Tải bản đầy đủ (.docx) (68 trang)

Thúc đẩy xuất khẩu hàng dệt may sang thị trường EU

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (580.89 KB, 68 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
Nền kinh tế thế giới đã đi qua những chặng đường đầy biến động và
thử thách, trải qua sự hưng thịnh cũng như suy thoái, vượt qua các cơn bão tài
chính các quốc gia hiểu được rằng xu thế hiện tại và tương lai của thế giới là
hoà bình, hợp tác và cùng phát triển.
Việt Nam, cũng như nhiều nước khác trên, đều cố gắng hoà nhịp với
dòng chảy chung của thế giới. Nhu cầu phát triển kinh tế, xây dựng đất nước
không cho phép chúng ta đứng ngoài xu thế, cuộc chơi chung của nhân loại.
Biểu hiện tích cực mới đây nhất thể hiện sự chủ động hội nhập của Việt Nam
vào nền kinh tế thế giới là việc chúng ta chính thức trở thành thành viên của
Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO). Việc gia nhập WTO đã đem lại cho
Việt Nam nhiều cơ hội để phát triển kinh tế, nhưng đồng thời cũng đặt ra
nhiều khó khăn, thách thức. Nền kinh tế Việt Nam có duy trì được tốc độ cao,
ổn định hay không hoàn toàn tùy thuộc vào khả năng cạnh tranh cũng như khả
năng ứng phó với những thử thách của nền kinh tế nói chung và của từng
ngành nói riêng.
Trước khi gia nhập WTO, Việt Nam đã có một chiến lược dài hạn
nhằm mục tiêu công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, trong đó tập trung vào
phát triển một số ngành công nghiệp chủ lực. Chiến lược này không nằm
ngoài mục tiêu chuẩn bị cả về lượng và chất để phát triển nền kinh tế, tạo chỗ
dựa vững chắc khi hội nhập vào nền kinh tế quốc tế.
Trong giai đoạn đầu của quá trình công nghiệp hóa, cũng như nhiều
nước khác trên thế giới, ngành dệt may đóng vai trò quan trọng trong nền kinh
tế Việt Nam. Với lợi thế là ngành vừa cung cấp hàng hoá trong nước, thu hút
nhiều lao động, đồng thời là ngành có lợi tức cao, đem lại nguồn thu ngoại tệ
lớn cho đất nước, công nghiệp dệt may luôn được chú trọng đầu tư, phát triển.
Chiến lược phát triển kinh tế, với việc nhấn mạnh tầm quan trọng của chuyển
đổi cơ cấu kinh tế và đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước bắt
đầu từ Đại hội VI (1986) Đảng Cộng Sản Việt Nam, và được cụ thể hoá và
phát triển ở các đại hội sau, đã đem lại cho ngành dệt may những động lực và
định hướng phát triển mới: “ Phát triển mạnh công nghiệp nhẹ, nhất là dệt,


may, da giầy, giấy, các mặt hàng thủ công mỹ nghệ; đầu tư hiện đại hoá dây
chuyền công nghệ, nâng chất lượng và sức cạnh tranh của sản phẩm; chuyển
dần việc gia công dệt may, đồ da sang mua nguyên liệu, vật liệu để sản xuất
hàng xuất khẩu; coi trọng nâng cao năng lực tiếp thị để mở rộng thị trường;
khắc phục sự lạc hậu của ngành sợi, dệt, gắn với phát triển bông và thị trường
tơ tằm….”


Những khởi sắc của ngành công nghiệp dệt may những năm gần đây,
đặc biệt là sau khi Việt Nam gia nhập WTO là một minh chứng rõ nét cho khả
năng vượt qua thách thức, vươn lên của ngành dệt may. Vấn đề đặt ra là,
trong những năm tới đây, khi phải đối mặt với sự cạnh tranh ngày càng gay
gắt, ngành dệt may còn đủ khả năng để cạnh tranh với các đối thủ có tiềm lực
ngày càng mạnh như Trung Quốc, Ấn Độ?
Xuất phát từ ý nghĩa thực tiễn và tầm quan trọng của ngành công
nghiệp dệt may đối với sự phát triển của nền kinh tế, đặc biệt là trong bối
cảnh nước ta đã là thành viên của WTO, em mạnh dạn chọn đề tài: ” Thúc
đẩy xuất khẩu hàng dệt may sang thị trường EU”. Trong quá trình thực hiện,
tuy có cố gắng nhưng không thể tránh khỏi sai sót mong thầy, cô góp ý để
những bài viết sau ngày càng hoàn thiện. Em xin chân thành cảm ơn !


Chương 1: Một số vấn đề lí luận chung về xuất khẩu và xuất khẩu dệt
may
I. Cơ sở lí luận về xuất khẩu
1. Khái niệm xuất khẩu
Hoạt động xuất khẩu hàng hoá là việc bán hàng hoá và dịch vụ cho một
quốc gia khác trên cơ sở dùng tiền tệ làm phương tiện thanh toán. Tiền tệ ở
đây có thể là ngoại tệ đối với một quốc gia hay đối với cả hai quốc gia.
Cơ sở của hoạt động xuất khẩu hàng hóa là hoạt động mua bán trao đổi

hàng hoá giữa các nước. Khi việc trao đổi hàng hoá giữa các quốc gia có lợi
thì các quốc gia đều quan tâm và mở rộng hoạt động này.
Thực tế cho thấy, nếu mỗi quốc gia chỉ đóng cửa nền kinh tế của mình,
áp dụng phương thức tự cung tự cấp thì không bao giờ có cơ hội để vươn lên,
củng cố thế lực của mình trên trường quốc tế và nâng cao đời sống nhân dân.
Hoạt động xuất khẩu là hình thức cơ bản của hoạt động ngoại thương
đã xuất hiện rất lâu đời và ngày càng phát triển. Tuy hình thức cơ bản là trao
đổi hàng hoá và dịch vụ giữa các nước nhưng hiện nay nó đã được biêủ hiện
dưới nhiều hình thức khác nhau.
Hoạt động xuất khẩu diễn ra trên mọi lĩnh vực, mọi điều kiện kinh tế,
từ xuất khẩu hàng hoá tiêu dùng cho đến xuất khẩu hàng hoá phục vụ sản
xuất, từ máy móc thiết bị cho đến các công nghệ kỹ thuật cao. Tất cả các hoạt
động trao đổi đó đều nhằm mục tiêu là đem lại lợi ích cho các quốc gia.
Hoạt động xuất khẩu diễn ra trên phạm vi rất rộng cả về điều kiện
không gian lẫn điều kiện thời gian. Nó có thể chỉ diễn ra trong một hai ngày
hoặc kéo dài hàng năm, có thể được tiến hành trên phạm vi lãnh thổ của một
quốc gia hay nhiều quốc gia khác nhau.
2. Vai trò của xuất khẩu
2.1 Đối với nền kinh tế


Là một trong những nội dung cơ bản của hoạt động kinh tế đối ngoại,
xuất khẩu đã trở thành phương tiện để thúc đẩy phát triển kinh tế. Sự tăng
trưởng kinh tế đòi hỏi các điều kiện: nhân lực, tài nguyên, vốn và công nghệ.
Song hầu hết các ước đang phát triển và chậm phát triển đều nằm trong tình
trạng thiếu vốn, thiếu công nghệ và thừa lao động. Những yếu tố cơ bản này
trong nước chưa có khả năng đáp ứng thì buộc phải nhập khẩu từ bên ngoài
song muốn nhập khẩu được thì phải có ngoại tệ. Thực tiễn đã xác định xuất
khẩu là một mũi nhọn có ý nghĩa quyết định đối với quá trình phát triển kinh
tế của một đất nước. Công tác xuất khẩu được đánh giá quan trọng như vậy là

do:
+ Thứ nhất, xuất khẩu đã tạo nguồn vốn chính cho nhập khẩu, phục vụ
công nghiệp hóa đất nước. Công nghiệp hóa với những bước đi phù hợp là
con đường tất yếu để khắc phục tình trạng nghèo nàn lạc hậu. Tuy nhiên, công
nghiệp hoá đòi hỏi phải có số lưọng lớn vốn để nhập khẩu những máy móc
thiết bị, công nghệ tiên tiến.
Nguồn vốn nhập khẩu có thể tập trung từ các hình thức như: Đầu tư
nước ngoài, vay nợ, viện trợ, thu từ xuất khẩu…Các nguồn này tuy quan
trọng nhưng sẽ phải trả dù bằng cách này hay cách khác. Như vậy, nguồn vốn
quan trọng cho nhập khẩu phần lớn trông chờ vào xuất khẩu. Xuất khẩu quyết
định quy mô và tốc độ tăng trưởng của nhập khẩu.
Ở những nước kém phát triển với một nguyên nhân chủ yếu là thiếu
tiềm lực về vốn trong quá trình phát triển, nguồn vốn huy động từ nước ngoài
được coi là cơ sở chính nhưng mọi cơ hội đầu tư hoặc vay nợ của nước ngoài
và các tổ chức quốc tế chỉ tăng lên khi các chủ đầu tư và người cho vay thấy
được khả năng trả nợ của đất nưóc, trong đó họ rất chú trọng tới hoạt động
xuất khẩu.
+ Thứ hai, xuất khẩu đóng góp vào quá trình chuyển dịch cơ cấu nền
kinh tế, thúc đẩy sản xuất phát triển. Dịch chuyển cơ cấu kinh tế từ nông
nghiệp sang công nghiệp phù hợp với xu thế phát triển của nền kinh tế thế
giới là tất yếu đối với tất cả các nước kém phát triển. Có hai cách nhìn nhận
về tác động của xuất khẩu đối với sản xuất và chuyển dịch cơ cấu kinh tế:
- Xuất khẩu chỉ tiêu thụ những sản phẩm thừa so với nhu cầu nội địa.
Trong trường hợp nền kinh tế còn lạc hậu và chậm phát triển, sản xuất về cơ
bản còn chưa đủ tiêu dùng, nếu chỉ thụ động chờ ở sự “ thừa ra ” của sản xuất
thì xuất khẩu chỉ ở quy mô nhỏ và tăng trưởng chậm.


- Coi thị trường thế giới là hướng quan trọng để tổ chức sản xuất. Quan
điểm này còn tác động tích cực đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thúc đẩy sản

xuất phát triển. Ví dụ: Khi phát triển nghành dệt may phục vụ xuất khẩu thì
các nghành chết biến như bông, may mặc… cũng có cơ hội phát triển theo.
Xuất khẩu tạo điều kiện cho các ngành cùng có cơ hội phát triển. Ví
dụ: Khi phát triển ngành dệt phục vụ xuất khẩu thì các ngành chế biến nguyên
liệu như: bông, may mặc… cũng có cơ hội phát triển theo.
Xuất khẩu tạo điều kiện mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm, góp
phần ổn định sản xuất. Xuất khẩu là phương tiện quan trọng để tạo ra vốn thu
hút khoa học công nghệ mới từ các nước phát triển nhằm hiện đại hoá nền
kinh tế nội địa, tạo ra năng lực sản xuất mới.
Hoạt động xuất khẩu đóng vai trò thúc đẩy chuyên môn hoá, tăng
cường hiệu quả sản xuất của từng quốc gia. Khoa học ngày càng phát triển thì
phân công lao động ngày càng sâu sắc. Ngày nay¸ với một loại hàng hóa
người ta có thể thiết kế ở nước thứ nhất, chế tạo ở nước thứ hai, lắp đặt ở
nước thứ ba, tiêu thụ ở nước thứ tư và thanh toán cũng có thể ở nước khác.
Như vậy, hàng hoá sản xuất ra ở một nước nhưng có thể tiêu thụ ở
nhiều nước khác nhau cho thấy tác động ngược trở lại của hoạt động xuất
khẩu với chuyên môn hoá sản xuất, tạo điều kiện cho các quốc gia tiến hành
chuyên môn hóa một cách sâu sắc
Với các đặc điểm của đồng tiền thanh toán là ngoại tệ đối với một hoặc
cả hai bên, xuất khẩu góp phần làm tăng dự trữ ngoại tệ quốc gia. Đặc biệt đối
với những nước nghèo, đồng tiền có giá trị thấp, thì đó là nhân tố tác động rất
tích cực tới cung cầu ngoại tệ, tạo điều kiện cho nền sản xuất trong nước phát
triển . Thực tế đã chứng minh, những nước phát triển là những nước có nền
ngoại thương mạnh và năng động.
Hoạt động xuất khẩu với nhiều hình thức ngày càng đa dạng thể hiện sự
phát triển của phân công lao động quốc tế. Vì vậy, nó đã chiếm lĩnh vị trí
trung tâm trong các hoạt động kinh tế đối ngoại và thực hiện những chức năng
sau đây:
- Lưu thông hàng hoá giữa thị trường trong nước với thị trường nước
ngoài



- Tạo các nguồn lực từ bên ngoài, chủ yếu là vốn và công nghệ để phục
vụ cho sự phát triển của đất nước. Xuất khẩu hàng hóa¸ mang lại nguồn ngoại
tệ cho đất nước, là nguồn vốn quan trọng cho Công nghiệp hóa¸ va hiện đại
hoá đất nước. Trong khi đó, nhập khẩu tạo điều kiện cho việc tiếp nhận những
dây chuyền công nghệ, kỹ thuật tiên tiến, làm tăng hiệu quả sản xuất trong
nước.
- Xuất khẩu có thể làm thay đổi cơ cấu vật chất của tổng sản phẩm xã
hội và tổng thu nhập quốc dân nhằm thích ứng với nhu cầu tiêu dùng và tích
lũy.
- Xuất khẩu còn làm tăng hiệu quả của nền kinh tế bằng việc tạo ra một
môi trường kinh doanh thuận lợi cho việc sản xuất kinh doanh, tăng khả năng
khai thác lợi thế của một quốc gia.
+ Ba là, xuất khẩu tác động tích cực tới giải quyết công ăn việc làm và
cải thiện đời sống nhân dân. Tác động của xuất khẩu ảnh hưởng đến rất nhiều
lĩnh vực của cuộc sông. Sản xuất hàng hóa¸ xuất khẩu sẽ thu hút hàng triệu
lao động làm việc, tạo ra thu nhập ổn định, đồng thời tạo ra ngoại tệ để nhập
khẩu vật phẩm tiêu dùng đáp ứng nhu cầu ngày càng lớn của nhân dân.
+ Bốn là, xuất khẩu là cơ sở để mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại của
nước ta trên cơ sở vì lợi ích của các bên, đồng thời gắn liền sản xuất trong
nước với quá trình phân công lao động quốc tế. Xuất khẩu là một trong những
nội dung chính trong chính sách kinh tế đối ngoại của nước ta với các nước
trên thế giới vì mục tiêu dân giàu nước mạnh. Như vậy, có thể nói đẩy mạnh
xuất khẩu sẽ tạo ra động lực cần thiết giải quyết những vấn đề thiết yếu của
nền kinh tế. Điều này nói lên tính khách quan của việc tăng cường xuất khẩu
trong quả trình phát triển kinh tế.
2.2 Đối với một doanh nghiệp
Thông qua xuất khẩu các doanh nghiệp trong nước có cơ hội tham gia
và tiếp cận vào thị trường thế giới. Nếu thành công đây sẽ là cơ sở để các

doanh nghiệp mở rộng thị trường và khả năng sản xuất của mình. Xuất khẩu
kết hợp với nhập khẩu trong điều kiện nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần
sẽ góp phần đẩy mạnh liên doanh liên kết giữa các doanh nghiệp trong và
ngoài nước một cách tự giác, mở rộng quan hệ kinh doanh, khai thác và sử
dụng có hiệu quả các nguồn lực hiện có, giải quyết công ăn việc làm cho
người lao động.


Sản xuất hàng hóa, xuất khẩu giúp doanh nghiệp thu hút được nhiều lao
động vào làm việc tạo ra thu nhập ổn định, tạo ra ngoại tệ để nhập khẩu
nguyên vật liệu phục vụ cho sản xuất hàng hoá, đáp ứng nhu cầu thị trường.
Khi tham gia vào kinh doanh quốc tế tất yếu sẽ đặt các doanh nghiệp vào một
môi trường cạnh tranh khốc liệt mà ở đó nếu muốn tồn tại và phát triển được
thì đòi hỏi các doanh nghiệp phải không ngừng nâng cao chất lượng, cải tiến
mẫu mã, hạ giá thành sản phẩm. Đây sẽ là một nhân tố thúc đẩy hoạt động
kinh doanh của doanh nghiệp.
3. Nội dung của xuất khẩu
Chúng ta đều biết rằng, xuất khẩu là việc bán sản phẩm hàng hoá sản
xuất trong nước ra thị trường nước ngoài. So với hoạt động buôn bán trong
nước thì nó chịu ảnh hưởng của nhiều nhân tố phức tạp hơn do phải thực hiện
trong môi trường kinh doanh quốc tế. Vì vậy, nó được tổ chức thực hiện với
nhiều nghiệp vụ, nhiều khâu: từ nghiên cứu thị trường nước ngoài, lựa chọn
hàng hoá xuất khẩu, giao dịch đàm phán ký kết hợp đồng, tổ chức thực hiện
hợp đồng cho đến khi hàng hoá đến cảng và chuyển giao quyền sở hữu cho
người mua, hoàn thành thủ tục thanh toán. Mỗi khâu, mỗi nghiệp vụ đều phải
nghiên cứu kỹ lưỡng và đặt trong mối quan hệ lẫn nhau, tranh thủ nắm bắt
được các lợi thế nhằm đảm bảo xuất khẩu đạt hiệu quả cao nhất.
3.1 Nghiên cứu thị trường quốc tế
Có thể nói, đây là hoạt động đầu tiên cần tiến hành hết sức cẩn thận,
chu đáo. Nghiên cứu thị trường tốt tạo khả năng cho các nhà kinh doanh nhận

ra được quy luật vận động của từng loại hàng hoá cụ thể thông qua sự biến
đổi nhu cầu cung cấp và giá cả hàng hoá đó trên thị trường, giúp cho họ giải
quyết được những vấn đề thực tiễn kinh doanh, theo yêu cầu thị trường, khả
năng tiêu thụ và khả năng cạnh tranh của hàng hóa. Công việc này bao gồm:
3.1.1 Nghiên cứu thị trường hàng hoá thế giới:
Thị trường là một phạm trù khách quan gắn liền với sản xuất và lưu
thông hàng hoá, ở đâu có sản xuất và lưu thông hàng hoá thì ở đó có thị
trường. Nghiên cứu thị trường hàng hoá thế giới phải bao gồm việc nghiên
cứu toàn bộ quá trình sản xuất của một nghành cụ thể, tức là việc không chỉ
giới hạn ở lĩnh vực lưu thông mà cả lĩnh vực phân phối và tiêu dùng hàng
hoá. Những biến đổi trong quá trình tái sản xuất của một nghành sản xuất


hàng hóa cụ thể được biểu hiện tập trung trong lĩnh vực lưu thông hàng hoá
đó.
Nghiên cứu thị trường hàng hoá nhằm đem lại sự hiểu biết về quy luật
vận động của chúng. Mỗi thị trường hàng hoá cụ thể có quy luật vận động
riêng, quy luật đó được thể hiện qua những biến đổi nhu cầu, cung cấp giá cả
hàng hoá trên thị trường, nắm chắc các quy luật của thị trường hàng hoá để
vận dụng giải quyết hàng loạt các vấn đề của thực tiễn kinh doanh liên quan ít
nhiều đến vấn đề thị trường như thái độ tiếp thu của người tiêu dùng, yêu cầu
của thị trường đối với hàng hóa các nghành tiêu thụ mới, các hình thức và
biện pháp thâm nhập thị trường.
Trong nghiên cứu thị trường thế giới, đặc biệt khi muốn kinh doanh
xuất khẩu thành công, điều không thể thiếu được là phải nhận biết sản phẩm
xuất khẩu có phù hợp với thị trường và năng lực của doanh nghiệp hay không.
Muốn vậy, ta phải xác định các vấn đề sau:
- Thị trường cần mặt hàng gì?
- Tình hình tiêu dùng mặt hàng đó như thế nào?
- Mặt hàng đó ở thời kì nào của chu kì sống ?

- Tình hình sản xuất mặt hàng đó như thế nào?
- Tỷ suất ngoại tệ của mặt hàng đó?…
3.1.2 Dung lượng thị trường và các yếu tố ảnh hưởng:
Dung lượng thị trường là khối lượng hàng hoá được giao dịch trên một
phạm vi thị trường nhất định. Nhưng nó không xác định mà thay đổi tình hình
theo những nhân tố tổng hợp theo những giai đoạn nhất định. Có thể chia làm
ba nhóm nhân tố ảnh hưởng đối với dung lượng thị trường.
+Nhóm 1: Các nhân tố làm cho dung lượng thị trường biến đổi có tính
chất chu kỳ như sự vận động của tình hình kinh tế của các nước trên thế giới,
đặc biệt là các nước phương Tây, tính chất thời vụ trong quá trình sản xuất,
phân phối và lưu thông hàng hóa.
+Nhóm 2: Các nhân tố ảnh hưởng lâu dài đến sự biến đổi của dung
lượng thị trường như tiến bộ khoa học kỹ thuật và công nghệ, các biện pháp,
các chế độ chính sách của Nhà nước, thị hiếu, tập quán của người tiêu dùng
và ảnh hưởng của hàng hoá thay thế…


+Nhóm 3: Các nhân tố ảnh hưởng tạm thời tới dung lượng thị trường.
Nhóm nhân tố này có thể kể ra như: hiện tượng đầu cơ trên thị trường gây ra
những biến đổi về cung cầu, bão lụt hạn hán… cũng có thể gây ra những biến
đổi về cung cầu đối với những loại hàng hoá nhất định.
Như vậy, khi nghiên cứu thị trường các loại hàng hoá khác nhau phải
căn cứ vào đặc điểm của chúng để đánh giá đúng ảnh hưởng của các nhân tố,
xác định nhân tố chủ yếu có ý nghĩa quyết định tới xu hướng vận động của thị
trường trong giai đoạn hiện tại và tương lai. Đặc biệt, trong kinh doanh quốc
tế nói chung và kinh doanh xuất khẩu nói riêng, việc nắm vững dung lượng
thị trường giúp cho các nhà kinh doanh cân nhắc để đề ra những quyết định
kịp thời chính xác, nhanh chóng chớp lấy thời cơ, nhằm đạt được hiệu quả cao
nhất trong kinh doanh. Cùng với việc nghiên cứu dung lượng thị trường,
người kinh doanh còn phải nắm được nhiều thông tin khác như: tình hình kinh

doanh các mặt hàng đó trên thị trường, các đối thủ cạnh tranh của mình. Quan
trọng hơn nữa là phải nắm và hiểu được các điều kiện chính trị, luật pháp, văn
hoá, tập quán buôn bán ở từng khu vực để có thể hoà nhập với thị trường,
nhằm giảm tối đa những sơ xuất trong giao dịch kinh doanh.
3.1.3 Lựa chọn đối tác buôn bán
Mục đích của hoạt động này là lựa chọn bạn hàng sao cho công tác
kinh doanh an toàn và có lợi. Nội dung cần thiết để nghiên cứu lựa chọn đối
tác bao gồm:
- Quan điểm kinh doanh của thương nhân đó.
- Lĩnh vực kinh doanh của họ
- Khả năng vốn và cơ sở vật chất của họ.
- Uy tín và mối quan hệ trong kinh doanh của họ.
- Những người được uỷ quyền và phạm vi chịu trách nhiệm của họ đối
với nghĩa vụ của công ty.
Lựa chọn đối tác giao dịch để xuất khẩu tốt nhất nên chọn những người
nhập khẩu trực tiếp, hạn chế các hoạt động trung gian vì nó chỉ thích hợp khi
thâm nhập thị trường mới, mặt hàng mới… cần nắm chắc các thông tin thị
trường. Có thể nói, việc lựa chọn đối tác giao dịch có căn cứ khoa học là điều
kiện quan trọng để thực hiện thắng lợi các hoạt động mua bán trong thương
mại quốc tế. Song việc lựa chọn đối tác giao dịch cũng tuỳ thuộc một phần


vào kinh nghiệm của người nghiên cứu và truyền thống trong mua bán của
mình.
3.1.4 Nghiên cứu giá cả hàng hoá trên thị trường thế giới:
Giá cả là biểu hiện bằng tiền của giá trị hàng hoá, đồng thời biểu hiện
một cách tổng hợp các hoạt động kinh tế, các mối quan hệ kinh tế trong nền
kinh tế quốc dân như: quan hệ cung cầu hàng hoá, tích luỹ tiêu dùng…giá cả
luôn gắn liền với thị trường và chịu tác động của nhiều nhân tố. Trong kinh
doanh quốc tế, giá cả thị trường càng trở nên phức tạp do buôn bán ở các khu

vùc khác nhau, thời gian dài hơn, hàng vận chuyển qua nhiều nước với các
chính sách thuế khác nhau. Để thích ứng với sự biến động của thị trường, các
nhà kinh doanh tốt nhất là thực hiện định giá linh hoạt, phù hợp với mục đích
cơ bản của doanh nghiệp. Thông thường việc định giá dựa vào:
- Giá thành sản xuất sản phẩm.
- Sức mua và nhu cầu của người tiêu dùng.
- Giá cả các hàng hóa cạnh tranh
Ngoài ra các doanh nghiệp còn phải xem xét đến các quy định của
chính phủ nước chủ nhà và nước xuất khẩu để có thể định giá sản phẩm đáp
ứng đòi hỏi của các quy định này. Khi định giá cần tuân thủ các bước:
- Bước 1: Phân tích chi phí.
- Bước 2: Phân tích, dự đoán thị trường.
- Bước 3: Vùng giá và các mức giá dự kiến.
- Bước 4: Lựa chọn giá tối đa
- Bước 5: Xác định cơ cấu giá.
- Bước 6: Báo giá cho khách hàng.
Nghiên cứu giá cả được coi là vấn đề chiến lược vì nó ảnh hưởng trực
tiếp tới sức tiêu thụ và lợi nhuận của doanh nghiệp. Định giá đúng sẽ đem lại
thắng lợi cho nhà sản xuất, tránh cho họ những rủi ro thua lỗ.
3.1.5 Thanh toán trong thương mại quốc tế:


Thanh toán quốc tế là một khâu rất quan trọng trong kinh doanh xuất
nhập khẩu hàng hoá. Hiệu quả kinh tế trong kinh doanh xuất khẩu phần nhiều
nhờ vào sự lựa chọn phương thức thanh toán. Thanh toán là bước đảm bảo
cho người xuất khẩu thu được tiền và người nhập khẩu nhận được hàng.
Thanh toán quốc tế có thể hiểu đó là việc chi trả những khoản tiền tệ,
tín dụng có liên quan đến việc xuất nhập khẩu hàng hoá đã được thoả thuận
trong hợp đồng kinh tế. Trong xuất khẩu hàng hoá việc thanh toán phải xem
xét đến các vấn đề:

- Tiền tệ trong thanh toán quốc tế: Việc sử dụng tiền tệ nào được hai
bên thỏa thuận và được ghi rõ trong hợp đồng. Đồng tiền được chọn thường là
tiền tệ có khả năng chuyển đổi cao và ổn định. Ngoài ra còn cần phải xác định
tỷ giá dùng trong thanh toán và thời điểm xác định tỷ giá để tránh được những
rủi ro và tranh chấp có thể xảy ra sau này.
- Địa điểm thanh toán: Có thể ở nước người nhập khẩu hoặc ở nước
người xuất khẩu hoặc ở nước thứ ba. Nhưng trong thực tế việc xác định địa
điểm thanh toán là do sự so sánh lực lượng giữa hai bên quyết định, đồng thời
cũng còn thấy rằng dùng đồng tiền thanh toán của nước nào thì địa điểm
thanh toán thương ở nước ấy.
- Thời hạn thanh toán: Trong thanh toán quốc tế, điều kiện thời hạn
thanh toán trong các nghiệp vụ ngoại thương là phức tạp hơn cả, thường theo
các cách sau: thanh toán trước khi giao hàng( CBD ), thanh toán khi giao
hàng( COD ), thanh toán ngay sau khi giao bé chứng từ( CAD ), thanh toán
sau khi giao hàng… tuỳ thuộc vào mối quan hệ làm ăn giữa các bên và điều
kiện của người bán cũng như người mua mà có thể chọn một trong các cách
đó hay cũng có thể vận dụng kết hợp các kiểu thanh toán đó.
- Phương thức thanh toán: tức là chỉ người bán dùng cách nào để thu
tiền về, người mua dùng cách nào để trả tiền. Trong buôn bán, người ta có thể
lựa chọn nhiều phương thức thanh toán khác nhau để thu tiền về hoặc trả tiền,
nhưng xét cho cùng việc lựa chọn phương thức nào cũng đều xuất phát từ yêu
cầu của người bán là thu tiền nhanh, đầy đủ, đúng và yêu cầu của người mua
là nhập hàng đúng số lượng, chất lượng, đúng hạn. Các phương thức thanh
toán thường dùng trong ngoại thương gồm:
- Phương thức chuyển tiền
- Phương thức ghi sổ.


- Phương thức nhờ thu.
- Phương thức tín dụng chứng từ

- Phương thức thư ủy thác mua ( Authority to purchase, A/P)
- Thư đảm bảo trả tiền.
- Thanh toán qua tài khoản treo ở nước ngoài ( Escrow Account)
3.2 Lập phương án kinh doanh
Trên cơ sở những kết quả thu được trong quá trình nghiên cứu thị
trường, đơn vị kinh doanh lập phương án kinh doanh cho mình. Phương án
này là kế hoạch hoạt động của doanh nghiệp nhằm đạt tới những mục tiêu xác
định trong kinh doanh. Việc xây dựng phương án này bao gồm:
+ Đánh giá tình hình thị trường và thương nhân, phác hoạ bức tranh
tổng quát về hoạt động kinh doanh và những thuận lợi khó khăn.
+ Lựa chọn mặt hàng, thời cơ, điều kiện và phương thức kinh doanh.
Sự lựa chọn này phải có tính thuyết phục trên cơ sở phân tích tình hình có liên
quan.
+ Đề ra mục tiêu cụ thể: khối lượng, giá bán, thị trường xuất khẩu. Đề
ra và thực hiện các biện pháp để đạt được mục tiêu đó. Những biện pháp này
bao gồm: đầu tư vào cải tiến bao bì, ký kết hợp đồng kinh tế, quảng cáo, tham
gia hội chợ quốc tế, mở rộng đại lý…
+ Sơ bộ đánh giá hiệu quả kinh tế của việc kinh doanh thông qua các
chỉ tiêu chủ yếu như: Tỷ suất ngoại tệ, thời gian hoàn vốn, tỷ suất doanh lợi,
điểm hòa vốn…
3.3 Nguồn hàng cho xuất khẩu
Nguồn hàng cho xuất khẩu là toàn bộ hàng hóa của một công ty hoặc
một địa phương, một vùng hoặc toàn bộ đất nước có khả năng và bảo đảm
điều kiện xuất khẩu được. Khi nói đến nguồn hàng cho xuất khẩu phải gắn với
một địa danh cụ thể, không thể nói đến một nguồn hàng chung chung, không
phải là của ai, có đảm bảo chất lượng quốc tế hay không. Do vậy, không phải
toàn bộ khối lượng hàng hoá của một đơn vị, một công ty, một địa
phương,một vùng đều là nguồn hàng cho xuất khẩu mà chỉ một phần hàng
hóa đạt tiêu chuẩn chất lượng xuất khẩu mới là nguồn hang cho xuất khẩu.



Một nguồn hàng xuất khẩu mạnh là rất quan trọng đối với doanh nghiệp hoạt
động kinh doanh xuất khẩu vì nó góp phần đáp ứng kịp thời, chính xác nhu
cầu thị trường, thực hiện đúng hợp đồng với chất lượng tốt. Vì vậy, công việc
tạo nguồn hàng cho xuất khẩu là một công việc rất quan trọng đối với mỗi
doanh nghiệp.
Để tạo nguồn hàng cho xuất khẩu, các doanh nghiệp có thể đầu tư trực
tiếp hoặc gián tiếp cho sản xuất, có thể là thu gom hoặc có thể ký kết hợp
đồng mua với các chân hàng, các đơn vị sản xuất. Tuỳ theo đặc điểm của
ngành hàng mà người ta có thể tự sản xuất hoặc ký hợp đồng mua kết với việc
hướng dẫn kĩ thuật.
Công tác mua tạo nguồn hàng cho xuất khẩu bao gồm các công đoạn :
- Nghiên cứu nguồn hàng xuất khẩu: là nghiên cứu khả năng cung cấp
hàng xuất khẩu trên thị trường như thế nào? Khả năng cung cấp hàng được
xác định bởi nguồn hàng thực tế và nguồn hàng tiềm năng. Nguồn hàng thực
tế là nguồn hàng đã có và đang sẵn sàng đưa vào lưu thông. Với nguồn hàng
này chỉ cần thu mua, phân loại, bao gói là có thể xuất khẩu được. Nguồn hàng
tiềm năng là nguồn hàng chưa xuất hiện, nó có thể xuất hiện hoặc không xuất
hiện trên thị trường. Đối với nguồn hàng này các doanh nghiệp ngoại thương
phải có đầu tư, có đơn hàng, có hợp đồng kinh tế…thì người sản xuất mới tiến
hành sản xuất.
Nghiên cứu nguồn hàng xuất khẩu là nhằm xác định chủng loại mặt
hàng, kích cỡ, mẫu mã, công dụng, chất lượng, giá cả, thời vụ, những đặc
điểm riêng của từng loại mặt hàng. Mặt khác, nghiên cứu nguồn hàng phải
xác định được giá cả trong nước của hàng hoá so với giá cả quốc tế. Sau khi
đã tính đủ chi phí vào giá thu mua như chi phí thu mua hàng, vận chuyển, bao
gói, phân loại thì lợi nhuận thu về là bao nhiêu.
Cuối cùng, việc nghiên cứu nguồn hàng phải nắm được chính sách
quản lý của Nhà nước về mặt hàng đó. Mặt hàng đó có được phép xuất khẩu
hoặc có chính sách khuyến khích xuất khẩu hay không. Trong thực tế các

chính sách này có thể thay đổi do vậy, công tác dự báo có ý nghĩa hết sức
quan träng.
- Tổ chức hệ thống thu mua hàng cho xuất khẩu
Hệ thống thu mua bao gồm mạng lưới các đại lý, hệ thống kho hàng ở
các địa phương, các khu vực có mặt hàng thu mua. Hệ thống thu mua phải


gắn với các phương án vận chuyển hàng hoá, với điều kiện giao thông của các
địa phương. Sự phối hợp nhịp nhàng giữa thu mua và vận chuyển là cơ sở
đảm bảo tiến độ thu mua và chất lượng hàng hoá.
- Ký kết hợp đồng: Thông thường, các doanh nghiệp ngoại thương
bằng các hoạt động marketing của mình tìm được đối tác nước ngoài có nhu
cầu về một mặt hàng nào đó mà trong nước có khả năng sản xuất được rồi ký
kết hợp đồng xuất khẩu với họ sau đó mới giao dịch ký hợp đồng với các nhà
sản xuất, các chân hàng để thực hiện hợp đồng ngoại thương. Hai hợp đồng
này có nhiều điều khoản giống nhau, hợp đồng ngoại thương là cơ sở cho hợp
đồng thu mua tạo nguồn.
Tuy nhiên trong buôn bán quốc tế không phải lúc nào các doanh nghiệp
cũng tìm được khách hàng trước rồi mới tiến hành thu mua tạo nguồn nên các
doanh nghiệp có thể chủ động thu mua theo kế hoạch, đồng thời tiến hành tìm
kiếm bạn hàng để tiêu thụ hàng hoá.
- Xúc tiến khai thác nguồn hàng xuất khẩu: Sau khi ký kết hợp đồng
với các chân hàng và các đơn vị sản xuất, doanh nghiệp ngoại thượng phải lập
kế hoạch thu mua, tiến hành sắp xếp các phần việc phải làm và chỉ đạo các bộ
phận thực hiện kế hoạch.
- Tiếp nhận, bảo quản và giao hàng cho xuất khẩu: Phân loại hàng hoá
trước khi xuất khẩu đều phải trải qua một số kho để phân loại, đóng gói hoặc
đợi làm các thủ tục xuất khẩu. Bảo quản hàng hóa nhằm giữ gìn hàng hoá đủ
về số lượng, chất lượng và giảm thiểu các hao hụt mất mát cho hàng xuất
khẩu. Giao hàng là khâu cuối cùng, khi giao hàng cần quan tâm tới quy cách

thủ tục giao hàng và phải có đầy đủ giấy tờ, hoá đơn hợp lệ.
3.4 Đàm phán ký kết và thực hiện hợp đồng:
3.4.1 Các hình thức đàm phán
Đàm phán là việc bàn bạc trao đổi với nhau về các điều kiện mua bán
giữa các nhà doanh nghiệp xuất nhập khẩu để đi đến ký kết hợp đồng.
Thường có các hình thức sau:
Đàm phán qua thư tín: ngày nay việc sử dụng hình thức này vẫn là phổ
biến để giao dịch giữa các nhà điều kiện xuất khẩu. Những cuộc tiếp xúc ban
đầu thường qua thư tín..


Đàm phán qua điện thoại: bằng hình thức này sẽ giảm bớt thời gian,
giúp cho các nhà kinh doanh tiến hành đàm phán khẩn trương, kịp thời cơ.
Nhưng trao đổi qua điện thoại không có gì làm bằng chứng cho những thoả
thuận, quyết định nên sau khi trao đổi bằng điện thoại cần có thủ tục xác nhận
nộ dung đã đàm phán.
Đàm phán bằng cách gặp gỡ trực tiếp: Đây là hình thức cẩn thận, có tác
dụng đẩy nhanh tốc độ giải quyết các vấn đề mà các bên cùng quan tâm tuy
nhiên phương pháp này rất tốn kém.
Các bước tiến hành đàm phán:
+ Bước 1: Chào hàng( phát giá )là lời đề nghị ký kết hợp đồng từ phía
người bán đưa ra. Trong buôn bán thì chào hàng là việc người xuất khẩu thể
hiện rõ ý định bán hàng của mình. Tuỳ vào loại đơn chào hàng nào mà chúng
có tính chất pháp lý khac nhau.
+ Bước 2: Hoàn giá là một đề nghị mới do bên nhận chào hàng đưa ra
sau khi nhận được đơn chào hàng của bên kia nhưng không chấp nhận hoàn
toàn giá chào hàng. Khi hoàn giá thì coi như chào hàng trước đó bị huỷ bỏ.
Trong kinh doanh quốc tế, mỗi lần giao dịch thường phải qua nhiều lần hoàn
giá mới đi đến kết thúc.
+ Bước 3: Chấp nhận là sự đồng ý hoàn toàn tất cả mọi điều kiện chào

hàng mà phía bên kia đưa ra, khi đó tiến hành ký kết hợp đồng.
+ Bước 4: Xác nhận: sau khi hai bên đã thoả thuận với nhau về điều
kiện giao dịch thì ghi lại tất cả những điều đã thoả thuận gửi cho bên kia. Đó
là văn bản có chữ ký của cả hai bên.
3.4.2 Hợp đồng kinh tế về xuất khẩu hàng hoá:
Sau khi các bên mua và bán tiến hành giao dịch, đàm phán có kết quả
thì đi đến lập và ký kết hợp đồng. Hợp đồng có quy định rõ ràng và đầy đủ
quyền hạn và nghĩa vụ của các bên tham gia. Hợp đồng thể hiện bằng văn bản
là hình thức bắt buộc với các doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu của
nước ta. Đây là hình thức tốt nhất để bảo vệ quyền lợi của cả hai bên và tránh
được những biểu hiện không đồng nhất trong ngôn từ hay quan niệm vì các
đối tác tham gia thuộc các quốc tịch khác nhau.
Các điểm cần lưu ý khi ký kết hợp đồng:


- Hợp đồng cẩn trình bày rõ ràng sáng sủa, nội dung phải phản ánh
đúng, đầy đủ các vấn đề đã thoả thuận.
- Ngôn ngữ dùng trong hợp đồng là thứ ngôn ngữ phổ biến mà hai bên
cùng thông thạo
- Chủ thể ký kết hợp đồng phải là người có đủ thẩm quyền ký kết.
- Hợp đồng nên đề cập đầy đủ các vấn đề về khiếu nại, trọng tài để giải
quyết tranh chấp nếu có tránh tình trạng tranh chấp kiện tụng kéo dài.
3.4.3 Thực hiện hợp đồng:
Sau khi hợp đồng đã được ký kết thì đơn vị sản xuất kinh doanh xuất
khẩu phải thực hiện theo các quy định đã ký kết trong hợp đồng, tiến hành sắp
xếp những phần việc phải làm, ghi thành bảng theo dõi tiến độ thực hiện hợp
đồng, ghi lại những diễn biến kịp thời, những văn bản phát đi và nhận được
để xử lý và giải quyết cụ thể. Đồng thời phải đảm bảo được quyền lợi quốc
gia và lợi ích kinh doanh của doanh nghiệp.
4. Những nhân tố ảnh hưởng tới xuất khẩu

Mỗi doanh nghiệp hoạt động trong cơ chế thị trường dều có một môi
trường kinh doanh nhất định. Môi trường kinh doanh có thể tạo ra những
thuận lợi cho doanh nghiệp tồn tại và phát triển, đồng thời nó cũng ảnh hưởng
xấu đến hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp.
Các doanh nghiệp sản xuất và kinh doanh xuất khẩu đều tham gia kinh
doanh thương mại quốc tế cho nên môi trường kinh doanh phức tạp hơn nhiều
so với môi trường trong nước. Do đó, có thể nói ngoài yếu tố chủ quan là
trình độ của người tham gia kinh doanh xuất khẩu thì các yếu tố khác ảnh
hưởng tới công tác xuất khẩu chủ yếu là các yếu tố thuộc về môi trường kinh
doanh.
Dưới đây là một số nhân tố tác động chủ yếu:
4.1 Các công cụ và chính sách kinh tế vĩ mô
Mặc dù thương mại quốc tế nói chung đem lại những lợi ích to lớn,
nhưng vì nhiều lý do khác nhau nên hầu hết các quốc gia đều có những chính
sách thương mại riêng để thể hiện ý trí và mục tiêu của nhà nước đó trong
việc can thiệp và điều chỉnh các hoạt động thương mại quốc tế có liên quan


đến nền kinh tế quốc gia. Để nền kinh tế quốc dân vận hành có hiệu quả thì
một chính sách thương mại thích hợp là sự cần thiết. Trong lĩnh vực xuất
khẩu những công cụ, chính sách chủ yếu thường được nhà nước sử dụng để
điều tiết, quản lý các hoạt động này là:
4.1.1Thuế quan
Trong hoạt động xuất khẩu thuế quan là loại thuế đánh vào từng đơn vị
hàng xuất khẩu so với mức giá quốc tế nên đem lại bất lợi cho các nhà sản
xuất kinh doanh xuất khẩu vì nó sẽ làm tăng giá thành xuất khẩu, làm giảm
sức cạnh tranh của hàng hoá xuất khẩu. Do đó với mục tiêu nhằm đẩy m¹nh
xuất khẩu hầu hết các mặt hàng thuộc diện khuyến khích xuất khẩu đều có
thuế xuất rất thấp hoặc bằng không. Mặt hàng thủ công mỹ nghệ là mặt hàng
được khuyến khích xuất khẩu nên có thuế suất xuất khẩu bằng không.

4.1.2 Các công cụ phi thuế quan
Hạn nghạch( quota ) được hiểu là quy định của Nhà nước về số lượng
cao nhất của một mặt hàng hoặc một nhóm mặt hàng được phép xuất khẩu
sang một thị trường nhất định trong một thời gian nhất định thông qua hình
thức cấp giấy phép. Mục đích của việc sử dụng công cụ hạn ngạch xuất khẩu
là nhằm quản lý hoạt động kinh doanh xuất khẩu có hiệu quả và điều chỉnh
các loại hàng hoá xuất khẩu. Hơn thế nữa có thể bảo hộ nền sản xuất trong
nước, bảo vệ tài nguyên và cải thiện cán cân thanh toán. Trong khi thuế quan
rất linh hoạt, mềm dẻo thì quota lại mang tính cứng nhắc, cố định lượng hàng
hoá xuất khẩu.
Việc sử dụng hạn nghạch xuất khẩu một mặt không mang lại thu nhập
cho Chính phủ như thuế quan, mặt khác hạn ngạch có thể biến một doanh
nghiệp trong nước thành một nhà xuất khẩu độc quyền có thể định mức giá
cao hay thấp nhằm thu lợi nhuận lớn nhất. Hạn ngạch xuất khẩu được quy
định theo mặt hàng, theo nước và theo thời gian nhất định. Ở Việt Nam hiện
nay hạn ngạch xuất khẩu chỉ quy định đối với mặt hàng gạo
Tiêu chuẩn chất lượng sản phẩm : Các quốc gia đặt ra những tiêu chuẩn
về chất lượng hàng hoá hay về các thông số kỹ thuật quy định cho hàng hóa,
xuất khẩu hay nhập khẩu.
Giấy phép xuất khẩu: Nhà nước cấp giấy phép xuất khẩu cho các
doanh nghiệp tránh việc xuất khẩu lung tung…


4.1.3 Trợ cấp xuất khẩu
Là những ưu đãi tài chính mà Nhà nước dµnh cho người xuất khẩu khi
họ bán được hàng hoá ra thị trường nước ngoài. Mục đích của sự trợ cấp xuất
khẩu là giúp cho nhà xuất khẩu tăng thu nhập, nâng cao khả năng cạnh tranh
của hàng hoá xuất khẩu và do đó đẩy mạnh được xuất khẩu. Có hai loại trợ
cấp xuất khẩu: gián tiếp và trực tiếp.
- Trợ cấp xuất khẩu trực tiếp như: áp dụng thuế xuất ưu đãi đối với

hàng xuất khẩu, miễn hoặc giảm thuế đối với các nhà xuất khẩu để sản xuất
hàng xuất khẩu… Cho các nhà xuất khẩu được hưởng các giá ưu đãi các đàu
vào sản xuất như điện, nước , vận tải, thông tin liên lạc, trợ giá xuất khẩu.
- Trợ cấp xuất khẩu gián tiếp như: dùng ngân sách Nhà nước để giới
thiệu, triển lãm, quảng cáo, tạo điều kiện thuận lợi cho các giao dịch xuất
khẩu hoặc Nhà nước giúp đỡ kỹ thuật và đào tạo chuyên gia. Mức độ trợ cấp
phụ thuộc vào: chính sách của Nhà nước đối với từng mặt hàng và mức độ
cạnh tranh trên thị trường. Trợ cấp xuất khẩu trực tiếp có xu hướng bị thu hẹp
do sự đấu tranh giữa các Chính phủ có quan hệ buôn bán với nhau. Ngược lại,
trợ cấp gián tiếp có xu hướng tăng lên và thường được che giấu.
4.1.4 Tỷ giá và các chính sách đòn bẩy có liên quan nhằm đẩy mạnh xuất
khẩu
Đây là nhân tố ảnh hưởng sâu sắc đến quy mô và cơ cấu mặt hàng xuất
khẩu. Một chính sách tỷ giá hối đoái thuận lợi cho xuất khẩu là chính sách
duy trì tỷ giá tương đối ổn định và ở mức thấp. Kinh nghiệm của các nước
đang phát triển thực hiện chiến lược xuất khẩu( sản xuất hướng về xuất khẩu )
cũng như ở Việt Nam trong thời gian qua là phải tiến hành phá giá thường kỳ
để đạt được mức tỷ giá cân bằng được thị trường chấp nhận và sau đó duy trì
tỉ giá tương quan với chi phí và giá cả đang bị lạm phát trong nước.
Bên cạnh đó, nếu Chính phủ muốn các nhà sản xuất kinh doanh hướng
ra thị trường thế giới thì phải giảm bớt sức hấp dẫn tương đối của việc sản
xuất cho thị trường nội địa. Điều này đòi hỏi phải giảm thuế quan có tính chất
bảo hộ đối với các ngành công nghiệp được ưu đãi và tránh quy định hạn
nghạch số lượng nhập khẩu vào lĩnh vực có lợi nhuận sản xuất thay thế nhập
khẩu phải giữ ở mức độ phù hợp với lợi nhuận xuất khẩu. Điều này có nghĩa
là bảo hộ bằng thuế quan không được cao hơn mức trợ cấp xuất khẩu và cũng
phải thấp nhất đối với các mặt hàng.


Muốn hoạt động sản xuất kinh doanh có hiệu quả thì chính sách đẩy

xuất khẩu phải duy trì giá cả tương đối các yếu tố sản xuất trong nước ở mức
độ phản ánh sự khan hiếm của chúng. Nguyên tắc cơ bản là xuất khẩu những
mặt hàng sử dụng nhiều nhất yếu tố sản xuất có sẵn của nền kinh tế. Để đảm
bảo cho các doanh nghiệp thuộc bất cứ thành phần kinh tế nào của nền kinh
tế quyết định đầu tư hay sản xuất phù hợp với nguyên tắc đó thì giá cả tương
đối họ trả cho lao động, vốn , đất đai không được quá chênh lệch với giá được
hình thành bởi những lực lượng thị trường cạnh tranh trên cơ sở quan hệ cung
cầu các nguồn lực đó.
4.1.5 Chính sách đối với cán cân thanh toán quốc tế và cán cân thương
mại
Trong hoạt động thương mại quốc tế giữ vững được cán cân thanh toán
và cán cân thương mại có ý nghĩa cực kỳ quan trọng góp phần cungr cố nền
độc lập và tăng trưởng kinh tế nhanh. Tuy nhiên để giữ có cán cân thanh toán
quốc tế cân bằng không có nghĩa là hạn chế nhập khẩu, cấm nhập khẩu hoặc
vay vốn. Cân bằng theo kiểu đó là cân bằng tiêu cực. Vấn đề đặt ra là Nhà
nước phải có chính sách thích hợp để khuyến khích các tổ chức và cá nhân
tham gia làm hàng xuất khẩu với chất lượng cao, đủ sức cạnh tranh với thị
trường quốc tế.
Song song với việc đó là mở rộng quy mô xuất khẩu là đa dạng hoá các
mặt hàng xuất khẩu trong đó chú trọng đến những mặt hàng xuất khẩu chủ
lực. Có như vậy, quốc gia mới có thể giảm dần nhập siêu, tiến tới cân bằng
xuất nhập khẩu. Như vậy, vô hình chung việc giữ cân bằng cán cân thanh toán
và cán cân thương mại đã chứa đựng những yếu tố thúc đẩy hoạt động xuất
khẩu của một quốc gia.
4.2. Các quan hệ kinh tế quốc tế:
Trong hoạt động kinh doanh quốc tế, các mối quan hệ kinh tế quốc tế
có tác động và ảnh hưởng cực kỳ mạnh mẽ. Đối với xuất khẩu cũng vậy, khi
xuất khẩu hàng hoá sang một nước nào đó tức là đưa hàng hoá thâm nhập vào
một thị trường quốc gia khác, người xuất khẩu thường phải đối mặt với những
rào cản như thuế thu nhập hay sự phân biệt đối xử với cá nhân kinh doanh

nước ngoài, các tiêu chuẩn sản phẩm mang tính chất phân biệt đối xử với
hàng nước ngoài… và đặc biệt là hạn nghạch nhập khẩu. Các rào cản này là
chặt chẽ hay nới lỏng phụ thuộc chủ yếu vào quan hệ kinh tế song phương
giữa nước xuất khẩu và nhập khẩu.


Trong khi đó, với xu hướng toàn cầu hoá nền kinh tế như hiện nay
nhiều liên minh kinh tế ở mức độ khác nhau được hình thành, nhiều hiệp định
thương mại song phương, đa phương giữa các nước các khối kinh tế cũng đã
được ký kết với mục tiêu là giảm bớt thuế quan giữa các nước tham gia, giảm
giá cả và thúc đẩy hoạt động thương mại trong khu vực và toàn thế giới. Nếu
một quốc gia tham gia vào liên minh kinh tế và những hiệp định thương mại
ấy thì đó sẽ là tác nhân tích cực đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu của một quốc
gia. Bằng không chính nó sẽ trở thành rào cản đối với việc thâm nhập thị
trường nước ngoài của hàng hoá nước đó.
Tóm lại, có được những mối quan hệ kinh tế quốc tế mở rộng, bền
vững và tốt đẹp sẽ tạo tiền đề thuận lợi cho việc đẩy mạnh hoạt động xuất
khẩu của một quốc gia. Để làm được điều đó các quốc gia cần tăng cường
tham gia vào các liên minh kinh tế khu vực cũng như quốc tế và ký kết các
hiệp định thương mại song phương cũng như đa phương với các quốc gia
khác.
4.3 Các yếu tố khoa học công nghệ
Với sự phát triển như vũ bão của khoa học công nghệ trong thời gian
qua, nhiều công nghệ tiên tiến đã ra đời tạo ra các cơ hội, nhưng cũng gây nên
những nguy cơ đối với tất cả các ngành nghề nói chung và các đơn vị kinh
doanh hàng xuất khẩu nói riêng. Đối với các lĩnh vực sản xuất hàng xuất nhập
khẩu,việc nghiên cứu và đưa vào ứng dụng các công nghệ mới, các thành tự
khoa học kĩ thuật sẽ giúp các đơn vị sản xuất tạo ra được nhiều sản phẩm hơn
với chất lượng cao hơn, giá thành rẻ hơn, hợp thị hiếu tiêu dùng hơn. Nhờ đó
mà sức cạnh tranh của sản phẩm được nâng cao và lợi nhuận thu được cũng

cao hơn. Bên cạnh đó, khoa học công nghệ còn tác động tới các lĩnh vực như
vận tải hàng hoá, bảo quản hàng hoá, ngân hàng tài chính… làm cho các lĩnh
vực này ngày càng được mở rộng và phát triển góp phần thúc đẩy xuất khẩu.
Hơn nữa, ngày nay với sự phát triển của côn nghệ thông tin, thương
mại điện tử đã giúp xoá bỏ sự ngăn cách về lãnh thổ, về thời gian nên các giao
dịch thương mại diễn ra rất nhanh chóng, thuận lợi và bớt tốn kém.

4.4 Điều kiện chính trị, xã hôi và quân sự
Sự ổn định hay bất ổn định về chính trị, xã hội cũng là những nhân tố
ảnh hưởng lớn đến hoạt động kinh doanh và kết quả kinh doanh của doanh


nghiệp.Hệ thống chính trị và các quan điểm về chính trị, xã hội suy cho cùng
đều trực tiếp tác động đến phạm vi, lĩnh vực hay mặt hàng, đối tác kinh
doanh. Chẳng hạn các cuộc xung đột lớn nhỏ về quân sự trong nội bộ quốc
gia và giữa các quốc gia sẽ dẫn đến sự thay đổi lớn về các mặt hàng sản xuất.
Cụ thể là xung đột quân sự đã phá vỡ những quan hệ kinh doanh truyền
thống, làm thay đổi hệ thống vận tải và chuyển hướng sản xuất tiêu dùng
sang phục vụ chiến tranh. Chính việc chuyển snag phục vụ chiến tranh đã làm
gián đoạn hoạt động xuất khẩu do các điều kiện sản xuất thay đổi và quan hệ
giữa các quốc gia bị xấu đi dần dần tạo nên hàng rào vô hình ngăn cản hoạt
động kinh doanh quốc tế.
4.5 Yếu tố con người
Nhân tố con người là nhân tố quyết định thành bại trong sản xuất kinh
doanh của doanh nghiệp. Con người với cương vị là người lãnh đạo họ có
trình độ về tổ chức, quản lí, điều hành doanh nghiệp hoạt động bình thường
và có hiệu quả. Với cương vị là người sản xuất kinh doanh họ có trình độ
chuyên môn tốt có kỉ luật lao động cao khiến trang thiết bị trở nên có ý nghĩa.
Tuy nhiên để có được điều đó con người cần được đào tạo, bồi dưỡng về kiến
thức chuyên môn, kĩ năng, kĩ xảo. Con người hay lao động trong một doanh

nghiệp có trình độ chuyên môn tốt, kỉ luật lao động cao thì năng suất lao động
của doanh nghiệp đó mới cao. Năng suất lao động sẽ giảm chi phí sản xuất, hạ
giá thành sản phẩm, tăng khả năng cạnh tranh của sản phẩm uy tín, giúp
doanh nghiệp phát triển bền vững.
II. Cơ sở lí luận xuất khẩu hàng dệt may
1. Vai trò xuất khẩu hàng dệt may với nền kinh tế Việt Nam
Nghành dệt may Việt Nam là nghành hàng có truyền thống lâu đời.
Trong giai đoạn cả nước đang chuyển mình trong quá trình Công nghiệp hóaHiện đại hóa, xuất khẩu dệt may lại càng có ý nghĩa quan trọng trong việc
đóng góp vào sự phát triển của nền kinh tế nước nhà
Với đặc thù của nghành dệt may nước ta còn thô sơ, kém hiện đại so
với các nước phát triển trên thế giới, nghành dệt may nước ta yêu cầu nhiều
lao động , mặt khác lao động trong nghành này không yêu cầu trình độ và kĩ
năng cao, có thể đào tạo tại chỗ,công việc phù hợp với lực lượng lao động
khắp cả nước. Chính vì vậy nghành dệt may đóng góp một phần quan trọng
trong giải quyết việc làm .


Ngành dệt may trong những năm qua liên tục nằm trong top những
nghành đóng góp nhiều nhất vào kim nghạch xuất khẩu cả nước, một mặt
giúp tăng nguồn thu ngân sách nhà nước,mặt khác việc phát triển, mở rộng
quy mô, tập trung đẩy mạnh xuất khẩu sang thị trường nước ngoài đã góp
phần nâng cao uy tín, vị thế các mặt hàng dệt Việt Nam trên trường quốc tế.
Xuất khẩu dệt may tạo điểu kiện cho sản xuất trong nước phát triển,
thúc đẩy các nghành công nghiệp phụ trợ phải có bước chuyển biến mới để có
thế theo kịp guồng quay của nghành, thông qua việc tăng sản lượng sản xuất
bông, tơ tằm.. nguyên liệu cho nghành dệt may đã góp phần chuyển dịch cơ
cấu kinh tế từ nông nghiệp sang kinh tế công nghiệp, dịch vụ.
2. Thị trường EU đối với hàng dệt may Việt Nam
2.1 Một số đặc điểm của thị trường EU
Khởi đầu từ việc thành lập cộng đồng than thép Châu âu ngày

18/04/1997
cho đến nay thì con số các nước tham gia vào liên minh Châu âu đã lên đến
25
quốc gia. Nó hình thành lên một EU lớn mạnh nhất trên thế giới cả về kinh tế
thương mại lẫn sự rộng lớn của thị trường.
EU là một thị trường rộng lớn với khoảng hơn 500 triệu người tiêu
dùng, bao gồm 27 quốc gia nên nhu cầu về hàng hóa rất đa dạng và phong
phú, đặc biệt đối với hàng dệt may có tính mùa vụ và thời trang cao. Tuy có
sự khác biệt về tập quán và thị hiều tiêu dùng giữa thị trường của các quốc gia
song các quốc gia trong khối EU đều nằm ở khu vực Tây và Bắc Âu nên có
những tương đồng về kinh tế và văn hóa. Trình độ phát triển kinh tế của các
nước này khá đồng đều nên người dân các nước EU có những điểm chung về
sở thích và thói quen tiêu dùng. Người tiêu dùng EU có những sở thích và
thói quen sử dụng hàng của những hãng nổi tiếng trên thế giới vì họ tin rằng
những nhãn hiệu này gắn liền với chất lượng và uy tín lâu đời nên sử dụng
những mặt hàng này có thể yên tâm về chất lượng và an toàn cho người sử
dụng. Những sản phẩm của doanh nghiệp sản xuất ít danh tiếng hay những
nhãn hiệu ít biết đến sẽ rất khó chen chân vào tiêu thụ ở thị trường này.
EU là một cộng đồng kinh tế hùng mạnh và là trung tâm văn minh lâu
đời của nhân loại. Mức sống của dân cao và tương đối đồng đều nên họ yêu
cầu khắt khe về chất lượng và độ an toàn. Vì thế cạnh tranh về giá cả không
hẳn là một biện pháp tối ưu khi xâm nhập thị trường này.
2.2 Vai trò của thị trường EU đối với hàng dệt may Việt Nam
Cùng với thị trường Mĩ và Nhật Bản , EU từ lau đã trở thành một trong


những thị trường trọng điểm của dệt may Việt Nam. Với kim nghạch xuất
khẩu đứng thứ hai sau thị trường Mĩ , EU luôn khẳng định là một thị trường
tiềm năng đối với các doanh nghiệp Việt Nam.
Với đặc điểm là thị trường dệt may lớn nhất thế giới. Nhu cầu về hàng

dệt may của người dân EU bình quân khoảng 17kg/1năm và ngày càng có xu
hướng gia tăng theo kiểu sử dụng hàng hoá thời trang, khoảng 18,8 tỷ
USD/năm hàng dệt may của EU được nhập khẩu từ các nước bên ngoài. Một
điều thuận lợi đó là, ngược với xu thế ngày càng tăng của nhu cầu, tốc độ phát
triển ngành dệt may của các nước EU có xu hướng giảm xuống cả về mặt số
lượng (÷5,1%) và lao động (÷1,2%). Như vậy, có thể thấy thị trường EU
trong tương lai sẽ tạo ra cơ hội rất lớn cho xuất khẩu hàng dệt may của nước
ta.
Hiệp định Dệt - may Việt Nam - EU ký tắt ngày 18/12/1992 và chính
thức có hiệu lực từ ngày 1-1-1993 đã tạo cơ sở pháp lý và kinh tế vững chắc
đưa ngành dệt - may xuất khẩu của nước ta sang một giai đoạn mới, thời kỳ
phát triển nhanh chóng. Theo hiệp định 1992, Việt nam được phép xuất khẩu
sang EU 151 chủng loại mặt hàng (cat) có 46 loại không bị hạn ngạch. Tổng
số hạn ngạch theo hiệp định này là 21.298 tấn với kim ngạch khoảng 450 triệu
USD. Ngay khi hiệp định có hiệu lực kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may sang
EU đã đóng góp một phần đáng kể vào kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may
của Việt Nam, năm 1993 là 335 triệu USD, năm 1994 là 554 triệu USD.
Trước kết quả khả quan đó, Việt Nam - EU đã liên tiếp có những thoả thuận
sửa đổi hiệp định dệt may và mở cửa thị trường đến 15 - 02 - 2003 thì hiệp
định dệt may Việt Nam - EU đã cho phép hàng dệt may Việt Nam xuất khẩu
vào thị trường EU với mức hạn ngạch từ 800 - 850 triệu USD/năm
Trong thời gian qua, nhằm tăng cường khả năng và tạo ra các cơ hội
cho xuất khẩu hàng dệt may vào thị trường đầy tiềm năng này, Nhà nước ta
đã nỗ lực rất lớn trong việc đàm phán với EU. Kết quả là đến ngày 1-1-2005
hàng dệt may Việt nam xuất khẩu vào thị trường EU cũng không còn bị áp đặt
hạn ngạch nhập khẩu của EU nữa, một sự kiện được cho là sẽ làm biến đổi
lớn về kim ngạch xuất khẩu vào thị trường này. Tuy nhiên cũng cần lưu ý là
khi hạn ngạch dệt may không còn thì hàng dệt may Việt Nam cũng không còn
những ưu đãi khác nữa mà phải cạnh tranh công bằng đối với hàng nước
khác.

3. Thuận lợi và khó khăn trong việc thúc đẩy xuất khẩu hàng dệt may
Việt


Nam
3.1 Những đặc điểm thuận lợi
Do đặc điểm của ngành công nghiệp dệt may là một ngành công
nghiệp nhẹ, yêu cầu kỹ thuật không quá phức tạp như những ngành kinh tế
khác và yêu cầu vốn đầu tư không quá lớn, thời gian thu hồi vốn lại tương đối
nhanh hơn những ngành công nghiệp khác. Vì vậy mà nó đã có được một số
lợi thế trong tình hình kinh tế hiện nay của đất nước.
3.1.1 Yếu tố con người
Trước tiên, chúng ta phải kể đến đó là nước ta có một cơ cấu dân số trẻ
do đó mà những người trong độ tuổi lao động rất cao, không những vậy hàng
năm nó còn được bổ sung thêm một lực lượng khá là hùng hậu. Điều đó đã
làm cho nguồn cung lao động của nước ta hết sức dồi dào.
Thứ hai, chất lượng lao động không ngừng được nâng lên cả về mặt kỹ
thuật lẫn trình độ văn hoá, cả thể chất lẫn tinh thần. Người lao động của nước
ta được đánh giá là cần cù chịu khó, ham học hỏi, có khả năng tiếp thu nhanh
và sáng tạo trong quá trình lao động .
Thứ ba, do đặc điểm của lịch sử và hoàn cảnh của đất nước mà Việt Nam
có rất nhiều việt kiều sinh sống ở khắp mọi nơi trên thế giới. Đây là nguồn lực
quan trọng để chúng ta có thể thu thập thêm thông tin về thị trường nước
ngoài đồng thời cũng là lực lượng mà có thể thực hiện phân phối hàng dệt
may cho các doanh nghiệp khi thâm nhập vào thị trường.
Thứ tư, nhìn chung giá nhân công lao động trong ngành dệt may của
nước ta rẻ hơn một số nước khác trên thế giới và khu vực. Đây là một lợi thế
rất lớn cho ngành dệt may của nước ta. Có thể nói nó là nhân tố chính trong
sự phát triển của ngành dệt may trong thời gian qua.
ST

T
1
2
3
4
5
6
7
8

Tên nước
Nhật
Pháp

Anh
Đài Loan
Hàn Quốc
Hồng Kông
Singapore

Tiền
công
(USD/ng)
16.31
12.63
10.33
10.16
5
3.6
3.39

3.16

ST
T
9
10
11
12
13
14
15

Tên nước
Malaixia
Thái Lan
Philipine
Ấn Độ
Trung Quốc
Indonesia
Việt Nam

Tiền
công
(USD/ng)
0.95
0.87
0.67
0.54
0.34
0.23

0.18


3.1.2 Lợi thế về điều kiện tự nhiên.
Nước ta nằm trên bán đảo với bờ biển dài, phía bắc giáp Trung quốc,
phía tây giáp Lào và Campuchia, cho phép chúgn ta mở các tuyến đường bộ
và đường biển để thuận tiện cho việc giao lưu hàng hoá. Nước ta cũng là nước
nằm ở trọng tâm Đông Nam Á. Cho nên là địa đỉêm giao nhận và trung
chuyển hàng hoá thuận lợi. Đặc biệt là việc xuất khẩu hàng dệt may.
Cũng nằm ở vị trí phía Đông nam Châu á mà nước ta hiện nay nằm
trong con đường chuyển giao công nghệ của ngành công nghiệp dệt may
(chuyển dịch theo hướng Đông tây; Bắc - Nam. Đó là việc di chuyển công
nghệ dệt may từ các nước NIC sang các nước Đông nam á và Nam á). Do đó
chúng ta có cơ hội để kế thừa và phát triển các thành tựu của những nước đi
trước, đồng thời học hỏi được kinh nghiệm của các nước đó.
Nước ta là nơi giao lưu của hai nền văn hoá lớn đó là văn hoá Trung
hoa và
văn hoá Sông Hằng, giữa nền văn hoá nho giáo và nền văn hoá phật giáo. Cho
nên đã tạo ra những phong tục tập quán đa dạng và phong phú; cùng với một
nền văn hoá đặc trưng. Đây là những yếu tố vô cùng quan trọng nó làm cho
sản phẩm dệt may của chúng ta đa dạng và phong phú hơn.
3.1.3 Những lợi thế về truyền thống.
Ngành dệt may là một ngành đã có từ xa xưa. Ngay trong thời kỳ
phong kiến cũng đã xây dựng lên các làng nghề thủ công. Nó cũng vẫn được
tiếp tục phát triển cho đến giai đoạn sau này mặc dù có thời gian nó đã phát
triển chậm lại do đặc điểm hoàn cảnh lịch sử của đất nước. Tuy nhiên khoảng
hai thập kỷ
trở lại đây thì nó đã phát triển nhanh chóng đặc biệt là trong những năm gần
đây. Ngành dệt may là một ngành mà nguyên vật liệu của nó là sợi bông và
vải. Do đó mà nó có quan hệ mật thiết với các ngành nông nghiệp của đất

nước. Mà điều kiện của nước ta hoàn toàn có thể cho phép phát triển các vùng
nguyên liệu phục vụ cho ngành đó. Chứ không phải như hiện nay phần lớn
các nguyên liệu của nước ta được nhập khẩu từ nước ngoài.
3.1.4 Dệt may là một trong những ngành được xây dựng chiến lược
phát triển.
Kể từ khi chuyển hướng nền kinh tế từ ưu tiên phát triển công nghiệp
nặng sang tập trung sản xuất hàng tiêu dùng lương thực, và hàng xuất khẩu.
Đảng và Nhà nước đã chú ý đến vai trò của các ngành công nghiệp nhẹ nói
chung và ngành dệt may nói riêng nhiều hơn. Để nâng cao năng suất, chất
lượng và đưa ngành dệt may nước ta phát triển một "chiến lược phát triển
tăng tốc để phát triển ngành dệt may đến năm 2010" đã được xây dựng với


×