Tải bản đầy đủ (.doc) (30 trang)

Chính sách chống bán phá giá của hoa kỳ và những điểm cần lưu ý đối với các doanh nghiệp xuất khẩu của việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (227.6 KB, 30 trang )

Tổng quan chung về Chính sách chống bán phá giá của Hoa Kỳ
1. Bán phá giá (dumping) và hành vi chống bán phá giá (anti-dumping):
- Bán phá giá (dumping)
Bán phá giá theo qui định khoản 800-801, chương 463 thuộc bộ Luật
Doanh Thu 1916 của Mỹ, được định nghĩa là hành vi nhập khẩu, hỗ trợ việc
nhập khẩu, bán hàng hóa nhập khẩu vào thị trường Hoa Kì tại mức giá thấp
hơn đáng kể so với giá trị thực hoặc giá bán buôn của hàng hóa đó, tính tại
thời điểm xuất khẩu vào thị trường HOA Kỳ, hoặc tại thị trường chính của
nước sản xuất hoặc tại một nước thứ ba cũng nhập khẩu hàng hóa đó với điều
kiện, hành vi nói trên được thực hiện nhằm phá hủy hoặc phương hại một
ngành sản xuất của HOA Kỳ hoặc ngăn cản việc thành lập một ngành sản
xuất ở HOA Kỳ hoặc giành vị trí độc quyền buôn bán hàng hóa đó ở HOA
Kỳ.
- Các biện pháp chống bán phá giá (Anti-dumping) (AD)
Trong WTO, bán phá giá được xem là “hành vi cạnh tranh không lành
mạnh” của các nhà sản xuất, xuất khẩu nước ngoài đối với ngành sản xuất nội
địa nước nhập khẩu, nên để bảo vệ họ, chính quyền nước này có thể phản
công, thường là qua biện pháp đánh thuế, một loại thuế đặc biệt chỉ áp dụng
cho nước xuất khẩu món hàng bị coi là bán phá giá, hầu lập lại thế quân bình
trong cạnh tranh, tái lập lại sân chơi bình đẳng. Thuế ấy gọi là thuế chống bán
phá giá.Các biện pháp chống bán phá giá như vậy nhằm tái lập trật tự trong
cạnh tranh, đúng với tư duy của chủ nghĩa tự do kinh tế, nhưng cũng là công
cụ bảo vệ ngành sản xuất nội địa đối với hàng nhập.
2. Các nguyên tắc cơ bản của Hiệp ước AD trong khuôn khổ GATT và
WTO
Hiệp ước AD của WTO có hiệu lực từ ngày 1.1.1995, gồm 3 phần chia
thành 18 điều lệ và hai phụ đính. Những điều lệ quan trọng nhất là Điều 2
(Xác định sự bán phá giá), Điều 3 ( Xác định sự tổn hại), Điều 4 (Định nghĩa
ngành sản xuất nội địa), Điều 5 (Khởi tố và điều tra), Điều 6 (Bằng chứng),
Điều 9 (Ấn định và thu thuế AD) và Điều 11 (Thời gian hiệu lực và việc xem
xét lại các thuế AD và cam kết về giá cả).


Theo định nghĩa của Điều 2.1, một món hàng sẽ bị coi như bán phá giá nếu
1


được đưa vào thị trường một nước khác với một giá thấp hơn giá trị bình
thường (normal value) của nó, tức là nếu giá xuất khẩu thấp hơn giá so sánh
được (comparable price) của một món hàng tương tự (like product) bán trên
thị trường của nước xuất khẩu. Những phần còn lại của Điều 2 qui định tỉ mỉ
cách tính giá cả, giá trị bình thường, cách so sánh mọi yếu tố, trong nhiều
trường hợp khác nhau, để đi đến phán quyết là có hay không có dumping và
biên độ bán phá giá (dumping margin) là bao nhiêu. Quan trọng không kém là
xác định ngành sản xuất nội địa của nước nhập khẩu có bị tổn hại hay không.
1.Để xác định có sự tổn hại, cơ quan điều tra phải dựa vào các chứng từ
tích cực (positive evidence), các sự kiện chứ không được vịn vào một luận cứ
(allegation), phỏng đoán hay một khả năng xa vời và phải xem xét một cách
khách quan a) số lượng hàng nhập bán phá giá và ảnh hưởng của nó lên giá
cả của mặt hàng tương tự trên thị trường
nội địa và b) ảnh hưởng của hàng nhập ấy lên các nhà sản xuất nội địa.
2. Hàng nhập phải rẻ hơn hàng nội địa một cách đáng kể, và phải là
ngưyên nhân khiến giá hàng nội địa bị dìm theo và không tăng lên được.
3. Cơ quan điều tra phải xét đến tất cả các yếu tố khác, ngoài hàng
nhập, liên quan đến tình trạng kinh tế của ngành sản xuất nội địa.
4. Phải có một quan hệ nhân quả (causal relationship) giữa hàng nhập
bị tố cáo là bán phá giá và sự tổn hại. Cơ quan điều tra không được vu cho
hàng nhập khẩu những gì do các yếu tố khác gây ra.
Điều 4 định nghĩa ngành sản xuất nội địa, tức là ai có quyền đệ đơn trước
cơ quan hữu trách để khởi đầu một vụ kiện AD. Điều 5 và Điều 6 qui định
chi tiết các thủ tục khởi tố và điều tra, các bằng chứng do bên nguyên và bên
bị đưa ra. Theo Điều 8, cơ quan điều tra có thể đồng ý ngưng hay chấm dứt
thủ tục mà không đánh thuế nếu công ty bị kiện cam kết thôi không bán phá

giá. Điều 11 qui định là các thuế AD có thể được áp dụng cho đến khi không
còn cần thiết để khắc phục sự bán phá giá đã gây ra tổn hại. Tuy thế, cơ quan
hữu trách phải xem xét lại sự cần thiết ấy, sau một thời gian vừa phải, và bãi
bỏ thuế AD nội trong vòng 5 năm trừ phi khẳng định, sau khi đã xem xét lại
2


tình hình, là làm thế thì sự bán phá giá và tổn hại sẽ tiếp diễn hoặc tái diễn.
3. Chính sách chống bán phá giá của Hoa Kỳ
a, Luật chống bán phá giá:
- Ra đời vào năm 1916
- Cơ quan thực thi: Bộ Thương mại Hoa Kỳ (DOC) và Uỷ ban Thương
mại quốc tế Hoa Kỳ (ITC), trong đó Bộ Thương mại là một cơ quan thuộc
nội các của Tổng thống , được điều hành bởi yếu tố chính trị, chịu trách
nhiệm tiến hành điều tra chính thức các vụ việc về chống bán phá giá, trợ
cấp, đồng thời chịu trách nhiệm trong việc tính toán các mức độ phá giá, trợ
cấp khi một vụ kiện bắt đầu, còn Uỷ ban thương mại quốc tế Hoa Kỳ là cơ
quan liên bang bán tư pháp, độc lập, gồm có 6 Uỷ viên, cơ quan này chịu
trách nhiệm xác định liệu hàng hoá nhập khẩu có phải là nguyên nhân gây
thiệt hại cho ngành công nghiệp nội địa Hoa Kỳ hay không.
- Điều kiện áp dụng: Luật chống bán phá của Hoa Kỳ quy định thuế
chống bán phá giá được áp dụng trong hai điều kiện sau: (1) Bộ Thương Mại
Hoa Kỳ (US Department of Commerce, viết tắt là DOC) phải xác định hàng
hóa nhập khẩu được bán ở mức “thấp hơn giá trị thông thường”; (2) Ủy Ban
Thương Mại Quốc Tế Hoa Kỳ (US International Trade Commission, viết tắt
là ITC) phải kết luận rằng hàng nhập khẩu “gây tổn hại nghiêm trọng” hoặc
“đe dọa gây tổn hại nghiêm trọng” cho “ngành công nghiệp nội địa Hoa Kỳ”.
- Tiến độ thời gian thực hiện điều tra chống bán phá giá như sau:
Khởi xướng điều tra: 20 ngày kể từ ngày nhận đơn kiện
Kết luận sơ bộ của ITC: 45 ngày kể từ ngày nhận đơn kiện

Kết luận sơ bộ của DOC: 85 ngày kể từ ngày khởi xướng điều tra (trong
trường hợp được gia hạn là 150 ngày)
Kết luận cuối cùng của DOC: 160 ngày kể từ ngày khởi xướng điều tra
(trong trường hợp được gia hạn là 225 ngày)
Kết luận cuối cùng của ITC: 205 ngày kể từ ngày khởi xướng điều tra
(trong trường hợp được gia hạn là 270 ngày)
Kết luận rà soát sơ bộ: 110 ngày kể từ ngày đăng thông báo tiến hành rà
soát trên Công báo Liên bang
Kết luận rà soát cuối cùng: 240 ngày kể từ ngày đăng thông báo tiến hành
3


rà soát trên Công báo Liên bang.
- Các bên tham dự mỗi vụ kiện AD: các công ty nội địa đệ đơn, là
nguyên đơn, các công ty ngoại quốc bị kiện, là bị đơn, và chính quyền nước
nhập khẩu phải xét xử để đi đến quyết định có áp thuế AD hay không. Nếu
vụ tranh chấp được đưa ra trước WTO thì vì WTO chỉ xét xử các vấn đề
giữa hai quốc gia nên bên nguyên là chính quyền nước nhập khẩu, bên bị là
chính quyền nước xuất khẩu, mỗi bên đại diện cho các công ty của mình,
và nhóm hội thẩm của WTO đóng vai trò trọng tài. Nhưng dù là ở mức độ
nội bộ một nước hay trước WTO, không phải bất cứ ai cũng có thể đệ đơn
tố cáo một công ty ngoại quốc để khởi đầu thủ tục tố tụng.
Các nguyên tắc cơ bản của bộ luật AD của Mỹ không khác các qui tắc
của WTO, vấn đề là ở cách vận hành của bộ luật qua các điều lệ thi hành, và
cách các cơ quan hữu trách áp dụng những điều lệ ấy. Tức là chính sách AD
của Mỹ trong thực tế. Trong các vụ tranh chấp trước WTO, các nhóm hội
thẩm (panels) phải xem xét là điều lệ liên can có hợp lệ hay không cả trong
câu chữ, tức là tự bản thân (on its face and as such), lẫn trong cách áp dụng
(as applied). Trong nhiều trường hợp, nhóm hội thẩm quyết định là đạo luật
liên can, tự bản thân, phù hợp với luật WTO, nhưng cách áp dụng thì lại trái

luật của WTO, do đó họ không yêu cầu nước bị kiện phải sửa đổi luật nhưng
vẫn yêu cầu các cơ quan hữu trách phải sửa đổi hay rút lại biện pháp cụ thể
của mình. Và như thế là đủ để bên nguyên coi như thắng kiện.
b, Luật thuế chống bán phá giá
-

Mục đích: nhằm ngăn chặn các nhà xuất khẩu nước ngoài bán phá giá,

tức là bán hàng với giá thấp hơn giá bán tại thị trường trong nước hoặc thấp
hơn chi phí để sản xuất ra sản phẩm đó, do vậy những “thiệt hại đáng kể”
hoặc “đe doạ gây thiệt hại” cho ngành công nghiệp nội địa phải được chỉ ra
trước khi áp dụng thuế chống bán phá giá.
- Điều kiện áp dụng: Thuế chống phá giá được áp dụng khi có đủ hai
4


điều kiện (1) DOC phải xác định hàng nước ngoài đang được bán phá giá
hoặc có thể sẽ được bán phá giá ở thị trường Hoa Kỳ, và (2) USITC phải xác
định hàng nhập khẩu được bán phá giá đang gây thiệt hại vật chất hoặc đe dọa
gây thiệt hại vật chất hoặc ngăn cản hình thành ngành công nghiệp tương tự
tại Hoa Kỳ.
- Thuế chống phá giá được áp dụng đối với hàng nhập khẩu khi nó được
xác định là hàng nước ngoài được bán “phá giá” vào Hoa Kỳ, hoặc sẽ bán phá
giá ở Hoa Kỳ với giá “thấp hơn giá trị thông thường”. Thấp hơn giá trị thông
thường có nghĩa là giá xuất khẩu vào Hoa Kỳ thấp hơn giá bán của hàng hóa
đó ở nước xuất xứ hoặc ở nước thứ 3 thay thế thích hợp.
- Các loại thuế AD: có ba loại mức thuế chống bán phá giá, đó là loại
mức thuế được tính toán của các công ty được lựa chọn (mức thuế dành cho
bị đơn bắt buộc); loại mức thuế bình quân gia quyền cho tất cả những doanh
nghiệp chứng minh không có sự kiểm soát của Chính phủ (mức thuế dành cho

bị đơn tự nguyện); loại mức thuế cuối cùng là loại mức thuế toàn quốc dành
cho những doanh nghiệp không tham gia vào vụ kiện hoặc là không thể chứng
minh họ không bị sự kiểm soát của Chính phủ.
- Thời hạn có hiệu lực của thuế chống bán phá giá: 5 năm sau khi ban
hành.
- Cách xác định giá trị thông thường của DOC với hàng nhập khẩu bằng
một trong ba cách. Theo thứ tự ưu tiên là:
(1) Giá bán của hàng hóa tại thị trường nội địa,
(2) Giá bán hàng hóa sang thị trường thứ ba,
(3) “Giá trị tính toán” của hàng hóa bằng tổng chi phí sản xuất cộng với các
khoản lợi nhuận, tiền hoa hồng bán hàng, và các chi phí hành chính khác
như đóng gói.
II. Phân tích một số vụ kiện bán phá giá của Việt Nam và Hoa Kỳ
Với thị trường Hoa Kỳ các nhà xuất khẩu chấp nhận thực tế nguy cơ
kiện phòng vệ thương mại hiện diện với hầu hết sản phẩm của Việt Nam. Kể
từ vụ kiện chống bán phá giá đầu tiên năm 2002 với sản phẩm cá tra- basa,
đến nay đã có 8 điều tra chống phá giá và trợ cấp được Hoa Kỳ thực hiện với
các sản phẩm xuất xứ từ Việt Nam. Các sản phẩm bị điều tra, kiện từ những
5


ngành xuất khẩu chủ lực như cá tra – basa, tôm đến những sản phẩm có số
lượng và giá trị thấp như mắc áo thép, tua bin gió...
Để đưa ra được những chú ý cần nhất cho các doanh nghiệp Việt Nam, chúng
tôi đi sâu phân tích 2 vụ kiện lớn của Việt Nam và Hoa Kỳ. Đó là vụ kiện cá
da trơn năm 2002 và vụ kiện tôm năm 2012.
Thắng lợi của vụ kiện tôm:
Trong vụ kiện này, Ban hội thẩm của WTO cho rằng Mỹ áp dụng
phương pháp quy về 0 (hay còn gọi là zeroing) để tính thuế chống bán phá giá
là vi phạm quy định của WTO. Đây là khiếu kiện trọng tâm của Việt Nam, vì

việc sử dụng phương pháp này đã tạo ra biên độ phá giá lớn cho sản phẩm,
làm mức thuế bị đội lên, gây thiệt hại các doanh nghiệp xuất khẩu tôm của
Việt Nam. Mức thuế chống bán phá giá của Mỹ đối với hầu hết nhà xuất khẩu
tômViệt Nam được ấn định từ 4,13%- 25,76%. Theo AFP, Ban hội thẩm cho
rằng Mỹ đã “hành động không nhất quán với các điều khoản của Thỏa thuận
chống phá giá và GATT" - những thỏa thuận chính của WTO, và Mỹ nên đưa
các phương pháp tính phù hợp với hai thỏa thuận trên.
Phương pháp zeroing được Bộ Thương mại Mỹ sử dụng áp cho nhiều
loại hàng khác nhau, đã bị nhiều nước chỉ trích, cho rằng không công bằng.
Argentina, Brazil, Canada, Ecuador, Liên minh châu Âu, Nhật, Mexico, Hàn
Quốc và Thái Lan đều đã thắng trong các vụ kiện Mỹ liên quan tới zeroing ở
WTO, và vào tháng 1-2011 Mỹ hứa với các đối tác thương mại là nước này sẽ
thay đổi phương pháp. Tuy nhiên, vào tháng 3-2011 Ủy ban Thương mại
quốc tế Mỹ đã bỏ phiếu tiếp tục thuế nhập khẩu thêm năm năm nữa với tôm
từ Thái Lan - nhà cung cấp chính cho Mỹ, cũng như Trung Quốc, Việt Nam,
Brazil và Ấn Độ.
Trong phán quyết ngày 11-7, WTO cũng ủng hộ khiếu kiện chính thứ
hai của Việt Nam chống lại Mỹ với phán quyết nêu rõ Mỹ sử dụng kết quả
tính theo phương pháp quy về 0 để tính mức thuế suất chung trong các đợt rà
6


soát lần 2 và lần 3 là trái với quy định của WTO. Thuế suất toàn quốc mà Mỹ
và các nước áp đặt đối với các doanh nghiệp của các nước có nền kinh tế phi
thị trường như Việt Nam và Trung Quốc là mức thuế áp đặt chung cho các
doanh nghiệp không đạt các tiêu chuẩn về hoạt động theo kinh tế thị trường
mà các nước đề ra. Mức thuế này thường cao hơn rất nhiều so với cách tính
thông thường theo quy định của WTO, gây thiệt hại các doanh nghiệp xuất
khẩu. Ban hội thẩm cũng kết luận việc Mỹ sử dụng những dữ liệu có sẵn để
tính thuế suất toàn quốc trong các đợt rà soát lần 2 và lần 3 là trái với quy

định của WTO. Tuy nhiên, Ban hội thẩm quyết định việc tiếp tục sử dụng
những biện pháp đang bị khiếu kiện, ám chỉ các đợt rà soát lần 4, 5 và rà soát
cuối kỳ, không nằm trong phạm vi thảo luận của ban hội thẩm. Đây là một
điểm không có lợi cho Việt Nam, vì như vậy sẽ không thay đổi được kết quả
rà soát lần 4, 5, đặc biệt là rà soát cuối kỳ.
Theo quy định của WTO, sau phán quyết này của ban hội thẩm, hai bên
có thời hạn 60 ngày để kháng cáo lên cơ quan phúc thẩm của WTO. TTXVN
cho biết theo Hiệp hội Các nhà chế biến và xuất khẩu thủy sản Việt Nam
(VASEP) và các luật sư tư vấn, việc Việt Nam thắng kiện mang lại lợi ích to
lớn cho khả năng cạnh tranh của tôm đông lạnh Việt Nam trên thị trường Mỹ
- do không phải đặt cọc tiền chống bán phá giá, và các doanh nghiệp xuất
khẩu tôm Việt Nam sẽ thoát hoàn toàn khỏi thuế chống bán phá giá do ba lần
rà soát liên tục có kết quả 0%.
Việc giành phần thắng trong vụ kiện này đã mang lại nhiều lợi ích cho
các doanh nghiệp xuất khẩu hải sản của nước ta. Nhờ sự tìm hiểu, xem xét kỹ
lưỡng mà ta đã tìm ra sự bất hợp lý trong phương pháp tính giá chống bán phá
giá của Koa Kỳ, đây chính là điểm mấu chốt để ta có thể giành thế chủ động
trong vụ kiện này. Tuy nhiên, đây là vụ kiện kéo dài, phức tạp và gây tốn
kém. Điều quan trọng đặt ra với một nước nhỏ như Việt Nam thời điểm này là
“tránh và đề phòng”
7


Nhìn lại Vụ kiện cá da trơn, tại sao Việt Nam thua kiện?
Trên thực tế, cá tra và basa của Việt Nam không phải là catfish. Cá
catfish nuôi ở ĐBSMI thuộc họ Ictaluridae. Cá tra và basa nuôi ở ĐBSCL
thuộc họ Pangassiidae. Những đợt cá đầu tiên nhập từ VN vào Mỹ được mang
những thương hiệu dựa vào chữ “basa” hay “tra”. Việc tiêu th ụ không được
thành công. Các nhànhập khẩu Mỹ sau đó chuyển sang dùng nhãn hiệu
catfish. Bao bì đóng gói của sản phẩm nhập từ VN cũng giống với các nhà sản

xuất tại Mỹ; thậm chí nhiều hãng nhập khẩu cá của Mỹ sử dụng nhãn hiệu
"Delta fresh" làm cho người tiêu dùng nhầm tưởng cá được nuôi từ Đồng
bằng sông Mississippi.
“Catfish” là một từ tiếng Anh thông dụng chỉ hàng trăm loại cá. Theo
định nghĩa của từ điển Webster thì catfish là “bất kỳ loại cá nước ngọt nào có
da trơn, có ria gần miệng thuộc bộ Siluriformes”. Như vậy thì rõ ràng cá tra
và basa của Việt Nam là catfish. Cơ quản quản lý Thực phẩm và Dược phẩm
Hoa Kỳ (FDA) đã cho rằng hoàn toàn có thể sử dụng các tên như là “basa
catfish” cho sản phẩm của Việt Nam. Trên tất cả các bao bì của sản phẩm
thủy sản xuất khẩu của Việt Nam đều ghi rõ dòng chữ tiếng Anh “Product of
Vietnam” hay “Made in Vietnam” và thực hiện việc ghi đầy đủ cả tên khoa
học lẫn tên thương mại theo đúng quy định của FDA. Tháng 5/2002, dự luật
phát triển nông nghiệp được Quốc hội Mỹ đưa ra và Tổng thống Mỹ phê
chuẩn quy định chỉ đặt tên, dán nhãn mác hoặc quảng cáo ''catfish'' cho các
loại cá da trơn họ Ictaluridae. Trong vòng 1-2 tháng sau khi có quy định sử
dụng các nhãn hiệu mới, sản lượng xuất khẩu cá tra và basa đông lạnh sang
Mỹ có giảm do các doanh nghiệp chế biến thủy sản của Việt Nam phải in lại
và thay nhãn hiệu mới nên phải tạm ngưng xuất hàng sang Mỹ.
Vụ tranh chấp tên gọi đã làm cho cá tra và basa trở nên nổi tiếng. Với
nhãn hiệu và chiến lược tiếp thị mới, sản lượng lẫn giá cá tra và basa philê
đông lạnh xuất sang Mỹ đều tăng. Ngày 28 tháng 6 năm 2002, Hiệp Hội chủ
8


trại nuôi cá da trơn Mỹ (CFA) đã đệ đơn kiện một số doanh nghiệp chế biến
thuỷ sản Việt Nam lên Bộ Thương mại Mỹ (DOC) và Ủy Ban Thương Mại
Quốc tế Mỹ (ITC) là các sản phẩm cá tra và basa philê đông lạnh được bán
thấp hơn giá trị hợp lý tại thị trường Mỹ, gây thiệt hại về vật chất cho sản xuất
nội địa. Trong đơn kiện, CFA đưa ra hai đề xuất áp dụng thuế chống phá giá
để DOC xem xét. Nếu Việt Nam được xác định không phải là một nước theo

nền kinh tế thị trường, thì mức thuế suất thuế chống phá giá áp dụng sẽ là
190%. Còn nếu Việt Nam được xác định là có nền kinh tế thị trường, thì mức
thuế suất thuế chống phá giá áp dụng sẽ là 144%.
Lập luận của CFA cho rằng giá trị hợp lý là 4,19 USD/pao, trong khi
giá xuất khẩu là 1,44 USD/pao. Mức độ bán phá giá là 190,20%. Do vậy, vào
ngày 28/06/2002 CFA đã đệ đơn lên ITC và DOC kiện một số doanh nghiệp
Việt Nam bán phá giá cá tra, basa. 24/07/2002 DOC đưa ra kết luận có khởi
xướng điều tra hay không dựa trên thông tin do bên nguyên đơn cung cấp sơ
khởi. 08/08/2002 ITC đưa ra kết luận sơ khởi xem có “bằng chứng hợp lý”
cho thấy ngành sản xuất trong nước của Mỹ bị thiệt hại hay bị đe dọa chịu
thiệt hại do tác động của hàng nhập khẩu hay không. Kết luận chung của ITC
là “có bằng chứng hợp lý cho thấy ngành sản xuất cá catfish philê đông lạnh
trong nước […] bị đe dọa chịu thiệt hại vật cho gây ra bởi hàng nhập khẩu từ
Việt Nam hiện đang bị cáo buộc bán thấp hơn giá trị hợp lý ở Hoa Kỳ”. Cùng
với đó, dựa vào 6 tiêu chí là Đồng tiền có khả năng chuyển đổi ở tài khoản
vãng lai và tài khoản vốn hay không; Mức lương có được xác định trên cơ sở
thỏa thuận tựdo người lao động và giám đốc quản lý doanh nghiệp hay không;
Hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài có bị hạn chế hay không; Chính phủ có
duy trì sở hữu và kiểm soát các phương thức sản xuất ở trong nước hay
không; Chính phủ có kiểm soát việc phân bổ nguồn lực và các quyết định về
giá và sản lượng của doanh nghiệp hay không; và Các yếu tố quan trọng khác.
DOC đã quyết định “Trong khi Việt Nam đã có những thành tựu đáng kể
9


trong một số cải cách, phân tích của Bộ Thương mại cho thấy rằng Việt Nam
vẫn chưa hoàn tất sự chuyển đổi sang một nền kinh tế thị trường. Cho tới khi
quyết định này được hủy bỏ thì tình trạng kinh tế phi thị trường của Việt Nam
sẽ được áp dụng cho tất cả các vụ xem xét trong tương lai, trong đó bao gồm
các điều tra và thẩm định diễn ra sau khi quyết định này có hiệu lực”. Bốn

doanh nghiệp được điều tra với kết quả: Agifish chịu thuế chống phá giá
61,88%, Cataco 41,06%, Nam Việt 53,96% và Vĩnh Hoàn 37,94%. Các doanh
nghiệp tự nguyện trả lời phiếu điều tra (bao gồm Afiex, Cafatex, Công ty xuất
nhập khẩu thủy sản Đà Nẵng, Mekonimex, QVD và Việt Hải) chịu mức thuế
bình quân trọng số là 49,16%. Cá basa và tra philê đông lạnh nhập khẩu từ tất
cả các doanh nghiệp khác của Việt Nam phải chịu thuế suất 63,88%. DOC sau
đó đã hiệu chỉnh lại kết quả tính toán của mình về mức độ bán phá giá, trong
đó thuế đối với Agifish được giảm xuống còn 31,45%; thuế đối với Nam Việt
giảm xuống 38,09%; và do vậy, thuế suất bình quân trọng số chỉ là 36,76%.
Các mức thuế suất khác vẫn được giữ nguyên.
Cuối cùng Uỷ ban thương mại Mỹ (USITC) đã đưa ra phán quyết cuối
cùng về vụ kiện cá basa. Theo đó, cơ quan này đã khẳng định các doanh
nghiệp VN bán cá basa vào thị trường Mỹ thấp hơn giá thành, gây tổn hại
ngành sản xuất cá da trơn của Mỹ và ấn định mức thuế suất bán phá giá rất
cao, từ 36,84 đến 63,88%. Cả 4 thành viên USITC dự họp đều bỏ phiếu thuận
theo đề nghị của Bộ Thương mại Mỹ và khẳng định, các bằng chứng về việc
cá filê đông lạnh của VN được bán phá giá là hợp lý, bất chấp sự phản đối
gay gắt từ các doanh nghiệp thuỷ sản Việt Nam, nhiều Thượng nghị sỹ và báo
giới Mỹ.
Sau quá trình khởi kiện mà phần thua lại thuộc về các doanh nghiệp
Việt Nam đã tạo nên một khó khăn lớn. Đây là vụ kiện mang lại nhiều thiệt
hại cho các doanh nghiệp tham gia xuất khẩu cá da trơn sang thị trường Hoa
Kỳ của nước ta.
10


So sánh với Vụ kiện Tôm năm 2012, để thấy rõ những bất lợi của các
doanh nghiệp nước ta trong vụ kiện này. Thứ nhất, do sự chuẩn bị không chu
đáo và kỹ lưỡng từ phía ta do đó không tạo được sự chủ động khi đối phó với
các phán quyết của tòa án Hoa Kỳ. Thứ 2, do sự am hiểu chưa đầy đủ về

chính sách, pháp luật cũng như các quy định của Hoa Kỳ về chống bán phá
giá. Thứ 3, do bị xử tại sân nhà nên phía ta thường hay rơi vào thế bị động,
cùng với đó là sự ưu tiên của Hòa kỳ đối với các doanh nghiệp của họ.
III. Những điểm cần lưu ý đối với các doanh nghiệp xuất khẩu của Việt
Nam
Mục tiêu chính của các biện pháp phòng vệ thương mại của Hoa Kỳ
hạn chế cạnh tranh của các nhà xuất khẩu nc ngoài trên thị trường Hoa Kỳ (ở
các mức độ khác nhau tùy thuộc từng biện pháp) nhằm bảo vệ các nhà sản
xuất trong nc. Trong quá khứ, phần lớn các quy định, pháp luật về các biện
pháp này đều đc ít nhiều chấp bút bởi các ngành sản xuất nội địa (đối tượng
đc hưởng lợi nếu các biện pháp này đc áp dụng). trên thực tế nhiều công ty,
đặc biệt là các công ty lớn có chiến lược phát triển bằng cách dựa vào việc sử
dụng các biện pháp nà. Doanh nghiệp Việt Nam cũng như doanh nghiệp sản
xuất, xuất khẩu ở các nước khác khi vướng phải các vụ điều tra phòng vệ ở
Hoa Kỳ đều phàn nàn rằng các biện pháp này là không công bằng và đi ngược
lại lý tưởng cạnh tranh trong nền kinh tế thị trường. Tuy nhiên các mục tiêu
của biện pháp này chính là hạn chế cạnh tranh, vì vậy, hệ quả này là có thể
lường trước đc.
Theo thống kê tính từ 1.1.1995 đến 31.12.2006, Hoa Kỳ là nước tiến
hành kiện chống bán phá giá nhiều nhất (sau Ấn Độ) vs 373 vụ điều tra, 239
số vụ áp dụng biện pháp chống bán phá giá, và có 24 vụ kiện ra WTO. Vậy
doanh nghiệp xuất khẩu Việt Nam cần lưu ý gì khi tiến hành xuất khẩu hang
hóa sang Hoa Kỳ để tránh được các tác động không có lợi của chính sách
chống bán phá giá của quốc gia này:
11


1. Nhận thức được nguy cơ hàng hóa của mình bị kiện:
Doanh nghiệp Việt Nam đang phải đối diện vs các vụ kiện chống bán
phá giá, nhất là khi hội nhập sâu, khả năng này càng lớn. sau khi gia nhập

WTO, khả năng này cũng tăng trưởng theo khả năng xuất khẩu của nước ta.
Hiện Hoa Kỳ là thị trường dẫn đầu trong 7 thị trường xuất khẩu tập trung
hàng hóa của Việt Nam ( Hoa Kỳ, Nhật, TQ, Úc, Sing, Đức, Anh). Các yếu tố
của ngành sản xuất của Việt Nam đc xem là rất dễ rơi vào các vụ khiện phá
giá một phần là do hoặt động sản xuất gia xông, xuất khẩu hàng nông sản thô,
ít qua chế biến còn chiếm tỷ trọng cao, nên giá cả hàng hóa thường rẻ hơn
Việt Nam cũng mất cân đối trên cán cân thương mại ở các thị trường chủ lực,
tại Hoa Kỳ, Việt Nam dáng xuất khẩu gấp 8 lần nhập khẩu.Thống kê kim
ngạch xuất nhập khẩu và cán cân thương mại hàng hóa giữa Việt Nam – Hoa
Kỳ giai đoạn 2005 – 2009 (nguồn: Tổng cục hải quan)
Chỉ tiêu

2005

Tổng kim ngạch 5.905
xuất

khẩu

2006

2007

7.829 10.08

hàng

2008

2009


Kỳ

2011

11.869 11.356 14.24

9

0

hóa Việt Nam sang
Hoa

2010

16.700

(triệu

USD)
Tổng kim ngạch 863

982

1.700

2.635

3.006


4.300

6.847 8.389

9.233

8.350

12.400

nhập khẩu hàng
hóa của Việt Nam
từ Hoa Kỳ (triệu
usd)
Cán cân thương 5.042
mại hàng hóa của
Việt Nam vs Hoa
Kỳ (xuất khẩunhập khẩu) (triệu
usd)
12


Các mặt hàng xuất khẩu chủ yếu của Việt Nam sang Hoa Kỳ trong
những năm gần đây bao gồm hàng dệt may, gỗ và sản phẩm từ gỗ, giày dép
các loại, dầu thô, hàng hải sản, máy vi tính sản phẩm linh kiện điện tử…. đây
đồng thời cũng là những mặt hàng có khả năng bị kiện cao nhất, điển hình là
vụ kiện cá da trơn năm 2002, tôm năm 2011.
2. Tránh bị vạ lây trong điều tra chống bán phá giá
Thông thường các bị kiện chống bán phá giá đc tiến hành trong cùng

một ngành vs nhiều nc và mang tính lây lan. Việt Nam và TQ đang sx nhiều
loại mặt hàng giống nhau nên DN Việt Nam thường đối mặt vs các vụ kiện
kiểu “TQ cộng 1” (vd: các vụ kiện xe đạp, tôm, giày dẹp… từ TQ đã lây sang
Việt Nam). Nguy cơ lây lan này có thể tiếp tục xảy ra do TQ đang có đến
500 lệnh về chống bán phá giá từ các quốc gia khác.
Việt Nam nên thận trọng khi tiếp nhận đầu tư từ Trung Quốc để chế
biến hàng hóa Xuất khẩu vì có thể bị cáo buộc bán phá giá vào thị trường
HOA Kỳ. Ngoài HOA Kỳ còn có EU cũng chú ý tới việc này do quy chế
“kinh tế phi thị trường” của TQ và Việt Nam
- Việc tăng cường các biện pháp điều tra chống trợ giá và bán phá giá đvs
hàng hóa nhập khẩu vào HOA Kỳ thực ra là nhằm vào TQ để giảm thâm hụt
thương mại ngày càng tăng giữa 2 bên, nhưng việc này có thể khiến Việt Nam
bị vạ lây khi TQ đặt nhà máy tại Việt Nam để làm ra hàng hóa xuất khẩu sang
HOA Kỳ dưới nhãn hiệu “made in Việt Nam”, qua đó tránh đc thuế chống
bán phá giá mà HOA Kỳ áp dụng cho hàng nhập từ TQ.
Khi gia nhập WTO, nước nào cũng phải thoả mãn những điều kiện do
từng quốc gia thành viên của tổ chức này đặt ra từ trước. Trung Quốc gia
nhập WTO sau 13 năm thương thảo với Mỹ để được một số điều kiện đặc
miễn về yêu cầu cải cách vì vẫn có nền kinh tế “phi thị trường”. Trước sự
chứng kiến của WTO, năm 2001 đôi bên thoả thuận là Trung Quốc vẫn là nền
kinh tế “phi thị trường” trong vòng 15 năm. Việt Nam cũng yêu cầu tương tự
và năm 2007 được Mỹ đồng ý là có nền kinh tế “phi thị trường” trong 12 năm
13


sau khi gia nhập WTO.
Cùng với Mỹ, các nước EU thành viên của WTO cũng chấp nhận khái
niệm đặc biệt này, đặc biệt vì tuyệt đại đa số hội viên WTO đều đã có nền
kinh tế thị trường. Nhưng mặt trái của vấn đề là khi còn là nền kinh tế “phi thị
trường”, thành viên mới của WTO có thể bị cứu xét khắt khe hơn để tránh

tình trạng trợ giá xuất khẩu và bán phá giá. Từ năm 2006, EU đã nêu vấn đề
với Việt Nam sau khi nêu vấn đề với Trung Quốc. Từ năm 2008, Mỹ đã dùng
luật lệ này để kiện doanh nghiệp Trung Quốc và Việt Nam và đòi trả đũa
bằng thuế nhập nội.
3. Làm gì để phòng tránh và đối phó vs nguy cơ bị kiện
Để phòng tránh nguy cơ bị kiện và đối phó vs các vụ kiện chống bán
phá giá, doanh nghiệp cácn đồng thời thực hiện các biện pháp mang tính
chính sách (để hạn chế, nhận biết, và ứng phó nguy cơ một cách kịp thời) và
các biện pháp kỹ thuật (để tính toán và chứng minh biên độ phá giá thấp nhất
có thể).
Thực tế, hầu như các vụ điều tra tại Hoa Kỳ đều xuất phát đơn kiện từ
các bên “liên quan”. Việc điều tra do DOC (Bộ thương mại) tự khởi xướng rất
hiếm khi xảy ra, trừ một số trường hợp nhạy cảm về chính trị (vd: các vụ kiện
về chống bán phá giá về gỗ mềm hoặc chất bán dẫn). vì thế việc ngăn chặn
chủ yếu tập trung vào ngăn chặn các “đơn kiện” của các bên liên quan.
Trong phần lớn các trường hợp, việc thuyết phục bên đi kiện rút đơn
kiện sau khi đơn kiện đã đc nộp là ko khả thi. Vì vậy sẽ tốt hơn nếu các doanh
nghiệp hiệp hội Việt Nam có được thông tin về khả năng bị kiên, nếu có, đối
với mặt hàng mình đang xuất khẩu để làm giảm nguy cơ (chẳng hạn, thay đổi
chiến lược kinh doanh) hoặc để thuyết phục bên đi kiện không đưa Việt Nam
vào danh sách các nước bị kiện trong vụ việc ( thông qua đàm phán trực tiếp
hoặc các hình thức vận động khác với bên đi kiện).
Về chiến lược kinh doanh: cần tính đến khả năng bị kiện khi xây dựng
chiến lược xuất khẩu để có kế hoạch chủ động phòng ngừa và xử lý khi không
phòng ngừa đc (vd: tăng cạnh tranh bằng chất lượng, giảm cạnh tranh bằng
14


giá…)
Phối hợp liên kết các doanh nghiệp cso cũng mặt hằng xuất khẩu để có

chtrình, kế hoạch đối phó chung vs các vụ kiện có thể xảy ra. Cũng như phối
hợp với các cơ quan, đơn vị liên quan để đc hướng dẫn và có các thông tin
cần thiết.
4. Phát hiện và ngăn chặn sớm một vụ kiện
Việc phát hiện sớm các dấu hiệu là không dễ dàng và không phải lúc
nào cũng thực hiện đc, tuy nhiên trong một số vụ việc, một số yếu tố cho thấy
khả năng một vụ kiện chống phá giá đang được hình thành, và doanh nghiệp
xuất khẩu của ta cần nhanh chóng nhận ra chúng:
-

Những cáo buộc về hiện tượng bán phá giá của hàng hóa nhập khẩu vào

Hoa Kỳ từ Việt Nam: những cáo buộc này thường không xuất hiện một cách
rõ ràng cụ thể mà thường lẫn vào các tuyên bố, phát biếu, văn bản rải rác về
những vấn đề khác, trong những sự kiện khác nhau. Đôi khi những cáo buộc
này ko dẫn tới điều gì cụ thể, tùy hoàn cảnh (ng đưa ra các buộc, tình huống,
nội dung… ) có thể đánh giá nguy cơ một vụ kiện đang đến gần ở mức độ nào
(ví dụ: cảnh báo nguy cơ bị kiện từ một tuyên bố - vụ túi nhựa PE Việt Nam)
- Những chiến dịch nói xấu, làm khó hàng hóa Việt Nam nhập khẩu vào
Hoa Kỳ: về cơ bản chiến dịch này bản thân chúng đã là một rào cản tâm lý
cản trở việc tiếp cận thị trường của hàng hóa Việt Nam. Tuy nhiên, trong
nhiều trường hợp đây chỉ là công cụ đầu tiên cho chiến lược chống hàng Việt
Nam của một số ngành sx nội địa mà các công cụ cuối cùng (đặc biệt khi
công cụ đầu tiên chưa đạt hiệu quả mong muốn) rất có thể là các vụ kiện
chống bán phá giá, chống trợ cấp đối vs hàng hóa Việt Nam
5. Chủ động trong việc bị điều tra chống bán phá giá:
- Đến nay, khi đã nhận thức đc nguy cơ mất thị trường lâu dài và những
nguy cơ khác của các biện pháp phòng vệ thương mại của Hoa Kỳ, các doanh
nghiệp chủ động tham gia tố tụng, để có thể tự bảo vệ lợi ích của mình tại thị
trường Hoa Kỳ trong tương lai

- Trong một số vụ kiện đối với hàng hóa Việt Nam tại Hoa Kỳ , nhiều
15


doanh nghiệp Việt Nam đã k chủ động tham gia tố tụng bởi cho rằng doanh
nghiệp ko bị nêu tên trong đơn kiện hoặc ko sx sp liên quan đi vào thị trường
HOA Kỳ vào gia đoạn điều tra… do đó cho rằng mình ko liên quan. Đây là
một quan điểm sai lầm bởi các vụ tranh chấp thương mại thuần túy giữa các
doanh nghiệp ( trong đó dn chỉ liên quan nếu có tên trong đơn kiện), một vụ
kiện chống bán phá giá là tranh chấp giữa toàn bộ ngành sx nội địa HOA Kỳ
vs tất cả các nhà sx, xuất khẩu mặt hàng liên quan từ nc bị kiện, kết quả điều
tra sẽ áp dụng đối với tất cả các đơn vị này, vì vậy doanh nghiệp cần chú ý
tham gia vụ kiện để chứng minh bảo vệ lợi ích của mình (nếu xác định clc
kinh doanh mặt hàng liên quan tại thị trường Hoa Kỳ và các thị trường khác)
- Việc tham gia của Doanh nghiệp cần đc định hướng cụ thể (tham gia ở
mức độ nào, theo cách nào) phù hợp vs hoàn cảnh, chiến lc kinh doanh và
nguồn lực của doanh nghiệp.
- Ngay cả khi có đơn kiện, về lý thuyết (trên thực tế khó xảy ra) các doanh
nghiệp vẫn có thể thuyết phục DOC bác bỏ đơn kiện, chấm dứt vụ việc:
 Tiếp cận, vận động DOC ko khởi xướng điều tra
 Gửi các khiếu nại đến DOC về việc đơn kiện và nguyên đơn không
thỏa mãn các điều kiện quy định
- Tuy nhiên việc này là hầu như ko có khả năng thực hiện, nên biện pháp
khả thi nhất là phát hiện sớm các dấu hiệu có thể dẫn tới vụ kiện chống bán
phá giá và :
 Có biện pháp vừa chuyển hướng cạnh tranh( giảm bớt sự phát triển
quá nóng vào thị trường Hoa Kỳ hoặc điều chỉnh về giá ); và/hoặc:
 Đàm phán vs bên nguyên đơn (tiềm tàng) để không nộp đơn (khi chưa
có đơn kiện) hoặc rút đơn kiện hoặc rút Việt Nam khỏi đơn kiện (khi đã
có đơn kiện)

 Những biện pháp này cần đc thực hiện theo những pthức thích hơpk và
phù hợp vs pluật để tránh hệ quả bất lơi. Ví dụ việc đàm phán rút đơn kiện
thường chỉ có hiệu quả khi thực hiện một cách “âm thầm”, không công khai,
(bởi nếu thông tin đc đưa lên báo chí thì sẽ có nguyên đơn nào chấp nhận rút
đơn để sau đó chịu búa rìu dư luận vì sẵn sàng nhận tiền để rút đơn)
6. Hiểu rõ quy trình kiện chống bán phá giá và thực hiện các biện pháp
16


giảm thiểu tối đa bất lợi khi xảy ra vụ kiện
- Các doanh nghiệp xuất khẩu nếu bị vướng phải một vụ kiện đều mong
muốn đc chọn làm bị đơn bắt bc, bởi điều này sẽ có lợi cho doanh nghiệp:
doanh nghiệp sẽ tính toán đc biên độ phá giá riêng phản ánh gần nhất thực tế
kinh daonh của mình ( do đó có thể hy vọng biên phá giá thấp nhất).
- Để đổi lại, bị đơn bắt bc phải tham gia đầy đủ các hoạt động tố tụng rất
phức tạp, đòi hỏi thời gian, nhân lực và tài chính cho việc kháng kiện này.
Tất cả các hoạt động đều cần tư vấn của luật sư và sự tham gia của các cá
nhân có trách nhiệm trong doanh nghiệp. tuy nhiên theo thông lệ gần đây,
DOC thường chỉ chọn e bị đơn bắt bc cho một vụ kiện và chọn theo cách lấy
doanh nghiệp có số lượng xuất khẩu lớn nhất, vì vậy nếu doanh nghiệp ko
đứng đầu về lượng hàng hóa nhập khẩu liên quan của Việt Nam vào Hoa Kỳ
thid ko cần cố gắng trở thành đơn vị bắt buộc mà nên nỗ lực để đc là “bị đơn
tự nguyện” để đc hưởng thuế suất riêng.
- Tất cả các doanh nghiệp cần hợp tác vs nhau để các bị đơn bắt buộc có đc
kết quả tốt nhất (biên độ phá giá thấp nhất có thể) là rất quan trọng, bởi nếu
dn bị đơn bắt bc vì một lý do nào đó ko tham gia tốt quá trình điều tra, phải
chịu mức thuế suất cáo thì các bị đơn tự nguyện (chịu mức thuế suất bình
quân gia quyền của các bị đơn bbc) và cá bị đơnhập khẩuhác (chịu mức thuế
suất toàn quốc, thường là mức thuế suất cao nhất của các bị đơn bắt buộc) sẽ
bị thiệt hại lây

7. Đa dạng hóa các mặt hàng xuất khẩu, tập trung nâng cao lợi thế và khả
năng về mặt chất lượng. tích cực tham gia vào các hoạt động của hiệp hội,
ngành hàng để hỗ trợ, bảo vệ nhau trc các thành viên riêng lẻ cạnh tranh giá
thấp ko lành mạnh và cố gắng đầu tư ra ngoài hoặc xây dựng chiến lược tham
gia vào chuỗi giá trị sản phẩm toàn cầu. điều tiết xuất khẩu của doanh nghiệp
khi phát hiện sản phẩm xuất khẩu đang tăng trường quá nóng. Tìm hiểu, phổ
biến kiến thức và đào tạo bài bản chống bán phá giá, tăng lượng nhân lực có
kind nghiệm đối phó vs các vụ kiện như thế này
III. Giải pháp
17


1. Các nhóm giải pháp từ phía nhà nước
- Chính phủ tích cực đẩy mạnh quá trình chuyển đổi nền kinh tế để sớm
được công nhận là nền kinh tế thị trường . Khi một nước bị coi là có
nền kinh tế phi thị trường thì các nhà xuất khẩu của nước đó sẽ gặp
phải sự bất lợi vô cùng lớn trong các cuộc điều tra chống bán phá giá
do ba nguyên nhân chính sau:
Thứ nhất, việc sử dụng giá và chi phí sản xuất tại nước thay
thế sẽ dẫn đến biên độ bán phá giá rất cao. Mức biên độ bán phá giá
cao này gần như là chắc chắn, vì các nhà sản xuất tại nước thay thế
đang cạnh tranh với các nhà xuất khẩu tại nước bị coi là nền kinh tế
phi thị trường và do đó, sẽ không có lợi cho họ trong việc giảm thiểu
việc tìm ra yếu tố bán phá giá của các nhà cạnh tranh của họ.
Thứ hai, việc sử dụng các số liệu của nước thay thế cũng dẫn
đến việc nhiều lợi thế so sánh của nước có nền kinh tế phi thị trường
không được xem xét trong quá trình điều tra và các doanh nghiệp
của nước này bị áp dụng một mức thuế chống bán phá giá mà lẽ ra,
có thể tránh được nếu được coi là một nước có nền kinh tế thị
trường .

Thứ ba, việc lựa chọn nước thay thế nhiều khi rất tuỳ tiện.Pháp
luật của các nước quy định không giống nhau về việc xác định nước
thay thế. Ví dụ, theo pháp luật Hoa Kỳ thì nước thay thế là nước có
nền kinh tế thị trường, có trình độ phát triển tương đương với nước
bị kiện (chủ yếu dựa vào thu nhập quốc dân bình quân đầu người) và
là nước sản xuất đáng kể mặt hàng tương tự như mặt hàng đang bị
điều tra.
Cho đến nay, rất nhiều doanh nghiệp của Việt Nam đã và đang
phải chịu nhiều thiệt thòi trong các cuộc điều tra chống bán phá giá
vì toàn bộ số liệu về giá cả và chi phí sản xuất tại Việt Nam đều bị
cơ quan điều tra của nước nhập khẩu từ chối xem xét. Chẳng hạn,
18


trong vụ kiện chống bán phá giá philê cá da trơn từ Việt Nam vào
Hoa Kỳ kết thúc tháng 7 năm 2003, Việt Nam bị coi là nước có nền
kinh tế phi thị trường và Bangladesh được chọn là nước thay thế.
Quyết định áp thuế được đưa ra sau khi DOC tính toán các sản phẩm
philê của Việt Nam sẽ có giá thành bao nhiêu nếu cá nguyên liệu
được nuôi ở một trang trại vùng Kishoregonj của Bangladesh với chi
phí lao động mà cơ quan này cho là phổ biến ở Việt Nam căn cứ vào
thu nhập bình quân đầu người lúc đó. Trong khi đó, đại đa số các nhà
sản xuất/xuất khẩu philê cá da trơn của Việt Nam đều áp dụng quy
trình sản xuất khép kín từ khâu ươm giống, nuôi cá, chế biến đến
xuất khẩu, dẫn đến giá thành philê cá rất thấp. Tuy nhiên, yếu tố này
đã không được DOC xem xét trong quá trình điều tra.
Như vậy, địa vị nền kinh tế phi thị trường của một quốc gia
chắc chắn sẽ mang lại nhiều bất lợi cho các nhà xuất khẩu của quốc
gia đó.Tuy nhiên, một quốc gia bị coi là có nền kinh tế phi thị trường
không có nghĩa là tất cả các khu vực kinh tế hay tất cả các vùng đều

“phi thị trường”. Điều này có nghĩa là, dù cho nước xuất khẩu bị coi
là nước có nền kinh tế phi thị trường thì các nhà sản xuất/xuất khẩu
của nước này vẫn có quyền yêu cầu được sử dụng các phương pháp
kinh tế thị trường nếu chứng minh được rằng, mình hoạt động trong
những điều kiện của nền kinh tế thị trường và không bị can thiệp quá
nhiều từ Chính phủ. Nếu cơ quan điều tra của nước nhập khẩu chấp
nhận thì việc tính toán biên độ phá giá của riêng các nhà sản
xuất/xuất khẩu này sẽ được dựa trên giá cả và chi phí sản xuất tại
chính nước xuất khẩu mà không cần sử dụng nước thay thế.
Tóm lại, quy chế nền kinh tế phi thị trường sẽ mang lại rất
nhiều bất lợi cho các doanh nghiệp xuất khẩu của Việt Nam trong
các cuộc điều tra chống bán phá giá so với các doanh nghiệp thuộc
các nền kinh tế thị trường. Để hạn chế sự bất lợi này, trước mắt, các
19


doanh nghiệp là đối tượng của các cuộc điều tra chống bán phá giá
cần tích cực hợp tác với cơ quan điều tra để chứng minh rằng, ngành
sản xuất của mình hoàn toàn hoạt động theo cơ chế thị trường và
không chịu sự can thiệp của Chính phủ.
- Chính phủ cần có cơ chế giám sát hàng xuất khẩu
Thuế chống bán phá giá, thuế chống trợ cấp, biện pháp tự vệ, các
điều kiện kỹ thuật, vệ sinh dịch tễ…là những loại “rào cản” đã và
đang được các nước nhập khẩu sử dụng khá phổ biến trong khuôn
khổ các nguyên tắc của WTO. Một khi những rào cản này được dựng
lên, hoạt động xuất khẩu có thể bị ảnh hưởng rất nghiêm trọng:
những mức thuế bổ sung có thể làm triệt tiêu khả năng cạnh tranh,
chi phí tuân thủ cao khiến giá bán hàng tăng, những hạn ngạch khắt
khe, thậm chí là những lệnh cấm nhập khẩu có thể dẫn tới nguy cơ
mất hẳn một thị trường nào đó.

Vì vậy, việc nghiên cứu và áp dụng các biện pháp nhằm đối phó
với những nguy cơ này có ý nghĩa thực tiễn quan trọng. Một trong
những phương pháp được đề cập khá nhiều trong thời gian gần đây
là kiểm soát tự nguyện các hoạt động xuất khẩu từ phía cơ quan
Nhà nước có thẩm quyền của Việt Nam, còn được biết đến dưới tên
“Cơ chế giám sát xuất khẩu”. Thực tế, điều mà chúng ta cần không
phải là một cơ chế cứng nhắc để kiểm soát từ trên xuống mà là một
tập hợp nhiều biện pháp linh hoạt, mềm dẻo, phù hợp với tình hình
thực tế .
- Phát triển một cơ chế cảnh báo sớm
Mặc dù không có một cơ chế pháp lý để có thể áp dụng cho
mọi ngành, nhưng một cơchế cảnh báo sớm có thể bao gồm các yếu
tố sau: phân tích kinh tế, giám sát hoạt động của các nhà sản xuất nội
địa, một mạng lưới quan hệ với các công ty vận động hành lang và
các công ty luật ở nước ngoài, và theo dõi báo chí, cụ thể như sau:
Thứ nhất, các phân tích kinh tế phải thể hiện cả tình hình xuất
khẩu của Việt Nam vào thời điểm hiện tại lẫn tình hình của nền công
20


nghiệp tương ứng ở nước mà vụ kiện có thể xảy ra. Mọi sự tăng
trưởng đột xuất của thị phần có thể dẫn tới một vụ kiện vì nếu
thịtrường bị hàng hoá nước ngoài thống lĩnh thì các nhà sản xuất nội
địa cũng có thể đệ đơnkiện. Ngoài ra, sự suy giảm của thị phần cũng
có thể là một trong các lý do khiến nhà sản xuất nội địa đệ đơn kiện
chống bán phá giá bất chấp việc suy giảm đó là do sự cắt giảm trợ
cấp của chính phủ, hay do công nghệ lạc hậu, hay do thiên tai.
Thứ hai, việc theo dõi chặt chẽ các hoạt động của các nhà sản
xuất nội địa có thể giúp các doanh nghiệp Việt Nam phát hiện một vụ
kiện phá giá sắp xảy ra. Trước khi nộp đơn khởi kiện tới cơ quan có

thẩm quyền, các nhà sản xuất nội địa cần phải phối hợp với nhau để
tạo nguồn tài chính, thuê luật sư và chuẩn bị các thông tin cho việc
kiện. Trong hầu hết các trường hợp, những hoạt động này là công
khai. Vì khi các doanh nghiệp Việt Nam phát hiện các hoạt động
này, họ phải lập tức chuẩn bị cho một vụ kiện. Việc theo dõi báo chí
là một trong những cách hiệu quả khi các nhà xuất khẩu Việt Nam
không có đại diện thường trực ở nước ngoài.
Thứ ba, xây dựng mối quan hệ với các công ty luật và các công
ty vận động hành lang là một cách thức tốt cho doanh nghiệp Việt
Nam để biết về các công ty này cũng như biết về các dịch vụ mà họ
cung cấp.Việc lựa chọn các công ty luật là rất cần thiết trong các vụ
kiện chống bán phá giá, vì vai trò của luật sư là hết sức quan trọng.
Vì vậy thông thường các doanh nghiệp, đều thông qua nghiệp đoàn
hoặc hiệp hội cùng lựa chọn ( hoặc một số) công ty luật tư vấn, đại
diện cho mình trong vụ kiện trong các vụ kiện, thường thì trong các
vụ kiện tại nước ngoài, khi lựa chọn luật sư cho các vụ kiện chống
bán phá giá, các doanh nghiệp thường rất quan tâm đến khả năng sử
dụng các chuyên gia về kinh tế, phải có uy tín và kinh nghiệm trong
lĩnh vực chống bán phá giá của công ty luật cũng như khả năng sử
dụng tiếng Anh của họ (đặc biệt trong các vụ kiện ở nước ngoài) thì
21


mới có thể đáp ứng yêu cầu trong một vụ kiện ở tầm quốc gia.
- Vận động hành lang
Vụ kiên về chống bán phá giá sản phẩm philê cá da trơn và tôm
Việt Nam tại thị trường Hoa Kỳ được xem là bài học về sự phối hợp
các yếu tố kinh tế, chính trị cũng như sự liên kết chặt chẽ của các
doanh nghiệp liên quan với các tổ chức và đồng minh trong và ngoài
nước.Vận động hành lang đối với ngành lập pháp có hiệu quả hạn

chế. Tuy nhiên vận động là cần thiết vì nó có thể khiến các cơ quan
chống bán phá giá áp dụng các biện pháp công bằng và hợp lý trong
quá trình điều tra. Vì vậy, vận động hành lang cần một chiến lược
với các mục tiêu và mục đích rõ ràng. Trong vận động hành lang,
chứng cứ tạo ra sức thuyết phục mạnh hơn là chỉ tiếp cận tới các đối
tượng và đưa ra những lập luận cảm tính đối với họ. Hợp tác với báo
chí, huy động các lực lượng nước ngoài và đặc biệt là lực lượng
người Việt ở nước ngoài vì họ hiểu luật tại nước sở tại, các tổ chức
đồng minh nhập khẩu, phân phối bán lẽ, bảo vệ người tiêu dùng, các
tổ chức có quyền lợi chung và các tổ chức phi chính phủ đóng vai trò
quan trọng trong việc giành sự ủng hộ của dư luận.
Các giải pháp khác
Vai trò củ a Chí nh phủ trong cá c vụ việ c chố n g bá n phá giá cầ n
đượ c xá c đị nh mộ t cá ch đú n g mứ c. Nhà nướ c cũ ng nên hỗ trợ cá c
doanh nghiệ p trong và cá c vấ n đề liên quan đế n thông tin và trợ
giú p kỹ thuậ t , cung cấ p dị ch vụ tư vấ n , và hướ n g dẫ n trả lời bảng
câu hỏi do cơ quan điều tra bên khởi kiệ n nhằ m đả m bả o bảng câu
hỏi đầ y đủ thông tin và phù hợ p vớ i cá c quy đị nh.
Tiế n hà nh cá c hoạ t độ n g phổ biế n kiế n thứ c, nâng cao nhậ n
thứ c củ a doanh nghiệ p và công chú ng về cá c vấ n đề chố n g phá
giá .Để đố i phó thà n h công ở mỗ i vụ tranh chấ p về bá n phá giá , sự
phố i hợ p nhị p nhà n g giữ a chính phủ và hiệp hội các doanh nghiệp
trong việc đối phó với vụ kiện chố n g bá n phá giá hà n g Việ t Nam ở
nước ngoài.
22


Hiện nay Việt Nam là thành viên của WTO nên khi giả i quyế t
cá c tranh chấ p phá t sinh liên quan tớ i chố ng bá n phá giá ta có thể
gởi lên WTO giải quyết. Cơ chế giả i quyế t tranh chấ p thương mạ i

quố c tế nó i chung và chố n g bá n phá giá nó i riêng có uy tí n và hiệ u
quả nhấ t là cơ chế giả i quyế t tranh chấ p củ a WTO. Đây cũ ng là mộ t
nhân tố chú ng ta phả i tí n h đế n trong quá trì nh giả i quyế t cá c tranh
chấ p liên quan tớ i chố n g bá n phá giá và có thể sử dụ ng cơ chế giả i
quyế t tranh chấ p có hiệ u quả củ a tổ chứ c nà y.
Cầ n nhanh chó n g tổ chứ c cá c khó a đà o tạ o về á p dụ ng thuế
chố n g bá n phá giá cho đông đả o cá c cá n bộ ngà n h. Nộ i dung củ a
cá c khó a đà o tạ o nà y sẽ bao gồ m nhữ n g vấ n đề kinh tế liên quan tớ i
bá n phá giá , nhữ n g quy đị n h về thuế chố n g bá n phá giá củ a WTO,
kinh nghiệ m á p dụ ng thuế chố n g bá n phá giá củ a mộ t số nướ c .
Đồng thời, trong phạm vi khả năng của mình Bộ thương mại có thể
hỗ trợ doanh nghiệp thông tin về các văn phòng luật sư nước ngoài
có kinh nghiệm về chống bán phá giá; giúp các doanh nghiệp bằng
việc tổng hợp các kinh nghiệm và bài học của các vụ kiện chống bán
phá giá trước đó.
Tổ chứ c cá c hộ i thả o hoặ c buổ i là m việ c vớ i cá c phò n g
thương mạ i , cá c hiệ p hộ i , cá c việ n nghiên cứ u, cá c doanh nghiệ p để
phổ biế n thông tin và giú p đố i tượ n g hiể u đầ y đủ về bả n chấ t củ a
cá c biệ n phá p bồ i thườ n g trong thương mạ i quố c tế . Cù ng vớ i cá c
nổ lự c tương tự cá c Hiệ p hôi doanh nghiệ p. Cá c việ n nghiên cứ u...,
bướ c đầ u có thể nó i rằ n g hoạ t độ n g tuyên truyề n về chố n g bá n phá
giá ở Việt Nam đã có nhữ n g hiệ u quả tí ch cự c. Vớ i nhữ ng nhậ n
thứ c đú n g về bả n chấ t củ a việ c chố n g bá n phá giá ( nhằ m đả m bả o
cho thương mạ i công bằ n g). Cả Chí nh Phủ và cá c doanh nghiệ p Việt
Nam dườ n g như đề u xem đây là cá c vấ n đề thuộ c về thương mạ i
đơn thuầ n ( không mang tí nh chí nh trị ) và có cá ch hà n h xử tương
ứ n g : chủ độ n g khở i kiệ n khi thấ y hà ng hó a nướ c ngoà i bá n phá giá
23



và o Ấ n Độ và cũ ng bì n h tĩ nh ứ n g phó vớ i cá c vụ kiệ n ở nướ c
ngoà i .
Chính Phủ cũng có thể giúp đỡ hiệp hội doanh nghiệp trong
việc vận hành hệ thống cảnh báo sớm bằng cách trao đổi các thông
tin kinh tế vĩ mô và thu thập các thông tin thông qua các mạng lưới
quan hệ của mình, ví dụ: Bộ thương mại thông qua hệ thống các
tham tán thương mại của mình có thể giúp đỡ các doanh nghiệp Việt
Nam thu thập thông tin về thị trường xuất khẩu. Ngoài ra, các cơ
quan nhà nước cũng có thể cung cấp các hỗ trợ kỹ thuật và đào tạo
cho các doanh nghiệp, đặc biệt là đào tạo về luật thương mại quốc
tế. Cuối cùng, Chính Phủ có thể thông qua các mối quan hệ của mình
để tác động tới cơ quan điều tra nước ngoài nhằm thuyết phục họ
công bằng trong quá trình điều tra vụ việc.
Để giúp các doanh nghiệp Việt Nam vượt qua những khó khăn
khi bị nước ngoài kiện bán phá giá, Chính Phủ có thể nghiên cứu
thành lập các quỹ trợ giúp theo đuổi các vụ kiện phục vụ cho việc
xuất khẩu để giúp đỡ cho các doanh nghiệp kháng kiện về mặt tài
chính. Các cơ quan đại diện ở nước ngoài của chính phủ cần giúp đỡ
các doanh nghiệp về mặt cung cấp thông tin, nhất là những thông tin
liên quan đến việc nước ngoài kiếu kiện doanh nghiệp Việt Nam và
thông tin liên quan đến những luật sư giỏi ở nước sở tại có khả năng
giúp cho doanh nghiệp thắng kiện. Các cơ quan hữu quan của chính
phủ và phương tiện thông tin cần tuyên truyền tình hình để tăng
cường lòng tin cho các doanh nghiệp theo đuổi vụ kiện.
Một khi Việt Nam đã là thanh viên của WTO, Việt Nam sẽ có lợi
thế hơn vì được hưởng cơ chế ưu tiên cho các nước phát triển và
được hưởng các biệt lệ thi hành các thoả ước về thuế quan chậm hơn.
2. Các nhóm giải pháp từ phía hiệp hội ngành hàng
24



Hiện nay, bên khởi kiện bán phá giá ở nước ngoài thường lấy
danh nghĩa hiệp hội để đủ tư cách không dưới 50% sản phẩm toàn
quốc.Nếu bên hầu kiện chỉ là những doanh nghiệp riêng lẻ thì dễ sơ
hở và không kham nổi chi phí kiện tụng. Vì vậy việc đoàn kết với
các doanh nghiệp khác trong hiệp hội ngành nghề, hoặc trong các tổ
chức nhóm sản phẩm để theo đuổi vụ kiện là cần thiết và mang lại
nhiều lợi ích. Từ hai vụ kiện chống bán phá giá filê cá da trơn và vụ
kiện tôm ta rút ra bài học vai trò của các tổ chức hiệp hội là rất quan
trọng và cần thiết. Vì vậy cần tăng cường hoạt động của các tổ chức,
hiệp hội ngành hàng tham gia các vụ kiện bán phá giá.
Kinh nghiệm quốc tế cho thấy, muốn đẩy mạnh xuất khẩu cần
phải củng cố vai trò của hiệp hội để sẵn sàng và chủ động giải quyết
các tranh chấp thương mại có thể phát sinh. Các hiệp hội ngành hàng
nên thiết lập cơ quan đại diện ở nước ngoài, trước hết là tập trung
vào các thị trường trọng điểm và tổ chức tốt việc nghiên cứu các
điều kiện thâm nhập thị trường nhằm mở rộng thị trường nhập khẩu
và nâng cao hiệu quả ngành hàng của mình.Hiệp hội cũng cần có sự
phối hợp chặt chẽ giữa đại diện hiệp hội với tham tán thương mại để
đạt được kết quả, xử lý và đánh giá thông tin một cách toàn diện.
Thông qua hiệp hội quy định hành vi thị trường của các nhà
xuất khẩu để bảo vệ lẫn nhau, không bị các doanh nghiệp nước nhập
khẩu bắt chẹt trên thương trường. Đồng thời thông qua hiệp hội
chuyên ngành để phối hợp giá cả trên thị trường thế giới, phòng ngừa
tính cạnh tranh không lành mạnh giữa các doanh nghiệp xuất khẩu,
đặc biệt là ngăn chặn các doanh nghiệp khác bán với giá quá rẻ tạo
nguy cơ gây ra bị kiện bán phá giá.
Hiệp hội cần tăng cường vai trò hỗ trợ tích cực cho các doanh
nghiệp xuất khẩu để giúp doanh nghiệp ngăn ngừa và ứng phó hiệu
quả với các biện pháp chống bán phá giá của đối tác thương mại.

25


×