Tải bản đầy đủ (.docx) (27 trang)

Giải pháp để nâng cao năng lực cạnh tranh của ngành cà phê việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (249.25 KB, 27 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
Sau 25 năm đổi mới, Việt Nam đã đạt được những thành tựu to lớn và quan
trọng, đặc biệt trong lĩnh vực nông nghiệp, tạo ra được khối lượng nông sản không
chỉ đáp ứng nhu cầu trong nước mà còn có giá trị xuất khẩu cao mang về hàng tỉ
USD. Sản xuất nông nghiệp tăng trưởng liên tục với tốc độ cao và ổn định, hình
thành những vùng chuyên canh sản xuất hàng hóa với quy mô lớn. Sự phát triển
nhanh của ngành nông nghiệp đã nâng cao vị thế của Việt Nam trên thị trường quốc
tế, góp phần đẩy nhanh tiến độ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Là một
trong những mặt hàng nông sản chủ lực, cà phê Việt Nam có tốc độ phát triển rất
cao, hàng năm thu về hàng triệu USD từ việc xuất khẩu, mang lại nguồn thu nhập
ổn định, thường xuyên cho một nhóm đông dân cư ở nông thôn, trung du và miền
núi. Tuy nhiên, bên cạnh những thế mạnh của mình, ngành cà phê vẫn tồn tại những
hạn chế ảnh hưởng đến năng lực cạnh tranh. Do đó, làm sao phát huy hết nội lực,
hết lợi thế để cà phê Việt Nam có thể đứng vững và phát triển trên thị trường thế
giới vẫn là một câu hỏi bất cập cần có lời giải đáp.
Đề tài “Giải pháp để nâng cao năng lực cạnh tranh của ngành cà phê Việt
Nam” mà em chọn là một đóng góp nhỏ ý kiến của bản thân mong góp phần giải
quyết cẩu hỏi đó.
Tuy đây là lần đầu tiên tiếp cận với cách thức viết đề án môn chuyên ngành,
nhưng dưới sự hướng dẫn tận tình của Ths.Nguyễn Thu Thuỷ, em đã hoàn thành đề
án này. Em xin chân thành cảm ơn cô!

1


MỤC LỤC
Chương 1
Thực chất và nhân tố ảnh hưởng đến năng lực cạnh tranh
1. Khái niệm về năng lực cạnh tranh.
2. Phân loại năng lực cạnh tranh.
2.1 Năng lực cạnh tranh quốc gia.


2.2 Năng lực cạnh tranh ngành.
2.3 Năng lực cạnh tranh doanh nghiệp.
2.4 Năng lực cạnh tranh sản phẩm.
3. Các nhân tố ảnh hưởng đến năng lực cạnh tranh ngành.
3.1 Các nhân tố chủ quan.
3.1.1 Nhân tố con người.
3.1.2 Khả năng về tài chính.
3.1.3 Trình độ công nghệ.
3.2 Nhân tố khách quan.
3.2.1 Các nhân tố kinh tế.
3.2.2 Các nhân tố về chính trị pháp luật.
4. Tiêu chí đánh giá năng lực cạnh tranh ngành.
Chương 2
Thực trạng về thị trường cà phê thế giới và ngành cà phê Việt Nam
I. Tổng quan về thị trường cà phê thế giới.
II. Thực trạng năng lực cạnh tranh của ngành cà phê Việt Nam.
1. Về sản xuất.
2. Về công nghệ.
3. Về nguyên liệu.
4. Về lao động.
2


III. Những lợi thế và bất lợi của ngành cà phê Việt Nam.
1. Lợi thế của ngành cà phê Việt Nam.
2. Lợi thế khách quan.
3. Lợi thế chủ quan.
4. Những hạn chế của ngành cà phê Việt Nam và nguyên nhân.
4.1 Tính bền vững của ngành cà phê Việt Nam chưa cao.
4.2 Chất lượng cà phê chưa cao.

4.3 Thiếu tính đồng bộ giữa các khâu.
4.4 Thiếu vốn.
4.5 Chưa chú trọng đến thị trường nội địa.
Chương 3
Giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh cho ngành cà phê Việt Nam
1. Phương hướng.
2. Giải pháp.
2.1 Tạo nguồn vốn đầu tư.
2.2 Chuyển đổi cơ cấu cây trồng.
2.3 Nâng cao năng suất, chất lượng, hạ giá thành sản phẩm cà phê.
2.4 Đổi mới công nghệ.
2.5 Xây dựng hệ thống đồng bộ giữa các khâu.
2.6 Tổ chức hệ thống thu thập thông tin.
2.7 Quan tâm hơn đến thị trường nội địa.
2.8 Mở rộng thị trường cà phê và tăng cường hợp tác quốc tế.
2.9 Xây dựng thương thiệu và bảo vệ được thương hiệu của mình trên thị trường.
Kết luận

3


Chương 1
THỰC CHẤT VÀ CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN NĂNG LỰC CẠNH
TRANH
Cạnh tranh là một trong những đặc trưng cơ bản của kinh tế thị trường, là năng
lực phát triển của kinh tế thị trường. Cạnh tranh có thể được hiểu là sự ganh đua
nhau giữa các nhà doanh nghiệp trong việc giành một nhân tố sản xuất hoặc khách
hàng nhằm nâng cao vị thế của mình trên thị trường để đạt được một mục tiêu kinh
doanh cụ thể.
1. Khái niệm về năng lực cạnh tranh.

Hiện nay, một doanh nghiệp muốn có vị trí vững chắc trên thị trường và thị
trường ngày càng được mở rộng thì cần phải có một tiềm lực đủ mạnh để có thể
cạnh tranh trên thị trường. Cái đó chính là khả năng cạnh tranh hay là năng lực cạnh
tranh của một doanh nghiệp cũng như của cả một ngành. Cạnh tranh để duy trì vị trí
của nó một cách lâu dài trên thị trường cạnh tranh, đảm bảo thực hiện mức lợi
nhuận ít nhất là bằng tỷ lệ đòi hỏi cho việc thực hiện mục tiêu của doanh nghiệp
hay đối với vị thế của một ngành.
2. Phân loại năng lực cạnh tranh.
2.1 Năng lực cạnh tranh quốc gia.
Năng lực cạnh tranh quốc gia được định nghĩa là năng lực của một nền kinh tế
đạt được tăng trưởng bền vững, thu hút được đầu tư, bảo đảm ổn định kinh tế, xã
hội, nâng cao đời sống của người dân.
2.2 Năng lực cạnh tranh ngành.
Xét theo phạm vi ngành kinh tế, năng lực cạnh tranh ngành được chia làm hai loại:
- Năng lực cạnh tranh trong nội bộ ngành: là khả năng hay năng lực cạnh tranh giữa
các doanh nghiệp cùng sản xuất kinh doanh một loại mặt hàng hoặc dịch vụ. Cạnh
tranh nội bộ ngành là một cuộc cạnh tranh tất yếu phải xảy ra, tất yếu đều nhằm vào
mục tiêu cao nhất là lợi nhuận của doanh nghiệp. Chính vì vậy, mỗi doanh nghiệp
phải cải tiến kỹ thuật, năng lực quả lý… nhằm nâng cao năng suất lao động, hạ giá
thành sản phẩm để tìm lợi nhuận siêu ngạch.
- Năng lực giữa các ngành: là khả năng cạnh tranh giữa các doanh nghiệp sản xuất
kinh doanh hàng hóa dịch vụ trong các ngành kinh tế khác nhau nhằm mục tiêu lợi
nhuận, vị thế và an toàn. Cạnh tranh giữa các ngành tạo ra xu hướng di chuyển của
vốn đầu tư sang các ngành kinh doanh thu được lợi nhuận cao hơn và tất yếu sẽ dẫn

4


đến sự hình thành tỷ suất lợi nhuận bình quân. Đồng thời cũng thể hiện được thế
mạnh của từng ngành với từng lĩnh vực cụ thể.

2.3 Năng lực cạnh tranh doanh nghiệp.
Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp là khả năng tạo ta được lợi thế cạnh
tranh, tạo ra năng suất và chất lượng cao hơn đối thủ cạnh tranh, chiếm lĩnh thị
phần lớn, tạo ra thu nhập cao va phát triển bền vững.
Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp được đánh giá tổng thể thông qua các
chỉ tiêu đánh giá sau:
- Sản lượng, doanh thu
- Thị phần
- Tỉ suất lợi nhuận
Ngoài các chỉ tiêu định lượng trên, năng lực cạnh tranh còn được đánh giá qua
các chỉ tiêu định tính như:
- Chất lượng hàng hóa – dịch vụ của doanh nghiệp so với đối thủ cạnh tranh.
- Khả năng đáp ứng các yêu cầu của khách hàng so với đối thủ cạnh tranh.
- Thương hiệu, uy tín, hình ảnh của doanh nghiệp so với đối thủ cạnh tranh.
2.4 Năng lực cạnh tranh sản phẩm.
Năng lực cạnh tranh của sản phẩm là khả năng sản phẩm đó tiêu thụ được
nhanh trong khi có nhiểu người cùng bán loại sản phẩm đó trên thị trường. Hay nói
một cách khác, năng lực cạnh tranh của sản phẩm được đo bằng thị phần của sản
phẩm đó. Năng lực cạnh tranh của sản phẩm phụ thuộc vào chất lượng, giá cả, tốc
độ cung cấp dịch vụ đi kèm, uy tín của người bán, thương hiệu, quảng cáo, điều
kiện mua bán.
3. Các nhân tố ảnh hưởng đến năng lực cạnh tranh ngành.
3.1 Các nhân tố chủ quan.
3.1.1 Nhân tố con người.
Con người ở đây phản ánh đến đội ngũ lao động. Đội ngũ lao động tác động
đến năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp thông qua các yếu tố như trình độ lao
động, năng suất lao động, thái độ phục vụ khách hàng, sự sáng tạo trong sản xuất…
Các nhân tố này ảnh hưởng trực tiếp tới việc nâng cao chất lượng sản phẩm, chi phí
sản xuất ra sản phẩm hàng hóa.
5



3.1.2 Khả năng về tài chính.
Bất cứ một hoạt động đầu tư, sản xuất phân phối nào cũng đều phải xét, tính
toán đến tiềm lực, khả năng tài chính của các doanh nghiệp. Các doanh nghiệp có
tiềm năng lớn về tài chính sẽ có nhiều thuận lợi trong việc đổi mới công nghệ, đầu
tư mua sắm trang thiết bị, bảo đảm nâng cao chất lượng sản phẩm, hạ giá thành,
duy trì và nâng cao năng lực cạnh tranh hàng hóa, khuyến khích việc tiêu thụ sản
phẩm, tăng doanh thu, lợi nhuận và củng cố vị thế của mình trên thương trường.
3.1.3 Trình độ công nghệ.
Tình trạng trình độ công nghệ máy móc thiết bị có ảnh hưởng một cách sâu sắc
tới năng lực cạnh tranh của sản phẩm của các doanh nghiệp. Đó là yếu tố vật chất
quan trọng bậc nhất thể hiện năng lực sản xuất của một doanh nghiệp, tác động trực
tiếp đến chất lượng, năng suất sản xuất. Ngoài ra, công nghệ sản xuất cũng ảnh
hưởng đến giá thành và giá bán của sản phẩm. Các doanh nghiệp có công nghệ phù
hợp sẽ có một lợi thế cạnh tranh rất lớn do chi phí sản xuất thấp, chất lượng sản
phẩm và dịch vụ cao. Ngược lại các doanh nghiệp sẽ có bất lợi cạnh tranh khi họ
chỉ có công nghệ lạc hậu.
3.2 Nhân tố khách quan.
3.2.1 Các nhân tố kinh tế.
Trong môi trường kinh doanh, các nhân tố kinh tế luôn có những ảnh hưởng
đến hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp nói chung cũng như sực
lực cạnh tranh của sản phẩm các doanh nghiệp nói riêng. Các nhân tố kinh tế bao
gồm:
- Tốc độ phát triển kinh tế cao sẽ làm cho thu nhập của người dân tăng lên. Thu
nhập tăng có ảnh hưởng trực tiếp đến khả năng thanh toán của họ khi nhu cầu về
hàng hóa thiết yếu và hàng hóa cao cấp cũng tăng lên.
- Lãi cho vay của ngân hàng cũng ảnh hưởng đến sức cạnh tranh của các doanh
nghiệp. Hiện nay có một phần không nhỏ vốn đầu tư của doanh nghiệp trong ngành
là đi vay. Do đó khi lãi suất tăng lên sẽ dẫn tới chi phí sản xuất sản phẩm của các

doanh nghiệp tăng và ngược lại. Như vậy, doanh nghiệp nào có lượng vốn chủ sở
hữu lớn xét về mặt nào đó sẽ thuận lợi hơn trong cạnh tranh và rõ ràng năng lực
cạnh tranh về tài chính của doanh nghiệp sẽ tốt hơn so với đối thủ cạnh tranh.
Các nhân tố kinh tế ảnh hưởng trực tiếp đến sức mạnh cạnh tranh của sản phẩm
của các doanh nghiệp trong các ngành. Do đó đòi hỏi các doanh nghiệp phải đánh
giá được tác động của nó để tìm ra những cơ hội cũng như thách thức.

6


3.2.2 Các nhân tố về chính trị pháp luật.
Các nhân tố về chính trị pháp luật là nền tảng quy định các yếu tố khác của môi
trường kinh tế. Nền kinh tế ảnh hưởng đến hệ thống chính trị nhưng ngược lại hệ
thống chính trị cũng tác động trở lại các hoạt động kinh tế. Pháp luật và chính trị ổn
định sẽ tạo ra một cơ chế chính sách trong hoạt động sản xuất kinh doanh trong
từng lĩnh vực cụ thể có được lợi thế cạnh tranh trong xu thế toàn cầu hóa của thế
giới.
Nói tóm lại, khi xem xét khả năng cạnh tranh của một ngành, của một doanh
nghiệp thậm chí kể cả của đối thủ cạnh tranh, cần phải xem xét đầy đủ các nhân tố
tác động, từ đó tìm ra các biện pháp hữu hiệu nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh
của ngành hay của các doanh nghiệp đó.
4. Tiêu chí đánh giá năng lực cạnh tranh ngành.
Lí thuyết nổi tiếng của mô hình “viên kim cương” của Michael Porter. Các yếu
tố quyết định của mô hình là các điều kiện về các yếu tố sản xuất, điều kiện về cầu,
các ngành hỗ trợ và bối cảnh cạnh tranh, chiến lược và cơ cấu doanh nghiệp. Ngoài
ra, còn có hai biến số bổ sung là vai trò của Nhà nước và yếu tố thời cơ. Và theo
ông, thì không một quốc gia nào có thể có khả năng cạnh tranh ở tất cả các ngành
hoặc ở hầu hết các ngành. Các quốc gia chỉ có thể thành công trên thương trường
kinh doanh quốc tế khi họ có lợi thế cạnh tranh bền vững trong một số ngành nào
đó. Và khả năng cạnh tranh của quốc gia ngày nay lại phụ thuộc vào khả năng sáng

tạo và sự năng động của ngành của quốc gia đó. Khi thế giới cạnh tranh mang tính
chất toàn cầu hóa thì nền tảng cạnh tranh sẽ chuyển dịch từ lợi thế tuyệt đối hay lợi
thế so sánh mà tự nhiên ban cho sang những lợi thế cạnh tranh quốc gia được tạo ra
và duy trì thế cạnh tranh lâu dài của các doanh nghiệp trên trường quốc tế. Các
quốc gia thành công ở một số ngành trên thị trường toàn cầu vì môi trường trong
nước của họ năng động, đi tiên phong và nhiều sức ép nhất. Các công ty của họ thu
được lợi thế so với các đối thủ quốc tế nhờ việc các đối thủ mạnh trong nước, nhờ
có các nhà cung cấp có khả năng trong nước, nhờ sự phong phú nhu cầu khách hàng
trong nước và sự liên kết chặt chẽ của ngành phụ trợ.
Lý luận của Michael Porter về lợi thế cạnh tranh quốc gia giải thích hiện tượng
thương mại quốc tế và vai trò của nhà nước trong việc hỗ trợ cho các ngành có điều
kiện thuận lợi để giành lợi thế cạnh tranh quốc gia. Sự thành công của các quốc gia
ở ngành kinh doanh nào đó phụ thuộc vào 3 vấn đề cơ bản: lợi thế cạnh tranh quốc
gia, năng suất lao động bền vững và sự liên kết hợp tác có hiệu quả trong cụm
ngành.
Lợi thế cạnh tranh được hiểu là những nguồn lực, lợi thế của ngành, quốc gia mà
nhó có chúng các doanh nghiệp kinh doanh trên thương trường quốc tế tạo ra một
7


số ưu thế vượt trội hơn, ưu việt hơn so với các đối thủ cạnh tranh trực tiếp. Lợi thế
cạnh tranh giúp cho nhiều doanh nhiệp có được “quyền lực thị trường” để thành
công trong kinh doanh và trong cạnh tranh. Đó cũng là những yếu tố đánh giá năng
lực cạnh tranh của một ngành.

8


Chương 2
THỰC TRẠNG VỀ THỊ TRƯỜNG CÀ PHÊ THẾ GIỚI VÀ NGÀNH CÀ

PHÊ VIỆT NAM
I. Tổng quan về thị trường cà phê thế giới.
Nhìn lại sự phát triển thị trường tiêu thụ cà phê thế giới cho thấy sau thế chiến II,
nhu cầu dùng cà phê ở nhiều quốc gia tăng lên nhanh chóng. Bắt đầu từ Mỹ ở thập
niên 1950 – 1960 khi những cựu chiến binh mang sở thích uống cà phê về truyền bá
trong quân đội và dân chúng, rồi dần dần phát triển sang Châu Âu ở những năm
1960 – 1970. Vào cuối thập niên 1970, khi thị trường Mỹ và Châu Âu gần như
chững lại thì những thị trường mới lại mở ra ở vùng Viễn Đông như Nhật Bản và
gần đây là thị trường Đông Âu, Trung Quốc có dấu hiệu tăng. Cùng với sự mở rộng
thị trường ở khắp nơi, sản lượng cà phê thế giới không ngừng tăng lên, đáp ứng nhu
cầu ngày càng cao của người tiêu dùng. Sản lượng cà phê toàn cầu niên vụ
2010/2011 kết thúc vào tháng 9 đã đạt mức 133 triệu bao. Brazil là nước sản xuất cà
phê lớn nhất thế giới đạt mức sản lượng 55,3 triệu bao trong niên vụ 2010/2011;
trong khi sản lượng của hai nước Việt Nam và Colombia, nước đứng thứ hai và thứ
ba về sản xuất cà phê đạt 27,7 triệu bao.
Với khoảng 1/4 dân số thế giới hiện uống cà phê thường xuyên, triển vọng tăng
tiêu thụ cà phê trong những năm tới là rất khả quan. Tuy nhiên, nếu không có hành
động tích cực nào để đẩy mạnh, tốc độ tăng sẽ không có tiến triển gì khá hơn những
năm vừa qua. Và nếu cứ giữ mức tăng chưa đầy 5% mỗi năm hiện nay, có lẽ tới vụ
2011/2012 mới hy vọng tổng tiêu thụ đạt mức 139,7 triệu bao.
Brazil là nước xuất khẩu cà phê lớn nhất thế giới chiếm khoảng 26% tổng lượng
xuất khẩu cà phê toàn cầu, chủ yếu là cà phê Arabica. Colombia đứng thứ hai về
xuất khẩu cà phê Arabica tòa cầu, chiếm khoảng 9% chủ yếu là loại cà phê Arabica
dịu. Đứng thứ ba về xuất khẩu cà phê Arabica là Guatemala, chiếm khoảng 5% tổng
sản lượng xuất khẩu cà phê toàn cầu.
Mỹ là nước nhập khẩu cà phê lớn nhất thế giới, chiếm khoảng 29% tổng sản
lượng cà phê nhập khẩu. Đứng thứ hai là Đức với tỷ trong khoảng 18% tổng nhập
khẩu. Nhập khẩu cà phê của Nhật Bản tăng nhanh, đưa Nhật Bản trở thành nước
đứng thứ ba thế giới về nhập khẩu cà phê trong những năm qua với tỷ trọng khoảng
9% tổng sản lượng cà phê nhập khẩu toàn cầu.

Trên thị trường thế giới, trong tháng qua, giá cà phê đã có những biến động lớn,
giá giảm rất mạnh, có lúc giá cà phê Robusta tại London đã giảm xuống dưới 1.300
USD/tấn, giảm tới 13% so với mức giá khoảng 1.500 USD/tấn đã được giao dịch
khá ổn định trong một thời gian dài trước đó, còn so với cùng kỳ 2011 giảm tới gần
9


50%. Giá cà phê Arabica giao kỳ hạn trên thị trường New York cũng giảm xuống
115 Uscent/lb; giảm 19% so với đầu tháng 6/2011 và cùng kỳ năm ngoái.
Tuy nhiên, giá cà phê khó có thể tăng nhanh do nguồn cung vẫn ở trong tình
trạng dư thừa. Về dài hạn, giá cà phê có thể hồi phục nhưng chắc khó có thể trở lại
mức giá kỷ lục của những năm 70 hay đầu thập niên 90 của thế kỷ 20.
II. Thực trạng năng lực cạnh tranh của ngành cà phê Việt Nam.
1. Về sản xuất.
Cây cà phê đầu tiên được đưa vào Việt Nam từ năm 1870, mãi đến đầu thế kỉ 20
mới được phát triển trồng ở một số đồn điền của người Pháp. Năm 1930 ở Việt
Nam có 5900 ha. Trong thời kì những năm 1960 – 1970, cây cà phê được phát triển
ở một số nông trường quốc doanh ở các tỉnh miền Bắc, khi cao nhất (1964 – 1966)
đã đạt tới 13000 ha song không bền vững do sâu bệnh ở cà phê Arabica và do các
yếu tố tự nhiên không phù hợp với cà phê Robusta nên một số lớn diện tích cà phê
phải thanh lý.
Cho đến năm 1975, đất nước thống nhất, diện tích cà phê của cả nước có khoảng
13000 ha, cho sản lượng 6000 tấn. Sau 1975, cà phê ở Việt Nam được phát triển
mạnh tại các tỉnh Tây Nguyên nhờ có vốn đầu tư các hiệp định hợp tác liên chính
phủ với các nước: Liên Xô cũ, CHDC Đức, Bungary, Tiệp Khắc, Ba Lan, đến năm
1990 đã có 119300 ha. Trên cơ sở này, từ năm 1986, phong trào tròng cà phê phát
triển mạnh trong nhân dân. Đến nay đã có trên 390000 ha, đạt sản lượng gần
700000 tấn.
Ngành cà phê nước ta đã có những bước phát triển nhanh vượt bậc. Chỉ trong
vòng 20 năm trở lại đây chúng ta đã đưa sản lượng cà phê nước ta tăng lên hàng

trăm lần. Hiện nay, cà phê Việt Nam đang trực tiếp xuất khẩu sang 50 nước với khối
lượng lớn đứng thứ 3 thế giới. Mức tăng trưởng lượng cà phê xuất khẩu hàng năm
khá lớn.
Bảng 1: Thị trường chủ chốt xuất khẩu cà phê thô của Việt Nam, nửa đầu niên
vụ 2009/2010 và niên vụ 2010/2011
% thay đổi của
Niên vụ 2009/2010 Niên vụ 2010/2011 niên vụ 2010/11
(T10/2009–T3/2010) (T10/2010–T3/2011) so với niên vụ
2009/10
Thị trường
STT
xuất khẩu
Khối
Khối
Giá trị
Giá trị
lượng
lượng
Khối
Giá trị
(nghìn
(nghìn
lượng
(nghìn
(nghìn
USD)
USD)
tấn)
tấn)
1 Hoa Kỳ

74
116.455
97
208.803
31%
79%
2 Đức
81
116.008
74
151.440
-9%
31%
3 Bỉ
25
34.428
74
143.267
196%
316%
4 Ý
34
47.265
57
109.283
68%
131%
5 Tây Ban Nha
34
46.077

42
81.150
24%
76%
6 Hà Lan
9
12.938
25
48.803
178%
277%
7 Nhật Bản
25
38.935
22
51.133
-12%
31%
10


8
9
10
11
12
13
14
15
16


Hàn Quốc
Singapore
Thuỵ Sĩ
Vương Quốc Anh
Nga
Trung Quốc
Algeria
Pháp
Nước khác
Tổng cộng

15
3
18
19
15
9
12
7
135
515

20.977
4.254
23.245
24.640
19.620
12.496
16.899

9.633
181.531
725.401

18
16
15
15
14
13
13
12
94
601

32.699
30.472
30.475
30.955
25.925
23.968
24.643
22.395
178.772
1.194.183

20%
433%
-17%
-21%

-7%
44%
8%
71%
-30%
17%

56%
616%
31%
26%
32%
92%
46%
132%
-2%
65%

Nguồn: Hiệp hội Cà phê Ca cao Việt Nam, Tổng cục Hải quan Việt Nam.
Cà phê hiện đang là mặt hàng nông sản xuất khẩu có giá trị lớn đứng thứ hai sau
gạo. Giá trị cà phê xuất khẩu thường chiếm gần 10% tổng kim ngạch xuất khẩu
hàng năm. Ngay cả những thị trường khó tính như Mỹ, Đức, Bỉ … cũng dần bị cà
phê Việt Nam chinh phục.
Bảng 2: Sản lượng cà phê của Việt Nam theo năm (tính từ tháng 10 đến tháng 9)
2008/20092009/20102010/2011
Thời gian bắt đầu niên vụ
10/2008
Sản lượng (hạt cà phê xanh, nghìn tấn)1.080
Sản lượng trung bình (tấn/ha)
2,16


10/2009
1.050
2,09

10/2010
1.124
2,10

Nguồn: Bộ Nông nghiệp & PTNN, FAS.
Do thời tiết mưa kéo dài trong thời gian ra hoa và thu hoạch cây cà phê tại Đắk
Lắk và Lâm Đồng nên sản lượng cà phê nước ta niên vụ 2009/2010 giảm xuống còn
17,7 triệu bao (tương đương, giảm 3% so với niên vụ trước). Việc cây cà phê ra hoa
muộn và không đồng đều cũng là nguyên nhân khiến việc thu hoạch gặp nhiều khó
khăn, nhất là khi hạt cà phê đã chín và còn xanh cùng mọc trên cùng một cây. Điều
kiện thời tiết không thuận lợi cũng làm cho chất lượng và kích thước hạt cà phê
không được đồng đều. Ngoài ra, thiếu nhân lực cũng khiến cho chi phí thuê nhân
công thu hoạch cao hơn so với niên vụ trước. Mưa xối xả tại một số vùng trong thời
gian thu hoạch cũng khiến người nông dân gặp nhiều khó khăn trong việc sấy khô
cà phê. Đó là lí do sản lượng trung bình niên vụ 2009/2010 khoảng 2,09 mét tấn/ha,
thấp hơn 3% so với niên vụ trước.
Bảng 3: Tình hình sản xuất cà phê nước ta
2009

2010

2011

2008/2009


2009/2010

2010/2011

Thời gian bắt đầu niên Thời gian bắt đầu niên Thời gian bắt đầu
vụ:
vụ:
niên vụ:
11


Tháng 10 năm 2008
Số
Số liệu báo cáo
liệu
hàng năm
mới
Official
Diện tích gieo
trồng (nghìn 531
ha)
Diện tích thu
hoạch (nghìn 500
ha)
Cây mang hạt
620
(triệu cây)
Cây không
mang hạt (triệu 75
cây)

Tổng số lượng
695
cây (triệu cây)
Số lượng dự trữ
ban đầu (nghìn 1.561
bao)
Sản lượng cà
phê Arabica
480
(nghìn bao)
Sản lượng cà
phê Robusta 17.520
(nghìn bao)
Sản lượng cà
phê khác
0
(nghìn bao)
Tổng sản lượng
18.000
(nghìn bao)
Cà phê hạt
nhập khẩu
70
(nghìn bao)
Cà phê rang &
nguyên hạt
1
nhập khẩu
(nghìn bao)
Cà phê hoà tan

25
(nghìn bao)

Tháng 10 năm 2009

Tháng 10 năm 2010

Số
Số liệu báo cáo Số liệu Số liệu báo cáo
liệu
hàng năm
mới hàng năm
mới

Post

Data Official Post

Data Official

531

0

536

536

0


0

500

0

504

504

0

0

620

0

629

629

0

0

75

0


80

80

0

0

695

0

709

709

0

0

894

1.561 2.130

1.417 2.168

1.747

480


480

450

480

450

450

Post Data

17.520 17.520 17.050

17.050 17.050

18.253

0

0

0

0

0

0


18.000 18.000 17.500

17.500 17.500

18.733

75

75

75

75

75

80

1

1

1

1

1

1


25

25

25

25

25

27

12


Tổng nhập
khẩu

96

101

Tổng cung

19.657

18.995 19.662 19.731

19.018 19.769


20.588

16.333 16.283 16.675

16.667 16.667

16.667

25

42

25

40

45

50

156

105

110

100

110


115

Cà phê hạt xuất
khẩu (nghìn
16.333
bao)
Cà phê rang &
nguyên hạt
25
xuất khẩu
(nghìn bao)
Cà phê hoà tan
105
(nghìn bao)
Tổng xuất khẩu
16.463
(nghìn bao)
Cà phê rang &
nguyên hạt
được
964
tiêu thụ trong
nước (nghìn
bao)
Cà phê hoà tan
được tiêu thụ
100
trong nước
(nghìn bao)
Tổng tiêu thụ

trong nước
1.064
(nghìn bao)
Sử dụng trong
nước (nghìn 2.130
bao)
Tổng lượng
phân phối
19.657
(nghìn bao)
Sản lượng có
thể xuất khẩu 16.936
(nghìn bao)

101

101

101

101

108

16.514 16.430 16.810

16.807 16.822

16.832


964

964

1.005

1.005 1.080

1.115

100

100

110

110

135

120

1.064 1.064 1.115

1.115 1.200

1.250

1.417 2.168 1.806


1.096 1.747

2.506

18.995 19.662 19.731

19.018 19.769

20.588

16.936 16.936 16.385

16.385 16.300

17.483

Nguồn: FAS.
Chính phủ vẫn tiếp tục khuyến khích nông dân áp dụng GAP - một công cụ
nhằm nâng cao sản lượng và duy trì tính bền vững trong sản xuất. Viện Khoa học
Kỹ thuật Nông lâm nghiệp Tây Nguyên cũng tiến hành nghiên cứu, lựa chọn và cho
lai nhiều giống cà phê mới đồng thời hỗ trợ kỹ thuật cho nông dân trong việc thay
13


thế các cây cà phê lâu năm cho phù hợp với điều kiện của khu vực canh tác và thu
được lợi nhuận cao.
2. Về công nghệ.
Sau 1975, khi đi vào sản xuất phát triển sản xuất cà phê, chúng ta mới có một ít
xưởng chế biến cũ kỹ, chắp vá. Ở phía bắc có một số xưởng chế biến ở Đồng Giao,
Phù Quỳ với thiết bị lắp đặt từ năm 1960 – 1962 do CHDC Đức chế tạo. Ở phí nam

có một số xưởng của các doanh điền cũ như Rossi, Delphante để lại công suất
không lớn. Cùng với việc mở rộng diện tích trồng cà phê, chúng ta cũng đã bắt tay
vào xây dựng các xưởng chế biến mới, bắt đầu từ những thiết bị lẻ, rồi đến các dây
chuyền sản xuất sao chép theo mẫu của Hang – xa như nhà máy 1/5 Hải Phòng, nhà
máy A74 Bộ Công Nghiệp ở Thủ Đức – TP.HCM. Những năm gần đây, nhiều công
ty, nông trường đã xây dựng các xưởng chế biến mới khá hoàn chỉnh với thiết bị
nhập từ CHLB Đức, Brazil. Một loạt hơn chục dây chuyền chế biến cà phê của
hãng Pinhalense – Brazil được đưa vào Việt Nam. Tiếp đó lại xuất hiện nhiều
xưởng lắp ráp thiết bị do cơ sở công nghiệp Việt Nam chế tạo mô phỏng có cải tiến
công nghệ của Brazil. Như thế so với thời gian trước đây thì hiện tại vấn đề công
nghệ trong sản xuất và chế biến cà phê đã được quan tâm chặt chẽ hơn.
3. Về nguyên liệu.
Về nguyên liệu, nhờ có điều kiện tự nhiên, khí hậu thuận lợi và đất đai màu mỡ,
phì nhiêu nên đã tạo điều kiện cho các giống cà phê phát triển tốt. Cả nước hiện có
khoảng 390000 ha cà phê phân bố trên nhiều địa bàn từ bắc vào nam. Cây trồng
được chăm sóc tốt, đảm bảo chất lượng cho sản xuất. Vì vậy mà nguồn nguyên liệu
rất dồi dào, luôn đảm bảo cung cấp đủ sản lượng cho sản xuất, xuất khẩu và dự trữ.
4. Về lao động.
Nhờ tạo được công ăn việc làm và mang lại nguồn thu nhập ổn định thường
xuyên nên ngành cà phê đã thu hút hàng triệu lao đông. Trong đó chiếm một lượng
lớn là dân cư các vùng nông thôn, trung du và miền núi có điều kiện thuận lợi như
các tỉnh miền núi phía bắc, Tây Nguyên, Gia Lai…
Qua nhìn lại thực trạng phát triển ngành cà phê Việt Nam những năm qua cho
thấy ngành đã đạt được nhiều thành tựu đáng ca ngợi. Tuy nhiên, trong vài năm gần
đây do kích thích mạnh mẽ của giá cả thị trường cà phê đã ra khỏi kiểm soát của
ngành cũng như của Nhà nước. Chính vì thế mà sự tăng trưởng nhanh chóng với
mức độ lớn đã có tác động quan trọng trong việc góp phần đẩy ngành cà phê thế
giới đến mức thấp kỷ lục 30 năm lại đây. Ngành cà phê bước vào thời kỳ ảm đạm
và có phần hoảng loạn. Đài phát thanh và báo chí thường xuyên đưa tin nông dân
chặt phá cà phê ở nơi này, nơi khác… Có thể nói, đây là tình hình chung của ngành

cà phê toàn cầu và nó có tác động lớn đến ngành cà phê nước ta.
III. Những lợi thế và bất lợi của ngành cà phê Việt Nam
1. Lợi thế của ngành cà phê Việt Nam.
Qua đánh giá tổng quan về ngành cà phê Việt Nam trên đây có thể thấy trong
những năm gần đây, Việt Nam đã nhanh chóng trở thành một trong những nước sản
xuất cà phê cà phê hàng đầu thế giới, chiếm lĩnh được một thị phần đáng kể, có mặt
trển 50 quốc gia, là nguồn thu ngoại tệ quan trọng sau thủy hải sản và gạo. Có được
những thành tựu đó là do ngành cà phê Việt Nam đã có những lợi thế to lớn, giúp
ngành phát triển.
14


2. Lợi thế khách quan.
Việt Nam có thể mạnh về trồng cây cà phê do điều kiện đất đai và khí hậu thuận
lợi. Đất đỏ bazan, rất thích hợp với cây cà phê, được phân tán rộng khắp lãnh thổ,
trong đó tập trung nhiều ở hai vùng Tây Nguyên và Đông Nam Bộ với diện tích
hàng triệu ha. Khí hậu nhiệt đới gió mùa, lượng mưa phân bố đều các tháng trong
năm, nhất là các tháng cà phê sinh trưởng. Cây cà phê cần hai yếu tố cơ bản là đất
và nước thì cả hai yếu tố đó đều có ở Việt Nam.
Hơn thế nữa với nguồn nhân lực dồi dào, giá nhân công lại rẻ và năng xuất lao
động cao đã góp phần giảm chi phí đầu vào, tạo điều kiện hạ giá thành sản phẩm.
Nhờ đó giúp nâng cao khả năng cạnh tranh của cà phê Việt Nam trên thị trường
quốc tế. Ngoài ra, do nhu cầu tiêu dùng cà phê trên thế giới tăng nhanh nên sản
phẩm cà phê cũng ngày càng được tiêu thụ mạnh.
3. Lợi thế chủ quan.
Với môi trường chính trị ổn định được cả thế giới công nhận, đã tạo điều kiện
cho các doanh nghiệp nước ngoài yên tâm khi làm ăn với Việt Nam. Đường lối đổi
mới của Đảng và Nhà nước đã tạo môi trường thuận lợi để phát triển sản xuất và
xuất khẩu cà phê. Như chính sách giao quyển sử dụng ruộng đất, vườn cây cho
người lao động đã nâng ý thức làm chủ lên cao, nhờ vườn cây được chăm sóc tốt,

đầu tư thâm canh tăng cao, đát đai được sử đụng triệt để. Ngoài ra ngay từ năm
1994, thủ tướng chính phủ đã chỉ đạo thành lập quỹ hỗ trợ hay bảo hiểm ngành cà
phê (Văn bản số 140/TB ngày 1/11/1994 của văn phòng chính phủ). Các năm sau,
chính phủ liên tiếp chỉ đạo và yêu cầu Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn chủ
trì và phối hợp với Bộ Tài chính, Ban vật giá chính phủ, Bộ Thương mại xây dựng
quỹ hỗ trợ hay quỹ bảo hiểm cho ngành cà phê. Chính phủ chủ trương ngân sách
Nhà nước sẽ hỗ trợ ban đầu một lần khi thành lập quỹ (Văn bản số 589/KTTH ngày
3/2/1997 của chính phủ). Ngoài ra còn huy động ngân sách Nhà nước để giúp đỡ
nông dân qua khỏi những giai đoạn khó khăn như mua cà phê tạm trữ để nâng cao
giá cho nông dân, miễn thuế nông nghiệp cho đất trồng cà phê, hoãn nợ và tiếp tục
cho nông dân vay tiền chăm sóc vườn cây… Bên cạnh đó, những sửa đổi các chính
sách hành chính cho nhanh và đơn giản thuận tiện, cùng với các chính sách mở cửa
thu hút đầu tư, kêu gọi đầu tư cũng góp phần phát triển ngành. Đây chính là những
thế mạnh, lợi thế của cà phê Việt Nam trên con đường cạnh tranh quốc tế.
4. Những hạn chế của ngành cà phê Việt Nam và nguyên nhân.
Tuy có nhiều lợi thế và thu được những thành quả đáng khích lệ nhưng trong tình
hình diễn biến phức tạp của thị trường hiện nay với sự cạnh tranh ngày càng gay
gắt, ngành cà phê Việt Nam đã và đang bộc lộ những nhược điểm và hạn chế từ sản
xuất đến xuất khẩu, ảnh hưởng đến năng lực cạnh tranh của ngành.
Vấn đề đặt ra lớn nhất trong xuất khẩu cà phê Việt Nam hiện nay là tính bền
vững chưa cao. Những năm gần đây, tuy sản lượng xuất khẩu nhanh nhưng giá cả
không ổn định, trong đó một số năm giảm sút lớn nên kim ngạch xuất khẩu tăng
chậm hoặc giảm sút. Vấn đề này có liên quan đến sản xuất, chế biến và xuất khẩu,
dẫn đến cung vượt cầu, công nghệ chế biến bảo quản thu hoạch không đáp ứng
được yêu cầu tăng sản lượng và chất lượng, thị trường xuất khẩu chưa ổn định.
Biểu hiện cụ thể là:
4.1 Tính bền vững của ngành cà phê Việt Nam chưa cao.
15



Thật thế, thị trường cà phê Việt Nam phụ thuộc chặt chẽ vào thị trường quốc tế.
Khi thị trường cà phê quốc tế sôi động làm cho hoạt động thu mua, thu gom nhộn
nhịp, việc tiêu thụ cà phê ở cá hộ sản xuất thuận lợi. Khi thị trường quốc tế thu hẹp,
cà phê tụt giá, thị trường thu mua nội địa sẽ chao đảo, ách tắc, việc tiêu thụ của các
sản xuất gặp nhiều khó khăn. Giá bán ra không bù đắp đủ chi phí sản xuất, lượng
hàng tồn nhiều gây nên ứ đọng vốn.
Một dẫn chứng thực tế trong lịch sử phát triển cà phê Việt Nam là niên vụ
2007/2008, khi thị trường cà phê thế giới giảm mạnh đã gây ra những ảnh hưởng
lớn đến thị trường cà phê trong nước. Theo báo cáo của Tổng công ty cà phê Việt
Nam, trong 9 tháng đầu năm 2008, toàn Tổng công ty đã xuất khẩu được lượng cà
phê bằng 255,3 % so với cùng kỳ năm 2007, nhưng kim ngạch xuất khẩu chỉ bằng
131,6 %, chủ yếu do giá trị xuất khẩu cà phê (FOB) giảm mạnh và liên tục từ đầu
năm 2000, tính ra giá xuất khẩu bình quân 9 tháng đầu năm 2008 chỉ bằng 51,6% so
với mức giá bình quân cùng kỳ năm 2007 (709,8/1376 USD/tấn). Có thể nói, đây là
mức giá thấp nhất trong vòng 8 năm từ năm 2000 cho đến năm 2008. Tình hình
thực tế đó đã gây ra những khó khăn thua thiệt to lớn cho cả người sản xuất và các
nhà kinh doanh xuất khẩu cà phê Việt Nam. Cũng theo số liệu báo cáo của Tổng
công ty cà phê Việt Nam, trong 9 tháng đầu năm 2008 các doanh nghiệp sản xuất và
kinh doanh cà phê đã phải chịu lỗ xấp xỉ 84 tỉ đồng; trong khi đó lượng cà phê tồn
kho tính đến đầu tháng 10/2008 là xấp xỉ 30000 tấn.
Qua nhìn nhận lại niên vụ cà phê 2007/2008 trên đây có thể khẳng định lại tính
bền vững của ngành cà phê chưa cao, còn phụ thuộc nhiều vào thị trường thế giới.
4.2 Chất lượng cà phê chưa cao.
Chất lượng cà phê Việt Nam còn thấp chưa tương xứng với lợi thế về đất đai và
khi hậu Việt Nam, còn khoảng cách xa so với yêu cầu của thị trường thế giới. Ông
Daniele Giovannucci, cố vấn cao cấp của Ngân hàng Thế giới, lấy hình ảnh Brazil,
một đất nước sản xuất cà phê hàng đầu thế giới và so sánh: “Chất lượng ổn định là
điều dễ nhận thấy nhất đối với cà phê Brazil, trong khi đó vấn đề này đối với cà phê
Việt Nam thì ngược lại” Cà phê loại I chiếm từ 16 -18%, loại II A chiếm tới trên
70%, còn lại là loại thấp hơn… Giá cà phê Robusta II 5% của Việt Nam thấp hơn

giá trị cf phê cùng loại củ Indonesia khoảng 90 USD/tấn, giá cà phê Robusta I (trên
sàng 16) thấp hơn giá cà phê Uganda (trên sàng 15) đến 200 USD/tấn. Các chuyên
gia về lĩnh vực này từ Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn đánh giá, tình trạng
giảm sút chất lượng cà phê xuất khẩu nước ta thời gian qua là từ nhiều yếu tố.
Ngay từ khâu chọn giống đã tồn tại nhiều bất cập. Giống cà phê ở nước ta từ
trước đến nay vẫn chủ yếu là do bà con nông dân tự chọn, ươm giống và trồng nên
không đảm bảo chất lượng. Cây phát triển kém, hạt nhỏ, đen, tỷ lệ đồng đều giữa
các hạt thấp. Đầu tư trong lĩnh vực thủy lợi để tưới tiêu cho cà phê đạt thấp (22,4%
tổng diện tích). Nhiều vùng vào mùa khô hạn không đủ nước tưới, ảnh hưởng xấu
đến quá trình sinh trưởng của cây. Thêm nữa, cà phê nước ta vẫn thu hái theo kiểu
tuốt cành là phổ biến, quả xanh chín lẫn lộn, dẫn đến chất lượng cà phê chế biến
thấp, tỷ lệ tổn thất sau thu hoạch cũng cao (thu hái xanh 50% có tỷ lệ tổn thất lên
đến 8%).
Ngoài ra, khâu chế biến cũng còn nhiều bất cập, góp phần ảnh hưởng không nhỏ
đến chất lượng cà phê. Trong khâu chế biến nước ta hiện nay vẫn sử dụng hai
phương pháp, chế biến khô và chế biến ướt. Trong đó phương pháp chế biến khô
16


vẫn được dùng phổ biến (khoảng 80% sản lượng). Phương pháp này cho hương vị
cà phê không bằng phương pháp ướt. Mặt khác lại phụ thuộc nhiều vào thời tiết, tốn
nhiều công phơi đảo, đòi hỏi diện tích kho và sân phơi lớn. Hiện nay, ở nước ta chế
biến cà phê vẫn chủ yếu ở quy mô gia đình (80% sản lượng cà phê). Vì thế tính
đồng bộ kém, thiết bị chế biến đơn giản, chủ yêu là các máy xát nhỏ. Hiện tại, cả
nước mới có hơn 50 dây chuyền chế biến công nghiệp, trong đó có 14 dây chuyền
nhập ngoại (một của Anh và ba của Brazil), số còn lại được chế tạo trong nước với
tổng công suất 100000 tấn nhân/năm (công suất mỗi dây chuyền từ 1 – 4 tấn/giờ).
Từ những thực tế trên đây, mặc dù chất lượng vốn có của cà vối (Robusta) trồng ở
nước ta được đánh giá cao: chất lượng thử nếm có 35% rất tốt; 50% tốt; 10% ở mức
trung bình và chỉ có 5% là loại trung bình kém. Song trên thực tế, chất lượng cà phê

nhân xuất khẩu của Việt Nam lại không thể hiện những chỉ tiêu trên. Mấy năm gần
đây, tỷ lệ cà phê xuất khẩu loại I ở nước ta chỉ đạt mức dưới 20%. Ngoài các
nguyên nhân trên, chất lượng cà phê xuất khẩu của ta bị giảm sút do sự đầu tư cho
công nghệ sau thu hoạch chưa tương xứng với tốc độ tăng nhanh của sản lượng.
Thêm vào đó, giá thành sản xuất cà phê ở nước ta so với các nước là tương đối cao
(tới hàng triệu đồng/tấn). Có thực tế này là do khấu hao cơ bẳn và xây dựng hạ tầng
chiếm tỷ trọng lớn trong giá thành. Chi phí về chế biến có sự dao động lớn (từ 800
– 1800đ/kg) phụ thuộc vào quy mô, loại hình và mức độ trang bị. Theo ý kiến của
các doanh nghiệp xuất khẩu cà phê, vấn đề đánh giá chất lượng cà phê của nước ta
cũng có nhiều bất cập với các tiêu chuẩn quốc tế, gây ảnh hưởng không nhỏ tới hiệu
quả xuất khẩu. Cách tính lỗi của tiêu chuẩn Việt Nam quy định theo % trong khi
tiêu chuẩn thị trường kỳ hạn Luôn Đôn tính lỗi theo cách điểm. Tiêu chuẩn Việt
Nam quy định kích cỡ hạt trên sàng số 16 (6,3mm), trong khi nhiều khách nước
ngoài lại yêu cầu cà phê loại kích thước trên sàng là số 18 (tức là 7,15 mm). Những
bất đồng trong cách xác định tiểu chuẩn trên đây đã ảnh hưởng không nhỏ đến khả
năng xuất khẩu của cà phê Việt Nam. Vì vậy, thống nhất tiểu chuẩn trong đánh giá
chất lượng là việc làm cần thiết, tránh những bất lợi cho ngành cà phê nước ta.
4.3 Thiếu tính đồng bộ giữa các khâu.
Ngành cà phê Việt Nam vẫn chưa gắn sản xuất với chế biến, thu mua, xuất
khẩu. Thực trạng hiện tại là người sản xuất chỉ biết sản xuất còn các khâu sơ chế,
chế biến, thu gom, xuất khẩu hoàn toàn do các doanh nghiệp, tư thương lo liệu.
Tình hình trên đã dấn đến hậu quả là sản lượng cà phê dư thừa, ứ đọng lớn, chất
lượng và giá cả giảm. Một số năm nhà nước phải bù lỗ lãi suất ngân hàng để mua cà
phê tạm trữ xuất khẩu. Người trồng cà phê luôn trong cảnh thiếu thông tin và thông
tin không được cập nhật làm họ không nắm được giá cả diễn biến trong năm để có
phương hướng điều chỉnh mức cầu thích hợp với diễn biến của thị trường cho mùa
vụ tới. Thiếu thông tin người nông dân không còn kiểm soát được việc bán sản
phẩm, khi nào thì nên bán, bán với giá bao nhiêu, vì vậy thường xuyên bị ép giá.
Người trồng cà phê cho biết họ không nhận được sự giúp đỡ nào khi bán sản phẩm
cho những công ty chế biến hoặc xuất khẩu cà phê. Hơn nữa, việc sản xuất phân tán

tạo ra những khó khăn lớn trong việc tập trung nguồn hàng và giao hàng đúng hạn
theo hợp đồng đã kí kết. Với trên 150 đơn vị xuất khẩu và gần hàng chục công ty
nước ngoài đặt cơ quan đại diện tại Việt Nam để kính doanh, dẫn đến tình trạng lộn
xộn trong kinh doanh, tranh mua, tranh bán, làm giảm giá cà phê xuất khẩu và mất
uy tín đối với khách hàng. Việc chưa hình thành tập đoàn xuất khẩu cà phê Việt
17


Nam cho đến nay là nhược điểm về tổ chức và quản lý, cần phải được xem xét. Ở
Brazil, ủy ban các nhà xuất khẩu cà phê Brazil (Cecafe) đã được thành lập từ lâu,
đang chỉ đạo có hiệu quả mọi hoạt động xuất khẩu cà phê nước này, đông thời có
ảnh hưởng rất lớn đến thị trường cà phê thế giới.
4.4 Thiếu vốn.
Xét cho cùng, nguyên nhân sâu xa của sự yếu kém về chất lượng, sự bất cập
trong sản xuất và chế biến cũng là do nguồn kinh phí, nguồn vốn đầu tư. Thật thế,
người trồng cà phê ở Việt Nam đa phần là do các nông dân nghèo và vốn họ đầu tư
chủ yếu là vốn vay ngân hàng, phải trả lãi suất. Do đó việc đầu tư cho sản xuất có
phần hạn chế, ảnh hưởng đến sản lượng và chất lượng cà phê. Cho dù có nhiều
doanh nghiệp lớn tham gia vào kinh doanh cà phê thì khả năng tài chính vẫn chưa
đủ mạnh để có thể trang bị máy móc thiết bị hiện đại phục vụ cho sản xuất. Thế
nên, vốn đầu tư luôn là vấn đề đáng quan tâm, có ảnh hưởng rất lớn. Việc tìm giải
pháp hỗ trợ vốn là rất quan trọng cho ngành cà phê ở các tỉnh nói riêng và toàn
quốc nói chung. Tuy nhiên, thực hiện được các giải pháp hỗ trợ vốn không phải là
công việc dễ dàng. Đây vẫn là vấn đề bất cập đòi hỏi cần có giải pháp hợp lý. Trước
tình hình mất giá của cà phê trong một thời gian dài, hiệp hội các nước xuất khẩu cà
phê (ACPC) yêu cầu các nước thành viên giữ lại 20% lượng cà phê xuất khẩu ở mỗi
nước nhằm cân bằng cán cân cung cầu, kích thích cho giá cà phê quốc tế tăng lên.
Để bù lỗ cho người sản xuất và kinh doanh cà phê, nước đứng đầu thế giới về xuất
khẩu cà phê là Brazil bỏ ra 100 triệu USD, Colombia cũng chi tới 60 triệu USD.
Việt Nam cũng có chủ trương ủng hộ quyết định của ACPC và đang tìm giải pháp

hỗ trợ cho người trồng cà phê trong nước như khoản nợ cho người nông dân, lập
các dự án cho nông dân vay phân bón với lãi suất ưu đãi. Tuy nhiên, những chương
trình hỗ trợ đó ít thu được kết quả khả quan. Người trồng cà phê cho biết, các dự
án cho nông dân vay phân bón với giá ưu đãi với điều kiện ứng trước nên đành
chịu. Hơn nữa, các chương trình hỗ trợ này thường do cán bộ địa phương điều hành
phân phối và thu nợ nên họ cũng có tâm lý “ngại” những hộ nghèo vì sợ sau này họ
không trả được tiền phân bón. Thế nên khó khăn thì vẫn trồng chất, người nông dân
nghèo vẫn là người chịu thiệt nhất khi bị thị trường cà phê khủng hoảng. Đảm bảo
sự công bằng hợp lý trong hỗ trợ, đầu tư vốn cũng là vấn đề cần bàn tới.
Tuy nhiên, giải quyết được vấn đề cho vay thì vấn đề trả nợ lại là chuyện cũng
cần phải xem xét. Trương hợp vay vốn đối với cà phê Đăk Lak là một ví dụ. Doanh
số cho vay và thu nợ trên chủ yếu được thực hiện ở lĩnh vực thu mua xuất khẩu cà
phê (chiếm 82,4% doanh số cho vay và 79,7% doanh số thu nợ; phần còn lại là
khoản cho vay chăm sóc cà phê kinh doanh).
Thực hiện chỉ thị 06/2001/CT – NHNH của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước
Việt Nam, các ngân hàng đã tiếp tục cho vay để người dân và doanh nghiệp trong
nước có điều kiện chăm sóc duy trì vườn cà phê. Ở lĩnh vực thu mua, xuất khẩu, các
ngân hàng đã đáp ứng đầy đủ nhu cầu vay vốn của các doanh nghiệp.
Từ những thực tế trên, có thể thấy vấn đề nguồn vốn đầu tư cho ngành cà phê
còn rất nhiều bất cập, đòi hỏi phải có biện pháp giải quyết hợp lý, kịp thời, sớm
giúp ngành khắc phục khó khăn, đẩy mạnh cạnh tranh quốc tế.
4.5 Chưa chú trọng đến thị trường nội địa.

18


Bảng4: Tiêu thụ cà phê tại nước ta từ năm 2005 đến năm 2014 (đơn vị: nghìn
bao)
20052006200720082009 2010 2011* 2012**2013**2014**
Tiêu thụ cà phê

618 687 858 900 1,0641,1011,189 1,292 1,420 1,556
Nguồn: USDA, Vicofa, BMI. (*: ước tính; **: dự báo).
Tiêu thụ cà phê trong nước tăng chủ yếu là do kết quả tích cực của các chiến
lược marketing của các thương hiệu cà phê có phong cách châu Âu như Highlands
Coffee, Gloria Jean's, The Coffee Bean, Tea Leaf, và Illy. Nhiều người tiêu dùng
trung lưu phản ứng tích cực với các nỗ lực marketing của ngành cũng giúp cho xu
hướng mua cà phê sử dụng tại nhà phát triển mạnh. Tuy nhiên, theo Tổ chức Cà phê
quốc tế (ICO), tiêu thụ cà phê theo đầu người tại nước ta vẫn chỉ dừng ở mức 0,83
kg, thấp hơn nhiều so với Brazil (5,2kg/người), EU (4,83kg/người) và Hoa Kỳ
(4,13kg/người).
Trong khi tập trung lớn cho thị trường xuất khẩu, ngành cà phê Việt Nam đã bỏ
ngỏ thị trường nội địa, một bãi phù sa màu mỡ cho các nhà đầu tư nước ngoài. Các
đại gia thế giới đang tràn vào với những thương hiệu như Nestle, King, American
Eagle… Vì vậy bỏ qua thị trường trong nước, quá chú trọng đến thị trường xuất
khẩu là hướng đi chưa đúng đắn, cần được nhìn nhận và sửa đổi trong thời gian tới.

19


Chương 3
GIẢI PHÁP NÂNG CAO NĂNG LỰC CẠNH TRANH CHO NGÀNH CÀ
PHÊ VIỆT NAM
Nhiều dự báo về tình hình buôn bán và cung cầu cà phê cho thấy: trong những
năm tới, tình trạng cung vượt cầu vẫn là xu hướng chủ yếu và vì vậy giá cà phê khó
có khả năng phục hồi trở lại những thời điểm huy hoang. Điều đó cũng có nghĩa,
cạnh tranh trên thị trường thế giới ngày càng quyết liệt. Do đó, muốn đứng vững và
phát triển, không để bị loại trừ, ngành cà phê Việt Nam phải sớm có những hướng,
giải pháp để khắc phục những hạn chế, những tồn tại đang đe dọa đến năng lực
cạnh tranh của ngành.
1. Phương hướng.

Ngành cà phê Việt Nam hiện nay đang thực hiện điều chỉnh phương hướng
chiến lược nhằm vào những nội dung chủ yêu sau đây:
Tăng cường vốn đầu tư, tìm giải pháp huy động vốn hiệu quả.
Chuyển dịch cơ cấu cây trồng, xác định mục tiêu chiến lược cho ngành.
Sản xuất hàng hóa chất lượng cao, phù hợp yêu cầu của thị trường.
Áp dụng tiêu chuẩn chất lượng sản phẩm Nhà nước phù hợp với tiêu chuẩn
quốc tế, hạ giá thành sản phẩm.
Đổi mới công nghệ, thiết bị chế biến, xây dựng một hệ thống đồng bộ giữa các
khâu.
Đổi mới quan hệ mua bán, mở rộng thị trường cho cà phê Việt Nam, quan tâm
đầy đủ hơn đến thị trường nội địa.
Xây dựng thương hiệu và bảo vệ được thương hiệu của mình trên thị trường
quốc tế khi mà nước ta đang tham gia tổ chức thương mại quốc tế (WTO).
Làm tốt những phương hướng, chiến lược đã đề ra như trên chính là phát triển
một ngành cà phê bền vững ở Việt Nam, sẵn sàng cạnh tranh trên thị trường quốc
tế.
2. Giải pháp.
2.1 Tạo nguồn vốn đầu tư.
Với những thực tế đã được dẫn chứng ở trên, có thể khẳng định lại rằng vốn
đầu tư có tầm quan trọng to lớn đến mọi mặt hoạt động của ngành cà phê Việt Nam
và chất lượng sản phẩm. Do đó, tìm và tạo nguồn vốn luôn là vấn đề được đặt lên
hàng đầu. Đổi với Nhà nước, bên cạnh các hình thức trực tiếp, thì cần có sự hỗ trợ
gián tiếp cho nông nghiệp. Kinh nghiệm hiện đại hóa nông nghiệp ở một số nước
như Đài Loan, Thái Lan cho thấy ngoài những chương trình đầu tư trực tiếp về giao
thông, thủy lợi, điện khí hóa, tín dụng…(hiện nay chúng ta đã và đang thực hiện
từng bước những chương trình này), thì đầu tư gián tiếp cũng tỏ ra có hiệu quả. Đầu
tư gián tiếp là những chính sách ưu đãi về thuế khóa, bán điện, xăng dầu vật tư…
Hiệu quả của chính sách này sẽ làm hạ giá thành sản phẩm, tăng tính cạnh tranh.
Bên cạnh đó, Nhà nước cũng nên giao một phần các nguồn vốn trong đó có vốn xây
dựng cơ bản, vốn định canh, định cư, xóa đói giảm nghèo cho nông dân, cho các

doanh nghiệp kinh doanh cà phê (một lực lượng tích cực tham gia vào các chương
trình kinh tế xã hội tại các vùng sản xuất cà phê), và tạo điều kiện cho ngành cà phê
được sử dụng một phần nguồn vốn viện trợ phát triển chính thức từ ODA để xây
dựng cơ sở hạ tầng.
20


Đối với các doanh nghiệp, cần tăng cường huy động vốn và vay ngân hàng
nhanh chóng cổ phần hóa các doanh nghiệp cà phê để huy động vốn nhàn rỗi trong
các tầng lớp dân cư. Giải pháp này cần ưu tiên bán cổ phiếu cho người lao động
trực tiếp tham gia sản xuất, chế biến cà phê.
Về phía ngân hàng cần nghiên cứu cho các doanh nghiệp vay vốn với lãi suất
ưu đãi để các doanh nghiệp ổn định được chân hàng xuất khẩu. Ngoài ra, ngân hàng
cũng quan tâm giải quyết cho nông dân vay để mở rộng sản xuất. Thành lập hệ
thống tín dụng nông thôn để hỗ trợ vốn kịp thời cho nông dân bằng cách thành lập
các ngân hàng thương mại cổ phần, xây dựng các chi nhánh ngân hàng nông nghiệp
tại các vùng cà phê trọng điểm. Thêm nữa, nên giảm bớt thủ tục hành chính rườm
rà, gây lãng phí thời gian và tiền bạc trong việc giải quyết vay và hỗ trợ vốn.
Và cuối cùng việc khuyến khích, thu hút các doanh nghiệp nước ngoài đầu tư,
hỗ trợ vốn là việc làm cần thiết và mang lại hiệu quả to lớn.
2.2 Chuyển đổi cơ cấu cây trồng.
Ngành cà phê Việt Nam chủ trương đổi mới phương hướng sản xuất theo hai
hướng. Thứ nhất là giảm bớt diện tích cà phê Robusta, chuyển các diện tích cà phê
kém phát triển, không có hiệu quả sang các loại cây trồng lâu năm khác như cao su,
hạt điều, hồ tiêu…Thứ hai là mở rộng diện tích cà phê Arbica ở nơi có điều kiện khí
hậu, đất đai thật thích hợp.
Mục tiêu cuối cùng trong chiến lược này là giữ tổng diện tích cà phê không đổi
ở mức hiện nay, hoặc giảm chút ít, nằm trong khoảng 450000 ha đến 500000 ha,
nhưng cơ cấu chủng loại cà phê cần phải thay đổi. Trong đó cà phê Robusta là
350000 ha đến 400000 ha (giảm 100000 – 150000 ha). Cà phê Arbica là 100000 ha

(tăng 60000 ha so với kế hoạch cũ). Tổng sản lượng cà phê đảm bảo ở mức 600000
tấn tương đương 10 triệu bao so với hiện nay, giảm 5 triệu bao cà phê Robusta.
Tham khảo từ kinh nghiệm trong nước và quốc tế cho thấy sự chuyển dịch cơ cấu
này là hợp lý đối với nông nghiệp Việt Nam cũng như với thị trường cà phê quốc tế.
Điều kiện đất đai khí hậu ở Việt Nam cho phép phát triển nhiều loại cây trồng có
hiệu quả kinh tế cao như cao su, ca cao, hồ tiêu, hạt điều, cây ăn quả…giảm bớt đất
cà phê để nhường chỗ cho cây trồng khác là cần thiết.
Tất nhiên tiến độ chuyển dịch này nhanh hay chậm cũng còn tùy thuộc vào khả
năng cung cấp tài chính của Nhà nước cho nông dân vì đây cũng là một việc làm
tốn kém và đòi hỏi một sự chuyển giao kĩ thuật đầy đủ, chu đáo.
2.3 Nâng cao năng suất, chất lượng, hạ giá thành sản phẩm cà phê.
Nâng cao chất lượng cà phê Việt Nam đóng vai trò quan trọng. Các doanh
nghiệp xuất khẩu cà phê cần nghiên cứu và triển khai áp dụng hệ thống tiêu chuẩn
ISO 9000. Chỉ có áp dụng tốt hệ thống tiêu chuẩn này thì mới đạt được mục tiêu
nâng cao chất lượng sản phẩm vào thị trường khu vực và thế giới. Ngoài ra, Việt
Nam cũng cần tham gia vào chương trình phối hợp khuyến khích thương mại của
các nước ASEAN (gồm 15 mặt hàng nông – lâm – thủy sản, trong đó có mặt hàng
cà phê) để từ đó xây dựng tiêu chuẩn chất lượng chung phù hợp với tiêu chuẩn chất
lượng của WTO, tham gia luồng hàng cùng loại của các nước ASEAN vào thị
trường thế giới.
Việc bố trí cơ cấu giống hợp lý là hết sức cần thiết nhằm tăng năng suất, nâng
cao chất lượng và phòng chống sâu bệnh. Bên cạnh đó, cần có chính sách khuyến
21


khích nghiên cứu các giống mới có năng suất và chất lượng cao, đồng thời nâng
việc quản lý cây trồng và quy hoạch. Trong thời gian tới, công tác giống cần phát
triển theo các hướng xây dựng cơ cấu giống phù hợp với điều kiện sinh thái của
từng vùng, từng bước tăng diện tích cà phê chè ở miền Bắc và miền Trung. Cần tạo
điều kiện cho các trung tâm giống về vốn và thiết bị, tạo cơ hội cho cán bộ nghiên

cứu tiếp cận với các trung tâm giống của các nước trong khu vực và thế giới. Tăng
cường công tác khuyến nông thông qua hiệp hội cà phê Việt Nam phối hợp với
Tổng công ty cà phê Việt Nam thực hiện việc đào tạo tập huấn kĩ thuật trồng và
chăm sóc cà phê, có sự phối hợp giúp đỡ của Cục khuyến nông và Cục bảo vệ thực
vật Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn cũng như các trung tâm, chi cục của
từng địa phương. Công tác bảo vệ thực vật là không thể thiếu trong quá trình gieo
trồng, chắm bón cây cà phê. Trước hết các nhà sản xuất cà phê cần hợp tác với
trung tâm bảo vệ thực vật để triển khai chương trình phòng trừ sâu bệnh cho cây
trồng. Nhà nước có biện pháp tích cực để điều hành công tác nhập khẩu phân bón
nhanh, đúng chủng loại, từng bước khuyến khích người dân sử dụng phân bón hữu
cơ thay thế phân bón hóa học, tăng hiệu quả cây trồng, giảm ô nhiễm môi trường,
tiết kiệm chi phí phân bón trong sản xuất.
Ngoài ra, đội ngũ lao động kỹ thuật lành nghề đóng vai trò quan trọng trong
nâng cao năng suất và chất lượng sản phẩm. Các doanh nghiệp cà phê phải có kế
hoạch tuyển dụng và thường xuyên bồi dưỡng, tạo điều kiện để đội ngũ này được
phát triển. Đây là một việc làm quan trọng có tính chiến lược cao. Bởi chỉ có được
một đội ngũ cán bộ lao động cao mới biết sử dụng tốt các thiết bị máy móc, biết tạo
ra sản phẩm chất lượng với năng suất cao, hạ giá thành sản phẩm.
Để tăng độ hấp dẫn của sản phẩm các doanh nghiệp cần chú ý đến bao bì đóng
gói cà phê phù hợp với từng loại sản phẩm, thị trường, tập quán. Cà phê xuất khẩu
chủ yếu vận chuyển bằng đường biển, do đó bao bì phải có độ bền tốt, bảo vệ được
hàng hóa trong quá trình bốc xếp, bảo quản, vận chuyển. Bao bì của những sản
phẩm cà phê chế biến phải gọn, hợp vệ sinh, dễ trưng bày, giữ được màu sắc, hương
vị, hình dáng của sản phẩm và phản ánh đủ các thông tin chủ yếu về sản phẩm như
thành phần, thời hạn sử dụng, trọng lượng, giá cả… Việc thiết kế nhãn hiệu sản
phẩm nên theo hướng đơn giản, dễ gợi nhớ và mang ý nghĩa.
Nhưng chúng ta phải hiểu rằng sản phẩm tốt mới chỉ là bước đầu, sản phẩm ấy
phải được hoàn thiện một cách liên tục mới có khả năng duy trì khách hàng cũ cũng
như khách hàng mới. Các doanh nghiệp phải kiên trì lắng nghe ý kiến khách hàng
để biết những hạn chế trong sản phẩm của mình nhằm tìm cách cải tiến nâng cao

chất lượng sản phẩm. Ngoài ra, nghiên cứu sản phẩm đối phương cũng là yếu tố
giúp cải tiến sản phẩm ngày càng phù hợp với người tiêu dùng.
2.4 Đổi mới công nghệ.
Đầu tư công nghệ chế biến hiện đại cho ngành cà phê là điều hết sức cần thiết.
Để tạo đà cho các doanh nghiệp cà phê phát triển và ứng phó kịp thời với những
thay đổi về chất lượng, giá cả…cần tập trung máy móc thiết bị chế biến cà phê thô
ngay từ khi mới thu hoạch, nhằm đảm bảo chất lượng ổn định, đồng đều. Đồng thời
phải có dự án lựa chọn thiết bị hiện đại, đồng bộ và có hiệu quả cao kết hợp việc
nghiên cứu áp dụng các thiết bị chế biến nhỏ, gọn ở khu vực cà phê tư nhân.
Khuyến khich các doanh nghiệp kinh doanh cà phê tập trung đầu tư trang thiết bị để
chuyển từ xuất khẩu thô sang xuất khẩu cà phê chế biến. Phải sử dụng thêm nhiều
22


cụm chế biến công nghiệp bao gồm công nghệ chế biến ướt và khô, hệ thống sấy,
xay xát, đánh bóng, sân phơi, nhà kho…Một việc không kém phần cấp bách là
Tổng công ty cà phê Việt Nam phải sớm thành lập doanh nghiệp cơ khí thiết bị chế
biến để sản xuất và cung ứng các máy móc thiết bị chuyên dùng trong công nghiệp
cà phê. Đồng thời cần tập trung đầu tư vào xây dựng nhà máy chế biến cà phê hòa
tan tại các vùng sản xuất cà phê lớn, cà phê hòa tan có giá trị xuất khẩu cao, giá cả
ổn định, bảo quản lâu dài.
2.5 Xây dựng hệ thống đồng bộ giữa các khâu.
Để cải thiện hệ thống thu mua phân phối cà phê, các doanh nghiệp cà phê cần
tập trung cải tiến cách thức tổ chức thu mua cho phù hợp với từng vùng, từng loại
cà phê, trước khi thu hoạch nên có những đầu tư cho nông dân một cách hợp lý, khi
thu hoạch cần tập trung cao độ về vốn thu mua cà phê để thanh toán ngay cho nông
dân. Bên cạnh đó cũng cần xây dựng một hệ thống kho tàng phục vụ cho công tác
chế biến bảo quản cà phê ngay từ đầu nhằm giữ cho chất lượng cà phê ngày càng
cao, đảm bảo đủ chân hàng phục vụ tốt cho xuất khẩu.
Ngoài ra, việc hoàn thiện hệ thống tổ chức các doanh nghiệp cà phê có tác dụng

quan trọng đến phát triển ngành. Các doanh nghiệp sẽ thiết lập hệ thống marketing
chuyên nghiên cứu về thị trường sản phẩm, giá cả và có kế hoạch quảng cáo khuyến
mại cho phù hợp. Còn lại các doanh nghiệp vừa và nhỏ sẽ đóng vai trò như các vệ
tinh chuyên tổ chức thu mua, chế biến và cung ứng hàng xuất khẩu. Để đạt được
điều này các doanh nghiệp xuất khẩu và các doanh nghiệp làm nhiệm vụ cung ứng
hàng xuất khẩu phải gắn bó với nhau chặt chẽ, có kế hoạch phân chia lợi nhuận cụ
thể. Các doanh nghiệp lớn có trách nhiệm đầu tư, hỗ trợ về vốn, cơ sở hạ tầng,
những giải pháp cải tiến chất lượng, mẫu mã sản phẩm…cho người sản xuất và các
doanh nghiệp làm nhiệm vụ cung ứng, ngược lại các doanh nghiệp vừa và nhỏ có
trách nhiệm cung ứng hàng đảm bảo đúng chất lượng, mẫu mã theo yêu cầu xuất
khẩu và đúng thời gian, địa điểm, có như vậy thì việc sản xuất, chế biến, xuất khẩu
cà phê mới hoạt động có hiệu quả, việc thâm nhập thị trường thế giới chắc chăn sẽ
có những biến đổi mạnh mẽ.
2.6 Tổ chức hệ thống thu thập thông tin.
Kinh doanh cà phê của các doanh nghiệp hiện nay chủ yếu bằng hình thức mua
bán hợp đồng kỳ hạn, giá cả được xác định dựa vào giá giao dịch và phê trong ngày
của thị trường cà phê London (đối vơi cà phê Robusta) và thị trường New York (đối
với cà phê Arabica). Yếu tố quan trọng nhất của hình thức kinh doanh này là thông
tin và dữ liệu chính xác, kịp thời về thị trường thế giới để làm cơ sở phân tích dự
đoán thị trường, ra quyết định mua bán. Đây là điều quan trọng nhất và cũng chính
là điều chúng ta đang thiếu. Nguồn tin hạn hẹp duy nhất về thị trường thế giới mà
các doanh nghiệp có là mua từ hãng tin Reuters. Từ nguồn tin này và một số nguồn
tin hạn chế khác, kết hợp với kinh nghiệm và cảm tính kinh doanh của doanh
nghiệp để quyết định mua bán đầy rủi ro. Như vậy để nâng cao hiệu quả kinh
doanh, Nhà nước nên tổ chức hệ thống thu thập thông tin và phân tích thông tin để
cung cấp kịp thời cho doanh nghiệp làm cơ sở ra quyết định mua bán. Mô hình chợ
giao dịch cà phê Buôn Ma Thuột đã đáp ứng những nhu cầu đặt ra. Chợ giao dịch
tập trung hầu hết đại diện của các công ty kinh doanh cà phê trên toàn quốc. Tại đó
người bán, người mua có thể tham khảo giá cả, thậm chí còn được tư vấn, cung cấp
thông tin, dự báo cung cầu và biến động giá tăng giảm ra sao trong thời gian tới.

23


Điều này giúp họ có nhiều cơ hội để lựa chọn, phán đoán và quyết định nên bán sản
phẩm với giá bao nhiêu, cho đơn vị nào hoặc gửi hàng lại chờ giá lên…
Ngoài ra, các cơ quan ngoại giao ở nước ngoài có nhiệm vụ hỗ trợ phát triển
kinh tế trong nước thông qua việc cung cấp hiểu biết về đặc điểm thị trường (luật
pháp, chính sách kinh tế thương mại, các hiệp định mà Việt Nam đã ký, tập quán thị
trường, các đối thủ cạnh tranh, hỗ trợ các vấn đề pháp lý trong tranh chấp thương
mại…). Tổ chức tốt, chặt chẽ hệ thống thông tin sẽ giúp ngành cà phê Việt Nam
vững vàng hơn trên con đường hội nhập quốc tế, luôn chủ động và sẵn sàng.
2.7 Quan tâm hơn đến thị trương nội địa.
Theo hiệp hội ca cao Việt Nam (vicofa), một trong những giải pháp cho tình
trạnh cung cao hơn cầu hiện nay nằm ở chính thị trường nội địa. Đây cũng chính là
điêu mà những cường quốc sản xuất cà phê lớn trên thế giới như Brazil, Peru đã
làm thành công. Và theo Vicofa nhìn nhận rằng, kích cầu trong nước là một mục
tiêu mà Vicofa cần đạt đến. Bởi cũng như Brazil, Malaysia, doanh nghiệp Việt Nam
phải học tập các nước chính là tiêu thụ nội địa của họ rất lớn, nhờ đó giảm bớt số
lượng cà phê dư thừa. Hiện nay, Vicofa đang khuyến khích các hội viên mở rộng
cửa hang và tuyên truyền cho việc tiêu thụ cà phê đến những thành phố nhỏ và các
tỉnh xa xôi… Với hướng đi biết nhìn xa trông rộng, Vinacafe (Nhà máy cà phê Biên
Hòa) đã đi vào thị trường cà phê tan và từng bước giành lại thị phần trong nước.
Trước các đối thủ từ bên ngoài, sức cạnh tranh của Vinacafe không chỉ ở chất lượng
sản phẩm mà còn lợi thế từ tâm lý người tiêu dung, một trong những lợi thế sân
nhà. Khi chất lượng đã được khẳng định, long tự hào dân tộc là một khía cạnh cần
khai thác. Thương hiệu cà phê Việt Nam đến với người Việt Nam bằng con đường
đó. Như vậy, những gì mà nhà máy cà phê Biên Hòa đã làm được với Vinacafe cho
thấy rằng thị trường nội địa cũng là một mảnh đất màu mỡ cần được khai thác.
Không thể bỏ ngỏ thị trường nội địa cho sản phẩm ngoại tràn vào mà cần phải tích
cực giành lấy, có đứng vững trong nước thì ngành cà phê Việt Nam mới tự tin tiến

ra thị trường nước ngoài. Đây thực sự là giải pháp hữu hiệu trong tình hình hiện
nay, khi mà thị trường cà phê thế giới đang trong giai đoạn khó khăn.
2.8 Mở rộng thị trường cà phê và tăng cường hợp tác quốc tế.
Trên cơ sở đã chiếm lĩnh được thị trường trong nước, mở rộng thị trường toàn
cầu, tăng uy tín và vị thế cà phê Việt Nam là công việc không dễ dàng càn phải thực
hiện. Khối lượng cà phê xuất khẩu ngày một lớn không thể thụ động ngồi chờ ai
đến mua thì bán mà cần phải chủ động tạo thị trường, mở rộng thị trường. Đây là
một trong những quốc sách lớn của Nhà nước và nhiệm vụ chung của các ngành các
cấp. Nhà nước cần tạo nhiều cơ hội cho các doanh nghiệp ngành cà phê tiếp cận với
thị trường nước ngoài thông qua hệ thống thương mại, qua hội trợ triển lãm thương
mại quốc tế. Ngoài ra còn có mời cơ quan đại diện và sử dụng các phương thức
thương mại khác như đổi hàng, các hiệp định Chính phủ, Bộ Thương mại. Cơ quan
thường vụ ở các nước cần mở rộng hoạt động xúc tiến thương mại bằng nhiều hình
thức để quảng bá cà phê Việt Nam trên thị trường thế giới. Việt Nam đã gia nhập
ICO, ACPC và những tổ chức quốc tế khác có liên quan để tăng cường hợp tác kinh
tế thương mại, khoa học, công nghệ và phát triển nguồn nhân lực.
2.9 Xây dựng thương hiệu và bảo vệ được thương hiệu của mình trên thị trường
quốc tế khi mà nước ta đang tham gia tổ chức thương mại quốc tế (WTO).
24


Giá trị nội địa và giá trị quốc tế không còn khoảng cách khi Việt Nam gia nhập
tổ chức thương mại thế giới (WTO). Việt Nam có rất nhiều đặc sản. Vì vậy các
doanh nghiệp và cả nhà nước cần phải ý thức gìn giữ những giá trị này trong cuộc
chạy đua cạnh tranh thương mại toàn cầu.
Tuy nhiên, ảnh hưởng của việc thương hiệu cà phê bị doanh nghiệp nước ngoài
đăng ký độc quyền sẽ rất khó lường. Vấp phải sự cố này, việc xuất khẩu cà phê chắc
chắn sẽ gặp khó vì người tiêu dùng thế giới nhầm lẫn thương hiệu và vấp phải quy
định sở hữu độc quyền. Điều này sẽ ảnh hưởng đến uy tín và danh dự của doanh
nghiệp, kéo theo sản lượng xuất khẩu chắc chắn sụt giảm.

Đó cũng là câu chuyện về thương hiệu cà phê Buôn Ma Thuật. Theo đó, chưa
chắc mục đích doanh nghiệp nước ngoài đăng ký bản quyền thương hiệu cà phê
Buôn Ma Thuột hay Đăk Lăk là tranh giành khách hàng. Việc này có thể tác động
tiêu cực khác là ngăn chặn và hạn chế sự xuất hiện của sản phẩm cà phê Buôn Ma
Thuột, Đăk Lăk chính hiệu trên thị trường quốc tế.

25


×