Tải bản đầy đủ (.doc) (87 trang)

Đồ án tốt nghiệp những giải pháp nhằm nâng cao hiêu quả hoạt động kinh doanh tại công ty đầu tư và phát triển công nghệ truyền

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (467.71 KB, 87 trang )

Trong những năm gần đây, nền kinh tế nước ta đã có những chuyển biến
tích cực, từ nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp chuyển sang nền kinh tế thị
trường có sự điều tiết vĩ mô của Nhà nước. Đóng góp vào tiến trình đổi mới đó có
vai trò không nhỏ của các doanh nghiệp quốc doanh trong đó có các doanh nghiệp
kinh doanh thương mại.
Trong nền kinh tế thị trường đa dạng và phức tạp hiện nay sự tồn tạI và
phát triển của một doanh nghiệp là một vấn đề hết sức quan trọng. Sự phức tạp của
thị trường sự đa dạng của hàng hoá dịch vụ, hàm lượng kỹ thuật của hàng hoá dịch
vụ ngày càng tăng chất lượng ngày càng đảm bảo và dịch vụ sau bán rất thuận tiện
như hiện nay thì sự thành đạt của mỗi công ty, mỗi doanh nghiệp là rất cần thiết và
là sự thể hiện mạnh mẽ của mỗi doanh nghiệp mặt khác sự phát triển thị phần trên
thị trường cũng chứng tỏ vị thế và sức mạnh của mỗi doanh nghiệp kể cả doanh
nghiệp Nhà nước cũng như doanh nghiệp tư nhân hay liên doanh với nước ngoài
Sự sàng lọc và quy luật tự đào thải của cơ chế thị trường đòi hỏi các doanh
nghiệp phảI tìm bước đI riêng cho mình tuỳ thuộc vào ngành nghề kinh doanh,
mặt hàng kinh doanh mà có lộ trình cho phù hợp.Tìm mặt hàng kinh doanh hợp lý,
phù hợp với nhu cầu của thị trường. Nâng cao chất lượng chức năng của sản
phẩm.
Trong ngành công nghệ truyền hình còn mới mẻ và lạ lẫm ở nước ta thì sự
tồn tạI và phát triển kinh doanh lại càng khó khăn nhất là nền công nghệ truyền
hình thông tin trên thế giới lạI đang phát triển mạnh đối với nước ta còn nghèo
khó mới đI lên sau chiến tranh nên phần lớn lượng khách hàng có nhu cầu công
nghệ truyền hình có khả năng thanh toán ở mức trung bình và thấp. Sự đầu tư của
Nhà nước cho từng địa phương về công nghệ truyền hình còn thấp do kinh phí còn
đầu tư cho cơ sở hạ tầng kinh tế nên vẫn còn những địa phương chưa có hệ thống
thông tin truyền hình hoặc công nghệ còn lạc hậu nhưng mặt khác ở những thành
phố lớn thì cũng những khách hàng có khả năng thanh toán cao nhu cầu đa dạng
1


đòi hỏi cần có những mặt hàng tốt, chất lượng cao và hoàn toàn phù hợp với công


nghệ thông tin thuyền hình đang phát triển trên thế giới. Do đó đỏi hỏi sản phẩm,
dịch vụ cung ứng của ngành phải đa dạng chất lượng cao đáp ứng đầy và đủ nhu
cầu của khách hàng.Sự phát triển mạnh và đầy đủ cũng như đa dạng của hệ thống
công nghệ truyền hình trong nước và giao lưu với nước ngoàI với công nghệ tiên
tiến được Nhà nước hết sức quan tâm và trách nhiệm đó được giao cho công ty
VTC.
Công ty đầu tư và Phát triển Công nghệ truyền hình Việt Nam (VTC) là
một doanh nghiệp nhà nước lớn nhất trong ngành PT-TH trực thuộc Đài Truyền
Hình Việt Nam.Công ty không chỉ dừng lại ở thị trường trong nước mà còn vươn
thị trường ra cả nước ngoài.
Đứng trước sự thách thức của công nghệ truyền hình thế giới đang ngày
càng phát triển và sự chuẩn bị đất nước tham gia hội nhập AFTA thì công ty sẽ
gặp những khó khăn trở ngạI rất lớn trong hoạt động kinh doanh sắp tới
Trước thực trạng như vậy, tôi chọn đề tài “Những giải pháp nhằm nâng
cao hiêu quả hoạt động kinh doanh tại Công ty đầu tư và Phát triển Công
nghệ truyền hình Việt Nam” làm luận văn tốt nghiệp với mong muốn cải thiện
tình hình kinh doanh hiện nay, góp phần nâng cao đời sống cán bộ công nhân viên
trong công ty.
Việc nghiên cứu các giải pháp đẩy mạnh hoạt động kinh doanh của công ty
nhằm mục tiêu là rõ cơ sở lý luận về hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp
trong nền kinh tế thị trường và xem xét thực trạng hoạt động kinh doanh của Công
ty đầu tư và Phát triển Công nghệ truyền hình Việt Nam. Trên cơ sở đó đề ra một
số giải pháp cơ bản góp phần thúc đẩy hoạt động kinh doanh của công ty.
Nội dung của chuyên đề gồm 3 chương:
Chương I: Lí luận chung về hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp
trong nền kinh tế thị trường.

2



Chương II: Phân tích thực trạng hoạt động kinh doanh của Công ty đầu tư
và Phát triển Công nghệ truyền hình Việt Nam
Chương III:

Một số giải pháp thúc đẩy hoạt động kinh doanh ở Công

ty đầu tư và Phát triển Công nghệ truyền hình Việt Nam
Với thời gian thực tập ngắn và trình độ bản thân có hạn nên trong chuyên đề
này không tránh khỏi thiếu xót. Đề thi thử đại học. Vậy, tôi rất mong nhận được
sự góp ý nhận xét của các thầy cơ các cô chú trong phòng kinh doanh để chuyên đề
được hoàn thiện hơn.
Qua đây, tôi muốn gửi lời cảm ơn chân thành tới toàn thể thầy cô giáo khoa
Quản trị kinh doanh, đặc biệt là cô giáo Cao Mai Lan người trực tiếp hướng dẫn
tôi làm chuyên đề này và tập thể cán bộ công nhân viên Công ty đầu tư và phát
triển Công nghệ Truyền hình Việt Nam đã giúp đỡ tôi hoàn thành chuyên đề này.

3


Chương I: cơ sở lí luận chung về hoạt động kinh doanh của các doanh
nghiệp trong nền kinh tế thị trường:
I. Kinh doanh theo cơ chế thị trường của các doanh nghiệp:
1.Khái niệm về kinh doanh:
Theo luật doanh nghiệp 2000, kinh doanh là việc thực hiện một số hoặc tất cả
các công đoạn của quá trình đầu tư từ sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm hoặc thực
hiện dịch vụ trên thị trường nhằm mục đích sinh lợi.
Như vậy tiến hành bất cứ một hoạt động kinh doanh nào đều có nghĩa là tập hợp
các phương tiện, con người và đưa chúng vào hoạt động để tạo ra tiền đề cho
doanh nghiệp tạo ra lợi nhuận. Để làm được điều này, các doanh nghiệp kinh
doanh trong cơ chế thị trường phải tuân theo ba nguyên tắc cơ bản của kinh doanh.

Đó là :
Thứ nhất kinh doanh phải gắn với thị trường, phải diễn ra trên thị trường và
phải tuân theo các thông lệ của thị trường. Sản phẩm trong kinh doanh là tất cả
những gì có thể đem lại sự thoả mãn nhu cầu của con người. Nó có thể là hàng hoá
thông thường, là dịch vụ, là tiện nghi phục vụ con người. Song nó phải được thị
trường chấp nhận. Việc thị trường chấp nhận phải tính đến mọi yếu tố như khách
hàng, đối thủ cạnh tranh, nhà cung ứng, các ràng buộc trong cơ chế quản lí của
nhà nước và các thông lệ quốc tế
Thứ hai, kinh doanh phải gắn liền với vốn và sự vận động của vốn, tức là
doanh nghiệp không chỉ cần có vốn mà còn phải biết cách để đồng vốn vận động
không ngừng, phải biến T thành T’ sao cho T’ - T > 0.
Thứ ba, kinh doanh là việc dùng vốn vào hoạt động kinh doanh đòi hỏi phải bảo
toàn được vốn và có lãi sau mỗi chu kì kinh doanh, kinh doanh phải sinh lời, sinh
lời hợp pháp, được nhà nước bảo hộ, được thị trường chấp nhận. Có như vậy mới
mở rộng và phát triển kinh doanh. Ngược lại, nếu thua lỗ sẽ đưa doanh nghiệp đến
chỗ phá sản.
2.Mục tiêu kinh doanh:
4


Theo khái niệm về kinh doanh, thì mục tiêu chính của kinh doanh là lợi
nhuận. Nhưng mỗi doanh nghiệp một lúc đều có nhiều nhu cầu, và không phải một
lúc tất cả các nhu cầu đều được thoả mãn, nên đòi hỏi phải có sự phân loại nhu
cầu, nghĩa là phải có sự lựa chọn mục tiêu. Vì vậy, việc lựa chọn mục tiêu thưòng
được lựa chọn dưới dạng hình kim tự tháp, gọi là “tháp mục tiêu’’. Những mục
tiêu gần gũi nhất, quan trọng nhất và dễ có khả năng thực hiện nhất đối với doanh
nghiệp được xếp lên đỉnh tháp và cứ như thế cho đến các mục tiêu phải thực hiện
trong thời gian dàI
Thông thường trong kinh doanh thường có ba mục tiêu cơ bản :
2.1 Mục tiêu lợi nhuận

Lợi nhuận là phần thưởng cho tài năng của doanh nghiệp. Lợi nhuận là phần
dôi ra của doanh thu sau khi trừ đi chi phí của một quá trình kinh doanh nhất định.
Trong kinh tế thị trường kinh doanh có nghĩa là doanh thu phải bù đắp được chi
phí và có lãi. Lợi nhuận là cơ sở để đánh giá hiệu quả kinh doanh. Và chỉ có lợi
nhuận mới mở rộng được hoạt động kinh doanh... Phủ định mục tiêu lợi nhuận thì
kinh doanh của doanh nghiệp chỉ là hình thức, không có mục tiêu. Do đó, lợi
nhuận là mục tiêu trước mắt, lâu dài và thường xuyên của hoạt động kinh doanh
và nó cũng là động lực của hoạt động kinh doanh
2.2 Mục tiêu thế lực
Trong nền kinh té nhiều thành phần, trên thị trường có nhiều người cung ứng
hàng hoá, cạnh tranh trên thị trường đòi hỏi kinh doanh thương mại đòi hỏi ngày
càng phải thu hút được nhiều khách hàng và khách hàng tương lai, phải không
ngừng tăng doanh số bán hàng hoá và dịch vụ; phải không ngừng mở rộng và phát
triển thị trường, tức là tăng được thị phần của mình trên thị trường. Kì vọng về thế
lực trong kinh doanh phụ thuộc vào tài năng, cơ chế quản lí nền kinh tế của nhà
nước trong từng giai đoạn.

5


2.3 Mục tiêu an toàn
Kinh tế thị trường đầy rẫy những cạm bẫy, rủi ro và biến động bất thường nên
mục tiêu an toàn trong kinh doanh cũng được coi trọng. Dù các quyết định phải rất
nhanh nhậy dám chịu mạo hiểm thì việc cân nhắc mặt lợi, mặt hại, tầm nhìn xa
trông rộng và bản lĩnh kinh doanh của người ra quyết định luôn phải quán triệt
mục tiêu an toàn để tránh rủi ro thiệt hại có thể xảy ra đối với doanh nghiệp. Để
giảm bớt rủi ro, doanh nghiệp có thể sử dụng các biện pháp như đa dạng hoá kinh
doanh, “trứng không để cùng một giỏ’’, mua bảo hiểm, liên doanh liên kết.
3.


Nội dung của hoạt động kinh doanh thương mại

3.1

Nghiên cứu và xác định nhu cầu thị trường về loại hàng hoá và dịch vụ

để lựa chọn mặt hàng kinh doanh
Nghiên cứu thị trường là xuất phát điểm để đề ra chiến lược kinh doanh của
các doanh nghiệp, từ các chiến lược đã xác định, doanh nghiệp tiến hành và thực
hiện các chiến lược trung gian, chính sách thị trường. Nghiên cứu thị trường là
vịệc làm cần thiết đầu tiên đối với mỗi doanh nghiệp khi bắt đầu kinh doanh, đang
kinh doanh và muốn mở rộng phát triển hoạt động kinh doanh. Vì thị trường
không phải là bất biến mà luôn biến động đầy bí ẩn và biến đổi không ngừng. Do
đó, nghiên cứu thị trường là hoạt động thường xuyên đối với mỗi doanh nghiệp.
Việc nghiên cứu thị trường nhằm giải đáp các vấn đề sau:
• Đâu là thị trường có triển vọng nhất đối với sản phẩm của doanh nghiệp
hay lãnh vực dịch vụ nào là phù hợp với hoạt động của doanh nghiệp
• Khả năng bán sản phẩm của doanh nghiệp trên thị trường là bao nhiêu.
• Cần có những biện pháp như thế nào để chất lượng mẫu mã sản phẩm tốt hơn.
• Cần có chiến lược, chính sách như thế nào để tăng cuường khả năng cạnh
tranh trên thị trường.
Mục đích nghiên cứu thị trường là nghiên cứu xác định khả năng bán một mặt
hàng nào đó trên thị trường xác định, khả năng bán một mặt hàng nhất định, trên
cơ sở đó nâng cao khả năng cung ứng để thoả mãn nhu cầu của khách hàng.
6


3.1.1. Quá trình nghiên cứu thị trường
Quá trình nghiên cứu thị trường được thực hiện qua ba bước:
-


Thu thập thông tin

-

Xử lí thông tin

-

Ra quyết định


Thu thập thông tin: Đây là bước đầu tiên của nghiên cứu thị trường, liên

quan đến thông tin về thị trường, mặt hàng kinh doanh, là bước đầu tiên có ý nghĩa
quyết định chi phối các bước tiếp theo.
Có hai phương pháp thu thập thông tin:
+ Phương pháp thu thập tại bàn : là phương pháp thu thập thông tin qua các
tài tiệu như sách, báo, tạp chí, bản tin kinh tế... và các tài liệu liên quan đến các
mặt hàng mà doanh nhgiệp đang kinh doanh. Nghiên cứu tại bàn có thể tìm tài liệu
ở bên ngoài doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp chiếm thị phần lớn cũng
có thể nghiên cứu các tài liệu ở trong doanh nghiệp, nếu doanh nghiệp đã có
những tài liệu liên quan đến việc mua, bán mặt hàng cần nghiên cứu và doanh
nghiệp đang chiếm một thị phần đáng kể.
Nghiên cứu tại bàn cho phép ta nhìn khái quát thị trường mặt hàng cần nghiên
cứu. Đây là một phương pháp tương đối dễ làm, nhanh tốn ít chi phí, nhưng đòi
hỏi người nghiên cứu phải có chuyên môn, biết cách thu thập tài liệu, đánh giá và
thu thập các tài liệu thu thập được một cách đầy đủ và tin cậy. Tuy nhiên phương
pháp này có hạn chế là dựa vào các tài liệu đã được xuất bản, nguồn thông tin thứ
cấp nên có độ chễ nhất định và không cập nhật

+ Phương pháp thu thập thông tin tại hiện trường: Đây là phương pháp trực
tiếp cử cán bộ đến tận nơi nghiên cứu để quan sát thu thập thông tin bằng cách
phỏng vấn điều tra, hội nghị khách hàng hay hội trợ triển lãm...Phương pháp này
có thể thu thập thông tin cập nhật nhưng đòi hỏi người nghiên cứu phải có trình độ cao.
Khi tiến hành thu thập thông tin người ta thường sử dụng cả hai phương pháp
trên. Phương pháp nghiên cứu tại bàn được tiến hành trước, sau đó để hạn chế
7


nhược điểm của phương pháp này, người ta sử dụng kết hợp với phương pháp
nghiên cứu tại hiện trường
 Xử lí thông tin:
Sau khi thu thập thông tin và ngay cả trong quá trình thu thập thông tin, nghiên
cứu phải xử lí thông tin, tức là phải phân loại tổng hợp, phân tích, kiểm tra để xác
định tính chính xác của thông tin riêng lẻ, bộ phận, loại trừ những thông tin trùng,
nhiễu, giả mạo để tìm ra những lời giải đáp cho câu trả hỏi về thị trường mục tiêu,
các kế hoạch chính sách, các biện pháp để tiến hành kinh doanh, mở rộng mặt
hàng kinh doanh hoặc loại bỏ những mặt hàng ở giai đoạn bão hòa suy thoái.
 Ra quyết định:
Việc xử lí thông tin cũng chính là việc lựa chọn để ra quyết định. Sự đúng đắn của
các quyết định do thực tế của việc thực hiện các quyết định trả lời. Việc kinh
doanh của doanh nghiệp có mang lại hiệu quả hay không cũng chính là việc ra
quyết định có đúng đắn hay không. Do đó khi ra quyết định thì cán bộ lãnh đạo
không được ra quyết định một cách tuỳ tiện mà phải có tính xác thực.

8


3.1.2 Nội dung nghiên cứu thị trường
Việc nghiên cứu thị trường có thể theo trình tự nghiên cứu khái quát thị trường

đến nghiên cứu chi tiết thị trường, hoặc ngược lại nghiên cứu chi tiết thị trường
đến nghiên cứu khái quát thị trường. Đối với doanh nghiệp qui mô lớn, khi nghiên
cứu thị trường thường nghiên cứu khái quát thị trường trước, sau đó mới nghiên
cứu chi tiết thị trường. Còn đối với doanh nghiệp qui mô nhỏ,đang xâm nhập thị
trường thì ngược lại, đi từ nghiên cứu chi tiết thị trường trước, sau đó mới tiến
hành nghiên cứu khái quát thị trường. Nhìn chung việc nghiên cứu trước sau này
không cản trở lẫn nhau vì mỗi giai đoạn đều có một yêu cầu nhất định về thông tin
và đều cần cho hoạt động kinh doanh
 Nghiên cứu khái quát thị trường :
Nghiên cứu khái quát thị trường hay nghiên cứu vĩ mô này giúp chính phủ
điều tiết hiệu quả thị trường và giúp cho các đơn vị sản xuất kinh doanh nắm được
thông tin chính xác, kịp thời, cụ thể về thị trường.
Nghiên cứu khái quát thị trường bao gồm các công việc : nghiên cứu tổng
cung, tổng cầu, giá cả thị trường và chính sách của chính phủ về loại hàng hoá đó.
Tổng mức cung là khối lượng mà các ngành sản xuất kinh doanh sẽ sản xuất,
nhập khẩu, bán ra trong điều kiện khả năng sản xuất và chi phí sản xuất đã biết
trước. Nghiên cứu tổng cung là nghiên cứu tổng khối lượng hàng hoá có khả năng
sản xuất, cung ứng cho thị trường là bao nhiêu, từ đó nắm bắt được năng lực sản
xuất trong nước, dự báo khả năng nhập khẩu trong một năm, năm năm và dài hạn.
Tổng mức cầu là tổng khối lượng hàng hoá mà người tiêu dùng, các doanh
nghiệp, nhà nước sẽ sử dụng bảng giá cả thu nhập và những biến cố kinh tế khác
đã biết trước. Nghiên cứu tổng cầu là nghiên cứu tổng khối lượng hàng hoá tiêu
dùng và cơ cấu loại hàng hoá đó với giá cả thị trường trong một thời gian nhất
định. Vậy phải nắm được số lượng người tiêu dùng hoặc đơn vị tiêu dùng và nắm
được khả năng tiêu thụ của từng khách hàng, từng khu vực bán hàng.

9


Giá cả thị trường là mức giá cả thực tế mà người ta dùng để mua và bán hàng

hoá trên thị trường, hình thành ngay trên thị trường. Nghiên cứu giá cả trên thị
trường phải nắm rõ giá cả trên thị trường mua và trên thị trường bán. Bên cạnh đó
còn phải nghiên cứu các yếu tố ảnh hưởng đến giá cả thị trường như: như chi phí
sản xuất kinh doanh, sức mua của đồng tiền, thị hiếu tiêu dùng, cạnh tranh..
Nghiên cứu chính sách của chính phủ về loại hàng hoá kinh doanh là nghiên
cứu xem mặt hàng kinh doanh đó có được tự do kinh doanh không, kinh doanh có
điều kiện hay cấm kinh doanh, thông qua việc nghiên cứu các chính sách thuế, lãi
xuất tiền vay ngân hàng, cước vận tải...
Ngoài các vấn đề nghiên cứu trên, cần phải nghiên cứu động thái của cung,
cầu trên từng địa bàn, trên từng khu vực, trong từng thời điểm, nghiên cứu trạng
thái của thị trường trong nước cũng như thị trường trên thế giới.
 Nghiên cứu chi tiết thị trường
Khi nghiên cứu chi tiết thị trường cần phải trả lời được những câu hỏi sau:
ai mua hàng? mua bao nhiêu? mua ở đâu? mua làm gì? đối thủ cạnh tranh của
doanh nghiệp là ai? Thực chất đây là nghiên cứu đối tượng mua bán các loại hàng
hoá mà doanh nghiệp kinh doanh, cơ cấu thị trường, các loại chính sách mua bán
của các doanh nghiệp có nguồn hàng lớn. Nghiên cứu chi tiết thị trường, doanh
nghiệp xác định tỷ trọng thị trường đạt được (thị phần của doanh nghiệp), so sánh
về chất lượng sản phẩm, mẫu mã và các dịch vụ phục vụ khách hàng của các
doanh nghiệp so với các doanh nghiệp khác. Từ đó đưa ra các chính sách vượt các
đối thủ cạnh tranh để thu hút khách hàng.
Sau khi kết thúc việc nghiên cứu thị trường doanh nghiệp đã có được những
quyết định kinh doanh và tiếp tục thực hiện những nội dung tiếp sau của quá trình
kinh doanh.
3.2

Huy động và sử dụng hợp lí các nguồn lực đưa vào kinh doanh
Các nguồn lực đưa vào kinh doanh có vai trò quyết định trong việc thành lập,

hoạt động và phát triển của doanh nghiệp. Nó là một nguồn khả năng để đẩy mạnh

10


hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, tuy nhiên nó chỉ phát huy tác dụng khi
biết quản lí sử dụng chúng một cách đúng hướng, hợp lí, tiết kiệm và có hiệu quả.
Các nguồn lực doanh nghiệp có thể huy động được là vốn hữu hình như
tiền, nhà cửa, kho tàng, cửa hàng...; vốn vô hình như :sự nổi tiếng của nhãn hiệu
hàng hoá, sự trung thành của khách hàng, uy tín của doanh nghiệp...và con người
với tài năng kinh nghiệm nghề nghiệp. Đây là các tài sản có hạn, do đó doanh
nghiệp cần kết hợp các nguồn lực và con người cụ thể như thế nào để có thể tiến
hành kinh doanh một cách nhanh chóng và phát triển cả chiều rộng và chiều sâu.
Nguồn lực này là yếu tố quan trọng để phát huy tài năng của ban lãnh đạo doanh
nghiệp, là điều kiện để thực hiên các chính sách kinh doanh, chiến lược kinh
doanh; là chất keo để nối chắp và kết dính các quá trình kinh tế, quan hệ kinh tế và
nó cũng là dầu nhớt bôi trơn bộ máy kinh tế vận động. Do đó, việc sử dụng hợp lí
các nguồn lực này có vai trò quan trọng quyết định đến hiệu quả kinh doanh. Tuy
nhiên nó lại là kết quả tổng hợp của tất cả các khâu, các bộ phận trong kinh doanh,
từ phương hướng kinh doanh đến các biện pháp tổ chức thực hiện cũng như sự
hạch toán, kiểm tra, nghệ thuật kinh doanh và cơ hội kinh doanh.
3.3

Tổ chức hoạt động tạo nguồn, mua và dự trữ hàng hoá
Để thực hiện nhiệm vụ bảo đảm cung ứng cho sản xuất, tiêu dùng những

loại hàng hoá cần thiết, đủ về số lượng, tốt về chất lượng, kịp thời gian yêu cầu,
doanh nghiệp cần tổ chức công tác tạo nguồn cho doanh nghiệp. Nguồn hàng góp
phần cân đối cung cầu, Tránh được sự khan hiếm, khắc phục tình trạng ứ động,
bảo đảm sử dụng có hiệu quả nguồn lực của doanh nghiệp.
Công tác tạo nguồn là toàn bộ những hoạt động nghiệp vụ nhằm tạo ra
nguồn hàng nhằm cung ứng đầy đủ, kịp thời, đồng bộ, đúng qui cách, chủng loại,

mầu sắc, kích cỡ..cho các nhu cầu của khách hàng. Nguồn hàng hoá sản xuất trong nước.
 Thường có các nguồn hàng chủ yếu sau:


Nguồn hàng hoá sản xuất trong nước.



Nguồn hàng nhập khẩu.
11




Nguồn hàng tự sản xuất tự khai thác.



Nguồn hàng liên doanh, liên kết.



Nguồn đặt hàng và thu mua



Nguồn hàng của đơn vị cấp trên cấp, nhận đại lí hoặc nhận kí gửi

 Hoạt động tạo nguồn của các doanh nghiệp thường kinh doanh trên các hình
thức sau:



Mua theo đơn đặt hàng và hợp đồng kinh tế đã kí trước : Thông qua đơn

hàng hoặc hợp đồng kinh tế đã kí trước gắn người sản xuất với người tiêu thụ, bảo
đảm thị trường cho sản xuất và kinh doanh, tăng nhanh vòng quay của vốn. Đơn
hàng là bản yêu cầu cụ thể về số lượng, qui cách cỡ loại, màu sắc...và thời gian
giao hàng mà người mua lập và gửi cho người bán. Trên cơ sở đặt hàng người
mua và người bán trao đổi thoả thuận với nhau về những chi tiết cụ thể, yêu cầu cụ
thể , trên cơ sở đó các bên kí kết hợp đồng mua bán phù hợp với luật lệ, chế độ
hợp đồng nhà nước và thoả thuận của hai bên.


Mua hàng theo đơn hàng và hợp đồng kí trước giúp doanh nghiệp ổn định

được nguồn hàng, có nguồn lực chắc chắn để đáp ứng nhu cầu của khách hàng.
Tuy nhiên doanh nghiệp cần quan tâm, theo dõi, kiểm tra đơn vị nguồn hàng để
thực hiện đúng hợp đồng đã kí.


Mua hàng theo đơn chào hàng của người bán. Việc mua hàng này nhằm

thoả mãn nhu cầu của khách đặt hàng, ngoài việc đáp ứng đầy đủ về chất lượng,
còn đáp ứng cho khách hàng về giá cả, dịch vụ, thanh toán.


Ngoài các hình thức mua hàng trên còn có các hình thức mua hàng khác

như : mua hàng không theo hợp đồng, mua qua đại lí, kí gửi, liên doanh, liên kết
 Tổ chức công tác tạo nguồn mua hàng gồm các hoạt động nghiệp vụ sau:



Nghiên cứu nhu cầu cụ thể của khách hàng về khối lượng, cơ cấu, qui

cách, chủng loại, thời gian, giá cả mà người tiêu dùng chấp nhận


Tìm kiếm khả năng nguồn hàng trong nước và nhập khẩu

12




Lựa chọn thị trường, chọn đối tác để lập đơn hàng và kí kết hợp đồng mua

hàng.


Tổ chức tiếp nhận, vận chuyển, thanh toán.
Bên cạnh việc tạo nguồn mua hàng, doanh nghiệp cũng cần làm tốt công tác

dự trữ nhằm đảm bảo cho hoạt động kinh doanh diễn ra liên tục. Dự trữ đó là
lượng hàng hoá tồn kho phù hợp với nhu cầu của doanh nghiệp, nó không những
giúp doanh nghiệp đáp ứng tốt nhu cầu của khách hàng mà còn là phương tiện
tăng khả năng cạnh tranh và tìm kiếm lợi nhuận trên thương trường.
+ Dự trữ của các doanh nghiệp bao gồm các loại sau:
 Dự trữ thường xuyên: Là lực lượng dự trữ của doanh nghiệp để thoả mãn nhu
cầu thường xuyên, đều đặn của khách hàng.
 Dự trữ bảo hiểm: Là bộ phận dự trữ đề phòng công tác thu mua tạo nguồn hàng

của doanh nghiệp không đúng kế hoạch về thời gian, số lượng, hay chủng loại để
đáp ứng nhu cầu đột xuất ngoài dự kiến của doanh nghiệp
 Dự trữ thời vụ: áp dụng với những doanh nghiệp kinh doanh những mặt hàng
mà sản xuất, lưu thông, tiêu dùng mang tính chất thời vụ
+ Để tổ chức tốt công tác dự trữ, doanh nghiệp xác định dự trữ theo phương pháp
sau:
 Phương pháp thống kê kinh nghiệm : là phương pháp dựa vào số liệu báo cáo
về hoạt động mua bán dự trữ kì báo cáo để xác định dự trữ cho kì kế hoạch
Dk/h = Db/c( 1+ h )
Dk/h : dự trữ một mặt hàng kì kế hoạch
Db/c : dự trữ một mặt hàng kì báo cáo
h

: tỉ lệ tăng ( giảm ) dự trữ kì kế hoạch so với kì báo cáo

 Phương pháp dựa trên các định các định mức kinh tế kĩ thuật. Là phương pháp
dựa trên nghiên cứu các bộ phận cấu thành dự trữ, dựa vào các định mức kinh tế kĩ
thuật để tính toán mức dự trữ cho doanh nghiệp

13


 Phương pháp sử dụng các mô hình toán và các công cụ tính toán hiện đại. Đó
là quá trình thực hiện hàng loạt các công việc có tính chất tính toán, kĩ thuật, thông
tin kinh tế nhằm đảm bảo tối ưu hoạt động dự trữ của doanh nghiệp.
3.4 Tổ chức hoạt động phân phối bán hàng
Trong cơ chế thị trường mục tiêu của các doanh nghiệp là lợi nhuận. Muốn có
lợi nhuận thì trước hết hàng hoá sản xuất ra phải bán được. Do vậy hoạt động phân
phối bán hàng có ý nghĩa quan trọng,quyết định sự tồn tại và phát triển của doanh
nghiệp. Chỉ có bán được hàng, doanh nghiệp mới thu hồi được vốn, tái mở rộng

kinh doanh.
Bán hàng là quá trình chuyển hoá hình thái giá trị của hàng hoá từ hàng thành
tiền, nhằm thoả mãn nhu cầu của khách hàng về một giá trị nhất định.
Bán hàng là khâu trung tâm chi phối các hoạt động khác của doanh nghiệp
trong kì kế hoạch. Kết quả bán hàng phản ánh đúng đắn mục tiêu chiến lược kinh
doanh của doanh nghiệp đồng thời thể hiện trình độ tổ chức, năng lực điều hành,
tỏ rõ thế lực của đơn vị trên thị trường. Bán hàng là kết quả tổng hợp của các hoạt
động, là quá trình, bao gồm các nội dung chính sau:
+ Nghiên cứu thị trường và tập quán tiêu dùng
+ Lựa chọn kênh phân phối và hình thức bán hàng thích hợp
+ Tổ chức nghiệp vụ bán hàng
+ Tiến hành quảng cáo và xúc tiến bán hàng
 Lựa chọn kênh phân phối và hình thức bán hàng
Trong quá trình lưu thông, hàng hoá có thể được phân phối trực tiếp từ người
sản xuất cho người tiêu dùng hoặc cũng có thể được phân phối qua khâu trung
gian. Tuỳ theo đặc điểm của mỗi loại hàng hoá mà người sản xuất lựa chọn kênh
phân phối phù hợp. Doanh nghiệp có thể lựa chọn một trong bốn loại kênh phân
phối sau:

14


Người

Người

1
Người

sản

xuất
hoặc
nhập
khẩu
hàng

2
Người

3
4

Môi

giới

trung gian

bán

bán
lẻ

buôn

tiêu
dùng
cuối
cùng


hoá

Kênh phân phối của doanh nghiệp
Kênh (1) và kênh (2) là kênh phân phối ngắn.
Kênh (3) và kênh (4) là kênh phân phối dài.
Đối với kênh phân phối ngắn bảo đảm được sự giao tiếp trực tiếp giữa đơn vị
sản xuất và người tiêu dùng cuối cùng, đẩy mạnh tốc độ lưu chuyển hàng hoá, chi
phí lưu thông thấp, quan hệ mua bán đơn giản, thuận tiện. Tuy nhiên tổ chức phát
triển phức tạp, quan hệ thị trường hẹp chỉ phù hợp với hành hoá có tính chất
thương phẩm.
Kênh phân phối dài, quan hệ mua bán theo từng khâu chặt chẽ, lưu thông có khối
lượmg hàng hoá lớn, vòng quay vốn nhanh hơn, có điều kiện phát triển sản xuất kinh
doanh, mở rộng thị trường. Kênh này tuy thời gian lưu chuyển và chi phí lưu thông lớn
nhưng thích hợp với điều kiện sản xuất, lưu thông của nhiều loại doanh nghiệp.
Tuỳ theo điều kiện của sản xuất kinh doanh mà các doanh nghiệp lựa chọn
kênh phân phối sao cho hợp lí, đẩy nhanh tốc độ chu chuyển vốn, giảm chi phí và
sử dụng có hiệu quả các nguồn lực của doanh nghiệp, đẩy mạnh hoạt động kinh
doanh.
15


Ngoài sự lựa chọn kênh phân phối, doanh nghiệp cần có chính sách phân
phối hợp lí trên cơ sở vận dụng một cách hiệu quả các nguyên tắc cơ bản.


Nguyên tắc hiệu quả kinh tế.



Nguyên tắc động bộ liên tục.




Nguyên tắc ưu tiên.
Gắn liền với việc lựa chọn kênh phân phối hợp lí, các doanh nghiệp cần xác

định phương thức, hình thức bán hàng hợp lí. Tuỳ theo các yêu cầu xác định khác
nhau mà có các hình thức bán hàng sau :
• Theo hình thức chiết khấu có hình thức bán buôn và bán lẻ.
• Theo địa điểm giao nhận hàng hoá có hình thức bán tại kho của người cung
cấp, kho người tiêu thụ, cửa hàng, quầy hàng của doanh nghiệp.
• Theo mối quan hệ thanh toán có hình thức mua đứt bán đoạn, bán trả góp...
• Theo phương thức bán có mua bán theo hợp đồng, bán đấu giá...
 Tổ chức nghiệp vụ bán hàng: đây là quá trình thực hiện hợp đồng mua bán
hàng hoá với từng khách hàng hoặc đáp ứng nhu cầu tức thời của người mua ở cửa
hàng, quầy hàng một cách thuận tiện. Trong hoạt động bán hàng cần chú ý đến các
nội dung sau :
• Khối lượng mặt hàng, chất lượng hàng hoá, dịch vụ phải đáp ứng mọi nhu cầu
của khách hàng.
• Tổ chức tốt các hoạt động trong quá trình bán hàng (trước, trong, sau khi bán ).
• áp dụng qui trình bán hàng hoàn thiện đảm bảo cho năng suất của người bán
hàng, chất lượng dịch vụ không ngừng nâng cao.
• Phải không ngừng cải tiến cửa hàng, quầy hàng. Đổi mới thiết bị dụng cụ bảo
quản,trưng bày phục vụ bằng các phương tiện hiện đại nhất.
• Đảm bảo thời gian lao động của nhân viên bán hàng được sử dụng hiệu quả nhất.
• Nghiêm chỉnh thi hành pháp luật trong kinh doanh.
• Xây dựng một thái độ văn minh lịch sự tất cả vì khách hàng.
16



 Tiến hành quảng cáo xúc tiến bán hàng.
Quảng cáo và các hoạt động xúc tiến hỗ trợ bán hàng có vai trò quan trọng
để đưa người mua gặp người bán, người bán nắm bắt được yêu cầu, thị hiếu của khách
hàng.
•Quảng cáo: Kinh doanh mà không quảng cáo khác nào nháy mắt với bạn gái
trong bóng tối, chỉ mình bạn biết mình đang làm gì, ngoài ra không ai biết gì hết.
Hoặc chỉ có xưởng in tiền mới làm ra tiền mà không cần quảng cáo. Do vậy,
doanh nghiệp phải thu hút khách hàng bằng tiếng tăm và các hình thức quảng cáo
hấp dẫn. Trong cơ chế thị trường, doanh nghiệp nào chưa mạnh dạn chi cho quảng
cáo đều bị hạn chế trong chiếm lĩnh thị trường nhất là thị trường ngoài nước. Mục
đích của quảng cáo là đề ra lí do mua hàng thu hút sự chú ý của khách hàng, tạo
lòng tin của người tiêu thụ về sản phẩm hàng hoá cũng như làm tăng ham muốn
mua hàng của họ.
Tuy nhiên quảng cáo khômg phải là sự phô trương, đánh lừa khách hàng mà
là thông tin cho khách hàng về ưu thế của sản phẩm mà doanh nghiệp kinh doanh.
Nội dung của quảng cáo phải làm cho khách cảm thấy mới lạ về sản phẩm hàng
hoá. Ngôn ngữ quảng cáo phải mang tính phổ thông, dễ hiểu, có ít từ chuyên môn.


Hoạt động chiêu khách: là cách thức tác động trực tiếp đến thị trường, nhận

thức, tình cảm của khách hàng, tạo lòng tin, thiện cảm của khách hàng với doanh
nghiệp, kết quả là khách hàng mua hàng hoá của doanh nghiệp.
Để làm tốt công tác chiêu khách, phải nghiên cứu kĩ khách hàng và tâm lí
mua bán của họ. Tâm lí của khách hàng đối với hàng hoá của doanh nghiệp thể
hiện qua hành vi và động thái của họ.
Chiêu khách thường áp dụng các phương thức sau :
- Thực hiện dịch vụ phục vụ khách hàng thông qua đội ngũ tiếp thị và nhân viên
bán hàng
- Tổ chức hội nghị khách hàng và họp khách hàng truyền thống.

- Gửi quà tặng, quà biếu tới khách hàng.
17


- Sử dụng các tác động tương hỗ của khách hàng.
• Hoạt động chiêu hàng : là dùng hàng hoá tác động vào khách hàng tạo sự say
mê thích thú và thuyết phục khách hàng mua hàng.
Tâm lí chung của người mua hàng là không mua nếu không biết đầy đủ về
hàng hoá. Vì vậy doanh nghiệp phải chú trọng tới công tác chiêu hàng. Có thể áp
dụng các phương pháp sau:
- Phương pháp trình diễn hay mẫu.
- Tổ chức các quầy hàng hay cửa hàng giới thiệu sản phẩm.
- Trình bầy hàng hoá ở nơi bán hàng.
- Thông qua hội chợ triển lãm, catalog về sản phẩm.
3.5 Hoạt động dịch vụ khách hàng
Trong hoạt động kinh doanh doanh nghiệp cũng cần phải thực hiện các hoạt
động dịch vụ phục vụ khách hàng. Nhất là trong tình hình hiện nay, với cơ chế thị
trường thì dịch vụ là vũ khí cơ bản nhất của cạnh tranh. Chỉ có thực hiện các hoạt
động dịch vụ phục vụ khách hàng mới có thể thu hút được khách hàng và khách
hàng tương lai đến với doanh nghiệp, phát triển được thế và lực, thắng thế trong
cạnh tranh. Hoạt động dịch vụ không những giúp doanh nghiệp đáp ứng thuận
tiện, văn minh, kịp thời mọi nhu cầu của khách hàng, gây thiện cảm với khách
hàng, bán được nhiều hàng, tăng nhanh vòng quay của vốn lưu động mà còn nâng
cao được thu nhập, nâng cao năng suất lao động và doanh thu của doanh nghiệp,
đồng thời củng cố địa vị và thế lực của doanh nghiệp trên thị trường.
Dịch vụ là phần mềm của sản phẩm hàng hoá, là một loại sản phẩm phi vật
chất, do đó nó có những đặc điểm khác với những sản phẩm thông thường.


Dịch vụ là loại sản phẩm vô hình, chất lượng dịch vụ rất khó đánh giá vì nó


chịu nhiều yếu tố tác động như người bán, người mua và thời diểm bán. Do đó khó
có một chỉ tiêu thống nhất để đánh giá.


Việc sản xuất và tiêu dùng dịch vụ diễn ra không đồng thời, nghĩa là cung

cầu dịch vụ bao giờ cũng được tiến hành cùng một lúc.
18




Dịch vụ không thể cất giữ trong kho, làm phần đệm để điều hoà sự biến

động thất thường của thị trường. Giá trị của sản phẩm dịch vụ chỉ xuất hiện khi
khách hàng có nhu cầu. Nhu cầu về dịch vụ không ổn định và khó dự đoán...
Qui mô sản xuất kinh doanh ngày càng tăng, tiến bộ khoa học kĩ thuật ngày
càng phát triển thì đặt ra yêu cầu hoạt động dịch vụ khách hàng cần được quan
tâm cả trước, trong và sau khi bán hàng.
Dịch vụ trước khi mua bán hàng hoá là các dịch vụ về thông tin, quảng cáo,
chào hàng về loại hàng hoá và các dịch vụ kèm theo.
Dịch vụ trong khi mua bán hàng hoá là các dịch vụ giao tiếp giữa khách hàng
và doanh nghiệp, bao gồm các dịch vụ giới thiệu và hướng dẫn lựa chọn hàng hoá,
dịch vụ về kí kết hợp đồng và thanh toán tiền hàng, bốc xếp, giao hàng...
Dịch vụ sau khi bán là các dịch vụ như lắp đặt, hướng dẫn sử dụng, sửa chữa bảo
hành...
ii.

các nhân tố tác động tới hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp

Hoạt động kinh doanh được thực hiện trong những môi trường cụ thể, mức

sinh lời trước hết phụ thuộc vào khả năng phân tích và am hiểu môi trường kinh
doanh của các chủ doanh nghiệp. Chỉ trên cơ sở nắm vững các nhân tố của môi
trường kinh doanh, dự đoán dược xu hướng biến động của nó mới có thể đề ra
mục tiêu chiến lược kinh doanh đúng đắn, có biện pháp ứng xử phù hợp, không
thụ động trước những biến động của môi trường.
1. Những tác động của môi trường vĩ mô:
Môi trường vĩ mô bao gồm các nhân tố nằm ngoài khả năng kiểm soát của
doanh nghiệp. Vì thế nghiên cứu các yếu tố này không nhằm để điều khiển nó theo
ý muốn chủ quan của doanh nghiệp mà tạo ra khả năng thích ứng một cách tốt
nhất với xu thế biến động của nó. Trong các bộ phận cấu thành môi trường vĩ mô,
chúng ta có thể xem xét các yếu tố sau:
1.1 Sự ràng buộc của chính trị pháp luật

19


Sự ổn định của môi trường chính trị và pháp luật là một trong những điều
kiện tiền đề cho hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp. Khi môi trường
chính trị pháp luật thay đổi, có thể có ảnh hưởng có lợi cho nhóm doanh nghiệp
này, kìm hãm sự phát triển của các doanh nghiệp khác và ngược lại. Để tận dụng
được những ảnh hưởng có lợi của môi trường này, các doanh nghiệp phải phân
tích, dự đoán về chính trị, luật pháp cùng xu hướng biến động của nó. Có thể phân
tích và đánh giá mức độ tác động dưới những góc độ sau:
• Sự ổn định về chính trị, đường lối ngoại giao
• Quan điểm mục tiêu định hướng phát triển xã hội và nền kinh tế.
• Vai trò và chiến lược phát triển kinh tế của đảng và chính phủ.
• Cơ chế quản lí và điều hành mặt hàng kinh doanh.
• Sự điều tiết và khuynh hướng can thiệp của chính phủ vào đời sống kinh tế.

• Thái độ phản ứng của các tổ chức xã hội, người tiêu dùng.
• Sự phát triển của các quyết định bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng.
• Hệ thống luật pháp với mức độ hoàn thiện và hiệu lực thi hành luật pháp
trong đời sống kinh tế xã hội
Rõ ràng khi chính trị ổn định, các chính sách của nhà nước được thực hiện
nhất quán thì các doanh nghiệp sẽ dễ dàng hơn cho các doanh nghiệp trong hoạt
động kinh doanh. Doanh nghiệp có thể yên tâm làm ăn mà không sợ rủi ro xảy đến
bất kì lúc nào do biến động chính trị. Về luật pháp, tất cả các luật, văn bản duới
luật, các qui chế thể chế, thủ tục qui định của nhà nước đều ảnh hưởng trực tiếp
đến hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp. Nhà nước điều chỉnh các doanh
nghiệp sao cho không những đạt kết quả kinh doanh, hiệu quả kinh doanh mà còn
đảm bảo lợi ích kinh tế xã hội.
1.2 Những tác động của yếu tố kinh tế
ảnh hưởng của các yếu tố kinh tế đến các hoạt động kinh doanh của các
doanh nghiệp là rất lớn. Đó là các nhân tố tác động đến sức mua của khách hàng
20


và cách thức tiêu dùng hàng hoá. Nó là yếu tố qui định cách thức các doanh
nghiệp sử dụng các nguồn lực của mình trong hoạt động kinh doanh. Bất cứ sự
thay đổi nào của các yếu tố kinh tế cũng có ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh
thậm chí làm thay đổi mục tiêu chiến lược kinh doanh của các doanh nghiệp. Các
yếu tố quan trọng sau đây tác động đến hoạt động kinh doanh của các doanh
nghiệp :


Sự tăng trưởng kinh tế.




Tiềm năng kinh tế.



Lạm phát và khả năng điều khiển lạm pháp.



Thất nghiệp và mức độ toàn dụng nhân công.



Tỷ giá hối đoái và sức mua của đồng nội tệ.



Sự thay đổi cơ cấu sản xuất và phân phối.



Sự phát triển ngoại thương, xu hướng phát triển kinh tế đối ngoại.



Hệ thống thuế và mức độ thực thi.
Các yếu tố này thay đổi có thể tạo ra cơ hội cho các doanh nghiệp này nhưng

lại hạn chế cơ hội cuả các doanh nghiệp khác. Vậy làm thế nào để tận dụng được
những mặt tích cực và hạn chế những tác động tiêu cực, đòi hỏi các doanh nghiệp
phải tìm hiểu và dự đoán những biến động của các yếu tố kinh tế

1.3 Những tác động của yếu tố công nghệ
Các yếu tố này ảnh hưởng trực tiếp đến sự ra đời của sản phẩm, chất lượng
sản phẩm cũng như khả năng sản xuất sản phẩm. Nó tác động mạnh mẽ đến chi
phí sản xuất và năng xuất lao động, qua đó ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh
của doanh nghiệp. Các yếu tố này luôn thay đổi và hướng đến hiện đại hơn, tiên
tiến hơn. Các doanh nghiệp tiến hành hoạt động kinh doanh không thể tách rời yếu
tố công nghệ, phải thường xuyên đổi mới theo kịp công nghệ hiện đại tạo ra sản
phẩm mới với chất lượng cao, nâng cao khả năng cạnh tranh trên thị trường. Yếu
tố này thể hiện qua một số mặt chủ yếu sau:
21




Cơ sở vật chất kĩ thuật của nền kinh tế quốc dân.



Trình độ trang thiết bị của nền kinh tế quốc dân.



Khả năng nghiên cứu ứng dụng tiến bộ khoa học trong hoạt động kinh doanh



Chiến lược phát triển kĩ thuật công nghệ của nền kinh tế quốc dân.
Nhìn chung, nhịp độ và tốc độ phát triển và đổi mới kĩ thuật công nghệ ngày

càng nhanh hơn ngắn hơn. Bên cạnh đó khoa học công nghệ tác động mạnh đến

quá trình thu thập, xử lí, lưu trữ và truyền đạt thông tin trong hoạt động kinh
doanh. Các doanh nghiệp cần nắm vững, hiểu rõ những bản chất của những sự
thay đổi trong môi trường kĩ thuật công nghệ cùng nhiều phương thức ứng dụng
khác nhau mới có thể phục vụ cho nhu cầu của con người. Đồng thời họ phải cảnh
giác phát hiện những khả năng xấu có thể xảy ra do khoa học công nghệ lạc hậu
gây thiệt hại đến doanh nghiệp và người tiêu dùng.
1.4 Những tác động của yếu tố văn hoá
Yếu tố văn hoá luôn bao quanh doanh nghiệp và khách hàng. Đây là vấn đề
khó nhận ra và hiểu thấu đáo. Nó ảnh hưởng trực tiếp đến cuộc sống và hành vi
của con người, qua đó ảnh hưởng đến hành vi mua bán của khách hàng. Đôi khi
môi trường văn hoá còn là hàng rào “gai góc” đối với các nhà doanh nghiệp. Các
nhân tố tác động này bao gồm :
• Dân số và xu hướng vận động.
• Các hộ gia đình và xu hướng vận động.
• Sự di chuyển dân cư và xu hướng vận động.
• Thu nhập và phân bố thu nhập của người tiêu dùng.
• Nghề nghiệp và sự phát triển việc làm.
• Dân tộc, chủng tộc và đặc điểm tâm sinh lí.
1.5 Những tác động của môi trường tự nhiên và cơ sở hạ tầng
Tác động vào hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp còn có các yếu tố
thuộc môi trường tự nhiên và cơ sở hạ tầng. Nó không chỉ liên quan đến sự phát
22


triển bền vững của một quốc gia mà còn liên quan đến khả năng phát triển bền
vững của từng doanh nghiệp. Đặc biệt là môi trường tự nhiên, nó ảnh hưởng đến
các nguồn lực đầu vào cần thiết cho một doanh nghiệp. Doanh nghiệp cần phối
hợp với các yếu tố của môi trường tự nhiên. Yếu tố môi trường tự nhiên bao gồm :
• Sự thiếu hụt nguồn nguyên liệu.
• Sự gia tăng chi phí năng lượng.

• Ô nhiễm môi trường và sự thay đổi vai trò của nhà nước trong bảo vệ môi trường.
• Trình độ hiện đại của cơ sở hạ tầng sản xuất.
Trên đây là những yếu tố thuộc môi trường bên ngoài của doanh nghiệp, là
nhữnh nhân tố doanh nghiệp khó kiểm soát được. Vì thế doanh nghiệp phải
thường xuyên xem xét sự biến đổi của chúng, từ đó có biện pháp thích hợp để đối
phó. Song chỉ xem xét đến các yếu tố khách quan thì chưa đủ, những nhân tố bên
trong cũng rác động mạnh mẽ đến hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Có thể
nói sự thành công của doanh nghiệp trong hoạt động kinh doamh nếu không nói
đến vận may, chỉ xuất hiện khi kết hợp hài hoà các yếu tố bên trong với các yếu tố
bên ngoài. Một cơ hội kinh doanh chỉ có thể hấp dẫn với doanh nghiệp này, nhưng
lại có thể là hiểm hoạ đối với các doanh nghiệp khác vì nó phụ thuộc vào hoàn cảnh
hiện tại của doanh nghiệp.
2. Hoàn cảnh hiện tại của doanh nghiệp
Dường như hoàn cảnh hiện tại của doanh nghiệp phản ánh các yếu tố mang
tính chủ quan, và có thể kiểm soát ở một mức độ nào đó. Song dù có kiểm soát
được thì doanh nghiệp cũng cần phân tích một cách cặn kẽ các yếu tố nội bộ. Qua
đó thấy rõ dược ưu nhược điểm của mình để hoạt động kinh doamh phát huy tối
đa nguồn lực mà doanh nghiệp sử dụng trong hoạt đông kinh doanh. Các yếu tố
nội bộ bao gồm chủ yếu các lãnh vực chức năng như tài chính, kế toán, nguồn
nhân lực, nền nếp tổ chức…Người xưa có câu “biết người biết ta, trăm trận trăm
thắng”. Như vậy việc đánh giá tiềm năng của doanh nghiệp giúp doanh nghiệp đưa
ra nhận định kế hoạch tốt hơn. Các yếu tố bên trong chủ yếu gồm :
23


2.1 Tiềm lực về tài chính
Đây là một yếu tố tổng hợp phản ánh sức mạnh của doanh nghiệp. Từ đó,
đặt ra yêu cầu bộ phận tài chính phải đảm bảo chức năng : phân tích, lập kế hoạch,
kiểm tra việc lập kế hoạch và tình hình tài chính của doanh nghiệp. Có thể đánh
giá tiềm lực tài chính của doanh nghiệp thông qua các khía cạnh sau :

• Vốn chủ sở hữu (vốn tự có ).
• Khả năng huy động, sử dụng và quản lí vốn.
• Chi phí vốn so với ngành và đối thủ cạnh tranh.
• Cơ cấu và sự linh hoạt của cơ cấu vốn.
• Tỉ lệ tái đầu tư về lợi nhuận.
• Khả năng hỗ trợ nhắn và dài hạn.
• Khả năng sinh lời của vốn.
2.2 Nguồn nhân lực
Đánh giá nguồn nhân lực - tiềm năng con người là nhiệm vụ quan trọng cần
quan tâm trong hoạt động kinh doanh. Vì chính con người với khả năng thực của
họ mới có khả năng tạo ra của cải vật chất và những tài sản vô hình. Con người
cung cấp dữ liệu đầu tư , hoạch định mục tiêu, phân tích bối cảnh và lựa chọn,
thực hiện các kế hoạch của doanh nghiệp. Con người là nhân tố trung tâm và
không thể thiếu để đẩy mạnh hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Về nhân sự
của doanh nghiệp, cần xem xét các yếu tố sau:
• Bộ máy lãnh đạo: Bản lĩnh chính trị, năng lực tổ chức thực hiện, phẩm chất đạo
đức của lực lượng lãnh đạo.
• Năng suất, khả năng phân tích sáng tạo, tay nghề và khả năng tiếp cận công
nghệ hiện đại của người lao động.
• Chiến lược con người và phát triển nguồn nhân lực.
• Số lượng và kết cấu lao động.
• Các biện pháp khuyến khích người lao động.
24


Dù các nguồn nhân lực khác của doanh nghiệp có dồi dào đến đâu đi chăng
nữa, dù các kế hoạch và chiến lược kinh doanh có đúng đắn đến mức độ nào đi
nữa mà không có những con người làm việc hiệu quả thì các nguồn lực đó cũng
không thể phát huy vai trò của nó và các kế hoạch chiến lược cuả doanh nghiệp
cũng không đạt được. Cũng như những nguồn lực khác, nguồn lực nhân lực cũng

cần phải được thu nhận, phát triển và bố trí hợp lí để đạt được kết quả mong
muốn.
2.3

Trình độ tổ chức quản lí
Tổ chức bộ máy của doanh nghiệp thương mại phù hợp với yêu cầu nhiệm

vụ đề ra sẽ tạo lập năng lực và chất lượng hoạt động mới, thúc đẩy kinh doanh
phát triển, tiết kiệm chi phí và nâng cao hiệu quả kinh tế. Nếu bộ máy quản trị và
kinh doanh của doanh nghiệp kồng kềnh kém hiệu lực, bảo thù trì trệ, không đáp
ứng những đòi hỏi mới trên thị trường làm cản trở hoặc bỏ mất cơ hội kinh doanh
sẽ gây hậu quả trên nhiều mặt, tâm lí, tinh thần, chính trị, và đặc biệt là suy giảm
kinh tế.
Tổ chức bộ máy kinh doanh là việc thiết lập mô hình tổ chức và mối liên hệ
về chức năng nhiệm vụ giữa các bộ phận trong tổ chức và trong nội bộ các bộ
phận nhằm thực hiện nhiệm vụ kinh doanh đề ra.
Quản lí là một phạm trù khoa học, đồng thời cũng là một nghệ thuật. Một
doanh nghiệp muốn đạt được mục tiêu của mình thì trình độ tổ chức quản lí của
doanh nghiệp phải đạt đến một trình độ tương ứng. Người xưa nói: “Một người lo
bằng một kho người làm”. Điều đó nói lên vị trí đặc biệt quan trọng của cán bộ
quản lý kinh doanh. Trình độ tổ chức quản lý thể hiện ở:
• Cơ cấu tổ chức của hệ thống quản lý.
• Tính hiệu quả của hệ thống quản lý.
• Công nghệ quản lý.
• Quan điểm quản lý.
• Hệ thống việc soạn thảo, ra quyết định.
25



×