Tải bản đầy đủ (.doc) (21 trang)

Tình hình và thực trạng nhượng quyền thương mại tại việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (180.27 KB, 21 trang )

Lời mở đầu

Phần 1. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ NHƯỢNG QUYỀN
THƯƠNG MẠI
1. Định nghĩa và phân loại :
1.1 Định nghĩa :
- Ủy thương mại liên bang Hoa Kỳ : Hợp đồng nhượng quyền là hợp đồng theo đó bên
giao hỗ trợ đáng kể cho bên nhận trọng việc điều hành doanh nghiệp hoặc kiểm soát
chặt chẽ cách thức vận hành của bên nhận, chuyển quyền sở hữu nhãn hiệu cho bên
nhận đề phân phối sản phẩm hoặc dịch vụ theo nhãn hiệu hàng hóa của bên giao và yêu
cầu bên nhận thanh toán cho bên giao một khoản phí tối thiểu.
- Liên minh châu Âu EU : Quyền thương mại là một tập hợp những quyền sở hữu công
nghiệp và sở hữu trí tuệ liên quan tới nhãn hiệu hàng hóa, tên thương mại, biều hiện cửa
hàng, giải pháp hữu ích, kiểu dáng, bản quyền tác giả, bí quyết, hoặc sang chế sẽ được
khai thác đề bán sản phẩm, hoặc cung cấp dịch vụ tới người sử dụng cuối cùng
- Hiệp hội nhượng quyền Pháp : Nhượng quyền thương mại là một phương thức hợp tác
giữa một bên là nhà nhượng quyền và bên còn lại là một hay nhiều nhà nhận quyền để
khai thác hàng hóa, dịch vụ hay công nghệ mà người nhượng quyền sở hữu. Trong đó
bao gồm quyền sở hữu của hàng hóa hay dịch vụ, bí mật hay bí quyết kinh doanh và sản
phẩm, dịch vụ hay công nghệ. Trên cơ sở đối tượng nhượng quyền này, nhà nhượng
quyền xây dựng thành một hệ thống nhượng quyền mà những người tham gia có trách
nhiệm bảo tồn và phát triển hệ thống đó
- Luật thương mại Việt Nam : Nhượng quyền thương mại là một hoạt động thương mại,
theo đó bên nhượng quyền cho phép và yêu cầu bên nhận nhượng quyền tự mình tiến
hành việc mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ theo hai điều kiện chính, được tiến hành
theo cách thức tổ chức kinh doanh do bên nhượng quyền qui định và được gắn với nhãn
hiệu hàng hóa, tên thương mại, bí quyết kinh doanh, biểu tượng kinh doanh, quảng cáo
của bên nhượng quyền. Bên nhượng quyền có quyền kiểm soát và trợ giúp cho bên
nhận quyền trong việc điều hành nhượng quyền kinh doanh
Mỗi quốc gia, tổ chức có một cách định nghĩa riêng về Franchise. Tuy nhiên đề có thể
nắm bắt được tinh thần cốt lõi của Franchise thì rong các định nghĩa trên có những khái


niệm mà chúng ta cần phải hiều như sau
- Bên nhượng quyền ( Franchisor) : Là một các nhân hay tổ chức sở hữu thương hiệu,
sản phẩm hay dịch vụ hoặc bí quyết, có mô hình kinh doanh tối ưu… và tiến hành hình
1


thức kinh doanh băng cách nhượng quyền cho một hoặc nhiều đối tác qua việc thực
hiện hợp đồng nhượng quyền thương mại
- Bên nhận quyền : Là cá nhân hoặc tổ chức kinh doanh được bên nhận quyền thông
qua hợp đồng nhượng quyền cho phép sử dụng thương hiệu, mô hình kinh doanh, hệ
thống qui trình… để kinh doanh sản phẩm hoặc dịch vụ theo một chuẩn thống nhất
được nhà nhượng quyền qui định trong cẩm nang nhượng quyền trong một khoảng thời
gian, địa điểm và phạm vi nhất định.
- Phí nhượng quyền : Là khoản phí không hoàn lại mà bên nhận quyền phải trả cho bên
nhượng quyền để gia nhập hệ thống nhượng quyền cho việc kinh doanh ở một địa điểm
hoặc khu vực xác định trong một khoảng thời gian nhất định được hai bên thống nhất
trong hợp đồng nhượng quyền. Tùy vào chiến lược kinh doanh, ngành nghề kinh doanh
và uy tín trên thương trường của bên nhượng quyền mà mức phí này có giá trị khác
nhau. Đôi khi mức phí này cũng thay đổi tùy theo vùng miền địa lý của từng hệ thống
nhượng quyền thương mại
- Phí hoạt động hay phí vận hành ( Royalty fee) : Là khoản phí mà bên nhận quyền phải
trả hàng tháng hoặc quí hoặc năm cho nhà nhượng quyền, được căn cứ trên doanh thu
thu được tại điểm hoạt động của mình. Mức phí này có thể là tỷ lệ phần trăm doanh thu
của tất cả sản phẩm được bán tại cửa hàng hoặc là một mức phí cố định mà bên nhận
quyền phải trả cho bên nhượng quyền khi tham gia vào hệ thống. Cũng như trường hợ
phí nhượng quyền, tùy vào chiến lược kinh doanh hay uy tín của bên nhượng quyền mà
mức phí này có giá trị khác nhau. Thông thường phí hoạt động này được nhà nhượng
quyền tái đầu tư lại hệ thống thông qua các chương trình xúc tiến bán hàng hoặc các
chương trình đào tạo, khen thưởng… cho hệ thống nhượng quyền của mình
- Cẩm nang nhượng quyền: Là tài liệu do nhà nhượng quyền biên soạn, trong đó bao

gồm toàn bộ các yếu tố chuyển giao của hệ thống, các định hướng, tôn chỉ hoạt động
cũng như những chuẩn mực tạo tiền đề để các yếu tố quan hệ được hình thành và phát
triển. Nhà nhận quyền sẽ hoạt động tuân theo cẩm nang nhượng quyền này.
Bản thân nhượng quyền kinh doanh không phải một cơ sở kinh doanh mà đó là một
cách thức kinh doanh, đó là một mối quan hệ kinh doanh toàn diện và liên tục bao gồm
không chỉ sản phẩm, dịch vụ, nhãn hiệu hàng hóa… mà là toàn bộ hệ thống và mô hình
kinh doanh, trong đó bao gồm quản lí hoạt động, tài liệu hướng dẫn (cẩm nang nhượng
quyền), cách thức quản lí kinh doanh, giám sát và tổ chức, quản lí chất lượng, trợ giúp
và hỗ trợ ban đầu và liên tục. Nếu hoạt động của các bên tham gia không tương thích

2


với yêu cầu của hệ thống nhượng quyền thương mại sẽ làm cho cả hệ thống sụp đổ hay
chuyển sang một hình thức kinh doanh khác thậm chí là biến mất khỏi thị trường. Do
vậy mô hình nhượng quyền kinh doanh đòi hỏi phải có trách nhiệm rất cao giữa hai bên
nhượng quyền và nhận quyền
1.2 Các hình thức nhượng quyền :
1.2.1 Hợp đồng nhượng quyền riêng lẻ (single franchise) :
- Theo hình thức này người mua franchise sẽ kí hợp đồng với người bán, người
bán này có thể là chủ thương hiệu hoặc là master franchisee (sẽ giới thiệu sau).
Người mua là một cá nhân hoặc là một công ty riêng lẻ được chủ thương hiệu cấp
quyền kinh doanh tại một địa điểm nhất định trong một khoảng thời gian nhất định
thường là từ 3- 5năm, sau khoảng thời gian này nếu người mua muốn gia hạn hợp
đồng thì phải nộp thêm một khoản phí,ngoài ra việc kéo dài hợp đồng còn phụ
thuộc vào tình hình hoạt động kinh doanh của người mua franchise. Đặc điểm nổi
bật của hình thức này là người mua chỉ được phép kinh doanh trên 1 cửa hàng đã
đăng kí mà không được mở thêm chi nhánh hoặc thực hiện nhượng lại quyền của
thương hiệu mà mình đang đi nhận quyền.
1.2.2 Hợp đồng nhượng quyền độc quyền ( master franchise) :

- Người chủ thương hiệu sẽ cấp phép cho người mua master franchise độc quyền
kinh doanh thương hiệu của mình trong một khu vực, lãnh thổ, thành phố trong
một thời gian nhất định ( thường là lâu hơn hợp đồng franchise riêng lẻ ).Khi mua
franchise theo hình thức này người mua sẽ được phép mở thêm cửa hàng, đại lý
hoặc nhượng lại thương hiệu mà mình nhận quyền. Người mua master franchise
cũng phải cam kết phải mở/nhượng quyền tối thiểu hoặc chỉ mở/nhượng quyền tối
đa bao nhiêu cửa hàng trong khoảng thời gian qui định trong hợp đồng. Nếu
không làm được có thể bị rút độc quyền trong khu vực hay lãnh thổ đó. Ngoài ra
người mua franchise phải xây dựng một bản kế hoạc trong vòng 3-5 năm trong đó
cam kết phải xây dựng được kế hoạch đào tạo những người mua frachise sau này
tuân thủ các chương trình huấn luyện đào tạo nhằm đảm bảo uy tín và chất lượng
của thương hiệu. Do vậy những người mua master franchise ngoài những kinh
nghiệm trong kinh doanh mặt hàng franchise còn cần phải có đủ tiềm lực về tài
chính cũng như kỹ năng quản trị đề có thể xây dựng cả một hệ thống phục vụ cho
tất cả cửa hàng trong khu vực độc quyền của mình
1.2.3 Hợp đồng nhượng quyền phát triền khu vực (Area development franchise)

3


- Đây là hình thức trung gian giữa hai hình thức master franchise và single
franchise nghĩa là người mua franchise trong trường hợp này được cấp độc quyền
đại lý cho một khu vực hay một thành phố trong một khoảng thời gian nhưng
không được phép bán franchise cho bất kì ai.Người mua franchise cũng được yêu
cầu phải mở bao nhiêu của hàng trong khoảng thời gian của hợp đồng và rút
quyền. Trong trường hợp người mua franchise kinh doanh tốt có thể được xin cấp
phép thành master franchise trong khu vực đó.
1.2.4 Liên doanh
- Với hình thức này chủ thương hiệu sẽ liên doanh với một doanh nghiệp địa
phương thành lập công ty liên doanh. Công ty này có quyền đại diện cho chủ

thương hiệu toàn quyền quyền quyết định tại một thành phố, lãnh thổ hay khu vực
nào đó. Cả hai đối tác trong công ty liên doanh sẽ đàm phán về cổ phần của mình
và cách thức huy động vốn. Thông thường doanh nghiệp địa phương sẽ đóng góp
kiến thức bằng mặt bằng kinh doanh và kiến thức địa phương còn chủ thương hiệu
sẽ đóng góp bí quyết kinh doanh, thương hiệu, cộng thêm một số tiền mặt. Đây là
hình thức mà chủ thương hiệu không mấy ưu tiên do phải chấp nhận rủi ro tài
chính khi liên doanh sụp đổ. Tuy nhiên trong một số trường hợp khi chủ thương
hiệu nhận thấy thị trường sẽ rất tiềm năng nhưng không tìm được người mua
franchise thì sẽ chấp nhận hình thức này.
2. Phân biệt Franchise và các hình thức kinh doanh khác :
2.1 Franchise và chuyển giao công nghệ:
- Về tính chất : Nhượng quyền thương mại là hình thức mở rộng kinh doanh bằng
một thỏa thuận cho phép người khác sử dụng thương hiệu, qui trình kinh doanh,
công nghệ của doanh nghiệp nhượng quyền còn chuyển giao công nghệ là hình
thức là hình thức chuyển giao quyền sử dụng hoặc quyền sở hữu công nghệ để ứng
dụng vào qui trình sản xuất kinh doanh.
- Về phạm vi quyền lợi của bên nhượng quyền và đối tượng được chuyền giao
:Trong hoạt động chuyền giao công nghệ bên nhượng quyền được phép sử dụng
công nghệ được chuyền giao để sản xuất bất kì loại hàng hóa dưới bất kì nhãn
hiệu, kiểu dáng nào mà họ muốn. Với nhượng quyền thương mại bên nhận quyền
chỉ được sử dụng công nghệ, qui trình để sản xuất ra những loại sản phẩm dịch vụ
có cùng chất lượng mẫu mã, dưới tên nhãn hiệu hàng hóa do bên nhượng quyền

4


qui định. Bên nhượng quyền trở thành một thành viên trong mạng lưới kinh doanh
trong hệ thống, điều này không có trong hoạt động chuyển giao công nghệ.
- Về phạm vi và đối tượng chuyền giao : Đối tượng của chuyển giao công nghệ là
chuyển giao các máy móc, thiết bị dịch vụ, đào tạo, ngoài ra còn có kiến thức công

nghệ cho bên mua. Đối tượng chính của nhượng quyền thương mại là quyền kinh
doanh hay là cẩm nang nhượng quyền bao gồm quyền qui định, quản lí, huấn
luyện nhân viên, thiết kế địa điểm kinh doanh, bí quyết kinh doanh
- Về mối quan hệ kiểm soát hỗ trợ : trong hoạt động chuyển giao công nghệ sau
khi đối tượng chuyển giao được chuyển giao xong thì bên nhượng quyền không
còn nghĩa vụ gì đối với bên nhận. Nhưng trong hoạt động nhượng quyền thương
mại, sau khi nhượng quyền bên nhượng quyền sẽ có quyền kiểm soát toàn diện
hoặc chi tiết vừa có nghĩa vụ phải hỗ trợ bên nhận quyền nhằm đảm bảo tính thống
nhất của toàn bộ hệ thống.
2.2 Franchise và phân phối sản phẩm, đại lý
- Nhượng quyền đôi khi còn bị nhầm lẫn với đại lý độc quyền. Mục đích của đại lý
thường được qui định thông qua doanh số, thị phần và độc quyền sản phầm mà
không quá chú trọng đến qui trình hoạt động, quản lí, hệ thống nhận diện thương
hiệu và cách thức mà nhà nhà phân phối hay đại lí độc quyền thực hiện
- Ngoài ra trong quan hệ đại lý , quyền sở hữu đối với hàng hóa hoặc tiền bán hàng
thuộc về bên giao đại lý, bên đại lý chỉ bán sản phẩm để hưởng thù lao hoa hồng,
tuy hợp đồng cung ứng sản phẩm dịch vụ được ký kết giữa đại lý và bên thứ ba
nhưng quyền và nghĩa vụ phát sinh từ hợp đồng này là ràng buộc bên giao đại lý .
Đối với nhượng quyền thương mại, thì tính chất mối quan hệ giữa các chủ thể
hoàn toàn khác, quyền sở hữu hàng hóa dịch vụ thuộc bên nhận quyền, bên nhận
quyền có quyền nhân danh chính mình cung ứng sản phẩm, dịch vụ cho bên thứ
ba. Bên nhận quyền cũng là người trực tiếp xác lập quan hệ thương mại với khác
hàng, chịu trách nhiệm về các vấn đề phát sinh từ sản phẩm, dịch vụ do mình cung
cấp
2.3 Franchise và license
- Về đối tượng chuyển giao: nếu hoạt động license chỉ dừng lại ở việc chuyển giao
quyền sử dụng các đối tượng sở hữu công nghiệp, thì trong nhượng quyền thương
mại, quyền sử dụng các đối tượng sở hữu công nghiệp chỉ là một phần của hoạt
động chuyển giao, vì bên cạnh đó, bên nhượng quyền còn chuyển giao cách thức,


5


bí quyết tiến hành kinh doanh, khẩu hiệu kinh doanh, thiết kế, trang trí địa điểm
kinh doanh…nói một cách tổng quát là chuyển giao cả phần nội dung và hình thức
của quy trình kinh doanh. Rõ ràng, đối tượng của nhượng quyền thương mại rộng
và bao quát hơn so với hoạt động license.
- Về mục đích của quá trình chuyển giao: trong hoạt động license, mục đích mà
bên nhận license hướng tới là nhãn hiệu hàng hóa, kiểu dáng công nghiệp, sáng
chế, giải pháp hữu ích nhằm xác định hình thức, nội dung sản phẩm, còn trong
nhượng quyền thương mại, mục tiêu mà bên nhượng quyền và bên nhận quyền
hướng tới là phát triển một hệ thống kinh doanh, trong đó nhãn hiệu hàng hóa, các
đối tượng khác của quyền sở hữu công nghiệp chỉ là một bộ phận.
- Sự hỗ trợ/ kiểm soát giữa các bên trong quá trình chuyền giao với hoạt động
license chỉ là sự hỗ trợ ban đầu khi bân chuyển giao nhượng các đối tượng sở hữu
công nghiệp cho bên nhận chuyển giao, còn trong nhượng quyền thương mại sự hỗ
trợ của bên nhượng quyền đối với bên nhận quyền là liên tục trong suốt quá trình
của thời gian ký hợp đồng, sự hỗ trợ này cũng được qui định rõ trong hợp đồng.
Bên cạnh đó, bên chuyển giao trong hoạt động license chỉ có quyền kiểm soát khi
cần thiết và trong phạm vi hẹp đối với bên nhận chuyển giao (do đối tượng của
hợp đồng license hơn đối tượng của hợp đồng nhượng quyền thương mại). Trong
nhượng quyền thương mại, bên nhượng quyền có quyền kiểm tra sâu sát, toàn diện
đối với hoạt động của bên nhận quyền (bằng hình thức kiểm tra định kỳ hoặc đột
xuất). Và, việc đối xử bình đẳng với các thương nhân nhận quyền trong hệ thống
nhượng quyền đã được luật định (đối xử bình đẳng về mức đầu tư ban đầu, mức
phí nhượng quyền, phí định kỳ…,nghĩa vụ hỗ trợ các hoạt động quản lý, huấn
luyện nhân viên, thiết kế, trang trí các địa điểm kinh doanh….), vấn đề này trong
hoạt động licenset buộc thực hiện.
3. Thuận lợi và thách thức khi kinh doanh theo hình thức Franchise :
Tỷ lệ các doanh nghiệp thành công khi kinh doanh theo hình thức nhượng quyền

thương mạ là rất nhiều. Theo một thống kê của Bộ Thương Mại Hoa Kỳ thì tại Mỹ
có đến 95% doanh nghiệp thành công nhờ hình thức này. Tuy nhiên con số này có
thể gây hiểu lầm biết đâu trong số 95% này lại tồn tại những doanh nghiệp vẫn tồn
tại nhưng kinh doanh không hiệu quả. Nhượng quyền thương mại có những thuận
lợi nhưng tất nhiên không có gì là tuyệt đối. Phần sau đây sẽ trình bày những

6


thuận lợi và thách thức đặt ra khi sử dụng mô hình franchise cho cả người mua và
người bán
3.1 Đối với người mua
3.1.1 Thuận lợi
- Đầu tư an toàn hơn. : Hiện nay thương hiệu đã trở nên vô cùng quan trọng.
Người ta đã làm một thử nghiệm nhỏ đối với 2 loại nước giải khat Coca Cola và
Pepsi. Khi cho một nhóm người uống 2 loại nước có ga này nhưng không cho biết
lon nào là Coca, lon nào là Pepse. Kết quả là 60% trong số đó cho biết Pepsi ngon
hơn. Tuy nhiên, cũng với nhóm người này những người tiến hành thử nghiệm lại
cho họ uống 2 lần, 1 lần Coca và 1 lần Pepsi và nhóm người uống biết họ đang
uống gì, thì kết quả đáng ngạc nhiên là 80% trong số đó nó Coca ngon hơn. Như
vậy có thể thấy được giá trị thương hiệu có ý nghĩa như thế nào. Hiện nay, chất
lượng không còn là tất cả, mà chính thương hiệu mới mang lại thành công. Do vậy
khi mua franchise, người mua sẽ kinh doanh trên chính thương hiệu đã tồn tại, đã
có chỗ đứng trên thị trường và như thế độ an toàn sẽ cao hơn nhiều so với tự kinh
doanh với một sản phẩm, thương hiệu mới ngay từ đầu
- Nhận được sự giúp đỡ từ chủ thương hiệu : Sự giúp đỡ này là những kinh
nghiệm. Trước khi cửa hàng nhượng quyền thương mại khai trương là tư vấn về
đào tạo, thiết kế, chọn địa điểm, nguồn hàng… Sau khi khai trương là công tác
như tiếp thị, quảng cáo và hỗ trợ về nhiều mặt khác .Do phải bảo vệ thương hiệu
của mình nên chủ thương hiệu khi đã quyết định nhượng quyền sẽ phải toàn tâm

toàn ý giúp đỡ người nhận thương hiệu để họ có thể thành công.
- Chi phí quảng cáo thấp hơn : Nếu kinh doanh độc lập, chúng ta cần bỏ ra một chi
phí rất lớn cho việc quảng bá sản phẩm, thương hiệu của mình nhưng khi nhận
quyền thương mại thì những chi phí này lại được chia sẻ. Nghĩa là những quảng
cáo chung có thể được chủ thương hiệu tiến hành nhưng người nhận quyền vẫn
được hưởng lợi ích từ việc này,
- Dễ huy động vốn từ các tổ chức tín dụng hơn :Do xác suất thành công cao hơn
nên các tổ chức tín dụng thường xét duyệt cho các doanh nghiệp nhận quyền
thượng mại dễ dàng hơn so với những dự án kinh doanh độc lập có độ rủi ro cao.
Người chủ thương hiệu có thể đứng ra làm cầu nối trung gian với các tổ chức tín
dụng cho người nhận quyền vay tiền nhằm phát triển và nhân rộng mô hình kinh
doanh hơn.

7


- Nhãn hiệu thường đã được bảo hộ sẵn :hầu hết các doanh nghiệp kinh doanh theo
hình thức nhượng quyền thương mại đều đăng kí bảo hộ thương hiệu ở nhiều quốc
gia trên thế giới. Khi chủ thương hiệu đã được đăng kí rồi thì mọi tranh chấp diễn
ra khi vi phạm bản quyền thương hiệu sẽ được chủ thương hiệu hỗ trợ khiếu kiện.
Đây cũng là một lợi thế quan trọng khi kinh doanh theo hình thức nhượng quyền
thương mại
3.1.2 Thách thức :
- Những sản phẩm hay mọi chương trình xúc tiến kinh doanh tổng quát đều do chủ
thương hiệu đề ra, nhằm tạo sự thống nhất trong cả hệ thống nhượng quyền người
nhận quyền không có quyền quyết định. Điều này sẽ làm giảm sức sáng tạo của
người nhận quyền. Mặc dù vậy trong một số trường hợp, tùy thuộc vào văn hóa
từng khu vực mà người nhận quyền cũng có thể thương lượng để thay đổi một vài
chi tiết cho phù hợp
- Đôi khi việc nhận quyền thương mại có chi phí ban đầu khá cao so với tự kinh

doanh độc lập ngoài ra người nhận quyền còn phải tra những chi phí hàng tháng
khác.
- Rủi ro có thể bị lây lan từ cửa hàng nhượng quyền này sang nhượng quyền khác,
do vậy nếu một cửa hàng trong hệ thống làm sai rất dễ sẽ hưởng đến toàn bộ hệ
thống, và khó có một cửa hàng nhượng quyền nào có thể tránh khỏi
3.2 Đối với người bán
3.2.1 Thuận lợi :
- Phát triển và nhân rộng mạng lưới kinh doanh mà không cần bỏ thêm vốn. Đây
là một thuận lợi dễ thấy được cho các chủ doanh nghiệp nhượng quyền. Họ không
cần phải đầu tư, quản lý nhưng những cửa hàng mang thương hiệu của họ vẫn
được mở ra. Hơn nữa bất cứ doanh nghiệp nào cũng mong muốn thị phần của
mình tăng và mô hình nhượng quyền thương mại là mô hình tốt nhất giúp họ thực
hiện mong muốn này.
- Quảng bá thương hiệu của mình : Như đã nói ở trên, thương hiệu là tài sản quí
giá nhất của một doanh, đối với những doanh nghiệp không kinh doanh theo hình
thức này thì việc bỏ ra một chi phí khổng lồ dành cho quàng cáo để đưa thương
hiệu của mình vào tâm trí khách hàng là điều không thể tránh khỏi. Thế nhưng khi
nhiều cừa hàng nhượng quyền được mở ra thì mức độ nhận biết của người tiêu

8


dùng đối với thương hiệu của doanh nghiệp càng tăng lên, mà doanh nghiệp không
cần đầu tư chi phí
- Tối đa hóa lợi nhuận : từ việc thu phí từ các cửa hàng nhượng quyền. Có rất
nhiều phí mà người nhận quyền phải trả cho người nhượng quyền sau khi đã kí
hợp đồng như phí hàng tháng, phí đào tạo…
- Tối thiều hóa rủi ro khi thâm nhập thị trường mới: Việc một doanh nghiệp muốn
bước vào kinh doanh ở một thị trường mới mà không hiểu rõ văn hóa cũng như
phong cách tiêu dùng của người dân bản xứ có thể gây cho họ những bất lợi. Việc

nhượng quyền thương mại cho một cá nhân, doanh nghiệp sống ở thị trường mới
sẽ giúp doanh nghiệp nhượng quyền tránh những tránh những bất lợi này
3.2.2 Thách thức :
- Thách thức lớn nhất khi nhượng quyền thương mại đó là việc quản lí những cừa
hàng nhương quyền sao cho họ làm đúng như những chuẩn mực mà phía doanh
nghiệp nhượng mại đề ra. Bởi vì một thương hiệu lớn có thể chịu thiệt hại nặng nề
nếu một trong số các cửa hàng nhượng quyền không tuân thủ những nguyên tắc
mà sáng tạo ra theo cách riêng của họ

9


Phần II. NHƯỢNG QUYỀN THƯƠNG MẠI – VIỆT NAM - CƠ
HỘI MỚI MỞ RA
Trong những năm gần đây Việt Nam có nhiều điều kiện rất thuận lợi cho hoạt
động kinh doanh với tốc độ tăng trưởng GDP bình quân trên 8%, một quốc gia có
trên 84 triệu dân, tình hình kinh tế, chính trị ổn định, sức mua của thị trường được
đánh giá là rất cao trên thế giới. Hơn thế nữa Việt Nam đã hội nhập sâu hơn với
kinh tế thế giới bằng việc trở thành thành viên thứ 150 của tổ chức thương mại thế
giới WTO cùng với những chính sách khuyến khích đầu tư và đang gấp rút hoàn
thiện môi trường luật pháp để thu hút các cơ hội đến từ nước ngoài cũng như để
cho các doanh nghiệp đang hoạt động tại Việt Nam một cách dễ dàng. Trong bối
cảnh có nhiều thuận lợi như vậy thì việc lựa chọn hình thức kinh doanh như thế
nào để có thể tận dụng tốt các cơ hội là một điều mà không chỉ các doanh nghiệp
nước ngoài muốn đầu tư vào Việt Nam đang suy nghĩ mà chính các doanh nghiệp
Việt Nam cũng cần phải nghiên cứu vấn đề này. Nhượng quyền thương mại có thế
là một giải pháp cho cả 2 doanh nghiệp này
1. Tình hình hoạt động nhượng quyền ở Việt Nam :
1.1 Các tập đoàn nước ngoài nhượng quyền ở Việt Nam :
- Nhượng quyền thương mại đã ra đời từ rất lâu trên thế giới và không ngừng

khẳng định đây là một hình thức kinh doanh có những ưu điểm nổi bật. Nhưng ở
Việt Nam thì đây là một lĩnh vực còn khá mới mẻ. Không phải mới mẻ vì nó mới
xuất hiện được một vài năm ở Việt Nam mà mới mẻ bởi những văn bản mang tính
chính thống, pháp lý để đưa ra một định nghĩa rõ ràng về hình thức này mới chỉ
xuất hiện từ năm 2006. Thực ra phôi thai của hình thức nhượng quyền thương mại
đã xuất hiện ở Việt Nam từ trước những năm 1975 thông qua hình thức nhượng
quyền phân phối sản phẩm của các dạng xăng dầu của Mỹ như Mobil, Esso, Shell
và các đại lí bảo dưỡng ô tô, xe máy. Sau đó là sự xuất hiện của các chuỗi cừa
hàng rửa tráng phim ảnh như Kodak, Fuji, Konica… Tuy nhiêu đến trước những
năm 90 của thế kỉ trước hầu như có rất ít thương hiệu lớn của nước ngoài có mặt ở
VIệt Nam theo hình thức nhượng quyền thương mại do đặc điểm nên kinh tế bao
cấp lúc bầy giờ.
Chỉ cho đến khi mở cừa nền kinh tế thì các thương hiệu nước ngoài mới tiếp cận
thị trường Việt Nam với hình thức và qui mô ngày càng lớn hơn. Năm 1998, hai
đại gia của ngành công nghiệp thức ăn nhanh là KFC (Mỹ) và Lotteria (Hàn Quốc
10


vào Việt Nam. Tuy nhiên tại thời điểm đí những cửa hàng được mở hoặc là do
chủ doanh nghiệp nước ngoài tự mở hoặc do các nhà nhận quyền phát triển khu
vực (Area Development Franchise) ở Singapore, Hàn Quốc mở ra chứ không phải
một doanh nghiệp Việt Nam nào được nhận quyền. Lĩnh vực kinh doanh thức ăn
nhanh là lĩnh vực đòi hỏi sự đồng nhất về qui trình từ khâu chọn nguyên liệu, chế
biến đến cách bày trí, đồng phục nhân viên đến dịch vụ khách hàng. Tất cả đều
thống nhất và mang tính chuyên nghiệp cao. Lotteria và KFC khi đầu tư vào Việt
Nam đã lỗ trong một thời gian khá dài khoàng 8 năm nhưng vẫn chấp nhận và họ
chưa thể tiến hành nhượng quyền bởi phong cách làm việc cũng như cách thức
quản lí, tác phong làm việc của người Việt Nam chưa thể lọt vào mắt xanh của
những đại gia này. Trong giai đoạng những năm 2000 trở về trước, nổi bật lên hẳn
trong lĩnh vực nhượng quyền thương mại thành công là công ty An Phước với việc

mua lại thương hiệu Pierre Cardin – thương hiệu thời trang nổi tiếng ra đời năm
1954.An Phước đã nhận gia công rất nhiều cho người Nhật – những người vô cùng
khắt khe tỉ mỉ từng đường kim mũi chỉ, do vậy ngay từ những ngày đầu thành lập
An Phước đã ý thức được muốn thành công họ phải cẩn thận và tôn trọng chữ tín
như thế nào.An Phước có được quyền kinh doanh thương hiệu này vào những năm
1997, công ty đã từng gia công hàng hóa cho Pierre Cardin thông qua những công
ty may của Nhật được Pierre Cardin đánh giá cao và chính chủ của thương hiệu
nổi tiếng này đã tin cậy đề nghị với Tổng giám đốc công ty An Phước mua
thương hiệu để kinh doanh và phân phối hàng hóa mang thương hiệu Pierre Cardin
trên toàn Đông Dương.. Sự thành công của Anphuoc – Pierre Cardin là một bài
học quí giá trong lĩnh vực nhượng quyền thương mại mà những doanh nghiệp Việt
Nam muốn thành công phải học hỏi đó là tạo dựng một niềm tin cho chủ thương
hiệu DN muốn nhận quyền.
. - Năm 2004 đến 2006 được xem là thời kì bùng nổ nhượng quyền thương mại ở
Việt Nam với hàng loạt các doanh nghiệp được nhượng quyền ra đời. Theo đánh
giá của các nhà đầu tư nước ngoài, Việt Nam đang là mảnh đất màu mỡ cho hoạt
động nhượng quyền bùng nổ. Nếu năm 2004 chỉ có 65 hệ thống nhượng quyền tại
Việt Nam và đa số là thương hiệu nước ngoài thì đến năm 2006 đã có hơn 530 hồ
sơ đăng ký nhượng quyền thương mại và đến nay thì con số này tăng lên đáng kể.
Thời điểm năm 2006 Kinh tế Việt Nam cũng đang phát triển nhanh chóng, hàng
loạt các tập đoàn với các thương hiệu nổi tiếng thế giới bắt đầu đổ bộ vào Việt

11


Nam .Trong lĩnh vực ăn nhanh xuất hiện thêm Pizza Hut, BBQ Chicken… hoặc
trong lĩnh vực thời trang như Gucci, D&G…, Bán lẻ có Metro hay BigC và rất
nhiều thương hiệu khác. Một số đối tác đã bắt đầu nhượng quyền cho các công ty
Việt Nam như café Gloria Jean’s Coffee – một thương hiệu café nổi tiếng thế giới
chỉ xếp sau đại gia Starbuck – đã nhượng quyền cho công ty Vietstyle kinh doanh

thương hiệu tại Việt Nam,trong năm 2006 thương hiệu café này đã có mặt trên 20
quốc gia trên thế giới và có hơn 1000 cửa hàng .Gloria Jean’s Coffees thực hiện
toàn bộ dây chuyền khép kín từ thu mua đến rang và đóng gói cà phê. Mỗi thức
uống tại cửa hàng đều được pha chế theo đúng tiêu chuẩn. Chẳng hạn, thời gian để
chiết xuất 30ml cà phê espresso tốt nhất từ 23 đến 27 giây, cà phê được pha chế ít
hơn 23 giây hoặc nhiều hơn 27 giây đều không được cho phép phục vụ khách
hàng. Mỗi loại thức uống khác nhau đều có quy định về trọng lượng, tỷ lệ giữa cà
phê, sữa và bọt sữa để tạo ra sự kết hợp hương vị. Ngoài ra Hai thương vụ gây chú
ý khác là tập đoàn siêu thị bán lẻ điện tử hàng đầu Nhật Bản Best Denki, nhượng
quyền thương mại cho hệ thống siêu thị điện máy Carings (Công ty Thương mại
tiếp thị Bến Thành) và hợp đồng chuyển nhượng quyền thương mại chuỗi cửa
hàng mang thương hiệu Walt Disney của liên doanh Công ty cổ phần Văn hóa
Phương Nam và Tập đoàn East Media Holdings Incorporation. Nhìn chung trong
giai đoạn này nhượng quyền thương mại đã phát triển mạnh nhưng vẫn chưa xứng
đáng với qui mô thị trường Việt Nam .Các doanh nghiệp Việt Nam cần chứng tỏ
tiềm lực vê tài chính cũng như quản lí để các đối tác nước ngoài có thể tin tưởng
và sẵn sàng để nhượng quyền tại Việt Nam
1.2 Tình hình các doanh nghiệp Việt Nam thực hiện nhượng quyền :
- Mô hình nhượng quyền kinh doanh là một mô hình kinh doanh đa năng. Nó giúp
các doanh nghiệp lớn quảng bá thương hiệu của mình rộng hơn nhưng nó cũng có
thể giúp các doanh nghiệp chưa lớn có thể đầu tư nâng cao thương hiệu mà không
cần vốn. Nếu lĩnh vực thức ăn nhanh là sân chơi chỉ dảnh riêng cho các tập đoàn
nước ngoài thì các doanh nghiệp Việt Nam phát triển hệ thống nhượng quyền
thông qua các lĩnh vực khác như thực phẩm chế biến, thực phẩm truyền thống,
quán cà phê…Đây là những sản phẩm đặc thù và có cơ hội phát triển tốt thông qua
hình thức nhượng quyền thương mại tại những quốc gia đang phát triển như Việt
Nam. Chuỗi cửa hàng nhượng quyền kinh doanh của Kinh Đô là Kinh Đô Bakery,

12



tập đoàn thực phẩm Nam An là Phở 24, café Trung Nguyền là đại diện cho các
thương hiệu Việt Nam trong lĩnh vực này.
Café Trung Nguyên đã tạo nên một hiện tượng khi các cửa hàng của họ mọc lên ồ
ạt ở rất nhiều tỉnh thành vào những năm 2000. Ngoài ra Trung Nguyên cũng
chuyền nhượng thành công và những quán café mang phong cách Việt đã có mặt ở
thị trường Nhật Bản, Singapore, Thái Lan dưới cái tên Trung Nguyên. Bí quyết
thành công của Trung Nguyên nằm ở chỗ họ biết cách xây dựng một thương hiệu
manh, cũng đã có những tiêu chuẩn nhất định về mặt qui trình chất lượng…
Nhưng bước đầu thành công thì không phải mãi mãi là thành công. Do công tác
quản lí yếu kém, hệ thống sàng lọc hồ sơ quá dễ dãi và việc quá dễ dàng chấp
nhận nhượng quyền nên đến nay những quán café Trung Nguyên đã không còn
giữ được phong cách giống như nó những ngày đầu thành lập. Bài học của Trung
Nguyên cần phải được các doanh nghiệp Việt Nam xem xét khi bước chân vào
kinh doanh theo mô hình này.
Trong số những thương hiệu nhượng quyền của Việt Nam, có lẽ thành công nhất
phải kể đến Phở24 một sản phẩm thành công của tập đoàn Nam An Group. Phở là
một món ăn truyền thống của người Việt Nam, đây là một điểm mạnh Phở 24 đã
khai thác được. Bên cạnh việc phở được chế biến theo một cách thức thống nhất từ
nguyên liệu đến qui trình và đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm, có vị đặc trưng
riêng của cả ba miền thì việc bài trí cừa hàng vừa hiện đại vừa mang đậm bản sắc
Việt Nam đã thu hút thực khách. Ra đời chỉ muộn hơn Trung Nguyên 1 năm
nhưng những thành công hiện tại của Phở 24 trong mô hình nhượng quyền thương
mai so với Trung Nguyên đã quá rõ ràng. Phở 24 mô hình hóa tất cả các giai đoạn
trong sản xuất, đưa ra những yêu cầu bài bản so với những cá nhân, tổ chức muốn
nhận quyền từ thương hiệu này, hơn nữa trong suốt quá trình kinh doanh cửa hàng
nhượng quyền Phở 24 luôn đồng hành cùng chủ cừa hàng này giám sát chặt chẽ từ
nguyên liệu đầu vào cho đến cung cách phục vụ khách hàng – đây là những điều
mà Trung Nguyên làm chưa thực sự tốt . Ngoài ra để thực hiện chiến lược đưa
thương hiệu Phở 24 ra toàn cầu thì người chủ thương hiệu này – ông Lý Quí Trung

đã đăng ký bảo hộ nhãn hiệu Phở 24 tại rất nhiều nước trên thế giới
- Bên cạnh lĩnh vực các sản phẩm ăn uống lĩnh vực may mặc cũng đang xuất hiện
nhiều những chuỗi cửa hàng nhượng quyền. Nổi bật 2 trong số đó là thương hiệu
Foci và Ninomaxx. Đầy là 2 thương hiệu Việt Nam đã rất thành công trong việc

13


nhượng quyền phân phối sản phẩm. Bằng việc lựa chọn đúng đối tượng khách
hàng, Ninomaxx lựa chọn nhóm khách hàng có thu nhập cao hơn trung bình một
chút để không bi xem là mặt hàng có đẳng cấp thấp nhưng cũng không cạnh tranh
trực tiếp với những thương hiệu thời trang nổi tiếng hiện đang có mặt tại Việt
Nam, còn đối tượng khách hàng chính của Foci là những người có thu nhập trung
bình đó là giới trẻ, học sinh, sinh viên. Tuy với giá trung bình nhưng chất lượng
sản phẩm không hề thua kém những sản phẩm có giá cao hơn. Cùng với lựa chọn
đúng khách hàng cả 2 thương hiệu này đều sử dụng một phương thức kinh doanh
rất ưu việt là nhượng quyền phân phối sản phẩm . Cả hai thương hiệu đều ý thức
được rằng sự thống nhất các cửa hàng sẽ giúp nhà đầu tư thực hiện mục tiêu phát
triển thương hiệu của mình và hướng các đối tác cùng thực hiện mục tiêu đó với
nhà đầu tư. Đây cũng là một trong những điểm mấu chốt mà những ai muốn thực
hiện nhương quyền cần ý thức được.
Tất cả doanh nghiệp khi kinh doanh theo hình thức nhượng quyền thương mại đều
có tham vọng mở rộng kinh doanh, nâng cao uy tín, quảng bá thương hiệu của
mình và để làm được điều đó cần phải hiểu biết rõ về nhượng quyền để không đi
ngược lại những nguyên tắc cần phải có để thành công bằng mô hình này.
2. Các lĩnh vực tiềm năng có thể kinh doanh theo hình thức nhượng quyền tại
Việt Nam :
2.1 Lĩnh vực Bán lẻ :
- Đây là lĩnh vực tiềm năng nhất sẽ phát triển trong tương lai tại Việt Nam theo
con đường nhượng quyền thương mại. Lịch sử phát triển của nhượng quyền thế

giới cũng đã chứng minh sau nhà hàng, thức ăn nhanh sẽ đến lĩnh vực bán lẻ. Hơn
thế nữa sau khi Việt Nam gia nhập WTO, vào ngày 1.1.2009 các tập đoàn bán lẻ
sẽ được tham gia thị trường Việt Nam 100% vốn đầu tư nước ngoài sẽ làm cho thị
trường bán lẻ Việt Nam trở nên sôi động.
- Theo số liệu của Tổng cục thống kê, tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch
vụ tiêu dùng của Việt Nam trong năm 2007 đạt 726.113 tỉ đòng, tương đương 44.8
tỉ USD, trung bình tăng hơn 20%. Vì thế, Việt Nam hiên nay được đánh giá là thị
trường bán lẻ hấp dẫn đứng thứ 4 thế giới chỉ sau Ấn Độ, Nga, Trung Quốc. Điều
này là nhờ thu nhập trong nước ngày một tăng và phong cách mua sắm đang thay
đổi từ mô hình mua sắm truyền thống tại các chợ sang mua sắm tại các siêu thị
hoặc các cửa hàng bách hóa. Nhóm chi tiêu dùng lớn nhất là ở độ tuổi 22 – 25,

14


vốn chiếm tới 70.79% dấn số Việt Nam. Do vậy chắc chắn Việt Nam sẽ trở thành
một địa điểm bán lẻ lớn trong thời gian tới mà các tập đoàn bán lẻ trên thế giới
đang hướng đến
Mười thị trường bán lẻ hấp dẫn nhất thế giới
Xếp
hạng Quốc gia

Độ hấp
dẫn

Rủi ro
quốc gia
(%)

1

2
3
4
5
6
7
8
9
10

42
52
46
34
43
51
32
44
58
40

67
62
75
57
41
80
77
70
83

85

Ấn Độ
Nga
Trung Quốc
Việt Nam
Ukraina
Chile
Latvia
Malaysia
Mexico
Saudi Arabica

Độ bão
hòa thị
trường
(%)
80
53
46
76
44
42
21
46
33
66

Áp lực
thời gian

(%)

Điểm số

74
92
90
89
84
86
59
74
88
69
43
69
86
68
54
68
33
64
35
64
Nguồn : AT Kearney 2007
Trong số các ngành có thể áp dụng mô hình nhượng quyền kinh doanh thì lĩnh vực
bán lẻ được xem là lĩnh vực rất tiềm năng. Tại Trung Quốc tỉ lệ nhượng quyền
trong lĩnh vực bán lẻ chiếm 30% sau lĩnh vực thực phẩm 35%. Tại Nhật tỉ lệ đó là
32%. Ở Việt Nam hiện chưa có một thống kê đầy đủ nào về việc áp dụng hình
thức nhượng quyền trong lĩnh vực bán lẻ, nhưng có thể nhận thấy rằng cơ cấu bán

lẻ đang có sự thay đổi lớn từ các kênh bán lẻ truyền thống như chợ, các kệnh phân
phối của nhà sản xuất sang kênh bán lẻ hiện đại là các siêu thị, các trung tâm mua
sắm, các cửa hàng tiện lợi . Do đó hàng loạt tên tuổi nước ngoài trong lĩnh vực
nhượng quyền bán lẻ đã và đang chuẩn bị có mặt tại Việt Nam, cũng như một số
thương hiệu bán lẻ của các doanh nghiệp Việt Nam cũng chuẩn bị bước vào hình
thức nhượng quyền
Các thương hiệu áp dụng hình thức nhượng quyền trong lĩnh vực bán lẻ của nước
ngoài đã có mặt ở Việt Nam như Bourbon (Pháp) , Metro ( Đức), Parkson ( Hàn
Quốc) ,Best Denki (Nhật) mới đây là vào tháng 2/2009 siêu thị đồng giá Daiso
của Nhật đã chính thức nhượng quyền cho tập đoàn Trí Phúc mở cửa hàng này tại
Việt Nam sau đó 7 tháng vào tháng 9/20009 chuỗi cửa hàng tiện lợi Family Mart

15


của Nhật đã liên doanh với tập đoàn phân phối Phú Thái để mở cửa hàng tại Việt
Nam. Trong tương lai, Việt Nam sẽ đón nhận thêm những đại gia mới trong ngành
này như 7- Eleven hay Wal Mart. Đây là một cơ hội rất lớn cho các doanh nghiệp
Việt Nam muốn chứng tỏ mình để trở thành đối tác nhượng quyền của những
thương hiệu hàng đầu thế giới này.
Khi các tập đoàn bán lẻ lớn của thế giới vào Việt Nam cũng là lúc doanh nghiệp
bán lẻ của Việt Nam phải chuẩn bị đầy đủ để cạnh tranh trong một môi trường
khốc liệt hơn. Những doanh nghiệp bán lẻ có tên tuổi cùa Việt Nam đã thực hiện
nhượng quyền có thể kể ra như Coop Mart, G7 Mart, V-24h., 24/seven Thế nhưng
ngoại trừ Coop Mart khá thành công thì nhưng doanh nghiệp còn lại gặp rất nhiều
khó khăn trong việc phát triển hệ thống bán lẻ của mình. Nếu đầu tư các chuỗi siêu
thị lớn thì khó khăn về vốn cũng như không cạnh tranh được với các thương hiệu
nước ngoài về kinh nghiệm cũng như tiềm lực tài chính, nếu mở chuỗi cửa hàng
bán lẻ thì khó khăn lớn nhất là tập quán tiêu dùng của người Việt Nam, ngoài ra
còn có khó khăn về địa điểm. Các Doanh nghiệp Việt Nam cần nhanh chóng tái cơ

cấu, thay đổi hoạt động của mình để có thể cạnh tranh với thị trường bán lẻ sôi
động sắp tới tại Việt Nam.
1.2 Lĩnh vực giáo dục :
- Khi mức sống của người dân Việt Nam ngày càng tăng lên thì nhu cầu về một
nền giáo dục tiên tiến với cơ sở vật chất khang trang ngày càng được nâng lên rõ
rệt. Số lượng sinh viện học sinh đi du học ở nước ngoài vì thế mà ngày càng tăng
lên. Như vậy việc nhận quyền từ các thương hiệu giáo dục – đào tạo uy tín hiện
nay là rất cần thiết. Việc áp dụng mô hình nhượng quyền vào các trung tâm ngoại
ngữ, tin học, các trường đại học, cao đẳng, thậm chí là các trường mầm non, nhà
trẻ sẽ đáp ứng được nhu cầu nhiều người. Họ không phải đi đâu xa mà vẫn được
hưởng một nền giáo dục tiên tiến. Hơn thế nữa, nguồn nhân lực cao hiện đang là
bài toán khó giải của Việt Nam ở hầu hết các ngành nghê và như vậy nhượng
quyền kinh doanh trong lĩnh vực này cần được khuyến khích hơn bao giờ hết.
- Tại Việt Nam đã có nhượng quyền thương mại trong lĩnh vực này. Trong đó tiêu
biểu phải kể đến như FPT- Aptech, Dale Carnegie Training. Đặc biệt có thể thấy
sự phát triển nhanh chóng của FPT – Aptech, chỉ riêng tại Hà Nôi đã có 3 cơ sở
chính thức.
1.3 Lĩnh vực chăm sóc sắc đẹp :

16


- Ngày nay đời sống người dân được nâng cao, nhu cầu của con người không còn
là “ ăn no mặc ấm” mà chuyển thành “ăn ngon mặc đẹp”. Ai cũng muốn chăn sóc
hình thức bên ngoài nhiều hơn, không chỉ riêng nữ giới nữa. Các thẩm mỹ viện,
Spa, trung tâm thể dục thể hình… cũng vì thế mà mọc lên rất nhiều . Việc triển
khai mô hình nhượng quyền thương mại trong lĩnh vực này là rất hợp lý và cơ hội
phát triển cũng rất cao. Dịch vụ chăm sóc sách đẹp là một ngành nghề rất nhạy
cảm vì nó ảnh hưởng trực tiếp đến sức khỏe của con người. Hiện nay ở Việt Nam
có nhiều trung tâm chăm sóc sắc đẹp nhưng cũng không ít trong số đó có chất

lượng thấp và những người sử dụng dịch vụ của những trung tâm này đã phải chịu
những hậu quả rất lớn. Về nhượng quyền thương mại trong lĩnh vực này, có lẽ
thương hiệu Curves của Mỹ là thương hiệu chăm sóc sức khỏe phụ nữ là đầu tiên
triển khai nhượng quyền thương mại ở Việt Nam vào cuối năm 2007 và doanh
nghiệp này dự kiến sẽ nhượng quyền cho 50 câu lạc bộ hoạt động tại Việt Nam
vào năm 2010

17


Phần III. MỘT SỐ KIẾN NGHỊ PHÁT TRIỂN NHƯỢNG
QUYỀN THƯƠNG MẠI TẠI VIỆT NAM
1. Kiến nghị về phía các doanh nghiệp:
1.1 Với các doanh nghiệp nhượng quyền :
- Thứ nhất Kinh nghiệm trên thế giới cho thấy hầu hết các tập đoàn nổi tiếng
thường đã xây dựng thương hiệu khá thành công trước khi đem nó ra kinh doanh
Doanh nghiệp Việt Nam cần phải có những kỹ năng nhất định trong việc xây dựng
thương hiệu (làm thương hiệu). . Trong nhượng quyền thương mại điều quan trọng
nhất đó là thương hiệu của doanh nghiệp, của sản phẩm. Nếu doanh nghiệp không
có được một chỗ đứng nhất định trên thị trường thì làm sao những sản phẩm, dịch
vụ của mình có thể phát triển và được thị trường tiếp tục chấp nhận
- Thứ hai, Doanh nghiệp cần xác định cho mình hệ thống thương hiệu, sản phẩm,
mô hình, hệ thống các qui trình dự định chuyển giao cho các nhà nhận quyển trong
tương lai, chương trình đào tạo, địa điểm đào tạo, qui trình vận hành, kiểm soát, tư
vấn… thật rõ ràng và chi tiết. Điều này tương đương với việc phải tiêu chuẩn hóa
kể cả những công việc nhỏ nhất Ngoài ra, mô hình này cần được trải nghiệm thành
công và có thể chuyển giao dể dàng ra nhiều mô hình giống như mô hình ban đầu.
Không phải tất cả các sản phẩm đều có thể thực hiện nhượng quyền, cần cân nhắc
lựa chọn những sản nào dễ tiêu chuẩn hóa để không quá khó khăn cho việc triển
khai của nhà nhận quyền sau này . Mục tiêu của kiến nghị này là xây dựng được

chất lượng chuyển giao tối ưu và chủ động cho các nhà nhượng quyền trong tương
lai.
Thứ ba là cần xây dựng Hồ sơ nhượng quyền đầy đủ và chi tiết. Mục đích là tìm ra
được các nhà nhận quyền tương lai phù hợp với yêu cầu của doanh nghiệp trong
việc cùng cam kết chia sẻ những thành công trong quá trình hợp tác. Điều này
cũng giảm thiểu tối đa rủi ro những tranh chấp về quyền lợi sau này khi đi vào hợp
tác
Thứ tư là xây dựng một văn hóa trung thực, chia sẻ và cam kết đối với hệ thống
nhượng quyền của mình. Bất cứ sự không rõ ràng nào trong việc xây dựng hệ
thống cũng là những nguy cơ rất lớn ảnh hưởng đến sự cam kết, niềm tin của nhà
nhận quyền đối với nhà nhượng quyền. Do vậy, các thông điệp, chính sách từ nhà
nhượng quyền cần được qui định rất rõ trong Hợp đồng nhượng quyền và cam kết
thực hiện đến cùng các chính sách này. Chỉ có thực hiện tốt các cam kết, nhà
18


nhượng quyền mới có thể tạo được niềm tin và sự tin cậy của nhà nhận quyền. Từ
đó, các chính sách, qui trình từ nhà nhuợng quyền mới được thực thi một cách trọn
vẹn. Đây là điều kiện tiên quyết cho sự phát triển bền vững của một hệ thống trong
điều kiện cạnh tranh như hiện nay.
Thứ năm là đào tạo, và phát triển. Trên thế giới, việc các công ty nhượng quyền
hình thành các trung tâm đào tạo và phát triển nguồn nhân lực, thậm chí cả đại học
là không hiếm; chính từ các trung tâm này, đại học này đã cung cấp những nhà
nhận quyền tương lai chuyên nghiệp, hệ thống nhân viên giàu nhiệt huyết và niềm
tin ở tương lai không ngừng được cũng cố và phát triển.. Tuy nhiên ở Việt Nam số
lượng người hiểu biết về mô hình này còn rất hạn chế, muốn tiến hành nhượng
quyền trước hết cần phải hiểu nhượng quyền là gì, hoạt động như thế nào. Doanh
nghiệp nên đầu tư vào việc xây dựng đội ngũ nhân viên có hiểu biết về lĩnh vực
này để sau này có thể tìm kiếm đối tác nhượng quyền thích hợp cũng như kiểm
soát sự hoạt động để không xảy ra sai lầm đáng tiếc ảnh hưởng đến cả hệ thống

nhượng quyền
Theo một nhà nghiên cứu nhượng quyền ở Việt Nam thì hình thức kinh doanh
nhượng quyền là hình thức kinh doanh của niềm tin và của sự cam kết. Thực vậy,
niềm tin sẽ tạo cho các nhà nhận quyền sư tin tưởng vào nhà nhượng quyền và vào
hệ thống mà mình là một thành viên. Sự cam kết sẽ làm cho hệ thống được vận
hành đúng và qui chuẩn dù ở bất cứ nơi đâu và bất cứ thời gian nào. Sự cam kết và
niềm tin sẽ có được và phát huy hiệu quả của nó thông qua quá trình hợp tác và
thông qua một văn hóa trung thực, giàu khát vọng. Thành công của hệ thống
nhượng quyền không thể được đo trong một năm, hai năm mà được đánh giá trong
dài hạn. Do vậy, hơn lúc nào hết, nhà nhượng quyền Việt Nam cần xây dựng cho
mình hê thống các giải pháp để không những thành công trong ngắn hạn mà còn
phát huy tính ổn định, hiệu quả và phát triển trong dài hạn. Góp phần tô điểm cho
bức tranh sống động của nền kinh tế Việt Nam trong thời kỳ mới
2. Kiến nghị về phía Hiệp hội nhượng quyền Việt Nam :
- Không chỉ có Hiệp hội nhượng quyền mà hầu hết các Hiệp hội doanh nghiệp
khác ở Việt Nam hoạt động còn không mấy hiệu quả. Vai trò chính của Hiệp hội
là đại diện và tăng cường quyền lợi cho hội viên của mình cả trong nước và quốc
tế bao gồm việc duy trì đối thoại với Chính phủ về luật và chính sách chi phối hoạt
động của cộng đồng doanh nghiệp, và quan hệ với các cơ quan tổ chức trong nước

19


và nước ngoài . Ngoài ra Hiệp hội còn có dịch vụ hỗ trợ kinh doanh bao gồm tất cả
những dịch vụ không trực tiếp liên quan đến tài chính mà doanh nghiệp có thể có
nhu cầu như đào tạo, tư vấn kỹ thuật, tổ chức hội chợ thương mại, hội thảo, hội
ngị chuyên đề, mở rộng giao lưu quan hệ kinh doanh, thu thập và cung cấp thông
tin về những vấn đề có tác động đến hội viên.
Vai trò của Hiệp hội nhượng quyền trong giai đoạn nhượng quyền kinh doanh
đang phát triển mạnh mẽ lại càng quan trọng hơ. Vì vậy muốn Hiệp hội hoạt động

hiệu quả cần có đội ngũ nhân lực có kiến thức, những bộ phận chuyên trách rõ
ràng thường xuyên cập nhật đầy đủ những thông tin về nhượng quyền trên thế
giới, các công ty nước ngoài đang muốn nhượng quyền Việt Nam hoặc các thị
trường tiềm năng mà các doanh nghiệp Việt Nam có thể thực hiện nhượng quyền
và môi trường pháp lý tại những thị trường đó
- Ngoài ra Hiệp hội nhượng quyền cũng cần liên tục ghi nhận các phản hồi từ phía
doanh nghiệp về môi trường pháp luật trong nhượng quyền thương mại để có
những kiến nghị kịp thời lên Chính phủ nhằm đáp ứng nguyện vọng từ phía các
doanh nghiệp
3. Kiến nghị về phía nhà nước :
- Thứ nhất: Hiện tại, Bộ Công thương là cơ quan quản lý hoạt động kinh doanh
này. Tuy nhiên theo cá nhân tôi, bấy nhiêu thôi thì chưa đủ và chưa kích thích
được sự hình thành và phát triển mô hình này tại nước ta, nhất là những thương
hiệu “ Việt” chưa có sự quan tâm, đầu tư đúng mực và mô hình trung là manh
mún. Nên để từng bước phát triển thì chúng ta cần phải thành lập một tổ chức
chuyên sâu để hỗ trợ và phát triển lĩnh vực này, chẳng hạn “Hiệp hội phát triển
nhượng quyền Việt Nam” hay … và từng bước đưa những kiến thức này vào các
trường đại học thông qua giáo trình giảng dạy, tài liệu nghiên cứu cho sinh viên …
cũng như tạo điều kiện hơn nữa cho các chương trình hội chợ về nhượng quyền
nhằm giúp cho doanh nghiệp Việt Nam hiểu và quan tâm đúng mức cũng như có
sự hỗ trợ kịp thời … Và thực tế cho thấy, điều này đã và đang phát huy rất hiệu
quả ở các số nước. Ví dụ như các nước trong khu vực Đông Nam Á đang làm
- Thứ hai Chính phủ cần phải có Ngân sách trợ giúp phát triển bước đầu nhằm
đảm bảo và tạo điều kiện cho các doanh nghiệp mạnh dạn hơn trong việc áp dụng
và triển khai mô hình này. Thông qua đó hỗ trợ doanh nghiệp trong nước tạo dựng
thương hiệu và thị trường ra bên ngoài. Vì thực tế cho thấy, có rất nhiều thương

20



hiệu “Việt” khi tham gia thị trường nước ngoài thì đã bị các nhà phân phối độc
chiếm và gằn với những thương hiệu của nhà phân phối, chẳng hạn như các sản
phẩm thuỷ sản, chế biến gỗ của Việt Nam … và cũng nhiều người cho rằng đấy là
hình thức mà các doanh nghiệp trong nước chỉ gia công mà thôi.
Thêm vào đó, đối với đặc thù của nước ta thì mô hình nhượng quyền này còn có
thể vận dụng và kết hợp hiệu quả hơn khi thực hiện cổ phần hoá các tổng công ty
nhà nước, các doanh nghiệp có quy mô lớn đang hoạt động kinh doanh trong
những lĩnh vực thương mại, phân phối, du lịch …đây là những lĩnh vực mà hình
thức này phát triển rất mạnh, mà hiện đang có tầm và quy mô rất lớn trong số các
doanh nghiệp phải thực hiện chuyển đổi theo hình thức cổ phần hoá từ nay cho
đến 2010. Thông qua phương pháp này nhằm phát huy hơn nữa vai trò của các
thương hiệu mà các doanh nghiệp nhà nước đang có. Đồng thời khắc phục một số
hạn chế trong việc xác định và tính toán giá trị doanh nghiệp khi thực hiện cổ phần
hoá mà trong đó có một phần giá trị được cho là “Giá trị lợi thế vị trí địa lý” từ các
lô đất ở khu vực đô thị.

21



×