Tải bản đầy đủ (.doc) (65 trang)

CD_Nâng Cao Chất lượng cho vay HSX tại chi nhánh NH NN&PTNT huyện Thạch An, Tỉnh Cao Bằng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.43 MB, 65 trang )

Chuyên đề tốt nghiệp
GVHD: TS. Lê Thanh Tâm

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
VIỆN NGÂN HÀNG – TÀI CHÍNH
------------

CHUYÊN ĐỀ TỐT NGHIỆP
Đề tài:
NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG CHO VAY HỘ SẢN XUẤT TẠI
CHI NHÁNH NGÂN HÀNG NÔNG NGHIỆP VÀ PHÁT TRIỂN NÔNG
THÔN HUYỆN THẠCH AN, TỈNH CAO BẰNG

Giáo viên hướng dẫn
Sinh viên thực hiện
Mã sinh viên
Lớp

: TS. LÊ THANH TÂM
: LƯƠNG THỊ THU HÀ
: CQ524520
: TÀI CHÍNH DOANH NGHIỆP 52C

HÀ NỘI, 12/2013


Chuyên đề tốt nghiệp
GVHD: TS. Lê Thanh Tâm

LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành được chuyên đề tốt nghiệp này, em đã nhận được sự giúp đỡ quý


báu từ các thầy cô trong Viện Ngân hàng – Tài chính, của chi nhánh Ngân hàng Nông
nghiệp và Phát triển nông thôn Huyện Thạch An- Tỉnh Cao Bằng và của gia đình.
Em xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành và sâu sắc tới cô giáo hướng dẫn: TS. Lê
Thanh Tâm đã tận tình hướng dẫn em trong suốt quá trình nghiên cứu và thực hiện
chuyên đề này.
Em xin gửi lời cảm ơn đến các thầy cô trong Viện Ngân hàng – Tài chính, các thầy
cô giáo trường đại học Kinh tế Quốc dân đã trang bị cho em nhiều kiến thức quý báu
trong quá trình học tập tại trường và nhiệt tình giúp đỡ em thực hiện chuyên đề này.
Em xin chân thành cảm ơn Ban lãnh đạo chi nhánh Ngân hàng Nông nghiệp và
Phát triển nông thôn Huyên Thạch An, Tỉnh Cao Bằng đã cung cấp tài liệu và tạo mọi
điều kiện cho em hoàn thành chuyên đề này.
Cuối cùng, con xin gửi lời biết ơn tới gia đình, nơi đã sinh thành, nuôi dưỡng và
động viên con rất nhiều trong thời gian qua.
Hà Nội, ngày 5 tháng 12 năm 2013
Sinh viên


Chuyên đề tốt nghiệp
GVHD: TS. Lê Thanh Tâm

MỤC LỤC


Chuyên đề tốt nghiệp
GVHD: TS. Lê Thanh Tâm

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
NH

Ngân hàng


TD

Tín dụng

KD

Kinh doanh

TS

Tài sản

HTX

Hợp tác xã

NHTM

Ngân hàng thương mại

RRTD

Rủi ro tín dụng

TSBĐ

Tài sản bảo đảm

BĐTV


Bảo đảm tiền vay

TCTD

Tổ chức tín dụng

RRTD

Rủi ro tín dụng

CBCNV

Cán bộ Công nhân viên

NHNo&PTNT

Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn


Chuyên đề tốt nghiệp
GVHD: TS. Lê Thanh Tâm

DANH MỤC SƠ ĐỒ, BẢNG BIỂU


Chuyên đề tốt nghiệp
GVHD: TS. Lê Thanh Tâm

LỜI NÓI ĐẦU

Nền kinh tế nước ta đã có những chuyển biến sâu sắc, căn bản và toàn diện sau khi
thực hiện công cuộc chuyển đổi từ nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp sang nền kinh
tế thị trường. Trong đó, phát triển nền kinh tế nhiều thành phần đã được Đảng ta nêu ra
từ Đại hội VI (1986). Đây là chủ trương, chính sách nhất quán và lâu dài của Đảng ta,
cho đến nay đã trải qua 25 năm đổi mới, thực tiễn đã chứng minh rằng, đây là một luận
điểm, một chính sách hoàn toàn phù hợp với yêu cầu khách quan, là quyết sách chiến
lược đúng đắn, sáng tạo góp phần vào “những thành tựu to lớn và có ý nghĩa lịch sử”.
Văn kiện Đại hội XI của Đảng đã có những khái quát mới về lý luận: “Phát triển nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa với nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành
phần kinh tế, hình thức tổ chức kinh doanh và hình thức phân phối.”1
Có rất nhiều thành phần kinh tế khác nhau, trong đó kinh tế hộ sản xuất đóng vai
trò quan trọng và nhờ đóng góp của mình đã đem lại thành tựu to lớn đối với nền kinh tế
nói chung và cho lính vực nông nghiệp, nông thôn nói riêng, nhờ đó đời sống hộ nông
dân được nâng cao, tỉ lệ hộ nghèo giảm. Chính vì vậy, vấn đề cấp bách cho sự phát triển
kinh tế của một nước đang phát triển như Việt Nam là phải phát triển kinh tế nhiều thành
phần, trong đó chú trọng phát triển kinh tê hộ sản xuất.
Nguồn vốn là dòng máu cho bất cứ hoạt động sản xuất kinh doanh và hộ sản xuất
cũng đang gặp khó khăn về vấn đề này. Ngân hàng đóng vai trò là đơn vị trung gian lưu
chuyển vốn từ nơi này sang nơi khác và đang từng bước giúp đỡ hộ sản xuất phát triển,
trong đó NHNo&PTNT là ngân hàng gần gũi với người nông dân, đem nguồn vốn phục
vụ nhu cầu của hộ sản xuất, tạo công ăn việc làm, cải thiện bộ mặt nông thôn.
Cho vay là một nghiệp vụ rất phức tạp,vì vậy việc sản xuất gặp nhiều khó khăn,
đặc biệt với hệ thống NHNo&PTNT. Với nhiều cố gắng NHNo&PTNT huyện Thạch
An, Tỉnh Cao Bằng đã đạt được nhiều thành tích song cũng không tránh khỏi những khó
khăn nhất định khi mà chất lượng cho vay còn thấp so với tiềm năng của ngân hàng.

Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI. Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà
Nội 2011, tr 73
1


1


Chuyên đề tốt nghiệp
GVHD: TS. Lê Thanh Tâm
Qua quá trình học tập, nghiên cứu và thời gian thực tập tại NHNo&PTNT Huyện
Thạch An, Tỉnh Cao Bằng em quyết định chọn đề tài “Nâng cao chất lượng cho vay
đối với hộ sản xuất tại NHNo&PTNT Huyện Thạch An, Tỉnh Cao Bằng” làm đề tài
cho chuyên đề tốt nghiệp của mình.
Kết cấu của chuyên đề bao gồm 3 chương:
Chương I: Những vấn đề cơ bản về chất lượng cho vay hộ sản xuất của ngân
hàng thương mại
Chương II: Thực trạng chất lượng cho vay hộ sản xuất tại chi nhánh
NHNo&PTNT Huyện Thạch An.
Chương III: Giải pháp nâng cao chất lượng cho vay hộ sản xuất tại chi
nhánh NHNo&PTNT Huyện Thạch An.
Do thời gian nghiên cứu có hạn, trình độ và kiến thức còn hạn chế nên chuyên đề
không tránh khỏi những thiếu sót. Em rất mong nhận được những ý kiến đóng góp nhằm
giúp em hiểu rõ hơn vấn đề này.

2


Chuyên đề tốt nghiệp
GVHD: TS. Lê Thanh Tâm

CHƯƠNG I
NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ CHẤT LƯỢNG CHO VAY
HỘ SẢN XUẤT CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1 Tổng quan về cho vay hộ sản xuất

1.1.1 Giới thiệu về hộ sản xuất
1.1.1.1 Khái niệm và đặc điểm của hộ sản xuất
* Khái niệm
Có thể thấy rằng, trong nền kinh tế nông nghiệp sự tồn tại của hộ sản xuất là tất yếu, không chỉ ở
Việt Nam mà còn xuất hiện trên toàn thế giới.
Trong từ điển ngôn ngữ của Mỹ (Oxford press – 1987): “Hộ” là tất cả những người cùng sống trong
một mái nhà. Nhóm người đó bao gồm những người cùng chung huyết thống và những người làm ăn chung.

Theo góc độ Ngân hàng, “Hộ sản xuất” là một thuật ngữ được dùng trong
hoạt động cấp vốn tín dụng cho ho gia đình để làm kinh tế chung của hộ. Luật pháp
nước ta cũng đưa ra quy định về hộ, hộ được xem như một chủ thể trong các quan
hệ dân sự và được định nghĩa là một đơn vị mà các thành viên có tài sản chung và
cùng góp công sức để hoạt động kinh tế chung. Ngày nay, hộ sản xuất đang trở
thành một nhân tố quan trọng trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước và là sự tồn tại tất yếu trong quá trình xây dựng một nền kinh tế đa thành phần
theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
.

,

Xuất phát từ xu thế phát triển của xã hội, để phù hợp với chủ trương chính
sách của Đảng và Nhà nước, NHNo & PTNT Việt Nam đã ban hành quyết định số
499A/TDNT quy định về biện pháp nghiệp vụ cho hộ sản xuất vay vốn để phát triển
nông - lâm - ngư - diêm nghiệp và kinh tế nông thôn, theo đó hộ sản xuất được hiểu:
“Hộ sản xuất là đơn vị kinh tế tự chủ, trực tiếp hoạt động sản xuất kinh doanh, là
chủ thể trong mọi quan hệ sản xuất kinh doanh và tự chịu trách nhiệm về kết quả
hoạt động sản xuất của mình”.
m

,


.

m

Với quy mô rộng lớn, là một lực lượng sản xuất chính ở nông thôn và hoạt
động o nhiều lĩnh vực, nhưng chủ yếu là trong lĩnh vực nông nghiệp và nông thôn.
Các hộ tiến hanh sản xuất kinh doanh đa dang: kết hợp trồng trọt với chăn nuôi. và
kinh doanh nganh nghề phu . Nhờ đó nâng cao hiệu quả hoạt động của các hộ sản
xuất ở nước ta.
.

m

3

.


Chuyên đề tốt nghiệp
GVHD: TS. Lê Thanh Tâm
* Đặc điểm của hộ sản xuất
- Hộ sản xuất được tự do lựa chọn ngành nghề, lĩnh vực muốn làm, họ tự thu
lợi nhuận cũng như chịu thua lỗ.Theo cơ chế những năm trước, chính sách khoán
đất của nhà nước làm cho việc sản xuất phải tuân theo quy định của tập thể, với xu
hướng phát triển ngày nay, hộ sản xuất đã được quyền tự do sản xuất, kinh doanh.
- Hộ sản xuất chủ yếu hoạt động sản xuất ở quy mô nhỏ, họ có sức lao động,
có đất đai để sản xuất. Song hộ sản xuất lại thiếu vốn, thiếu trình độ, thiếu kiến thức
về thị trường nên sản xuất kinh doanh còn mang nặng tính tự cấp, tự túc. Nếu không
có sự hỗ trợ và cơ chế chính sách của Nhà nước về vốn thì kinh tế hộ không thể

chuyển sang sản xuất hàng hoá, không thể tiếp cận được với cơ chế thị trường.
- Quy mô sản xuất và cơ sở vật chất của hộ sản xuất ở các vùng, các khu
vực khác nhau và có sự chênh lệch nhau đáng kể. Sở dĩ có sự khác biệt đó một phần
là do mỗi vùng, mỗi khu vực có những đặc điểm riêng về điều kiện địa lý, khí hậu
nhưng phần lớn là do sự khác biệt về tiềm năng kinh tế giữa các vùng, cũng như khả
năng của bản thân hộ sản xuất, tất yếu sẽ dẫn đến quá trình tích tụ và tập trung về
ruộng đất, cơ sở vật chất kỹ thuật. Quá trình tích tụ và tập trung này góp phần giảm
bớt tính phân tán và lạc hậu của kinh tế tiểu nông tạo điều kiện phát triển, mở rộng
sản xuất kinh tế hộ.
- Cùng với sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế từ cơ chế tập trung quan liêu bao
cấp sang cơ chế thị trường, kinh tế hộ sản xuất cũng xuất hiện thêm nhiều hình thức
kinh tế hộ sản xuất khác nhau như: hộ nhận thầu, hộ nhận khoán, nông trường, hộ
gia đình là thành viên của Hợp tác xã, doanh nghiệp Nhà nước, tập đoàn sản xuất.
Sự xuất hiện của các hình thức tổ chức mới đã góp phần nâng cao hiệu quả kinh tế
và tăng thu nhập của hộ. Tuy nhiên, các hình thức tổ chức mới này cũng chịu nhiều
khó khăn rủi ro, vì vậy Nhà nước cần ban hành các chính sách hỗ trợ để kinh tế hộ
sản xuất được củng cố và nâng cao vị trí của mình trong toàn bộ nền kinh tế. Với
những đặc trưng trên, kinh tế hộ sản xuất được coi là nhân tố quyết định sự chuyển
dịch mạnh mẽ của sản xuất nông nghiệp và phát triển nông thôn.

4


Chuyên đề tốt nghiệp
GVHD: TS. Lê Thanh Tâm
1.1.1.2 Vị trí, vai trò của hộ sản xuất trong nền kinh tế
Theo chủ trương của NQ 10 - Bộ chính trị ban hành về “ Đổi mới cơ chế quản lý kinh tế nông
nghiệp ”, hộ nông dân đã được thừa nhận là một đơn vị kinh tế nông thôn, từ đó người dân có thêm động lực
để sản xuất, mở rộng diện tích gieo trồng, cơ giới hóa, nhiều làng nghề truyền thống được khơi dậy, người
nông dân mạnh dạn hơn trong việc ứng dụng hiện đại hóa công cụ sản xuất. Như vậy, hộ sản xuất đã và đang

tồn tại với vai trò là cầu nối trung gian trong nền kinh tế, là đơn vị tích tụ vốn, góp phần nâng cao hiệu quả sử
dụng nguồn lao động, giải quyết việc làm ở nông thôn.
m

Ngày nay, hộ sản xuất có vị trí quan trọng trong nền kinh tế, họ được tự chủ sản xuất, muốn được
phát triển hơn nữa kinh tế nông nghiệp nông thôn thì bản thân mỗi hộ sản xuất cần có được vốn sản
xuất,nâng cao trình độ chuyên canh chuyên cư, và được cung cấp tư liệu sản xuất hiện đại, giúp họ tiếp cận
với kĩ thuật hiện đại của thế giới.
m

Những sản phẩm mà hộ sản xuất làm ra như hoa màu, cây ăn quả, cây công nghiệp,… tạo nguồn thu
nhập cho họ, giúp hàng hóa trên thị trường đa dạng, việc buôn bán được sôi động hơn, nhờ đó nền kinh tế
phát triển đặc biệt là ở khu vực nông thôn.
m

Hộ sản xuất là thị trường tiêu thụ các sản phẩm công nghiệp, thương mại dịch vụ vì quy mô rộng
lớn, để đáp ứng được nhu cầu tiêu dùng và sản xuất nông nghiệp,tránh tình trạng dư thừa lao động ở nông
thôn. Trong những năm qua, Đảng và Nhà nước đã có những chính sách quan tâm đến kinh tế nông nghiệp
nông thôn, những nghị định được đưa ra đã được truyền tải đến từng thôn làng gần gũi với người dân. Kết
quả đạt được trong thời gian qua là vô cùng to lớn, người nông dân hăng say sản xuất, tìm tòi hướng làm giàu
theo sự hỗ trợ từ nguồn vốn của Ngân hàng, góp phần nhỏ bé đến tổng sản phẩm quốc nội. Với những thay
đổi và cố gắng, lĩnh vực Nông nghiệp nông thôn đã đạt được nhiều thành tựu, quan trọng nhất là chuyển nền
nông nghiệp sản xuất tự cấp, tự túc thành nền nông nghiệp sản xuất hàng hoá với tỉ trọng cao, giá trị sản xuất
Nông-Lâm - Ngư nghiệp năm sau luôn cao hơn năm trước.
Được sống trong một đất nước hòa bình, hộ sản xuất đang thể hiện mình là một thành phần đang có
đóng góp không nhỏ cho nền kinh tế.
Với những vai trò đó đã đưa kinh tế hộ giữ một vị trí hết sức quan trọng trong nền kinh tế:
m

+ Là cầu nối chuyển cơ cấu kinh tế tự cấp, tự túc sang sản xuất hàng hoá nhỏ.

p

+ Là đơn vị cơ bản để phân công lao động, tiếp nhận khoa học kỹ thuật, bảo tồn và truyền đạt kinh
nghiệm truyền thống cho thế hệ sau.
k

k

Xác định đươc tầm quan trọng của hộ sản xuất trong nền kinh tế, nhà nước cần có những, chính sách
đầu tư một cách thoả đáng, có như vậy mới khai thác được nguồn lực có san ở nông thôn, đần dần đưa nông
nghiệp nông thôn đi lên.

1.1.2 Cho vay hộ sản xuất của ngân hàng thương mại
1.1.2.1 Khái niệm và đặc điểm về cho vay hộ sản xuất của ngân hàng thương mại
Cho vay hộ sản xuất là việc ngân hàng dùng những khoản tiền tự có hoặc huy động được, cho các
hộ sản xuất kinh doanh nông – lâm – ngư nghiệp vay để phục vụ nhu cầu vốn cho quá trình sản xuất kinh
doanh.
d

5


Chuyên đề tốt nghiệp
GVHD: TS. Lê Thanh Tâm
Hộ sản xuất là một đơn vị kinh tế tự chủ và nhà nước đã có những chính sách chỉ đạo phải phát triển
mạnh mẽ hơn nữa kinh tế hộ sản xuất, điều đó thể hiện thông qua việc Chính phủ ban hành Nghị định
41/2010/NĐ-CP về chính sách tín dụng phục vụ phát triển nông thôn, là một bước tiến quan trọng trong
chính sách đối với nông nghiệp nông thôn . Trên cơ sở chỉ đạo của Chính phủ tại Nghị định 41 và hướng dẫn
của NHNN, thời gian qua các TCTD đã thực hiện đẩy mạnh và đa dạng hoá các hoạt động tín dụng ở nông
thôn, cho vay hầu hết các nhu cầu vốn phát sinh trong lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn, tạo thuận lợi để

người sản xuất và các tổ chức kinh tế ở nông thôn tiếp cận vốn tín dụng ngân hàng phục vụ phát triển sản
xuất kinh doanh, tạo điều kiện khai thác tiềm năng thế mạnh của địa phương, chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo
hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá; khuyến khích các thành phần kinh tế phát triển, góp phần xoá đói giảm
nghèo...
v

m

m

Đến 31/12/2011, dư nợ cho vay nông nghiệp, nông thôn của các ngân hàng thương mại (chưa bao
gồm số liệu của các công ty tài chính, quỹ tín dụng nhân dân cơ sở) đạt 486.098 tỷ đồng, tăng 27,3% so với
cuối năm 2010. Tính đến hết tháng 02/2012, dư nợ cho vay nông nghiệp, nông thôn theo Thông tư 14 của các
tổ chức tín dụng đạt 468.640 tỷ đồng, chiếm tỷ trọng khoảng 19% so với tổng dư nợ toàn quốc2

Đặc điểm cho vay hộ sản xuất:
- Các khoan vay của ho sản xuất thường nhỏ. Với đặc trưng của việc sản xuất của kinh tế hộ là nhỏ
lẻ, quy mô không lớn.
- Hầu hết các hộ sản xuất hiện nay không có trình độ hiểu biết về luật pháp, chuyên môn, sản xuất
kinh doanh không tập trung, thường mang tính tự phát, vì vậy gây khó khăn cho khâu thẩm định cho vay đối
với hộ sản xuất.
- Hiệu quả sản xuất kinh doanh của nhiều hộ dân còn thấp, ít được đầu tư khoa học công nghệ, thu
nhập thấp không đủ bù đắp chi phí gây ảnh hưởng đến khả năng trả nợ ngân hàng. Do vậy cho vay hộ sản
xuất có rủi ro lớn.
- Với trình độ học vấn thấp, không được tiếp xúc nhiều với các vấn đề luật pháp và các thủ tục pháp
lý khi cho vay,chính vì vậy, thường xuyên để xảy ra tình trạng trả gốc và lãi quá hạn, gây nhiều thiệt hại cho
ngân hàng.
- Khi có chuyện xảy ra đối với những người trong hộ sản xuất, thì hầu như quá trình sản xuất, kinh
doanh sẽ bị ngưng trệ, điều này khiến khả năng thu hồi vốn của các hộ sản xuất kém, khả năng trả nợ ngân
hàng đúng hạn thấp.


1.1.2.2 Vai trò của cho vay đối với hộ sản xuất:
Trong những năm qua, mặc dù phải trải qua nhiều cuộc khủng hoảng kinh
tế, nhưng Đảng và Chính phủ luôn quan tâm đến việc hỗ trợ vốn cho đồng bào ở
các vùng nông thôn, đảm bảo phát triển kinh tế gia đình thông qua việc ban hành
các nghị định như Nghị định 41/2010/NĐ-CP về Chính sách tín dụng phục vụ phát
2

“Báo cáo công tác triển khai chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới của ngành ngân hàng và tình
hình thực hiện nghị định 41/2010/nđ-cp về chính sách tín dụng phục vụ phát triển nông nghiệp, nông thôn” của Ngân
hàng Nhà nước ngày 20/4/2012.
6


Chuyên đề tốt nghiệp
GVHD: TS. Lê Thanh Tâm
triển nông nghiệp nông thôn, Quyết định số 31/2007/QĐ-TTg về “Tín dụng đối với
hộ gia đình sản xuất, kinh doanh tại vùng khó khăn”, nhờ đó đã “giải cơn khát”,
khơi thông nguồn vốn về nông thôn. Có thể nói, đây là một điểm mới, hết sức quan
trọng, là cú hích tạo điều kiện thuận lợi phát triển nông nghiệp, nông thôn, nhờ vậy
mà hộ sản xuất được tiếp cận với nguồn vốn ưu đãi, phục vụ cho sản xuất.
Các Ngân hàng luôn bám sát mục tiêu phát triển kinh tế xã hội và triển khai có hiệu quả nhiệm vụ
của ngành theo định hướng mục tiêu và chỉ đạo của chính phủ về các giải pháp điều hành chính sách tiền tệ ,
khuyến khích mở rộng tín dụng phục vụ các lĩnh vực ưu tiên, chú trọng chính sách tín dụng phục vụ phát
triển nông nghiệp và nông thôn và đóng một vai trò quan trọng trong quá trình phát triển kinh tế đối với hộ
sản xuất. Sau đây là một số vai trò chủ yếu của việc cho vay đối với hộ sản xuất trong việc phát triển kinh tế
hộ sản xuất.
- Đáp ứng nhu cầu vốn cho hộ sản xuất để duy trì quá trình sản xuất liên tục, góp phần đầu tư phát
triển nền kinh tế:
Trong quá trình sản xuất, kinh doanh, hộ sản xuất luôn cần có vốn. Hoạt động cho vay của ngân

hàng góp phần đáp ứng được nhu cầu vốn của hộ sản xuất, tạo điều kiện cho hoạt động sản xuất, kinh doanh
được liên tục, tránh tình trạng người lao động không có việc làm ở nông thôn.
Trong nền kinh tế thị trường, hộ sản xuất chỉ chuyên môn hóa sản xuất các loại sản phẩm hàng hóa
phù hợp với điều kiện khí hậu, thời tiết địa phương và đem lại lợi nhuận cao nhất, sau đó bán ra thị trường
những sản phẩm mà họ sản xuất được để mua lại từ thị trường những hàng hóa có nhu cầu. Để có được điều
đó, hộ sản xuất cần có vốn để mua sắm trang thiết bị, đổi mới kĩ thuật, trong khi đó vốn tự có của bản thân
mỗi hộ còn rất hạn chế, cho nên các hộ sản xuất rất cần đến sự giúp đỡ về vốn của ngân hàng.
Xét ở khía cạnh có tính cạnh tranh, khi mà hộ sản xuất chưa thu hoạch sản phẩm, chưa có hàng hóa
bán thì chưa có thu nhập,muốn duy trì sản xuất được liên tục họ cần có sự giúp đỡ của Ngân hàng, cần vốn
để trang trải chi phí sản xuất, mua sắm đổi mới công cụ sản xuất.
Như vậy, có thể khẳng định rằng việc cho vay của ngân hàng có vai trò cực kỳ quan trọng đáp ứng
nhu cầu vốn cho hộ sản xuất để phát triển kinh tế nông nghiệp nông thôn nước ta hiện nay.
- Thúc đẩy quá trình tập trung vốn trong nền kinh tế
Trong nền kinh tế, việc luân chuyển vốn còn nhiều vướng mắc, nảy sinh hiện tượng có nơi có lượng
vốn tạm thời nhàn rỗi, trong khi ở nơi khác lại có nhu cầu cần nguồn vốn để đầu tư sản xuất. Việc giải quyết
mâu từa và thiếu vốn là yêu cầu đòi hỏi khách quan của quá trình tái sản xuất, từ đó cần có một tổ chức trung
gian đứng ra phân phối vốn từ nơi thừa đến nơi thiếu vốn, và Ngân hàng chính là tổ chức thực hiện chức
năng này.
Những năm gần đây do chính sách mở cửa nền kinh tế Nhà nước đã huy động của kiều bào nước
ngoài, các tổ chức quốc tế, các công ty nhà nước và tư nhân ở nước ngoài để đầu tư vào việc xây dựng và phát
triển kinh tế ở nông thôn. Bên cạnh đó Ngân hàng có chính sách thích đáng và đa dạng hóa các hình thức tổ chức
huy động vốn ở các vùng dân cư do đó đã khai thác được nguồn vốn tiềm tàng trong dân cư lúc nhàn rỗi để phục
vụ cho việc phát triển kinh tế nông nghiệp và nông thôn.
Như vậy, các Ngân hàng thương mại với tư cách là một trung gian tài chính, là cầu nối giữa tiết

7


Chuyên đề tốt nghiệp
GVHD: TS. Lê Thanh Tâm

kiệm và đầu tư đã thúc đẩy quá trình tập trung vốn, tập trung sản xuất trên cơ sở đó góp phần tích cực vào
quá trình vận động liên tục của nguồn vốn.
- Thúc đẩy hộ sản xuất tiếp cận và mở rộng sản xuất hàng hóa
Đặc điểm của hộ sản xuất là thường mang tính gia đình, họ có quan hệ huyết thống với nhau, chính
vì vậy hộ sản xuất thường quen với hình thức tự cung, tự cấp. Việc tiếp cận với nền kinh tế thị trường khó
khăn khi mà nguồn vốn của hộ sản xuất thường hạn hẹp, nên quy mô sản xuất nhỏ, chỉ đáp ứng cho bản thân
hộ đó chứ không phát triển sản xuất kinh doanh lớn được.
Với chủ trương chính sách mở rộng cho vay đối với hộ sản xuất của ngân hàng đã tạo một bước
chuyển biến quan trọng trong phương thức sản xuất của hộ. Khi đã có được nguồn vốn, hộ sản xuất cần hạch
toán sao cho vốn vay được sử dụng có hiệu quả nhất, thúc đẩy hộ sản xuất cần tư duy, tìm kiếm thị trường
tiêu thụ sản phẩm thu được lợi nhuận cao để hoàn trả vốn và lãi vay cho ngân hàng.
Quá trình kinh doanh giúp hộ sản xuất có được kiến thức, kinh nghiệm, kĩ năng để phát triển sản
phấm, thích nghi với thị trường bằng cách nâng cao chất lượng sản phẩm và máy móc thiết bị, tiết kiệm chi
phí sản xuất, nắm bắt nhu cầu thị trường để thu lợi nhuận cao nhất.
- Góp phần hạn chế nạn cho vay nặng lãi ở nông thôn.

Tình trạng cho vay nặng lãi ở nông thôn đã tồn tại từ lâu và có tác động rất lớn
đến sản xuất và đời sống của người dân. Đồng vốn tín dụng đã thâm nhập sâu đến từng
hộ gia đình giúp họ hạn chế nhiều nạn cho vay nặng lãi, tạo điều kiện cho kinh tế hộ
vươn lên.
- Góp phần nâng cao đời sống vật chất của người dân tạo điều kiện nâng cao dân trí, hình thành
những thói quen tốt trong đời sống xã hội của người dân.
Thông qua việc cho vay mở rộng sản xuất đối với các hộ sản xuất đã góp phần giải quyết công ăn
việc làm cho người lao động, giúp họ vươn lên, chủ động làm giàu thuận lợi, đời sống văn hóa, tinh thần
được cải thiện, hạn chế những tệ nạn xã hội xảy ra tại các vùng nông thôn, thu hẹp khoảng cách giàu nghèo,hạn chế sự phân hóa bất hợp lý đang xảy ra.
Có thể nói, nguồn vốn đầu tư cho nông nghiệp, nông thôn đã góp phần thúc đẩy kinh tế nông nghiệp
phát triển theo hướng CNH, HĐH; đẩy nhanh quá trình chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi, tăng sản
lượng, chất lượng nông sản hàng hóa, từ thiếu đói trở thành nước xuất khẩu gạo đứng hàng thứ 2 thế giới. Và
Nghị định 41 sẽ tiếp tục đưa dòng vốn về nông thôn, giúp nhiều vùng đất hồi sinh, giúp những nông dân chân
lấm tay bùn có cơ hội đổi đời.

Tóm lại Ngân hàng thương mại đóng vai trò quan trọng không thể thiếu được đối với sự tồn tại và
phát triển của kinh tế hộ sản xuất ở nông thôn. Ngân hàng là trung gian thu hút vốn tạm thời nhàn rỗi trong
các tầng lớp dân cư, là nơi điều hành phân phối vốn cho sự phát triển kinh tế nông thôn, góp phần giải quyết
một lượng lớn nhu cầu vốn phát triển sản xuất kinh doanh giúp mở rộng sản xuất, tăng năng suất, sản lượng
hàng hóa, kích thích kinh tế hộ sản xuất phát triển, giúp họ tiếp cận nhanh với cơ chế thị trường, khai thác
tiềm năng và lợi thế của các hộ sản xuất, qua đó từng bước chuyển dịch cơ cấu kinh tế góp phần làm thay đổi
bộ mặt nông thôn.

1.2 Nâng cao chất lượng cho vay hộ sản xuất của ngân hàng thương mại
8


Chuyên đề tốt nghiệp
GVHD: TS. Lê Thanh Tâm
1.2.1 Khái niệm chất lượng cho vay hộ sản xuất của ngân hàng thương mại
Ta xét 3 góc độ khác nhau, khi nói đến chat lượng cho vay, hộ sản xuất:
quan điểm của Ngân hàng, của khách hàng và của nền kinh tế.
v

a. Theo quan điểm của Ngân hàng: Trong thực te, vấn đề Ngân hàng quan
tâm nhất, khi cấp một khoản tín dụng cho khách hàng, là việc thu hồi vốn đúng hạn
và kinh doanh có lãi.
v

Chất lượng cho vay, theo quan điem của Ngân hàng đượcc xem xét trên hai
góc độ: Mức độ an toàn vốn và khả năng sinh lời của Ngân hàng do hoạt động tín
dụng mang lại.
v

v


- Về mức độ an toàn vốn: Trước khi cho vay, Ngân hàng luôn phải xem xét khả năng, trả nợ của
khách hàng cả gốc và lãi, nghĩa là quan tâm đến mức độ rủi ro của khoản vốn đó cao hay thấp vì trong nền
kinh tế ,thị trường, rủi ro là khách quan, không thể tránh khỏi, trong khi đó rủi ro tín dụng lại là rủi ro lớn
nhất đối với các Ngân hàng, hậu quả của nó thường là những mất mát, thiệt hại lớn nên Ngân hàng phải. có
các giải pháp tìm ra được, nguyên nhân nhằm phong ngừa và hạn che nhữngmrủi ro đen mức tối đa, làm
nâng cao mức độ an toàn vốn trong cho vay của ngân hàng.
v

v

- Khả năng sinh lời của Ngân hàng do hoạt động cho vay mang lại: Có thể
hiểu là dư nợ của ngân hàng tăng lên, dẫn đến thu nhập ròng từ hoạt động cho vay
cũng tăng lên, góp phần giảm tỷ lệ nợ quá hạn,nợ xấu, giảm rủi ro tín dụng giúp
Ngân hàng tránh được các tổn thất do hoạt động cho vay mang lại. Ngoài ra, nó còn
làm tăng uy tín của của Ngân hàng trên thị trường, làm tăng khả năng huy động, khả
năng thanh toán, thu hút được nhiều khách hàng hơn. Chất lượng cho vay tốt sẽ
đóng vai trò quyết định trong việc tăng khả năng sinh lời của Ngân hàng.
b. Xét về ý kiến của khách hàng: “ Chất lượng cho vay là khả năng đáp ứng
nhu cầu của khách hàng về lãi suất, qui mô, kỳ hạn, phương thức giải ngân và thu
nợ…” đối với mỗi khoản cho vay mà ngân hàng cung cấp.
c. Xét đánh giá của toàn xã hội: “ Chất lượng cho vay là khả năng đáp ứng
những mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội trong lĩnh vực mà các khoản cho vay của
ngân hàng đem lại ”.
Như vậy, chất lượng tín dụng caoolà thoả man được đồnggthời cả ba quan điểm
của ngân hàng, của khách hàng và quan điểm phát triển kinh tế – xã hội. Nhưng, ba mục
tiêu này lại có mặt mâu thuẫn với nhau: là tổ chức kinh doanh tiền tệ, mục tiêu cao nhất
của ngân hàng là lợi nhuận, để đạt được mục tiêu này, ngân hàng phải đưa ra những
khoản tín dụng có lãi suất cao mà mức độ rủi ro thấp; còn với khách hàng tiền lãi là một
9



Chuyên đề tốt nghiệp
GVHD: TS. Lê Thanh Tâm
khoản chi phí, muốn đạt lợi nhuận cao họ phải tối thiểu hoá chi phí, nên họ mong muốn
có được khoản vốn vay với mức lãi suất thấp; mục tiêu phát triển kinh tế – xã hội đòi hỏi
hoạt động tín dụng của ngân hàng phải giải quyết được công ăn việc làm, xoá đói giảm
nghèo, bảo vệ môi trường hướng tới việc phát triển kinh tế – xã hội một cách bền vững.
Vì thế hoạt động tín dụng tốt là phải dung hoà được lợi ích của ngân hàng, khách hàng
và nền kinh tế – xã hội, có như vậy ngân hàng mới hoạt động và phát triển bền vững.
1.2.2 Sự cần thiết nâng cao chất lượng cho vay hộ sản xuất của ngân hàng
thương mại
Ngân hàng thương mại là tổ chức kinh doanh tiền tệ mà hoạt động chủ yếu và
thường xuyên là nhận tiền kí gửi từ khách hàng với trách nhiệm hoàn trả và sử dụng số
tiền đó để cho vay3.Trong đó, hoạt động cho vay là hoạt động mang lại thu nhập cao nhất
cho ngân hàng đồng thời cũng chứa đựng nhiều rủi ro nhất. Vì vậy, ngân hàng luôn tìm
cách khắc phục, hạn chế những rủi ro mà hoạt động tín dụng gây ra, nâng cao chất lượng
cho vay để mang lại sự ổn định, đảm bảo cho mục tiêu an toàn và sinh lợi của Ngân hàng
thương mại.
Phát triển nền kinh tế nhiêu thành phần là chủ trương, chính sách nhất quán và lâu
dài của Đảng ta, trong đó kinh tế ca thể là, một trong những động lực của nền kinh tế.
Các thành phần kinh tế nói chung và hộ sản xuất nói riêng muốn đổi mới phát triển sản
xuất kinh doanh thì cần phải có vốn đầu tư. Vốn của bản thân mỗi hộ không thể đáp ứng
được nhu cầu sản xuất mà phải cần có sự hỗ trợ của nhà nước, các tổ chức tín dụng. Vì
vậy, cho vay hộ sản xuất là tất yếu khách quan.
Khi ngân hàng Nhà nước kiểm soát thực hiện chức năng quản lí, giám sát các
hoạt động tín dụng của những NHTM thông qua các công cụ tiền tệ như lãi suất, tỉ lệ dự
trữ bắt buộc tác động đến lượng cung cầu tiền tệ. Hoạt động tín dụng phát triển là thể
hiện việc nền kinh tế được ổn định, và ngày càng có vai trò to lớn đóng góp vào sự phát
triển của toàn xã hội, lạm phát được đẩy lùi, đời sống người dân được nâng cao về cả vật

chất và tinh thần, hạn chế tình trạng thất nghiệp và di dần từ nông thôn lên thành thị để
mưu sinh, gây ra gánh nặng cho xã hội.
Có thể thấy, nâng cao chất lượng hoạt động cho vay là vấn đề sống còn đối với
hoạt động của ngân hàng. Nâng cao chất lượng cho vaycó ý nghĩa rất lớn đối với nền
kinh tế, là một vấn đề cấp bách đối với toàn hệ thống ngân hàng, ảnh hưởng đến sự tồn
3



10


Chuyên đề tốt nghiệp
GVHD: TS. Lê Thanh Tâm
tại của ngân hàng nếu như đưa ra quyết định cho vay sai lầm sẽ dẫn đên hậu quả nghiêm
trọng, đồng thời thúc đẩy các thành phần kinh tế chung sức để xây dựng đất nước theo
định hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa.

11


Chuyên đề tốt nghiệp
GVHD: TS. Lê Thanh Tâm
1.2.3 Các chỉ tiêu đánh giá chất lượng cho vay hộ sản xuất của ngân hàng
thương mại
1.2.3.1 Doanh số cho vay, thu nợ, dư nợ
- Doanh số cho vay là chỉ tiêu tuyệt đối phản ánh tổng thể số tiền ngân hàng cho
hộ sản xuất vay trong tổng doanh số cho vay của Ngân hàng. Số tuyệt đối và tốc độ tăng
trưởng của doanh số cho vay qua các năm phản ánh quy mô và thực trạng hoạt động cho
vay của ngân hàng là phát triển hay thu hẹp. Hoạt động cho vay của ngân hàng được coi

mở rộng khi tốc độ tăng trưởng doanh số cho vay là dương và ngược lại.
m

- Doanh số thu nợ phản ánh số tiền thu hồi về được sau khi đã giải ngân trong một
thời kì nhất định.
m

- Dư nợ phản ánh lượng vốn mà khách hàng còn nợ tại một thời điểm cụ thể của
ngân hàng. Tổng dư nợ cho thấy được mức độ của ngân hàng, nếu tổng dư nợ thấp cho
thấy chất lượng tín dụng thấp, ngân hàng không mở rộng được hoạt động tín dụng,
không thu hút được khách hàng. Tuy nhiên, tổng dư nợ cao thì chưa thể khẳng định chất
lượng cho vay đã tốt do dư nợ cho vay còn có thể có những rủi ro nhất định.Chính vì thế,
ta cần xem xét tổng dư nợ trong phương diện việc phân tích các yếu tố khách quan cũng
như , chủ quan đã ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng của ngân hàng với việc so sánh các
chỉ tiêu như nợ quá hạn, lợi nhuận do hoạt động cho vay đem lại để đánh giá được chính
xác, khách quan.
+ Về cơ cấu dư nợ cho vay hộ sản xuất: Cơ cấu dư nợ cho vay HSX, được chia
làm nhiều loại nhưng trong chuyên đề này sẽ phân tích cơ cấu dư nợ cho vay đối với hộ
sản xuất theo kì hạn.
• Tỷ trọng cho vay ngắn hạn đối với hộ sản xuất = Dư nợ cho vay ngắn hạn đối
với HSX/ Tổng dư nợ cho vay đối với HSX
• Tỷ trọng cho vay trung và dài hạn đối với HSX= 1- Tỷ trọng dư nợ cho vay
ngắn hạn đối với HSX
Dựa vào cơ cấu dư nợ cho vay theo kì hạn, ta so sánh được dư nợ cho vay giữa
cho vay ngắn hạn và cho vay trung dài hạn của ngân hàng, để đưa ra được kết luận về
nhu cầu vốn của hộ sản xuất theo kì hạn. Đồng thời, giúp ta hiểu sâu hơn về chính sách
cho vay, của ngân hàng trong từng giai đoạn, khi có nhiều sự biến động trên lãi suất, cũng
như mức độ rủi ro của các khoản vay trung và dài hạn.

12



Chuyên đề tốt nghiệp
GVHD: TS. Lê Thanh Tâm
1.2.3.2 Nợ quá hạn và nợ xấu
+Nợ quá hạn
Theo Quyết định số 493/2005/QĐ-NHNN ngày 22/4/2005 và Quyết định số
18/2007/QĐ-NHNN ngày 25/4/2007 : “Nợ quá hạn là khoản nợ mà một phần hoặc
toàn bộ nợ gốc và/hoặc lãi đã quá hạn”. Một khoản vay không trả đầy đủ, đúng hạn như
thỏa thuận trong hợp đồng tín dụng thì trở thành nợ quá hạn.
Tỷ lệ nợ quá hạn là chỉ tiêu quan trọng, để đánh giá hiệu quả cho vay của ngân
hàng, phản ánh những rủi ro, trong hoạt động cho vay mà ngân hàng, phải đối mặt. Tỷ lệ
này được xác định qua công thức sau :
m

Tỷ lệ nợ quá hạn đối với hộ sản xuất =

Dư nợ quá hạn hộ sản xuất
Tổng dư nợ hộ sản xuất

Chỉ tiêu nợ quá hạn cho biết, trong tổng dư nợ cho vay hộ sản xuất của ngân hàng
có bao nhiêu % là nợ quá hạn.
Các khoản nợ quá hạn phát sinh co thể do những nguyên nhân chu quan như trình
độ quản lý của khách hàng yếu kém, công nghệ sản xuất lạc hậu hay do những nguyên
nhân khách quan như sự thay đổi trong chính sách của nhà nước, sự thay đổi nguồn
nguyên vật liệu đầu vào … Nguyên nhân các khoản nợ quá hạn cũng khác nhau, có
khoản nợ do khách hàng gặp khó khăn tạm thời, chậm thanh toán nhưng cũng có khách
hàng đình trệ sản suất, thua lỗ nặng nề, không có khả năng trả nợ hay có khách hàng cố
tình chây ỳ không có ý thức trả nợ cho ngân hàng.
m


v

v

Nếu ngân hàng có nhiều khoản nợ, tỷ lệ nợ qua han cao, ngân hàng sẽ gặp nhiều
khó khăn, tình trạng kéo dài sẽ ảnh hưởng đến sự tồn tại của ngân hàng. Tỷ lệ nợ quá hạn
cao, tính an toàn của khoản vay thấp, ngân hàng đứng trước nguy cơ mất vốn, có thể dẫn
đến mất khả năng thanh toán. Tỷ lệ nợ quá hạn thấp, cho thấy hiệu quả cho vay của ngân
hàng cao. Tuy nhiên, việc chuyển nợ quá hạn cần tuân thủ đúng nguyên tắc, tránh việc
gia hạn nợ tràn lan để giảm tỷ lệ nợ quá hạn.
v

Thực tế cho thấy hoạt động cho vay của ngân hàng nói chung và đặc biệt là cho
vay các hộ sản xuất không thể không có nợ quá hạn. Ngân hàng phải chấp nhận nợ quá
hạn, cố gắng kiểm soát tỷ lệ này ở mức độ hợp lý.
m

Tỷ lệ nợ quá hạn được xem là cao hay thấp, cần so sánh với tỷ lệ chung của

13


Chuyên đề tốt nghiệp
GVHD: TS. Lê Thanh Tâm
ngành và tỷ lệ chấp nhận của chính ngân hàng cho vay.
Qua chỉ tiêu này, ngân hàng có thể xem xét đánh giá khả năng trả nợ của các hộ
sản xuất, trên cơ sở đó có những chính sách cho vay thích hợp đối với ngành nghề này.
m


Nhìn chung, hoạt động cho vay nói chung và cho vay hộ sản xuất nói riêng của
ngân hàng thương mại tiềm ẩn rất nhiều rui ro mà rui ro lớn nhất là nguy cơ không thu
hồi được nợ. Có rất nhiều nguyên nhân khiến cho ngân hàng không thu được nợ bao
gồm cả những nguyên nhân khách quan và chủ quan. Vấn đề là ngân hàng phải làm thế
nào để giảm tới mức thấp nhất khả năng mất vốn, không thu được nợ. Để đạt được điều
đó, ngân hàng phải có những biện pháp tích cực nhằm phòng ngừa, hạn chế rủi ro.
m

m

Dựa vào thực tế, nếu chỉ tiêu thu nợ có kết quả cao, doanh số thu nợ tốt, các
khoản cho vay đến hạn thu được đủ cả gốc và lãi, quy định trong hợp đồng cho vay,
hiệu quả cho vay hộ sản xuất của ngân hàng được đánh giá là tốt.Bên cạnh đó, trường
hợp ngân hàng gặp vướng mắc trong vấn đề thu hồi nợ, khách hàng gặp khó khăn để trả
nợ, món nợ đấy trở thành nợ xấu, việc cho vay sẽ không thu hồi được cả gốc và lãi, điều
này cho thấy hiệu quả cho vay hộ sản xuất của ngân hàng không cao. Khi ngân hàng có
khả năng thu hồi nợ tốt, đúng thời gian, điều này cho thấy ngân hàng sủ dụng linh hoạt
biện pháp nhằm giảm thiểu rủi ro trong cho vay đối với HSX. Ngược lại,cho thấy hoạt
động tín dụng đem lại hiệu quả chưa cao.
-Nợ xấu
Theo Quyết định số 493/2005/QĐ-NHNN ngày 22/4/2005 : “Nợ xấu (NPL) là
nợ thuộc các nhóm 3, 4 và 5”và “ Tỷ lệ nợ xấu là tỷ lệ giữa nợ xấu so với tổng nợ từ
nhóm 1 đến nhóm 5”.
Đồng thời theo Quyết định số 18/2007/QĐ-NHNN ngày 25/4/2007 sủa đổi, bổ
sung Điều 6 Quyết định số 493/2005/QĐ-NHNN về phân loại nợ vào các nhóm như sau:
1. Tổ chức tín dụng thực hiện phân loại nợ theo năm (05) nhóm như sau:
a) Nhóm 1 (Nợ đủ tiêu chuẩn) bao gồm:
- Các khoản nợ trong hạn và tổ chức tín dụng đánh giá là có khả năng thu hồi đầy
đủ cả gốc và lãi đúng hạn;
- Các khoản nợ quá hạn dưới 10 ngày và tổ chức tín dụng đánh giá là có khả năng

thu hồi đầy đủ gốc và lãi bị quá hạn và thu hồi đầy đủ gốc và lãi đúng thời hạn còn lại;

14


Chuyên đề tốt nghiệp
GVHD: TS. Lê Thanh Tâm
- Các khoản nợ được phân loại vào nhóm 1 theo quy định tại Khoản 2 Điều này.
b) Nhóm 2 (Nợ cần chú ý) bao gồm:
- Các khoản nợ quá hạn từ 10 ngày đến 90 ngày;
- Các khoản nợ điều chỉnh kỳ hạn trả nợ lần đầu (đối với khách hàng là doanh
nghiệp, tổ chức thì tổ chức tín dụng phải có hồ sơ đánh giá khách hàng về khả năng trả
nợ đầy đủ nợ gốc và lãi đúng kỳ hạn được điều chỉnh lần đầu);
- Các khoản nợ được phân loại vào nhóm 2 theo quy định tại Khoản 3 Điều này.
c) Nhóm 3 (Nợ dưới tiêu chuẩn) bao gồm:
- Các khoản nợ quá hạn từ 91 ngày đến 180 ngày;
- Các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần đầu, trừ các khoản nợ điều chỉnh kỳ
hạn trả nợ lần đầu phân loại vào nhóm 2 theo quy định tại Điểm b Khoản này;
- Các khoản nợ được miễn hoặc giảm lãi do khách hàng không đủ khả năng trả lãi
đầy đủ theo hợp đồng tín dụng;
- Các khoản nợ được phân loại vào nhóm 3 theo quy định tại Khoản 3 Điều này.
d) Nhóm 4 (Nợ nghi ngờ) bao gồm:

- Các khoản nợ quá hạn từ 181 ngày đến 360 ngày;
- Các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần đầu quá hạn dưới 90 ngày theo thời
hạn trả nợ được cơ cấu lại lần đầu;
- Các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần thứ hai;
- Các khoản nợ được phân loại vào nhóm 4 theo quy định tại Khoản 3 Điều này.
đ) Nhóm 5 (Nợ có khả năng mất vốn) bao gồm:


- Các khoản nợ quá hạn trên 360 ngày;
- Các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần đầu quá hạn từ 90 ngày trở lên theo
thời hạn trả nợ được cơ cấu lại lần đầu;
- Các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần thứ hai quá hạn theo thời hạn trả nợ
được cơ cấu lại lần thứ hai;
- Các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần thứ ba trở lên, kể cả chưa bị quá hạn
hoặc đã quá hạn;

15


Chuyên đề tốt nghiệp
GVHD: TS. Lê Thanh Tâm
- Các khoản nợ khoanh, nợ chờ xử lý;

- Các khoản nợ được phân loại vào nhóm 5 theo quy định tại Khoản 3 Điều này.
2. Tổ chức tín dụng có thể phân loại lại các khoản nợ vào nhóm nợ có rủi ro thấp hơn trong các
trường hợp sau đây:
a) Đối với các khoản nợ quá hạn, tổ chức tín dụng phân loại lại vào nhóm nợ có rủi ro thấp hơn (kể
cả nhóm 1) khi đáp ứng đầy đủ các điều kiện sau đây:
- Khách hàng trả đầy đủ phần nợ gốc và lãi bị quá hạn (kể cả lãi áp dụng đối với nợ gốc quá hạn) và
nợ gốc và lãi của các kỳ hạn trả nợ tiếp theo trong thời gian tối thiểu sáu (06) tháng đối với khoản nợ trung
và dài hạn, ba (03) tháng đối với các khoản nợ ngắn hạn, kể từ ngày bắt đầu trả đầy đủ nợ gốc và lãi bị quá
hạn;
- Có tài liệu, hồ sơ chứng minh các nguyên nhân làm khoản nợ bị quá hạn đã được xử lý, khắc phục;
- Tổ chức tín dụng có đủ cơ sở (thông tin, tài liệu kèm theo) đánh giá là khách hàng có khả năng trả
đầy đủ nợ gốc và lãi đúng thời hạn còn lại.
b) Đối với các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ, tổ chức tín dụng phân loại lại vào nhóm nợ có
rủi ro thấp hơn (kể cả nhóm 1) khi đáp ứng đầy đủ các điều kiện sau đây:
- Khách hàng trả đầy đủ nợ gốc và lãi theo thời hạn trả nợ được cơ cấu lại trong thời gian tối thiểu

sáu (06) tháng đối với các khoản nợ trung và dài hạn, ba (03) tháng đối với các khoản nợ ngắn hạn, kể từ
ngày bắt đầu trả đầy đủ nợ gốc và lãi theo thời hạn được cơ cấu lại;
- Có tài liệu, hồ sơ chứng minh các nguyên nhân làm khoản nợ phải cơ cấu lại thời hạn trả nợ đã
được xử lý, khắc phục;
- Tổ chức tín dụng có đủ cơ sở (thông tin, tài liệu kèm theo) để đánh giá là khách hàng có khả năng
trả đầy đủ nợ gốc và lãi đúng thời hạn đã được cơ cấu lại còn lại.
3. Tổ chức tín dụng phải chuyển khoản nợ vào nhóm có rủi ro cao hơn trong các trường hợp sau
đây:
a) Toàn bộ dư nợ của một khách hàng tại một tổ chức tín dụng phải được phân loại vào cùng một
nhóm nợ. Đối với khách hàng có từ hai (02) khoản nợ trở lên tại tổ chức tín dụng mà có bất cứ một khoản nợ
nào bị phân loại theo quy định tại Khoản 1 Điều này vào nhóm có rủi ro cao hơn các khoản nợ khác, tổ chức
tín dụng phải phân loại lại các khoản nợ còn lại của khách hàng vào nhóm có rủi ro cao nhất đó.
b) Đối với khoản cho vay hợp vốn, tổ chức tín dụng làm đầu mối phải thực hiện phân loại nợ đối với
khoản cho vay hợp vốn theo các quy định tại Điều này và phải thông báo kết quả phân loại nợ cho các tổ
chức tín dụng tham gia cho vay hợp vốn. Trường hợp khách hàng vay hợp vốn có một hoặc một số các khoản
nợ khác tại tổ chức tín dụng tham gia cho vay hợp vốn đã phân loại vào nhóm nợ không cùng nhóm nợ của
khoản nợ vay hợp vốn do tổ chức tín dụng làm đầu mối phân loại, tổ chức tín dụng tham cho vay hợp vốn
phân loại lại toàn bộ dư nợ (kể cả phần dư nợ cho vay hợp vốn) của khách hàng vay hợp vốn vào nhóm nợ
do tổ chức tín dụng đầu mối phân loại hoặc do tổ chức tín dụng tham gia cho vay hợp vốn phân loại tuỳ theo
nhóm nợ nào có rủi ro cao hơn.
c) Tổ chức tín dụng phải chủ động phân loại các khoản nợ được phân loại vào các nhóm theo quy
định tại Khoản 1 Điều này vào nhóm nợ có rủi ro cao hơn theo đánh giá của tổ chức tín dụng khi xảy ra một

16


Chuyên đề tốt nghiệp
GVHD: TS. Lê Thanh Tâm
trong các trường hợp sau đây:


- Có những diễn biến bất lợi tác động tiêu cực đến môi trường, lĩnh vực kinh
doanh của khách hàng;
- Các khoản nợ của khách hàng bị các tổ chức tín dụng khác phân loại vào nhóm
nợ có mức độ rủi ro cao hơn (nếu có thông tin);
- Các chỉ tiêu tài chính của khách hàng (về khả năng sinh lời, khả năng thanh
toán, tỷ lệ nợ trên vốn và dòng tiền) hoặc khả năng trả nợ của khách hàng bị suy giảm
liên tục hoặc có biến động lớn theo chiều hướng suy giảm;
- Khách hàng không cung cấp đầy đủ, kịp thời và trung thực các thông tin tài
chính theo yêu cầu của tổ chức tín dụng để đánh giá khả năng trả nợ của khách hàng.
Tỷ lệ nợ xấu cho biết cụ thể về hiệu quả cho vay dựa trên cơ sở khả năng thu hồi
của các khoản nợ. Một ngân hàng có dư nợ xấu cao thì hiệu quả cho vay được đánh giá
là thấp bởi điều này đồng nghĩa với khả năng mất vốn cao của ngân hàng. Hiệu quả cho
vay hộ sản xuất cao phải đồng nghĩa với nợ xấu thấp và nợ nhóm 2 ở mức độ chấp nhận
được vì nợ nhóm 2 tuy chưa được coi là nợ xấu nhưng luôn có nguy có phát sinh thêm
nợ xấu . Các ngân hàng luôn tìm mọi biện pháp để giảm bớt tỷ lệ nợ nhóm 2.

17


Chuyên đề tốt nghiệp
GVHD: TS. Lê Thanh Tâm
1.2.3.3 Mức sinh lời vốn tín dụng
Mục tiêu của ngân hàng khi cho vay là thu được lợi nhuận. Lợi nhuận của ngân
hàng có được là từ khoản lãi vay sẽ thu được từ khách hàng sau khi bù đắp những chi phí
mà ngân hàng đã bỏ ra từ các nghiệp vụ huy động vốn và nghiệp vụ khác. Các ngân
hàng thường dùng hai chỉ tiêu sau để đánh giá hiệu quả cho vay đối với HSX về mặt lợi
nhuận thu được:
Chỉ tiêu 1

=


Lợi nhuận từ hoạt động cho vay HSX
Dư nợ HSX.

Chỉ tiêu này phản ánh khả năng sinh lời của khoản cho vay hộ sản xuất của
ngân hàng, cho biết một đồng dư nợ cho vay HSX sẽ mang lại bao nhiêu đồng lợi
nhuận. Tỷ lệ này càng cao chứng tỏ lợi nhuận càng lớn, đó là một trong những nhân
tố tạo nên hiệu quả cho vay của ngân hàng.
Lợi nhuận từ cho vay hộ sản xuất
Chỉ tiêu 2

=

Tổng lợi nhuận từ hoạt động cho vay của
ngân hàng

Chỉ tiêu này phản ánh mức độ đóng góp của hoạt động cho vay hộ sản xuất vào
toàn bộ kết quả hoạt động cho vay của ngân hàng thương mại. Tỷ lệ này cao chứng tỏ lợi
nhuận từ cho vay HSX chiếm tỷ lệ lớn trong tổng lợi nhuận của ngân hàng, từ đó có thể
khẳng định hiệu quả cho vay HSX cao. Ngược lại, nếu tỷ lệ này thấp đồng nghĩa với lợi
nhuận cho vay HSX chiếm tỷ lệ thấp trong tổng lợi nhuận của ngân hàng, từ đó cho thấy
hiệu quả cho vay HSX thấp đặc biệt đối với những ngân hàng có dư nợ cho vay HSX.
Hai chỉ tiêu về thu nhập từ hoạt động cho vay HSX nêu trên giúp chúng ta đánh
giá được khả năng sinh lời của vốn cho vay HSX, qua đó thấy được tầm quan trọng để
định hướng hoạt động trong cho vay.
1.3 Các nhân tố ảnh hưởng tới chất lượng cho vay hộ sản xuất của ngân hàng
thương mại
Việc nâng cao chất lượng lượng cho vay hộ sản xuất có ý nghĩa rất lớn đối
với ngân hàng, hộ sản xuất và đối với nền kinh tế. Do vậy phải nâng cao chất lượng
cho vay hộ sản xuất là yêu cầu thường xuyên đối với mỗi ngân hàng. Muốn làm tốt

điều này trước hết phải xem xét các yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng cho vay hộ
18


Chuyên đề tốt nghiệp
GVHD: TS. Lê Thanh Tâm
sản xuất.
1.3.1 Nhân tố chủ quan
* Chính sách cho vay của Ngân hàng
Chính sách tín dụng của Ngân hàng là một trong những chính sách cần thiết và quan trọng của
Ngân hàng. Chính sách tín dụng đúng hướng sẽ thúc đẩy được hình thức cho vay phù hợp với nhu cầu thực
tế, thu hút nhiều đối tác kinh doanh, đồng thời khuyến khích được khách hàng trả nợ đúng hạn. Do vậy chính
sách tín dụng của Ngân hàng có ảnh hưởng trực tiếp không nhỏ đến chất lượng cho vay
* Trình độ cán bộ tín dụng.
Những cán bộ làm công tác cho vay là người thẩm định chất lượng và kiểm tra tư cách pháp nhân
khách hàng, khi trình độ của đội ngũ tín dụng không tốt, họ sẽ không có khả năng để thẩm định xem có nên
đầu tư tiếp vốn hay không, sẽ dẫn đến và kéo theo việc đầu tư sai mục đích gây thiệt hại vốn. Bên cạnh đó
đạo đức tư cách nghề nghiệp cũng là vấn đề đáng lưu ý, vì đây sẽ làm ảnh hưởng không tốt đến uy tín kinh
doanh của Ngân hàng.
* Kiểm tra kiểm soát ngân hàng
Với bất cứ một hoạt động nào, cũng cần có hoạt động kiểm tra, giám sát. Nhờ vậy, sẽ ngăn chặn
được những rủi ro có thể xảy ra, xử lý kịp thời được những sai phạm của cán bộ tín dụng, đóng góp để nâng
cao hơn nữa chất lượng cho vay hộ sản xuất, phục vụ nhu cầu vốn của người dân.
* Thông tin tín dụng
Thông tin tín dụng là các thông tin liên quan đến tình hình tài chính cũng như hoạt động sản xuất
kinh doanh của khách hàng nói chung và hộ sản xuất nói riêng. Thông tin tín dụng có thể được thu thập trực
tiếp từ khách hàng, từ bạn hàng của khách hàng. Số lượng, chất lượng của thông tin tín dụng thu thập được
có liên quan đến mức độ chính xác trong phân tích và đáng giá tín dụng, thông tin càng chính xác thì càng
tăng cường khả năng phòng ngừa rủi ro, nâng cao chất lượng.


1.3.2 Nhân tố khách quan
a. Nhân tố môi trường.
* Môi trường kinh tế - xã hội.
Xét trên phương diện đa chiều của một nền kinh tế khá ổn định sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt
động tín dụng. Nền kinh tế ổn định làm cho quá trình sản xuất của hộ sản xuất tiến hành và phát triển một
cách tốt nhất, không bị chi phối và làm ảnh hưởng bởi các yếu tố lạm phát, khủng hoảng, làm cho việc cho
vay và trả nợ không bị biến động lớn.
* Môi trường chính trị - pháp lý.
Ngân hàng là một trong những ngành phải chịu sự theo dõi chặt chẽ của cơ quan chức năng. Do vậy,
việc tạo ra môi trường pháp lý hoàn thiện sẽ góp phần to lớn trong việc nâng cao chất lượng tín dụng. Môi

19


Chuyên đề tốt nghiệp
GVHD: TS. Lê Thanh Tâm
trường chính trị ổn định bền vững, tạo điều kiện để hoạt động tín dụng Ngân hàng, cùng hoạt động sản xuất
kinh doanh của hộ sản xuất tiến hành thuận lợi. Những quy phạm của pháp luật về tín dụng và các lĩnh vực
khác có liên quan tới hoạt động tín dụng là cơ sở để xử lý, giải quyết khi xẩy ra tranh chấp tín dụng một cách
có hiệu quả nhất.
* Môi trường tự nhiên.
Môi trường tự nhiên tác động trực tiếp đến quá trình sản xuất kinh doanh của hộ sản xuất, nhất là
những hộ sản xuất chăn nuôi và trồng trọt phụ thuộc vào điều kiện tự nhiên. Nếu thời tiết thuận lợi họ sẽ thu
hoạch cây trồng với năng suất cao, chăn nuôi sẽ cho nhanh xuất chuồng ,kèm theo đó là khoản thu về tự việc
bán sản phẩm sẽ có tiền để trả nợ Ngân hàng đầy đủ và đúng thời hạn. Ngược lại, nếu thiên tai bất ngờ xảy ra
thì hộ sản xuất sẽ bị thiệt hại lớn về kinh tế, dẫn đến gặp khó khăn trong việc trả nợ Ngân hàng.
b. Nhân tố thuộc về khách hàng:
* Trình độ của khách hàng.
Trình độ của khách hàng là sự hiểu biết tư duy nhìn nhận việc sử dụng đồng vốn cho vay của Ngân
hàng làm cho đồng vốn đấy có thể sinh lời một cách tốn đa nhất. Với một trình độ quản lý khoa học, khách

hàng có thể đạt được kết quả sản xuất kinh doanh với doanh thu là lớn nhất, từ đấy là cơ sở về năng lực tài
chính để trả nợ Ngân hàng. Nếu như trình độ sản xuất kém và khả năng quản lý không khoa học thì việc trả
nợ Ngân hàng là rất khó khăn.
* Nguồn vốn bị khách hàng sử dụng sai mục đích.
Sử dụng vốn sai mục đích có thể do chủ quan hoặc khách quan từ khách hàng, yếu tố này Ngân
hàng rất khó khăn có thể biết trước được,nguồn vốn bị sử dụng sai mục đích có thể xuất phát từ khi vay hoặc
sau khi đã vay được. Tuy nhiên, việc sử dụng vốn sai mục đích đã vi phạm quy tắc cho vay của ngân hàng, vì
vậy sẽ ảnh hưởng tới chất lượng của tín dụng.
* Lừa đảo Ngân hàng.
Yếu tố này thuộc về đạo đức của mỗi con người, khách hàng có mục đích vay tiền để chiếm đoạt từ
ngân hàng. Đạo đức của khách hàng, là yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến việc có cho vay hay là không.
Khoản vay có đựơc sử dụng đúng mục đích hay không, đầu tư vào mục đích gì , đầu ra cho sản phẩm và việc
thu hồi vốn là bao lâu để có kế hoạch trả nợ Ngân hàng.

20


×