
doanh sao cho tối thiểu hóa khoản thuế phải nộp.
Bởi vì khi cá nhân lựa chọn hình thức cá nhân kinh doanh thì sẽ nộp thuế theo
Luật thuế thu nhập cá nhân. Đặc điểm của Thuế Thu nhập cá nhân là lũy tiến theo thu
nhập, nghĩa là thu nhập thấp sẽ nộp theo thuế suất thấp và ngược lại thu nhập cao sẽ
nộp theo thuế suất cao. Trong khi đó, nếu cá nhân lựa chọn hình thức là thành lập
doanh nghiệp tư nhân thì lợi nhuận của doanh nghiệp sẽ phải nộp theo thuế Thu nhập
doanh nghiệp. Đặc điểm của thuế Thu nhập doanh nghiệp là đóng thuế theo thuế suất
toàn phần, nghĩa là dù lợi nhuận của công ty kiếm được là cao hay thấp thì thuế suất
phải nộp là như nhau.Nếu thuế suất cao nhất của thuế thu nhập cá nhân và thuế thu
nhập doanh nghiệp có sự chênh lệch lớn thì cá nhân có thu nhập cao thường chuyển
đổi sang hình thức chịu thuế nào có mức thuế suất thấp hơn để giảm bớt gánh nặng
nộp thuế. Điều này sẽ gây thất thoát cho nguồn thu của ngân sách quốc gia.
Vì vậy, khi xây dựng luật Thuế Thu nhập cá nhân chính phủ nên xem xét mối
tương quan giữa thuế thu nhập cá nhân và thuế thu nhập doanh nghiệp để xây dựng
biểu thuế suất phù hợp giữa hai loại thuế này nhằm tránh việc cá nhân chuyển đổi
hình thức chịu thuế, tránh thất thoát cho nguồn thu từ thuế của Chính phủ.
SVTH: Nguyễn Thuận Hiếu – Khoa NH – K24
6
CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG THUẾ TNCN TỪ HOẠT ĐỘNG SẢN
XUẤT, KINH DOANH TẠI VIỆT NAM HIỆN NAY
1. Văn bản pháp lý về Thuế TNCN từ hoạt động sản xuất, kinh doanh:
-
Trước đây cá nhân, hộ gia đình kinh doanh bị đánh thuế theo luật Thuế Thu nhập
doanh nghiệp có hiệu lực từ 01/01/1999. Kể từ khi luật Thuế thu nhập cá nhân được
thực hiện từ 01/01/2009, cá nhân, hộ gia đình kinh doanh chuyển sang đóng thuế theo
luật Thuế thu nhập cá nhân.
-
Văn bản pháp lý hướng dẫn về thuế Thu nhập cá nhân từ hoạt động sản xuất kinh
doanh hiện nay là:
o
Luật Thuế thu nhập cá nhân năm 2007.
o
Nghị định 100/2008/NĐ – CP ngày 08/9/2008,
o
Thông tư 84/2008/TT – BTC ngày 30/9/2008 Hướng dẫn thi hành một số điều của
thuế thu nhập cá nhân và hướng dẫn chi tiết nghị định 100/2008/NĐ- CP ngày
08/9/2008.
o
Luật sửa đổi bổ sung một số điều của luật thuế Thu nhập cá nhân, số 26/2012/QH13
ngày 22/11/2012
o
Thông tư số 111/2013/TT-BTC do Bộ Tài Chính ban hành ngày 15/08/2013 về việc
hướng dẫn thực hiện Luật thuế thu nhập các nhân, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều
của luật thuế thu nhập các nhân và Nghị định số 65/2013/NĐ-CP của Chính phủ quy
định chi tiết một số điều của Luật thuế thu nhập các nhân và Luật sửa đổi, bổ sung
một số điều của luật thuế thu nhập các nhân
o
Luật Sửa đổi bổ sung một số điều của các luật về thuế, số 71/2014/QH13 ngày
26/11/2014
2. Thực trạng thuế thu nhập cá nhân từ hoạt động sản xuất, kinh doanh:
I.2.
Đối tượng nộp thuế thu nhập cá nhân từ hoạt động sản xuất,
kinh doanh:
SVTH: Nguyễn Thuận Hiếu – Khoa NH – K24
7
- Theo luật Thuế Thu nhập cá nhân 2007, đối tượng nộp thuế thu nhập cá nhân
nói chung là cá nhân cư trú và cá nhân không cư trú có thu nhập chịu thuế.
- Đối tượng nộp thuế thu nhập từ hoạt động sản xuất, kinh doanhlà: hộ cá thể
và nhóm kinh doanh; hộ gia đình, cá nhân sản xuất nông nghiệp; cá nhân kinh doanh;
cá nhân hành nghề độc lập; cá nhân có tài sản cho thuê; cá nhân nước ngoài kinh
doanh có thu nhập phát sinh tại Việt Nam. Trong đó:
Trường hợp chỉ có một người đứng tên trong đăng ký kinh doanh thì đối tượng
nộp thuế là cá nhân đứng tên trong đăng ký kinh doanh.
Trường hợp nhiều người cùng đứng tên trong đăng ký kinh doanh (nhóm cá
nhân kinh doanh), cùng tham gia kinh doanh thì đối tượng nộp thuế được xác
định là từng thành viên có tên ghi trong đăng ký kinh doanh.
Trường hợp trong một hộ gia đình có nhiều người cùng tham gia kinh doanh
nhưng chỉ có một người đứng tên trong đăng ký kinh doanh thì đối tượng nộp
thuế được xác định là người đứng tên trong đăng ký kinh doanh.
Trường hợp cá nhân, hộ gia đình thực tế có kinh doanh nhưng không có đăng
ký kinh doanh (hoặc giấy phép hành nghề) thì đối tượng nộp thuế là cá nhân
đang thực hiện hoạt động kinh doanh.
Đối với hoạt động cho thuê nhà, cho thuê mặt bằng không có đăng ký kinh
doanh, đối tượng nộp thuế là người đứng tên sở hữu nhà, quyền sử dụng đất.
Trường hợp nhiều người cùng đứng tên sở hữu nhà, quyền sử dụng đất thì đối
tượng nộp thuế là từng cá nhân ghi trong giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà,
quyền sử dụng đất.
2.2. Xác định thu nhập chịu thuế và thu nhập tính thuế đối với thu nhập
từ hoạt động sản xuất, kinh doanh:
2.2.1. Đối với cá nhân cư trú:
+ Thu nhập tính thuế:
Thu nhập tính thuế = thu nhập chịu thuế - các khoản đóng bảo hiểm bắt buộc - các
khoản giảm trừ gia cảnh - các khoản đóng góp từ thiện.
SVTH: Nguyễn Thuận Hiếu – Khoa NH – K24
8
+ Thu nhập chịu thuế:
Thu nhập chịu thuế = doanh thu - chi phí hợp lý liên quan đến việc tạo ra thu nhập
chịu thuế từ kinh doanh trong kỳ tính thuế.
- Cá nhân vừa có thu nhập chịu thuế từ kinh doanh, vừa có thu nhập chịu thuế
từ tiền lương, tiền công:
Thu nhập tính thuế = thu nhập chịu thuế từ kinh doanh + thu nhập chịu thuế từ tiền
lương, tiền công - các khoản đóng bảo hiểm bắt buộc - các
khoản giảm trừ gia cảnh - các khoản đóng góp từ thiện.
- Cá nhân vừa có thu nhập từ kinh doanh, vừa có thu nhập từ đầu tư vốn,
chuyển nhượng vốn, chuyển nhượng bất động sản (trừ bất động sản là tài sản cố định
sử dụng vào mục đích kinh doanh), thu nhập từ bản quyền, nhượng quyền thương
mại, thu nhập từ thừa kế, quà tặng thì các khoản thu nhập này không tính vào thu
nhập từ kinh doanh mà áp dụng nộp thuế thu nhập cá nhân theo từng khoản thu nhập.
+ Thu nhập chịu thuế từ kinh doanh đối với từng trường hợp cụ thể được
xác định như sau:
1. Đối với cá nhân kinh doanh không thực hiện chế độ kế toán hoá đơn, chứng
từ nộp thuế theo phương pháp khoán, thu nhập chịu thuế thu nhập cá nhân được xác
định theo công thức:
Thu nhập chịu thuế
=
Doanh thu ấn định
x
Tỷ lệ thu nhập chịu
trong kỳ tính thuế
trong kỳ tính thuế
thuế ấn định
Doanh thu ấn định được xác định căn cứ vào kê khai của cá nhân kinh doanh,
kết quả điều tra của cơ quan thuế và ý kiến tham gia của Hội đồng tư vấn thuế xã,
phường.
2. Đối với cá nhân kinh doanh chỉ hạch toán được doanh thu bán hàng hoá,
dịch vụ, không hạch toán, xác định được chi phí. Thu nhập chịu thuế thu nhập cá
nhân được xác định theo công thức:
Thu nhập chịu thuế
trong kỳ tính thuế
Doanh thu để tính thu
=
nhập chịu thuế trong kỳ
tính thuế
SVTH: Nguyễn Thuận Hiếu – Khoa NH – K24
x
Tỷ lệ thu nhập
chịu thuế ấn định
9
Trong đó, doanh thu để tính thu nhập chịu thuế được xác định theo sổ sách kế
toán hoá đơn, chứng từ phù hợp với doanh thu để tính thuế giá trị gia tăng.
3. Đối với cá nhân kinh doanh thực hiện đầy đủ chế độ kế toán hoá đơn, chứng
từ,thu nhập chịu thuế được xác định theo công thức:
Thu nhập
chịu thuế
trong kỳ tính
thuế
Trong đó:
Doanh thu để
=
tính thu nhập
chịu thuế trong
Chi phí hợp lý liên
-
quan đến việc tạo ra
kỳ tính thuế
thu nhập trong kỳ
tính thuế
Thu nhập
+
chịu thuế
khác trong
kỳ tính thuế
- Doanh thu và chi phí được xác định theo sổ sách kế toán hoá đơn chứng từ.
Trường hợp, cá nhân kinh doanh thuộc đối tượng nộp thuế giá trị gia tăng thì doanh
thu làm căn cứ xác định thu nhập chịu thuế phù hợp với doanh thu tính thuế giá trị gia
tăng.
- Thu nhập chịu thuế khác là các khoản thu nhập phát sinh trong quá trình kinh
doanh như: tiền phạt vi phạm hợp đồng; tiền phạt do chậm thanh toán; tiền lãi ngân
hàng trong quá trình thanh toán, tiền lãi do bán hàng trả chậm, trả góp, tiền lãi do bán
tài sản cố định; tiền bán phế liệu, phế phẩm.
4. Trường hợp nhiều người cùng tham gia kinh doanh trong một đăng ký kinh
doanh thì thu nhập chịu thuế của mỗi người được xác định theo một trong các nguyên
tắc sau đây:
a) Tính theo tỷ lệ vốn góp của từng cá nhân ghi trong đăng ký kinh doanh;
b) Tính theo thoả thuận giữa các cá nhân ghi trong đăng ký kinh doanh;
c) Tính bằng số bình quân thu nhập đầu người trong trường hợp đăng ký kinh
doanh không xác định tỷ lệ vốn góp hoặc không có thoả thuận về phân chia thu nhập
giữa các cá nhân.
+Mức giảm trừ gia cảnh cho cá nhân chịu thuế thu nhập từ kinh doanh:
- Mức giảm trừ đối với đối tượng nộp thuế là 9 triệu đồng/tháng (108 triệu
đồng/năm);
- Mức giảm trừ đối với mỗi người phụ thuộc là 3,6 triệu đồng/tháng.
SVTH: Nguyễn Thuận Hiếu – Khoa NH – K24
10
+ Giảm trừ đối với các khoản đóng góp từ thiện, nhân đạo:
- Các khoản đóng góp từ thiện, nhân đạo được trừ vào thu nhập trước khi tính
thuế đối với thu nhập từ kinh doanh của đối tượng nộp thuế là cá nhân cư trú, bao
gồm:
o Khoản đóng góp vào tổ chức, cơ sở chăm sóc, nuôi dưỡng trẻ em có hoàn
cảnh đặc biệt khó khăn, người tàn tật, người già không nơi nương tựa;
o Khoản đóng góp vào quỹ từ thiện, quỹ nhân đạo, quỹ khuyến học.
+ Mức thuế suất:
Thu nhập cá nhân từ hoạt động sản xuất, kinh doanh sẽ chịu thuế lũy tiến từng
phần, cụ thể như sau:
Bậc
Phần thu nhập tính
Phần thu nhập tính
Thuế
thuế
thuế/năm
thuế/tháng
suất (%)
(triệu đồng)
1
2
3
4
5
6
7
Đến 60
Trên 60 đến 120
Trên 120 đến 216
Trên 216 đến 384
Trên 384 đến 624
Trên 624 đến 960
Trên 960
(triệu đồng)
Đến 5
Trên 5 đến 10
Trên 10 đến 18
Trên 18 đến 32
Trên 32 đến 52
Trên 52 đến 80
Trên 80
5
10
15
20
25
30
35
Ví dụ 1: Ông A là cá nhân cư trú có thu nhập từ hoạt động sản xuất, kinh doanh
trong tháng là 20 triệu đồng. Ông A phải nuôi 02 con dưới 18 tuổi; trong tháng ông
phải nộp các khoản bảo hiểm bắt buộc là: 5% bảo hiểm xã hội, 1% bảo hiểm y tế;
trong tháng ông A không đóng góp từ thiện, nhân đạo, khuyến học.
Thuế thu nhập cá nhân ông A tạm nộp trong tháng được xác định như sau:
- Ông A được giảm trừ khỏi thu nhập chịu thuế các khoản sau:
+ Cho bản thân là: 9 triệu đồng;
+ Cho 02 người phụ thuộc (2 con) là: 3,6 triệu đồng x 2 = 7,2 triệu đồng;
+ Bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế là: 20 triệu đồng x 6% = 1,2 triệu đồng
SVTH: Nguyễn Thuận Hiếu – Khoa NH – K24
11
Tổng cộng các khoản được giảm trừ là: 9 + 7,2 + 1,2 = 17,4 triệu đồng
- Thu nhập tính thuế áp vào biểu thuế luỹ tiến từng phần để tính số thuế phải
nộp là: 20 triệu đồng – 17,4 triệu đồng = 2,6 triệu đồng.
- Như vậy sau khi giảm trừ các khoản theo quy định, thu nhập tính thuế của ông A
được xác định thuộc bậc 1của biểu lũy tiến từng phần là: 2,6 triệu đồng x 5% = 0,13
triệu đồng
Tổng số thuế phải nộp trong tháng là: 0,13 triệu đồng.
Ví dụ 2: Ông B có thu nhập từ hoạt động sản xuất, kinh doanh trong tháng là
150 triệu đồng (đã trừ các khoản bảo hiểm bắt buộc), ông B phải nuôi 2 con dưới 18
tuổi. Trong tháng ông B không đóng góp từ thiện, nhân đạo, khuyến học.
a) Thuế thu nhập cá nhân tạm nộp trong tháng của ông B được tính như sau:
- Ông B được giảm trừ các khoản sau:
+ Cho bản thân là 9 triệu đồng.
+ Cho 2 người phụ thuộc: 3,6 triệu đồng x 2 người = 7,2 triệu đồng
- Thu nhập tính thuế áp vào biểu thuế luỹ tiến từng phần để tính số thuế phải nộp
là:
150 triệu đồng - 9 triệu đồng – 7,2 triệu đồng = 133,8 triệu đồng
- Số thuế phải nộp được tính là:
+ Bậc 1: thu nhập tính thuế đến 5 triệu đồng, thuế suất 5%:
5 triệu đồng x 5% = 0,25 triệu đồng
+ Bậc 2: thu nhập tính thuế trên 5 triệu đồng đến 10 triệu đồng, thuế suất 10%:
(10 triệu đồng - 5 triệu đồng) x 10% = 0,5 triệu đồng
+ Bậc 3: thu nhập tính thuế trên 10 triệu đồng đến 18 triệu đồng, thuế suất 15%:
(18 triệu đồng - 10 triệu đồng) x 15% = 1,2 triệu đồng
+ Bậc 4: thu nhập tính thuế trên 18 triệu đồng đến 32 triệu đồng, thuế suất 20%:
(32 triệu đồng - 18 triệu đồng) x 20% = 2,8 triệu đồng
+ Bậc 5: thu nhập tính thuế trên 32 triệu đồng đến 52 triệu đồng, thuế suất 25%:
(52 triệu đồng - 32 triệu đồng) x 25% = 5 triệu đồng
SVTH: Nguyễn Thuận Hiếu – Khoa NH – K24
12
+ Bậc 6: thu nhập tính thuế trên 52 triệu đồng đến 80 triệu đồng, thuế suất 30%:
(80 triệu đồng - 52 triệu đồng) x 30% = 8,4 triệu đồng
+ Bậc 7: thu nhập tính thuế trên 80 triệu đồng đến 133,8 triệu đồng, thuế suất
35%:
(133,8 triệu đồng - 80 triệu đồng) x 35% = 18,83 triệu đồng
Như vậy, với mức thu nhập trong tháng là 130 triệu đồng, tổng số thuế thu nhập
cá nhân tạm nộp trong tháng của ông B theo biểu thuế luỹ tiến từng phần là:
(0,25 + 0,5 + 1,2 + 2,8 + 5 + 8,4 + 18,83) = 36,98 triệu đồng
2.2.2. Đối với cá nhân không cư trú:
- Thuế đối với thu nhập từ kinh doanh = doanh thu x thuế suất
-
Doanh thu là toàn bộ số tiền phát sinh từ việc cung ứng hàng hoá, dịch vụ bao gồm cả
chi phí do bên mua hàng hoá, dịch vụ trả thay cho cá nhân không cư trú mà không
được hoàn trả.
-
Trường hợp thoả thuận hợp đồng không bao gồm thuế thu nhập cá nhân thì doanh
thu tính thuế phải quy đổi là toàn bộ số tiền mà cá nhân không cư trú nhận được
dưới bất kỳ hình thức nào từ việc cung cấp hàng hoá, dịch vụ tại Việt Nam không
phụ thuộc vào địa điểm tiến hành các hoạt động kinh doanh.
- Thuế suất đối với thu nhập từ kinh doanh quy định đối với từng lĩnh vực,
ngành nghề sản xuất, kinh doanh như sau:
a) Phân phối, cung cấp hàng hóa: 0,5%
b) Dịch vụ, xây dựng không bao thầu nguyên vật liệu: 2%
(Riêng hoạt động cho thuê tài sản, đại lý bảo hiểm, đại lý xổ số, đại lý bán
hàng đa cấp: 5%).
c) Sản xuất, vận tải, dịch vụ có gắn với hàng hóa, xây dựng có bao thầu
nguyên vật liệu: 1,5%
d) Hoạt động kinh doanh khác: 1%
3. Kết quả đạt được của Thuế TNCN từ hoạt động sản xuất, kinh doanh:
SVTH: Nguyễn Thuận Hiếu – Khoa NH – K24
13
3.1. Chuyển đổi hình thức chịu thuế của cá nhân, hộ gia đình sản xuất,
kinh doanh:
- Từ cuối năm 2008 trở về trước, thu nhập của cá nhân, hộ gia đình từ hoạt
động sản xuất, kinh doanh phải nộp thuế theo Luật Thuế Thu nhập doanh nghiệp năm
2003 với thuếsuất toàn phần 28%, trong khi đó cá nhân có thu nhập từ tiền lương, tiền
công được tính theo Pháp lệnh Thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao theo biểu
thuế lũy tiến từng phần với thuế suất từ 10% đến 40%.
- Đây là một sự bất hợp lý bởi cùng là cá nhân nhưng phải đóng thuế theo hai
Luật thuế khác nhau. Đặc biệt các cá nhân, hộ gia đình sản xuất, kinh doanh ở Việt
Nam đa phần là hoạt động kinh doanh nhỏ, lẻ khi phải nộp theo thuế suất toàn phần
như các doanh nghiệp (thông thường là những đơn vị kinh doanh có quy mô lớn) sẽ là
quá cao đối với họ.
Ví dụ 3: Ông A có thu nhập từ tiền lương, tiền công (sau khi trừ các khoản
đóng bảo hiểm bắt buộc) là 10 triệu đồng/tháng, thì số tiền thuế ông A phải đóng theo
Pháp lệnh thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao là:(10 triệu đồng – 5 triệu
đồng) x 10% = 0,5 triệu đồng.
Trong khi đó, ông B có thu nhập từ hoạt động sản xuất, kinh doanh là 10 triệu
đồng/tháng (sau khi trừ các khoản đóng bảo hiểm bắt buộc), thì ông phải đóng thuế
theo Luật Thuế Thu nhập doanh nghiệp là: 10 triệu đồng x 28% = 2,8 triệu đồng.
Vì vậy, với việc đưa đối tượng nộp thuế là cá nhân, hộ gia đình kinh doanh vào
diện nộp Thuế Thu nhập cá nhân theo Luật Thuế Thu nhập cá nhân năm 2007 như
những cá nhân có thu nhập từ tiền công, tiền lương thay vì nộp Thuế Thu nhập doanh
nghiệp như trước đây đã tạo động lực tích cực cho hoạt động của các cá nhân, hộ gia
đình sản xuất, kinh doanh nhỏ. Sự thay đổi này đảm bảo tính công bằng trong điều tiết
thu nhập bởi đã là cá nhân có thu nhập chịu thuế thì dù thu nhập từ bất kì nguồn nào
cũng đều được đối xử như nhau, tức là đều chịu thuế Thu nhập cá nhân.
Hơn nữa, quy định này cũng đảm bảo tính thông lệ quốc tế, vì hầu hết các
nước đều đưa cá nhân kinh doanh vào diện nộp Thuế Thu nhập cá nhân.
SVTH: Nguyễn Thuận Hiếu – Khoa NH – K24
14
3.2. Luật Thuế Thu nhập cá nhân đã kế thừa Luật thuế Thu nhập doanh
nghiệp, bổ sung một số nội dung mới, phù hợp hơn với thực tế:
Luật thuế thu nhập cá nhân (TNCN) được Quốc hội thông qua ngày
21/11/2007 và có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2009 bước đầu đã góp phần hoàn
thiện hệ thống thuế của nước ta.
3.2.1.Quy định giảm trừ chi phí cho cá nhân kinh doanh một cách hợp lý:
- Cùng với việc chuyển cá nhân kinh doanh từ diện nộp thuế TNDN sang nộp
thuế TNCN, Luật thuế TNCN đã quy định các khoản chi phí hợp lý được trừ khi xác
định thu nhập chịu thuế của cá nhân kinh doanh. Về cơ bản, các khoản chi phí hợp lý
được trừ này kế thừa các quy định hiện hành của Luật thuế TNDN. Trường hợp cá
nhân kinh doanh không thực hiện chế độ kế toán để làm cơ sở xác định chi phí hợp lý
được trừ thì thu nhập chịu thuế đựơc xác định bằng doanh thu ấn định nhân với tỷ lệ
thu nhập chịu thuế quy định cho từng ngành.
3.2.2. Xác định thu nhập tính thuế có xét đến gia cảnh của người nộp thuế:
- Thay vì áp dụng mức khởi điểm chịu thuế chung cho mọi đối tượng nộp thuế
như Pháp lệnh thuế thu nhập cá nhân đối với người có thu nhập cao thì Luật thuế
TNCN đã chuyển sang áp dụnggiảm trừ gia cảnh, tức là có tính đến hoàn cảnh cá
nhân của đối tượng nộp thuế có thu nhập từ tiền lương, tiền công và từ hoạt động sản
xuất, kinh doanh. Điều này làm cho việc xác định nghĩa vụ thuế của mỗi đối tượng
nộp thuế được công bằng hơn.
3.2.3.Điều chỉnh thuế suất theo hướng giảm thuế suất cao nhất, thấp nhất,
và tăng bậc thuế suất; thống nhất biểu thuế đối với người Việt Nam và người
nước ngoài.
SVTH: Nguyễn Thuận Hiếu – Khoa NH – K24
15
- Theo Pháp lệnh thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao, thu nhập
thường xuyên chịu thuế theo biểu thuế luỹ tiến từng phần với bốn mức thuế suất, thấp
nhất là 10% và cao nhất là 40%. Đối với thuế thu nhập từ kinh doanh và từ tiền lương,
tiền công, Luật thuế TNCN vẫn áp dụng biểu thuế luỹ tiến từng phần nhưng mức thuế
suất thấp nhất giảm xuống còn 5% và mức thuế suất cao nhất giảm xuống còn 35%
với số lượng bậc thuế nâng lên thành bảy và áp dụng chung cho cả người Việt Nam
và người nước ngoài.
Với biểu thuế mới này, tuy việc tính toán có phức tạp hơn (do tăng số lượng
bậc thuế) nhưng lại đảm bảo công bằng hơn trong điều tiết thu nhập do chênh lệch về
thuế suất giữa các bậc thuế giảm đi. Việc hạ thuế suất cao nhất và thấp nhất xuống thể
hiện tinh thần mở rộng diện đánh thuế nhưng mức độ điều tiết cũng giảm đi, huy động
sự đóng góp của nhiều người nhưng với mức độ vừa phải. Mặc khác, việc giảm mức
thuế suất cao nhất sẽ góp phần khuyến khích người lao động tích cực lao động và sản
xuất, kinh doanh; khuyến khích người dân làm giầu chính đáng.
4. Những tồn tại cần khắc phục:
-
Luật Thuế TNCN được Quốc hội thông qua cuối năm 2007, có hiệu lực thi hành từ
01/01/2009, chỉ mới hơn ba năm thực hiện các quy định đã bắt đầu bộc lộ rõ sự bất
cập, lạc hậu cụ thể như:
Mức giảm trừ cho bản thân người nộp thuế 4.000.000đ/người/tháng và mức giảm trừ
cho người phụ thuộc 1.600.000đ/người/tháng cũng như mức thu nhập làm căn cứ để
xác định người phụ thuộc không vượt quá 500.000 đồng/người/tháng là những con số
đã trở nên quá lạc hậu do là những con số “chết”, không biến đổi trong khi tình hình
lạm phát tăng cao liên tục các năm qua(chỉ số CPI năm 2009: 6,52%; năm 2010:
11,75%; 2011: 18.13%). Điều này đã gây nhiều khó khăn hơn cho đời sống của người
nộp thuế TNCN nói chung cũng như người nộp thuế TNCN từ hoạt động sản xuất
kinh doanh nói riêng.Một điểm chưa hợp lý nữa là mức giảm trừ gia cảnh hiện nay
SVTH: Nguyễn Thuận Hiếu – Khoa NH – K24
16
không tính đến khu vực: ở nông thôn, thành thị, đồng bằng hay miền núi đều áp dụng
như nhau.
Khoảng cách giữa các bậc thuế hiện nay quá dày, thu nhập chỉ vừa nhích lên đã rơi
vào bậc thuế khác khiến mức độ điều tiết tăng nhanh, gia tăng gánh nặng cho những
người có thu nhập chịu thuế ở những nấc thang đầu hơn là khuyến khích người dân
nộp thuế.
Với thuế suất bậc 7 ở mức 35% thì Việt Nam sẽ đối mặt với nguy cơ "chảy máu" chất
xám. Người giỏi của Việt Nam sẽ bỏ ra nước ngoài; người giỏi của nước ngoài ngại
đến Việt Nam. Đây là điều làm thui chột động lực phát triển đất nước. Người giỏi sẽ
thấy vô lý khi họ càng vất vả để tạo ra nhiều của cải, thu nhập thì lại càng bị đánh
thuế cao. Sự bất hợp lý này không khuyến khích được sự sáng tạo và khả năng vươn
lên; làm xói mòn sự hăng say làm giàu. Hơn thế nữa nếu so vớimức thuế suất thuế
thu nhập doanh nghiệp hiện hành là 25%, theo chiến lược cải cách thuế TNDN giai
đoạn 2011 - 2020, dự kiến sẽ điều chỉnh xuống khoảng 22 – 23% vào năm 2015, sau
đó giảm xuống còn khoảng 20% vào năm 2020 thì mức thuế TNCN cao nhất hiện
nay là 35% sẽ không đảm bảo tính tương quan hợp lý giữa hai luật thuế này. Điều
này cũng lý giải phần nào thực trạng một số cá nhân có thu nhập cao thời gian qua có
khuynh hướng thành lập công ty tư nhân như: ca sỹ, nghệ sỹ, cá nhân kinh doanh
dịch vụ…để lách thuế thu nhập cá nhân mà chuyển sang chịu thuế thu nhập doanh
nghiệp với mức thuế suất 25% nhằm tránh chịu thuế suất cao nhất 35% của thuế
TNCN.
Ví dụ 4: So sánh với ví dụ 2 khi cá nhân có thu nhập từ hoạt động sản xuất,
kinh doanh là 150 triệu đồng/tháng đóng thuế TNCN thì tổng số tiền nộp thuế là
40,13 triệu đồng/tháng.
Với cá nhân thành lập công ty tư nhân, nếu cá nhân này cũng có thu nhập 150
triệu đồng/tháng từ hoạt động sản xuất, kinh doanh sẽ đóng thuế TNDN với mức thuế
suất toàn phần 25%, thì tổng số tiền phải nộp thuế chỉ là:150 triệu đồng x 25% = 37,5
triệu đồng/tháng.
SVTH: Nguyễn Thuận Hiếu – Khoa NH – K24
17
Bất cập trong kê khai, quyết toán thuế đối với hộ, cá nhân kinh doanh
thực hiện nộp thuế khoán:
Theo Điều 24 Luật thuế TNCN thì cá nhân có thu nhập chịu thuế có trách
nhiệm kê khai, nộp thuế vào NSNN và quyết toán thuế đối với mọi khoản thu nhập
theo quy định của pháp luật về quản lý thuế.
Theo Điều 10 Luật thuế TNCN quy định xác định thu nhập chịu thuế từ kinh
doanh, cá nhân kinh doanh chưa tuân thủ đúng chế độ kế toán, hoá đơn, chứng từ mà
không xác định được doanh thu, chi phí và thu nhập chịu thuế thì cơ quan thuế có
thẩm quyền ấn định doanh thu, tỷ lệ thu nhập chịu thuế để xác định thu nhập chịu thuế
phù hợp với từng ngành, nghề sản xuất, kinh doanh theo quy định của pháp luật về
quản lý thuế.
Thực tế quản lý thu cho thấy, quy định này nhằm mục tiêu kiểm soát thu nhập
nhưng phát sinh thêm nhiều thủ tục mà không tăng thêm số thuế, nhiều trường hợp cá
nhân có số thuế nộp thừa trong năm nhỏ không có yêu cầu về hoàn lại thuế hoặc bù
trừ vào số thuế phải nộp kỳ sau nhưng vẫn phải thực hiện quyết toán thuế. Ví dụ: (i)
hộ, cá nhân kinh doanh nộp thuế khoán theo quy định của Luật vẫn phải quyết toán
thuế; (ii) cá nhân có thu nhập vãng lai ở nhiều nơi đã nộp thuế khấu trừ tại nguồn cuối
năm quyết toán thuế theo quy định; (iii) những người làm công ăn lương nhưng có thu
nhập từ kinh doanh (ví dụ cho thuê nhà, cửa hàng, đại lý xổ số, đại lý bảo hiểm, đại lý
bán hàng đa cấp...) đã nộp thuế khoán, hết năm phải cộng gộp tất cả các nguồn thu
nhập để tính lại thuế theo biểu thuế lũy tiến và quyết toán lại thuế tăng thêm thủ tục
phức tạp, phiền hà cho người nộp thuế.
Vấn đề kiểm soát thu nhập còn hạn chế:
-
Nền kinh tế Việt Nam vẫn là một nền kinh tế ưa chuộng tiền mặt, phần lớn các khoản
thu nhập cá nhân đều được chi trả bằng tiền mặt, do đó, khó có thể tạo ra cơ chế kiểm
soát thu nhập cá nhân một cách chính xác và hiệu quả.
- Chưa kiểm soát được mọi nguồn thu nhập của từng cá nhân, do chưa có sự
phối hợp chặt chẽ giữa ngành thuế với các cấp chính quyền địa phương, với các tổ
SVTH: Nguyễn Thuận Hiếu – Khoa NH – K24
18
chức, cơ quan liên quan trong việc hợp tác triển khai Luật thuế TNCN, dẫn đến những
khó khăn trong việc xác định và quản lý gia cảnh người nộp thuế, quản lý hoạt động
của các cá nhân kinh doanh tự do, hành nghề độc lập, đặc biệt là những cá nhân có
thu nhập cao như ca sỹ, nghệ sỹ…trong thời gian qua dẫn đến nhiều bất công trong
nghĩa vụ nộp thuế của người dân.
SVTH: Nguyễn Thuận Hiếu – Khoa NH – K24
19
CHƯƠNG III: KIẾN NGHỊ
1. Về mức giảm trừ gia cảnh:
-
Để khắc phục tình trạng văn bản quy phạm pháp luật mới ban hành đã lạc hậu do sự
thay đổi của giá trị đồng tiền, đã đến lúc cần thống nhất lấy mức lương tối thiểu làm
căn cứ để định lượng giá trị vật chất trong các văn bản pháp luậtvì mức lương tối
thiểu luôn được nhà nước điều chỉnh sát với diễn biến của lạm phát, trượt giá và sự
tăng trưởng của nền kinh tế, thể hiện giá trị thực của đồng tiền đối với đời sống người
dân, không nên đưa ra một con số tuyệt đối cứng nhắc trong mức giảm trừ chi phí cho
bản thân và giảm trừ gia cảnh cho người nộp thuế như hiện nay.
-
Đồng thời với việc lấy mức lương tối thiểu làm căn cứ để tính mức giảm trừ gia cảnh
thì việc cần làm trước mắt là tăng mức giảm trừ cho bản thân người nộp thuế, tăng
mức giảm trừ gia cảnh và mức thu nhập để làm căn cứ xác định người phụ thuộc, việc
làm này cần thực hiện ngay vì tình hình lạm phát cao đã diễn ra trong thời gian dài
gây nhiều khó khăn cho đời sống người dân.
-
Mức giảm trừ gia cảnh, mức thu nhập xác định người phụ thuộc nên quy định khác
nhau cho từng vùng, từng khu vực có mức sống khác nhau, không nên áp dụng đồng
nhất nông thôn cũng như thành thị, đồng bằng cũng như miền núi. Hiện nay lương tối
thiểu của Việt Nam được chia cụ thể theo 5 vùng và 3 khu vực nên nếu điều chỉnh
mức giảm trừ gia cảnh căn cứ vào lương tối thiểu theo từng khu vực sẽ tránh được sự
lạc hậu và phù hợp với thực tiễn hơn.
2. Về biểu thuế lũy tiến TNCN:
-
Để khắc phục tình trạng văn bản quy phạm pháp luật mới ban hành đã lạc hậu do sự
thay đổi của giá trị đồng tiền, đã đến lúc cần thống nhất lấy mức lương tối thiểu làm
căn cứ để định lượng giá trị vật chất trong các văn bản pháp luậtvì mức lương tối
thiểu luôn được nhà nước điều chỉnh sát với diễn biến của lạm phát, trượt giá và sự
tăng trưởng của nền kinh tế, thể hiện giá trị thực của đồng tiền đối với đời sống người
SVTH: Nguyễn Thuận Hiếu – Khoa NH – K24
20
dân, không nên đưa ra một con số tuyệt đối cứng nhắc trong mức giảm trừ chi phí cho
bản thân và giảm trừ gia cảnh cho người nộp thuế như hiện nay.
-
Đồng thời với việc lấy mức lương tối thiểu làm căn cứ để tính mức giảm trừ gia cảnh
thì việc cần làm trước mắt là tăng mức giảm trừ cho bản thân người nộp thuế, tăng
mức giảm trừ gia cảnh và mức thu nhập để làm căn cứ xác định người phụ thuộc, việc
làm này cần thực hiện ngay vì tình hình lạm phát cao đã diễn ra trong thời gian dài
gây nhiều khó khăn cho đời sống người dân.
-
Mức giảm trừ gia cảnh, mức thu nhập xác định người phụ thuộc nên quy định khác
nhau cho từng vùng, từng khu vực có mức sống khác nhau, không nên áp dụng đồng
nhất nông thôn cũng như thành thị, đồng bằng cũng như miền núi. Hiện nay lương tối
thiểu của Việt Nam được chia cụ thể theo 5 vùng và 3 khu vực nên nếu điều chỉnh
mức giảm trừ gia cảnh căn cứ vào lương tối thiểu theo từng khu vực sẽ tránh được sự
lạc hậu và phù hợp với thực tiễn hơn.
-
Giai đoạn đầu cơ quan thuế chỉ nên đặt mục tiêu kiểm soát được các nguồn thu của
người nộp thuế, sau đó mới nghĩ đến việc điều tiết thuế ở mức cao hơn. Nên hạ mức
thuế suấtở bậc đầu tiên xuống 2-3% thay cho mức 5% để khuyến khích nhiều người
nộp thuế. Thuế suất thấp sẽ tăng tính tuân thủ tự nguyện của người nộp thuế. Nhiều
người sẽ không cảm thấy áp lực với thuế suất cao mà phải tìm cách này cách kia để
lách, trốn thuế. Việt Nam nên học hỏi cách đánh thuế của Singapore. Chính phủ
Singapore chủ trương đưa ra thuế suất thấp để người dân thấy số thuế phải nộp không
đáng kể so với thu nhập họ nhận được, mặt khác quy định hình phạt nghiêm khắc nếu
bị phát hiện trốn thuế. Song song đó, Chính phủ có nhiều hình thức tuyên dương
người nộp thuế khiến họ cảm thấy tự hào về việc được nộp nhiều thuế.Người đóng
thuế cao cảm thấy tự hào vì đóng góp nhiều cho đất nước và là dấu hiệu chứng tỏ
mình là người tài giỏi, thành đạt. Mối nguy hiểm do bị phát hiện trốn thuế cao gấp
nhiều lần so với số thuế trốn, vậy tại sao không chủ động kê khai đúng số thuế phải
nộp.
-
Nên tăng độ giãn giữa các bậc thuế suất, vì bậc thuế suất hiện nay khá dày gây nhiều
áp lực cho người nộp thuế khi thu nhập chỉ mới cao lên một chút đã bị rơi vào mức
SVTH: Nguyễn Thuận Hiếu – Khoa NH – K24
21
thuế suất khác. Số thuế thu bị giảm sẽ được bù đắp bằng cách tập trung lực lượng
nhằm kiểm tra cho được thu nhập của những người có thu nhập cao.
-
Mức thuế suất cao nhất 35% cần thiết phải được giảm xuống vì:
+ Nhằm khuyến khích được những người có trình độ kỹ thuật cao, năng lực
điều hành giỏi ra sức lao động làm giàu cho bản thân cũng là làm giàu cho đất
nước.Việt Nam cần nhìn sang các nước xem họ đánh thuế bao nhiêu. Nếu như Trung
Quốc, Thái Lan, Singapore... đánh cao nhất là 25% thì Việt Nam chỉ nên đánh 23%
đến 24%. Sự cạnh trang này giúp Việt Nam có được động lực trí tuệ của dân tộc, cũng
như thu hút chất xám ngoài nước để phát triển kinh tế trong nước.
+ Sự chênh lệch giữa thuế Thu nhập cá nhân và thuế thu nhập doanh nghiệp
hiện nay khá lớn, dẫn đến sự lách thuế của một bộ phận những cá nhân có thu nhập
cao. Vì vậy cần thiết phải hạ bậc thuế 35% của thuế TNCN sao cho tương đồng với
mức thuế TNDN nhằm tránh sự chuyển đổi, lách thuế như hiện nay.Nên chăng, Luật
nên quy định lại mức thuế suất cao nhất của biểu thuế lũy tiến từng phần là 25% bằng
với mức điều tiết của Luật thuế thu nhập doanh nghiệp như vậy sẽ đảm bảo bình đẳng
hơn giữa hai sắc thuế trực thu này.
+ Nếu như mức thuế thu nhập cá nhân ở các nước khác thấp hơn của Việt Nam
thì các cá nhân có thu nhập cao ở Việt Nam sẽ tìm cách trốn thuế. Doanh nghiệp có
vốn đầu tư nước ngoài trả lương cho người lao động nước ngoài bên ngoài lãnh thổ
Việt Nam, nên Nhà nước sẽ thất thu thuế.
Phát triển hình thức thanh toán không dùng tiền mặt trong toàn bộ nền kinh tế quốc
-
dân, hướng tới việc quản lý thu nhập của cá nhân qua hệ thống ngân hàng, có như vậy
mới có thể kiểm soát được thu nhập cá nhân, đạt được mục tiêu thu đúng, thu đủ thuế
TNCN cho ngân sách nhà nước.
-
Cần đẩy mạnh hơn nữa việc đăng ký và cấp mã số thuế cá nhân, tiến tới mỗi công dân
đều có một mã số để theo dõi quản lý, không phân biệt có thu nhập chịu thuế hay
không có thu nhập chịu thuế.
-
Để cơ chế tự khai, tự nộp thuế TNCN phát huy hiệu quả, cần tăng cường công tác
hướng dẫn, kiểm tra, tổ chức hệ thống thông tin dịch vụ kế toán, kê khai và tính thuế.
SVTH: Nguyễn Thuận Hiếu – Khoa NH – K24
22
Đồng thời cần có lộ trình triển khai thực hiện phù hợp, từng bước từ đơn giản đến
phức tạp, từ thấp đến cao, chia theo từng nhóm để quản lý; nên có cơ chế khuyến
khích các đối tượng nộp thuế tự nguyện áp dụng phương pháp tự khai tự nộp
-
thuế, chẳng hạn như cho phép được hưởng các khoản khấu trừ đặc biệt hoặc các chế
độ ưu đãi khác.
-
Cùng với việc hoàn thiện cơ chế tự khai tự nộp thuế, thì công tác thanh tra kiểm tra xử
lý vi phạm pháp luật thuế TNCN cần được đẩy mạnh, đòi hỏi cơ quan thuế phải tập
trung lực lượng lớn vào việc tuyên truyền và thanh tra kiểm tra việc chấp hành luật
thuế. Cơ quan thuế phải phối hợp chặt chẽ với các cơ quan chức năng như cơ quan
công an, cơ quan ngoại vụ, cơ quan quản lý lao động,... để nắm bắt kịp thời thông tin
về đối tượng nộp thuế, nguồn phát sinh thu nhập, có biện pháp phân loại đối tượng
nộp thuế thành các nhóm khác nhau để thanh tra, kiểm tra một cách có hiệu quả.
-
Để nâng cao hiệu quả quản lý thu thuế TNCN cần phải tăng cường phối hợp giữa cơ
quan thuế với các cơ quan chức năng của các ngành, các lĩnh vực có liên quan, trong
đó, phải đề cao vai trò và thẩm quyền của cơ quan thuế trong việc giám sát thu nhập,
thanh tra kiểm tra thuế, xử lý vi phạm và cưỡng chế thuế. Với đặc trưng của thuế
TNCN, trước hết, phải nói đến sự phối hợp giữa cơ quan thuế với BHXH, với ngân
hàng và Kho bạc Nhà nước.
3. Nâng cao khả năng kiểm tra, giám sát thu nhập cá nhân:
- Phát triển hình thức thanh toán không dùng tiền mặt trong toàn bộ nền kinh tế
quốc dân, hướng tới việc quản lý thu nhập của cá nhân qua hệ thống ngân hàng, có
như vậy mới có thể kiểm soát được thu nhập cá nhân, đạt được mục tiêu thu đúng, thu
đủ thuế TNCN cho ngân sách nhà nước.
-
Cần đẩy mạnh hơn nữa việc đăng ký và cấp mã số thuế cá nhân, tiến tới mỗi công dân
đều có một mã số để theo dõi quản lý, không phân biệt có thu nhập chịu thuế hay
không có thu nhập chịu thuế.
-
Để cơ chế tự khai, tự nộp thuế TNCN phát huy hiệu quả, cần tăng cường công tác
hướng dẫn, kiểm tra, tổ chức hệ thống thông tin dịch vụ kế toán, kê khai và tính thuế.
SVTH: Nguyễn Thuận Hiếu – Khoa NH – K24
23
Đồng thời cần có lộ trình triển khai thực hiện phù hợp, từng bước từ đơn giản đến
phức tạp, từ thấp đến cao, chia theo từng nhóm để quản lý; nên có cơ chế khuyến
khích các đối tượng nộp thuế tự nguyện áp dụng phương pháp tự khai tự nộp thuế,
chẳng hạn như cho phép được hưởng các khoản khấu trừ đặc biệt hoặc các chế độ ưu
đãi khác.
-
Cùng với việc hoàn thiện cơ chế tự khai tự nộp thuế, thì công tác thanh tra kiểm tra xử
lý vi phạm pháp luật thuế TNCN cần được đẩy mạnh, đòi hỏi cơ quan thuế phải tập
trung lực lượng lớn vào việc tuyên truyền và thanh tra kiểm tra việc chấp hành luật
thuế. Cơ quan thuế phải phối hợp chặt chẽ với các cơ quan chức năng như cơ quan
công an, cơ quan ngoại vụ, cơ quan quản lý lao động,... để nắm bắt kịp thời thông tin
về đối tượng nộp thuế, nguồn phát sinh thu nhập, có biện pháp phân loại đối tượng
nộp thuế thành các nhóm khác nhau để thanh tra, kiểm tra một cách có hiệu quả.
-
Để nâng cao hiệu quả quản lý thu thuế TNCN cần phải tăng cường phối hợp giữa cơ
quan thuế với các cơ quan chức năng của các ngành, các lĩnh vực có liên quan, trong
đó, phải đề cao vai trò và thẩm quyền của cơ quan thuế trong việc giám sát thu nhập,
thanh tra kiểm tra thuế, xử lý vi phạm và cưỡng chế thuế. Với đặc trưng của thuế
TNCN, trước hết, phải nói đến sự phối hợp giữa cơ quan thuế với BHXH, với ngân
hàng và Kho bạc Nhà nước.
SVTH: Nguyễn Thuận Hiếu – Khoa NH – K24
24
KẾT LUẬN
Đề tài đã tập trung thực hiện các mục tiêu đề ra ban đầu là đánh giá thực trạng pháp
luật thuế thu nhập cá nhân ở nước ta hiện nay và ảnh hưởng của nó đến thu nhập từ
hoạt động sản xuất kinh doanh, và từ đó đưa ra những kiến nghị, giải pháp hoàn thiện
dựa trên những kiến nghị từ phía cơ quan nhà nước cho việc sửa đổi bổ sung lĩnh vực
thuế này trong thời gian tới.
Hạn chế lớn nhất của đề tài là nguồn số liệu thống kê thực tế về mức thu nhập của dân
cư trong mối quan hệ tác động của Thuế thu nhập cá nhân. Chính vì vậy, đề tài không
đề cập đến phân tích định lượng mà chỉ tập trung vào những phân tích định tính dựa
trên các mối quan hệ, tác động đã được kiểm chứng trong các nghiên cứu định lượng
khác. Có thể nói vấn đề góp phần xây dựng chính sách thuế thu nhập cá nhân nhằm
đạt được những mục tiêu công bằng xã hội, thúc đẩy nguồn thu ngân sách và không
tạo gánh nặng cho người dân thực sự lớn lao. Với lượng kiến thức và khả năng còn
nhiều hạn chế của tác giả thì những sai sót trong đề tài là không thể tránh khỏi. Rất
mong nhận được sự đóng góp ý kiến của các thầy cô, bạn bè đồng nghiệp, các nhà
nghiên cứu chính sách để đề tài được hoàn thiện hơn.
SVTH: Nguyễn Thuận Hiếu – Khoa NH – K24
25