Tải bản đầy đủ (.docx) (67 trang)

Sử dụng đất nông nghiệp dưới tác động của đô thị hóa tại phường kim long và phường hương sơ, thành phố huế, tỉnh thừa thiên huế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (369.35 KB, 67 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM HUẾ
Khoa Tài nguyên đất & Môi trường nông nghiệp

SỐ LIỆU THÔ
TÊN ĐỀ TÀI:
Sử dụng đất nông nghiệp dưới tác động của đô thị hóa tại
phường Kim Long và phường Hương Sơ, Thành phố Huế, Tỉnh
Thừa Thiên Huế

Sinh viên thực hiện: Nguyễn Xuân Anh Bửu
Lớp: Quản lý đất 45B
Giáo viên hướng dẫn: Th.s Lê Đình Huy
Bộ môn: Quản lý Tài nguyên & Môi trường

NĂM 2015


TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM HUẾ
Khoa khuyến nông và phát triển nông thôn

KHÓA LUẬN
TỐT NGHIỆP
TÊN ĐỀ TÀI: Nghiên cứu ảnh hưởng của biến đổi khí hậu đến hoạt
động sản xuất lúa và các giải pháp thích nghi của người dân tại xã Hùng
Tiến, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An

Sinh viên thực hiện: Nguyễn Thị Ngân
Lớp: PTNT 45
Thời gian thực hiện: Từ 05/01/2015 đến 05/05/2015
Địa điểm thực hiện: Xã Hùng Tiến, huyện Nam Đàn, tỉnh
Nghệ An


Giáo viên hướng dẫn: Th.s Nguyễn Ngọc Truyền
Bộ môn: Biến đổi khí hậu

NĂM 2015


Lời cảm ơn
Trong suốt quá trình học tập, nghiên cứu và thực hiện khóa luận này, tôi
đã nhận được sự quan tâm, giúp đỡ của nhiều tập thể, cá nhân trong và ngoài
nhà trường.
Tôi xin chân thành cảm ơn Ban giám hiệu Trường Đại học Nông lâm Huế;
quý thầy cô khoa Khuyến Nông & Phát triển nông thôn. Tôi xin chân thành cảm
ơn các cán bộ trạm khuyến nông huyện Nam Đàn, UBND xã Hùng Tiến, cùng
toàn thể người dân trên địa bàn xã đã giúp đỡ và tạo điều kiện thuận lợi cho tôi
nghiên cứu và hoàn thiện đề tài.
Đặc biệt tôi xin tỏ lòng biết ơn đến thầy giáo Th.s Nguyễn Ngọc Truyền
đã tận tình hướng dẫn tôi trong suốt quá trình học tập, nghiên cứu và hoàn thành
khóa luận này.
Tôi xin cảm ơn sự giúp đỡ, động viên của gia đình, người thân và bạn bè
gần xa trong suốt thời gian tôi học tập, nghiên cứu và hoàn thành khóa luận.
Cho dù có nhiều nỗ lực trong quá trình học tập và thực hiện đề tài, nhưng
khóa luận này không tránh khỏi những thiếu sót. Vì vậy, tôi mong nhận được sự
chỉ dẫn, góp ý của quý thầy cô giáo và tất cả bạn bè.
Một lần nữa xin chân thành cảm ơn!
Huế, tháng 05 năm 2015
Sinh viên thực hiện
Nguyễn Thị Ngân

DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
BVTV: Bảo vệ thực vật

HTX : Hợp tác xã
BCH : Ban chấp hành


IPCC : Tổ chức Liên Chính Phủ về Biến đổi khí hậu.
TNMT : Tài nguyên môi trường
UBND : Ủy ban nhân dân
BĐKH : Biến đổi khí hậu


TÓM TẮT KHÓA LUẬN
Tên đề tài: “ Nghiên cứu ảnh hưởng của biến đổi khí hậu đến hoạt động sản
xuất lúa và các giải pháp thích nghi của người dân tại xã Hùng Tiến, huyện Nam
Đàn, tỉnh Nghệ An”
Sinh viên thực hiện: Nguyễn Thị Ngân
Giáo viên hướng dẫn: Th.s: Nguyễn Ngọc Truyền
Mục tiêu nghiên cứu:
- Khảo sát tình hình sản xuất lúa trên địa bàn nghiên cứu.
- Tìm hiểu về những biểu hiện của biến đổi khí hậu và tác động của biến đổi khí
hậu đến cây lúa.
- Xác định và phân tích những giải pháp thích nghi của người dân trước tác động
của biến đổi khí hậu.
Phần tóm tắt đề tài:
Biến đổi khí hậu (BĐKH) là một trong những vấn đề lớn, mang tính toàn
cầu hiện nay. Sự biến đổi phức tạp của hệ thống khí hậu thời tiết toàn cầu đã và
đang tác động xấu đến thời tiết khí hậu các nước trên thế giới cũng như ở Việt
Nam. Những năm qua, các diễn biến xấu của thời tiết, khí hậu như: Lũ lụt, hạn
hán, rét, mưa bão,…diễn ra ở nhiều vùng trong cả nước đã gây ra không ít khó
khăn cho sản xuất và đời sống nhân dân nước ta.
Hùng Tiến là một xã thuần nông với đa số dân cư sống dựa chủ yếu vào sản

xuất nông nghiệp. Cơ cấu nông nghiệp của xã chủ yếu là trồng trọt, đặc biệt là
ngành sản xuất lúa chiếm cơ cấu và diện tích chủ yếu trong lĩnh vực sản xuất
này. Cùng với sự phát triển của xã hội sau những năm 60 nhà nước ta quan tâm
đến việc ứng dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất, nông dân xã Hùng Tiến đã
thúc đẩy được sự phát triển của ngành trồng lúa, nâng cao năng suất cây trồng,
sản lượng giúp người dân cải thiện đời sống. Tuy nhiên, trong những năm gần
đây, cùng với sự biến đổi khí hậu của toàn cầu, hoạt động sản xuất đang phải
chịu những ảnh hưởng có nguy cơ giảm năng suất, sản lượng lương thực trong
vùng.


Đề tài này nghiên cứu đặc điểm sản xuất lúa của vùng, các biểu hiện của
BĐKH, mức độ ảnh hưởng, thiệt hại trong sản xuất lúa do tác động của BĐKH
và các giải pháp của hộ và chính quyền địa phương để thích ứng. Đề tài sử dụng
các thông tin thứ cấp tìm hiểu qua các nguồn tài liệu tại thư viện, các công trình
nghiên cứu đã được công bố, trên internet và thu thập tại ủy ban nhân dân
(UBND) xã. Thông tin sơ cấp được thu thập thông qua phỏng vấn hộ nông dân
bằng bảng hỏi, phỏng vấn cán bộ tại địa phương bằng danh mục tiểu chủ đề và
thảo luận nhóm người am hiểu và nông dân. Đề tài có những kết luận sau:
Những năm qua, các hiện tượng thời tiết khí hậu tại xã có những biểu hiện
bất thường: Nhiệt độ không khí có xu hướng tăng lên; hạn hán đến sớm, kéo dài
và gay gắt hơn; xuất hiện nhiều đợt rét đậm, rét hại kéo dài; bão lũ có những
biểu hiện bất thường, mùa mưa bão đến sớm và kết thúc muộn hơn; lượng mưa
và thời gian mưa giảm, thường xuất hiện những cơn mưa lớn, đột ngột gây ngập
úng. BĐKH đã làm gia tăng sâu bệnh hại trên cây lúa, làm chậm quá trình sinh
trưởng, phát triển của cây lúa dẫn đến làm giảm năng suất, chất lượng lúa, tăng
chi phí sản xuất và tàn phá hệ thống đê điều, thủy lợi. Trong vụ Đông Xuân, sản
xuất lúa thường bị ảnh hưởng của yếu tố rét, vụ Hè Thu thường bị tác động bởi
hạn hán, bão, lũ.
Trước các hiện tượng thời tiết cực đoan có những diễn biến bất thường,

khó dự đoán và có chiều hướng gia tăng, chính quyền và người dân địa phương
đã thực hiện các giải pháp công trình và phi công trình để thích ứng trong sản
xuất lúa .Đối với giải pháp công trình thì thực hiện 1 số giải pháp như: Ban chỉ
huy các xóm tổ chức nạo vét kênh mương trên địa bàn xóm đảm bảo phục vụ
tưới tiêu, Kiểm tra các công trình thủy lợi khắc phục các sự cố sau lụt như hệ
thống điện, máy mc, kênh mương,Trạm bơm các xã, HTX, trạm bơm Xí nghiệp
Thuỷ lợi phải ký hợp đồng tưới... Các giải pháp phi công trình mà cộng
đồng/nông hộ đã áp dụng nhằm giảm thiểu tác động của biến đổi khí hậu đến
sản xuất lúa :Sử dụng giống lúa chống chịu,thích nghi, điều chỉnh lịch thời vụ
sản xuất, áp dụng biện pháp canh tác, phòng trừ sâu bệnh ....


Nhìn chung, việc thực hiện các giải pháp thích ứng với BĐKH trong
sản xuất lúa của chính quyền, người dân đã mang lại hiệu quả kinh tế, xã hội
cao, giúp người dân yên tâm sản xuất. Tuy nhiên việc thích ứng vẫn gặp khá
nhiều khó khăn như thiếu vốn, thiếu thông tin, thiếu lao động… và hiệu quả của
các biện pháp này chủ yếu vẫn phụ thuộc vào mức độ các loại thiên tai xảy ra.
BĐKH sẽ còn diễn biến phức tạp, khó lường trước hết được những hậu quả mà
nó gây ra. Vì vậy, việc không ngừng tìm hiểu về BĐKH và các biện pháp thích
ứng với tình hình BĐKH hiện nay là điều rất cần thiết từ đó đưa ra các giải
pháp hỗ trợ để hoạt động sản xuất lúa của nông dân đạt hiệu quả và bền vững.
Giáo viên hướng dẫn

Sinh viên thực hiện


PHẦN 1: ĐẶT VẤN ĐỀ
1. Tính cấp thiết của đề tài:
Biến đổi khí hậu là một trong những thách thức lớn nhất đối với
nhân loại trong thế kỉ 21. Nó là mối đe dọa nghiêm trọng chưa từng có đối với

đa dạng sinh học và tài nguyên thiên nhiên, với nông nghiệp và công cuộc xóa
đói giảm nghèo, đảm bảo nguồn nước và do đó đe dọa đến việc đạt được các
mục tiên thiên niên kỷ.
Theo nghiên cứu mới nhất của Liên Hơp Quốc, Việt Nam là quốc gia
đang phát triển thuộc nhóm các nước bị ảnh hưởng nhiều nhất ở khu vực Đông
Nam Á từ sự biến đổi khí hậu này. Việt Nam với vị trí địa lý có bờ biển dài
3260km, tiếp giáp với biển Đông đang là đối tượng chịu tác động mạnh mẽ của
biến đổi khí hậu. Theo tình hình hiện nay thì những biểu hiện của biến đổi khí
hậu ở Việt Nam đang rất rõ rệt với sự gia tăng nhiệt độ lên 10C trong vòng 1 thể
kỷ qua, lượng mưa, tần suất đang có dấu hiệu thay đổi.[1] Mùa mưa có lượng
mưa tăng cao, mùa khô lượng mưa giảm đi dẫn đến các sự kiện thời tiết có xu
hướng bất thường, Việt Nam đang phải hứng chịu ảnh hưởng của biến đổi khí
hậu, thiên tai lũ lụt hạn hán khốc liệt hơn trước.
Sự thay đổi quy luật biểu hiện thời tiết đang ngày càng gia tăng và có tính
chất bất thường hơn. Sự xuất hiện của những hiện tượng khí hậu cực đoan đang
tác động rất lớn đến cuộc sống của con người và các hoạt động sản xuất mà biểu
hiện rõ nhất là trong ngành sản xuất nông nghiệp. Với điều kiện khí hậu như
vậy, sản xuất nông nghiệp đang phải gặp khó khăn trong việc điều chỉnh cây
trồng hợp lí thích nghi với môi trường để năng suất cây trồng không bị ảnh
hưởng theo hướng xấu.
Ở nước ta, nền nông nghiệp được coi là quan trọng trong nền kinh tế quốc
dân. Nông nghiệp là ngành sản xuất ra sản phẩm trực tiếp để nuôi sống con
người, đặc biệt là ngành sản xuất lương thực chiếm vị trí quan trọng trong nển
kinh tế xã hội của quốc gia, là chổ dựa cho các ngành khác phát triển và là
nguồn dự trử cho chính sách xã hội của nhà nước. Với ý nghĩa đó, sản xuất nông
nghiệp cần được quan tâm trước thực trạng biến đổi khí hậu hiện nay.


Trong sản xuất nông nghiệp, sản xuất lương thực chủ yếu và quyết định
vẫn là lúa gạo. Do đó việc thâm canh sản xuất lúa vẫn là mục tiêu hàng đầu đặt

ra. Hùng Tiến là một xã thuần nông với đa số dân cư sống dựa chủ yếu vào sản
xuất nông nghiệp. Cơ cấu nông nghiệp của xã chủ yếu là trồng trọt, đặc biệt là
ngành sản xuất lúa chiếm cơ cấu và diện tích chủ yếu trong lĩnh vực sản xuất
này. Cùng với sự phát triển của xã hội sau những năm 60nhà nước ta quan tâm
đến việc ứng dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất, nông dân xã Hùng Tiến đã
thúc đẩy được sự phát triển của ngành trồng lúa, nâng cao năng suất cây trồng,
sản lượng giúp người dân cải thiện đời sống. Tuy nhiên, trong những năm gần
đây, cùng với sự biến đổi khí hậu của toàn cầu, hoạt động sản xuất đang phải
chịu những ảnh hưởng có nguy cơ giảm năng suất, sản lượng lương thực trong
vùng.
Những năm qua, các hiện tượng thời tiết khí hậu tại xã có những biểu hiện
bất thường: Nhiệt độ không khí có xu hướng tăng lên; hạn hán đến sớm, kéo dài
và gay gắt hơn; xuất hiện nhiều đợt rét đậm, rét hại kéo dài; bão lũ có những
biểu hiện bất thường, mùa mưa bão đến sớm và kết thúc muộn hơn; lượng mưa
và thời gian mưa giảm, thường xuất hiện những cơn mưa lớn, đột ngột gây ngập
úng. BĐKH đã làm gia tăng sâu bệnh hại trên cây lúa, làm chậm quá trình sinh
trưởng, phát triển của cây lúa dẫn đến làm giảm năng suất, chất lượng lúa, tăng
chi phí sản xuất và tàn phá hệ thống đê điều, thủy lợi. Trong vụ Đông Xuân, sản
xuất lúa thường bị ảnh hưởng của yếu tố rét, vụ Hè Thu thường bị tác động bởi
hạn hán, bão, lũ.
Để hiểu thêm về thực trạng sản xuất lúa gạo ở Việt Nam nói chung và
Nghệ An nói riêng đang chịu những tác động gì từ những biến đổi của khí hậu
và người dân đã có những giải pháp nào để thích ứng trong điều kiện sản xuất.
Tôi tiến hành đề tài :” Nghiên cứu ảnh hưởng của biến đổi khí hậu đến hoạt
động sản xuất lúa và các giải pháp thích nghi của người dân tại xã Hùng Tiến,
huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An”


2. Mục tiêu nghiên cứu:
- Khảo sát tình hình sản xuất lúa trên địa bàn nghiên cứu.

- Tìm hiểu về những biểu hiện của biến đổi khí hậu và tác động của biến
đổi khí hậu đến cây lúa.
- Xác định và phân tích những giải pháp thích nghi của người dân trước
tác động của biến đổi khí hậu.


PHẦN 2: TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU
1. Cơ sở lí luận
1.1. Các khái niệm về biến đổi khí hậụ:
Biến đổi khí hậu được định nghĩa là “ bất kì thay đổi khí hậu theo thời
gian do sự biến thiên của tự nhiên hay là kết quả hoạt động của con người” .
Theo định nghĩa của IPCC, biến đổi khí hậu có thể được hiểu như là sự thay đổi
trong khoảng thời gian dài của nhiệt độ và lượng mưa trung bình.
Biến đổi khí hậu là sự biến đổi trạng thái của khí hậu so với trung bình
và/hoặc dao động của biến đổi khí hậu duy trì trong một khoảng thời gian dài.
Biến đổi khí hậu có thể là do các quá trình tự nhiên bên trong hoặc các tác động
bên ngoài hoặc do các hoạt động của con người làm thay đổi thảnh phần của khí
quyển hay trong khai thác sử dụng đất.
Như vậy, biến đổi khí hậu là những thay đổi bất thường của thời tiết thông
qua giá trị trung bình của các yếu tố khí tượng trung bình quan sát trong một
khoảng thời gian dài. Sự thay đổi này theo một chiều hướng xấu, không có lợi
cho sinh vật sống trên trái đất và các hoạt động của con người.[10]
Theo Công ước khung của Liên Hợp Quốc về BĐKH: có thể hiểu BĐKH
là những ảnh hưởng có hại của BĐKH, là những biến đổi trong môi trường vật
lý hoặc sinh học gây ra những ảnh hưởng có hại đáng kể đến thành phần, khả
năng phục hồi hoặc sinh sản của hệ sinh thái tự nhiên đến hoạt động của các hệ
thống kinh tế - xã hội hoặc đến sức khỏe và phúc lợi của con người.
Theo nghiên cứu của ISDR(2008) đưa ra khái niệm về BĐKH là sự biến
động của năm này và năm khác được ghi nhận thông qua các số liệu thống kê
của các điều kiện bất thường như: bão, lũ, hạn hán bất thường. Quan điểm này

chính là sự ghi nhận lại những hiện tượng bất thường theo thời gian.
Theo Rex và đồng tác giả(2007), BĐKH ở Việt Nam đó là gia tăng nhiệt
độ và ngày càng nóng lên trong mùa hè và nhiệt độ cực thấp kéo dài vào mùa


đông, cũng như tần suất và cường độ của lụt, hạn, bão, rét hại và mưa thất
thường xảy ra trong năm [2].
Như vậy, biến đổi khí hậu là những thay đổi bất thường của thời tiết
thông qua giá trị trung bình của các yếu tố khí tượng trung bình quan sát trong
một khoảng thời gian dài. Sự thay đổi này theo một chiều hướng xấu, không có
lợi cho sinh vật sống trên trái đất và các hoạt động của con người.[3]
Khả năng tổn thương do biến đổi khí hậu gây ra: là mức độ của một hệ
thống (tự nhiên, xã hội, kinh tế) có thể bị tổn thương do biến đổi khí hậu hoặc
không có khả năng thích ứng với nhũng tác động bất lợi của biến đổi khí hậu.[4]
1.2. Biểu hiện của biến đổi khí hậu trên thế giới và ở Việt Nam:
1.2.1. Biểu hiện của biến đổi khí hậu trên thế giới
Tình hình thay đổi hệ thống khí hậu trên thế giới đã được chứng minh
bằng các bằng chứng về khoa học. Các bằng chứng được tích lũy cho thấy rằng
ngoài việc khí hậu thay đổi tự nhiên, điều kiện khí hậu trung bình đo được qua
khoảng thời gian kéo dài cũng thay đổi [5].
Sự tăng lên của nhiệt độ trung bình của bề mặt trái đất đã được chỉ ra
trong năm 1861. Sự nóng lên toàn cầu là hiện tượng chưa từng thấy của hệ thống
khí hậu. Theo báo cáo đánh giá lần thứ 4 của IPCC (2007), nhiệt độ trung bình
toàn cầu đã tăng khoảng 0,74 0C trong thời kì 1906- 2005 và tốc độ tăng của
nhiệt độ trong 50 năm gần đây gần gấp đôi so với 50 năm trước đó. Nhiệt độ
trên lục địa tăng nhanh hơn so với trên đại dương. Nhiệt độ ở Bắc Cực tăng gần
gấp hai lần đối với tăng nhiệt độ toàn cầu 1,50C/100 năm.
Trong 100 năm qua, lượng mưa có xu hướng tăng ở các khu vực có vĩ độ
hơn 300. Tuy nhiên, lượng mưa lại có xu hướng giảm ở các khu vực nhiệt đới từ
giữa những năm 1970. Hiện tượng mưa lớn có dấu hiệu tăng ở nhiều khu vực

trên thế giới (IPCC, 2007).
Mực nước biển toàn cầu đã tăng trong thế kỷ 20 với tốc độ ngày càng cao.
Hai nguyên nhân chính làm tăng mực nước biển là sự giản nở nhiệt của đại
dương và sự băng tan. Theo số liệu quan trắc mực nước biển trong thời kì 1961-


2003 cho thấy tốc độ tăng của mực nước biển trung bình toàn cầu khoảng 1,8 ±
0,5 mm/năm và số liệu lấy ở vệ tinh trong giai đoạn 1993- 2003 là 3,1 ± 0,7
mm/năm, nhanh hơn đáng kể so với thời kì 1961- 2003.
Biến đổi khí hậu với các biểu hiện chính là sự nóng lên toàn cầu và mực
nước biển dâng, chủ yếu do các hoạt động kinh tế- xã hội của con người gây
phát thải quá mức vào khí quyển các khí gây hiệu ứng nhà kín.[5]
Biến đổi khí hậu không chỉ liên quan với thay đổi các yếu tố khí hậu trung
bình trong khoảng thời gian dài mà còn thay đổi trong sự hình thành các hiện
tượng thời tiết cực đoan, tần suất và cường độ hoạt động của chúng.
Nhiệt độ trung bình đỉnh lớp băng vĩnh cửu ở Bắc bán cầu đã tăng 3 0C kể
từ năm 1980. Theo IPCC (2001), vào những năm cuối thập niên 1960 diện tích
bao phủ của băng giảm khoảng 10% được quan sát thấy thông qua các dữ liệu vệ
tinh. Kích thước biển băng ở Bắc bán cầu giảm bình quân đến 2,7% mỗi thập
kỷ, đặc biệt là 7,4% trong mùa hè từ năm 1978 [10]. Bên cạnh đó, về độ dày của
biển băng trong thời gian cuối mùa hè đến đầu mùa thu ở Bắc cực giảm 40%
trong những thập kỷ gần đây. Mực nước biển trung bình toàn cầu tăng với tỷ lệ
trung bình 1,8mm/năm, từ năm 1961 – 2003 và tăng nhanh hơn với tỷ lệ
3,1mm/năm trong thời kỳ 1993 – 2003. Tổng cộng mực nước biển toàn cầu tăng
0,31m trong 100 năm gần lại đây [13].
Trong thế kỷ 20 trung bình mực nước biển dâng tại Châu Á là 2,4mm/năm
và chỉ riêng thập kỷ vừa qua là 3,1mm/năm, và dự báo tiếp tục tăng cao hơn
trong thế kỷ 21 ít nhất từ 2,8 – 4,3mm/năm (IPCC, 2007).
Khi nhiệt độ cao hơn, lượng mưa sẽ thay đổi do sự gia tăng lượng nước
bốc hơi, lượng mưa toàn cầu tăng khoảng 1% trong vài thập niên qua [14]. Tuy

nhiên, xu thế thay đổi lượng mưa khác nhau theo các khu vực địa lý khác nhau.
Lượng mưa có chiều hướng tăng trong thời kỳ 1900 – 2005 ở 300 vĩ độ Bắc,
nhưng lại có xu hướng giảm kể từ năm 1970 ở vùng nhiệt đới. Trong các khu
vực nhiệt đới của Bắc bán cầu lượng mưa của mỗi thập kỷ đã được quan sát thấy
tăng 0,2 – 0,3%. Ngược lại, trên các khu vực cận nhiệt đới lượng mưa giảm
0,3% mỗi thập kỷ [10]. Một phần từ sự thay đổi lượng mưa, lượng mưa ít hơn ở


các khu vực khô hạn, bán khô hạn và ẩm ướt hơn đối với những vùng nằm từ vĩ
độ trung bình đến vĩ độ cao.
Hạn hán xuất hiện thường xuyên hơn ở vùng nhiệt đới và cận nhiệt đới từ
năm 1970. Hoạt động của xoáy thuận nhiệt đới, đặc biệt là các cơn bão mạnh gia
tăng từ những năm 1970 và ngày càng xuất hiện nhiều hơn các cơn bão có quỹ
đạo bất thường.
Có sự biến đổi trong chế độ hoàn lưu quy mô lớn trên cả lục địa và đại
dương, dẫn đến sự gia tăng về số lượng và cường độ hiện tượng El Nino. Biến đổi
khí hậu không chỉ liên quan với thay đổi của các yếu tố khí hậu trung bình trong
khoảng thời gian dài mà còn thay đổi trong sự hình thành các hiện tượng khí hậu
cực đoan: Bão, giông, tố, lốc…với cường độ và tần suất ngày càng cao hơn. Tần
suất của các trận mưa lớn đã tăng 2 – 4% ở vùng vĩ độ trung bình đến vĩ độ cao
của Bắc bán cầu [10]. Tần suất và cường độ của bão, lũ lụt, hạn hán ngày càng
tăng lên dưới sự tăng giảm của các điều kiện khí hậu trung bình của nhiệt độ và
lượng mưa [15]. Mưa lớn, lũ lụt thường xảy ra ở khu vực xích đạo Đông Thái
Bình Dương, miền tây Hoa Kỳ, Chi Lê, Ác-hen-ti-na và Châu Phi [16].
1.2.2. Biểu hiện của biến đổi khí hậu ở Việt Nam
Các biểu hiện cụ thể của biến đổi khí hậu là [11]:
- Sự nóng lên của nhiệt độ bề mặt trái đất hay còn gọi là hiện tượng nóng
lên toàn cầu.
- Sự thay đổi thành phần và chất lượng khí quyển có hại cho môi trường
sống của con người và các sinh vật trên Trái đất.

- Sự dâng cao mực nước biển do băng tan, dẫn tới sự ngập úng các vùng
đất thấp, các đảo nhỏ trên biển.
- Sự di chuyển của các đới khí hậu tồn tại hàng nghìn năm trên các vùng
khác nhau của Trái đất dẫn tới nguy cơ đe dọa sự sống của các loài sinh vật, các
hệ sinh thái và hoạt động của con người.
- Sự thay đổi cường độ hoạt động của quá trình hoàn lưu khí quyển, chu
trình tuần hoàn nước trong tự nhiên và các chu trình sinh địa hóa khác.


- Sự thay đổi năng suất sinh học của các hệ sinh thái, chất lượng và thành
phần của thủy quyển, sinh quyển, các địa quyển.
Điển hình của kiểu thời tiết dị thường là nhiệt độ tăng, bão mạnh, mưa
lớn, lũ lụt, hạn hán và nước biển dâng cao... Trong đó Việt Nam đã và đang phải
đương đầu với những biểu hiện ngày càng gia tăng của những hiện tượng thời
tiết này.
Theo Thông báo quốc gia lần thứ 2 của Bộ Tài nguyên và Môi trường: Kể
từ năm 1958 đến năm 2007, nhiệt độ trung bình năm ở Việt Nam tăng lên
khoảng 0,5-0,7 độ C. Nhiệt độ mùa đông tăng nhanh hơn nhiệt độ mùa hè và
nhiệt độ ở các vùng phía Bắc tăng nhanh hơn các vùng phía Nam. Cụ thể như
năm 2007, nhiệt độ trung bình cả năm tại Hà Nội, TP.Hồ Chí Minh và Đà Nẵng
đều cao hơn trung bình của thập kỷ 1931-1940 là 0,8-1,3 độ C; cao hơn thập kỷ
1990-2000 là 0,4-0,5 độ C.
Trên từng địa điểm, xu thế biến đổi của lượng mưa trung bình năm trên
lãnh thổ nước ta không rõ rệt theo các thời kỳ và các vùng khác nhau. Lượng
mưa năm giảm ở các vùng khí hậu phía Bắc và tăng ở các vùng khí hậu
phía Nam . Tính trung bình trong cả nước, lượng mưa trong 50 năm qua đã giảm
khoảng 2%. Tuy vậy, biến đổi lượng mưa có xu hướng cực đoan, đó là tăng
trong mùa mưa và giảm mạnh trong mùa khô.
Bên cạnh đó, số đợt không khí lạnh ảnh hưởng tới Việt Nam cũng giảm rõ
rệt trong 2 thập kỷ qua. Các biểu hiện thời tiết dị thường xuất hiện ngày càng

nhiều, tiêu biểu như đợt lạnh gây rét đậm, rét hại kéo dài 30 ngày trong tháng 1
và tháng 2 năm 2008 ở Bắc Bộ, đã gây thiệt hại lớn về cây trồng, vật nuôi cho
các địa phương ở đây.
Đặc biệt, do tác động của biến đổi khí hậu, trong khoảng 5-6 thập kỷ gần
đây, tần số xoáy thuận nhiệt đới hoạt động trên Biển Đông tăng lên với tốc độ
0,4 cơn mỗi thập kỷ; tần số xoáy thuận nhiệt đới ảnh hưởng đến Việt Nam tăng
với tốc độ 0,2 cơn mỗi thập kỷ và có cường độ mạnh xuất hiện nhiều hơn. Quỹ
đạo của bão có dấu hiệu dịch chuyển dần về phía Nam và mùa mưa bão kết thúc
muộn hơn. Nhiều cơn bão có đường đi bất thường và không theo quy luật. Điển


hình như “siêu” bão số 8 đã hoàng hành suốt dọc các tỉnh ven biển từ Nghệ An
đến tận Quảng Ninh trong mấy ngày vừa qua.
Một biểu hiện đáng lo ngại của biến đổi khí hậu nữa là mực nước biển
dâng đã và đang gây ngập lụt trên diện rộng, nhiễm mặn nguồn nước, ảnh hưởng
lớn đến sản xuất nông nghiệp, gây rủi ro đối với công nghiệp và các hệ thống
kinh tế-xã hội trong tương lai. Số liệu quan trắc tại các trạm hải văn ven biển
Việt Nam cho thấy, tốc độ dâng lên của mực nước biển trung bình hiện nay là
3mm/năm, tương đương với tốc độ tăng trung bình trên thế giới. Trong 50 năm
qua, mực nước biển tại Trạm Hải văn Hòn Dáu tăng lên khoảng 20cm.
Nằm trong vùng nhiệt đới của Bắc bán cầu, một phần từ những thay đổi
chung của khí hậu toàn cầu, Việt Nam có một số thay đổi cụ thể. Theo tiến sĩ
Phạm Khôi Nguyên, bộ trưởng bộ tài nguyên và môi trường nghiên cứu cho biết
thời tiết khí hậu ở Việt Nam trong khoảng 50 năm qua đã có nhiều thay đổi. Thứ
nhất, từ năm 1958- 2007 nhiệt độ trung bình năm ở Việt Nam đã tăng lên
khoảng từ 0,5- 0,70C; nhiệt độ mùa đông tăng nhanh hơn nhiệt độ mùa hè và
nhiệt độ các vùng khí hậu phía Bắc tăng nhanh hơn ở các vùng khí hậu phía
Nam. Nhiệt độ trung bình năm của 4 thập kỷ gần đây (1961- 2000) cao hơn
trung bình năm của 3 thập kỷ trước đó (1931- 1960) ( theo chương trình mục
tiêu quốc gia ứng phó với biến đổi khí hậu, bộ TNMT, 2008). Thứ hai, lượng

mưa trên từng địa điểm, xu thế biến đổi của lượng mưa trung bình năm trong 9
thập kỷ vừa qua (1911- 2000) không rõ rệt theo các thời kì và trên các vùng khác
nhau, có giai đoạn tăng lên có giai đoạn giảm xuống. Lượng mưa năm giảm ở
các vùng khí hậu phía Bắc và tăng ở các vùng khí hậu phía Nam. Tính trung
bình trong cả nước, lượng mưa năm trong 50 năm qua (1958- 2007) đã giảm
2%. Thứ ba, số đợt không khí lạnh ảnh hưởng đến Việt Nam giảm đi rõ rệt trong
hai thập kỷ qua. Tuy nhiên, các biểu hiện dị thường lại thường xuất hiện mà gần
đây nhất là đợt không khí lạnh gây rét đậm, rét hại kéo dài 38 ngày trong tháng 1
và tháng 2 năm 2008 ở Bắc Bộ. Thứ tư, ở những năm gần đây bão có cường độ
mạnh xuất hiện nhiều hơn.
1.2.3. Biểu hiện của biến đổi khí hậu ở Nghệ An


Nghệ An nằm hoàn toàn trong miền nhiệt đới của Bắc bán cầu mà tiêu
biểu cho nó là mỗi năm mặt trời có 2 lần đi qua thiên đỉnh - tức là vào lúc 12 giờ
trưa, mặt trời ở độ cao 900 trên chân trời - ta quen gọi là mặt trời đứng bóng.
Nếu lấy 180 40’ vĩ độ Bắc của Vinh làm chuẩn để tính thì lần thứ nhất là ngày
15/5, lần thứ 2 là 30/7. Trong các tháng mùa hè, mặt trời cao từ 850 30’ đến xấp
xỉ 900 , thời gian chiếu sáng (thời gian ban ngày) là từ 12 giờ 30 phút - 13 giờ
10 phút. Còn trong các tháng mùa đông thì mặt trời cao từ 480-800 và thời gian
chiếu sáng là từ 10 giờ 50 phút đến xấp xỉ 12 giờ. Do độ cao mặt trời cao, thời
gian chiếu Nằm trong khu vực gió mùa Châu Á, ở miền Bắc Việt Nam nói
chung, Nghệ An nói riêng, khí hậu mỗi năm có 2 mùa rõ rệt: nóng và lạnh phụ
thuộc vào 2 mùa gió: Mùa đông: trùng với mùa gió Đông Bắc kéo dài từ tháng
11 năm trước đến tháng 3 năm sau. Đây là một mùa lạnh với nhiệt độ trung bình
hàng tháng chỉ 16- 220 C, trong đó các tháng chính đông (tháng 12, 1, 2), nhiệt
độ trung bình ở bất cứ nơi nào trong tỉnh cũng chỉ 190 C.Mùa đông nói chung là
ít mưa (hay còn gọi là mùa khô) nhưng Nghệ An do vị trí địa lý cũng như điều
kiện địa hình nên trong thời kỳ đầu mùa đông, dưới tác động kết hợp của các
cơn bão đổ bộ vào phía Nam và gió mùa Đông Bắc tràn về, tạo ra một vùng hội

tụ ẩm nên vẫn có mưa vừa, có khi mưa to. Chẳng hạn, ở Vinh, vào tháng 11 có
năm còn mưa đến trên 450mm (năm 1909 là: 459,9mm; năm 1923 là: 461mm;
năm 1976 là: 462,7mm...). Tất nhiên, cũng có năm do các nhiễu động khí quyển
hoạt động yếu ớt, chỉ mưa 6- 7mm (năm 1971). Vào thời gian giữa mùa đông
(tháng 1, 2), gió mùa Đông Bắc thường đi qua vùng biển, không khí lạnh khô
nhận thêm được nhiều hơi ẩm nên gây ra mưa phùn, tuy lượng mưa không đáng
kể (chỉ 20-50mm/tháng) nhưng tạo ra một trạng thái ẩm ướt.Khí hậu một nơi
được hình thành bởi sự tác động tương hỗ của 3 nhân tố: bức xạ mặt trời, hoàn
lưu khí quyển và điều kiện địa lý (vĩ độ, độ cao, địa hình, lớp phủ…). Tuy nhiên,
trong một phạm vi nhỏ, sự phân hóa của khí hậu chủ yếu là do sự phân hóa về
địa lý. Thật vậy, vào đầu mùa đông, trong khi ở phần phía Nam của tỉnh (Vinh,
Nam Đàn, Hưng Nguyên, Nghi Lộc, Thanh Chương, Đô Lương) đang chịu ảnh
hưởng của những cơn bão cuối mùa gây mưa lớn, thì ở đồng bằng phía Bắc và


khu vực miền núi trung du, mùa mưa đã chấm dứt, tạo điều kiện thuận lợi cho
việc làm rau màu vụ đông. Hoặc vào các tháng 1, 2, trong khi dải đồng bằng ven
biển và vùng Thanh Chương, Đô Lương đang trong cảnh mưa phùn ướt át, thì
miền núi Tương Dương, Quế Phong, Quỳ Châu, Quỳ Hợp, Nghĩa Đàn lại khô
hanh, thậm chí đôi khi chịu ảnh hưởng của áp thấp nóng phía Tây, trời nóng
không khác gì mùa hạ (tháng 2 ở Tương Dương có lúc nhiệt độ lên đến 380 C).
Ngược lại, vào mùa hè, trong khi dải đồng bằng ven biển đang có hạn gay gắt thì
miền núi Tương Dương, Quỳ Châu… đã có những trận mưa rất lớn. Một điều
đáng lưu ý là trước đây, miền núi Tây Nam (dải Con Cuông - Kỳ Sơn) là khu
vực rất nóng trong mùa hè với nhiệt độ lến đến 420 C thì ngày nay ở vùng núi
phía Bắc và Tây Bắc (Quỳ Hợp - Quỳ Châu - Quế Phong), do sự tàn phá rừng,
khai thác khoáng sản ồ ạt khiến cho mặt đất vùng này bị trơ sỏi đá, nên mùa hè ở
đây cũng nóng như ở vùng Tương Dương, Con Cuông, Kỳ Sơn với nhiệt độ cao
nhất ở Quỳ Châu lến đến trên 420 C. Từ đó cho thấy rừng giữ một vai trò vô
cùng quan trọng trong điều hòa khí hậu. Sự phân hóa khí hậu rõ rệt còn thể hiện

ở biên độ hàng ngày của nhiệt độ. Trong khi ở đồng bằng ven biển, chênh lệch
nhiệt độ ngày đêm chỉ là 6-70 C thì ở miền núi là 8-90 C, có nơi còn hơn nữa.
Khí hậu không chỉ có sự khác biệt theo không gian, mà theo thời gian cũng có
những biến động lớn. Các mùa nóng, lạnh hay mưa lụt có năm đến sớm, có năm
đến muộn, năm kéo dài, năm rút ngắn, có năm rét vào đầu vụ, có năm lại cuối
vụ, năm mưa nhiều, năm mưa ít.
1.3. Những tác động của biến đổi khí hậu đến sản xuất nông nghiệp:
1.3.1.Tác động của biến đổi khí hậu đến sản xuất nông nghiệp:
Sản xuất nông nghiệp bị chi phối rất nhiều bởi điều kiện ngoại cảnh vì đối
tượng của nó là sinh vật. Trong các yếu tố ngoại cảnh thì khí hậu được coi là yếu
tố tác động trực tiếp và thường xuyên nhất đối với sinh vật. Trong thời đại ngày
nay, khi khí hậu đang biến đổi theo chiều hướng bất lợi thì hoạt động sản xuất
nông nghiệp sẽ đứng trước nhiều thách thức lớn mà trong nghiên cứu này chỉ đề
cập đến hoạt động sản xuất trồng trọt cụ thể là sản xuất lúa. Sản xuất nông
nghiệp là một ngảnh sản xuất phụ thuộc rất nhiều vào điều kiện thời tiết, khí


hậu. Nông nghiệp là lĩnh vực chịu tác động của hàng loạt các yếu tố bên ngoài
và trong đó biến đổi khí hậu là một trong những yếu tố mà chúng ta sẽ phải đối
mặt ở cả hiện tại và tương lai.[6]
Nhiệt độ ấm hơn có thể làm cho nhiều loại cây trồng phát triển nhanh
hơn, nhưng nhiệt độ ấm hơn cũng có thể làm giảm sản lượng. Cây trồng có xu
hướng phát triển nhanh hơn trong điều kiện ấm hơn. Tuy nhiên, đối với một số
cây trồng (như ngũ cốc), tăng trưởng nhanh làm giảm thời gian mà các hạt có để
phát triển và trưởng thành. Điều này có thể làm giảm sản lượng (tức là, số lượng
cây trồng được sản xuất từ một lượng đất nhất định).
Đối với bất kỳ loại cây trồng, ảnh hưởng của tăng nhiệt độ sẽ phụ thuộc
vào nhiệt độ tối ưu cho sự tăng trưởng và sinh sản của cây trồng. Trong một số
khu vực, sự nóng lên có thể có lợi cho các loại cây thường được trồng ở đó. Tuy
nhiên, nếu sự nóng lên vượt quá nhiệt độ tối ưu của cây trồng, năng suất có thể

giảm.
• Hàm lượng CO2 cao có thể tăng năng suất. Sản lượng một số cây trồng,
như lúa mì và đậu nành có thể tăng 30% hoặc nhiều hơn khi tăng dưới gấp đôi
nồng độ CO2. Năng suất cho các loại cây trồng khác như ngô, cho thấy một thích
ứng nhỏ hơn nhiều (tăng ít hơn 10%). Tuy nhiên, một số yếu tố có thể chống lại
những tiềm năng tăng năng suất. Ví dụ, nếu nhiệt độ vượt quá mức tối ưu của
cây trồng hoặc nếu đủ nước và chất dinh dưỡng không có sẵn, tăng năng suất có
thể được giảm hoặc đảo ngược.
• Nhiệt độ cực cao và lượng mưa tăng lên có thể ngăn chặn các loại cây
trồng phát triển. Thời tiết cực đoan, đặc biệt là lũ lụt và hạn hán có thể gây hại
cho cây trồng, giảm sản lượng. Ví dụ, trong năm 2008, sông Mississippi tràn
ngập trước giai đoạn thu hoạch của nhiều loại cây trồng, gây thiệt hại ước tính
khoảng 8 tỷ USD cho nông dân.
• Đối phó với hạn hán có thể trở thành một thách thức trong khu vực có
nhiệt độ mùa hè được dự báo sẽ tăng và lượng mưa được dự báo giảm. Việc
giảm cung cấp nước có thể gặp khó khăn hơn việc đáp ứng nhu cầu nước.


• Nhiều cỏ dại, sâu bệnh và nấm phát triển mạnh dưới nhiệt độ ấm hơn,
khí hậu ẩm ướt hơn và nồng độ CO2tăng. Hiện nay, nông dân đã tốn hơn 11 tỷ
USD mỗi năm để đối phó với cỏ dại tại Hoa Kỳ. Sự biến động của cỏ dại và sâu
bệnh có khả năng mở rộng về phía bắc. Điều này sẽ gây ra những vấn đề mới
cho cây trồng của người nông dân mà trước đây các loại này chưa phơi nhiễm.
Hơn nữa, tăng cường sử dụng thuốc trừ sâu và thuốc diệt nấm có thể ảnh hưởng
tiêu cực đến sức khỏe con người.
Khí hậu là nhân tố quyết định đến sản xuất nông nghiệp và sản xuất nông
nghiệp đang chịu sự tác động sâu sắc của biến đổi khí hậu. Biến đổi khí hậu đã
và đang ảnh hưởng đến năng suất và chất lượng cây trồng và vật nuôi, đầu vào
trong sản xuất và các thành phần khác trong hệ thống nghiệp [7].
1.3.2. Tác động của biến đổi khí hậu đến trồng trọt (sản xuất lúa):

Sản xuất lúa là một đối tượng của hệ thống sản xuất trồng trọt. Hệ thống
cây trồng này bị ảnh hưởng của nhiều nhân tố về môi trường như độ ẩm và nhiệt
độ và những nhân tố này quyết định đến năng suất cũng như phẩm chất cây
trồng. Biến đổi khí hậu sẽ tác động trực tiếp lên đối tượng sản xuất, làm giảm
năng suất lúa và chất lượng sản phẩm. Sự tác động của biến đổi khí hậu lên cây
trồng thể hiện ở các khía cạnh khác nhau, tùy thuộc vào đối tượng canh tác ở các
vùng địa lí khác nhau.
Mối quan hệ giữa khí hậu với cây trồng, đất đai là rất quan trọng. khí hậu
là yếu tố quyết định đến năng suất và chất lượng nông sản phẩm [12]. Một số
nghiên cứu cho thấy, khi nhiệt độ tăng thì thường ảnh hưởng tiêu cực đến năng
suất, chất lượng cây trồng. Nhiệt độ tăng dẩn đến tăng nhanh quá trình thoát khí
CO2 trong quá trình hô hấp của cây và kết quả nó giảm điều kiện tối ưu cho tăng
trưởng thực vật của cây, khi nhiệt độ tăng quá cao, vượt quá ngưỡng giới hạn tối
cao sinh vật học, cây trồng thường có những phản ứng tiêu cực và từng bước
giảm tăng trưởng thực và năng suất của cây. Sự thay đổi vòng đời phát triển của
cây trồng sẽ dài hơn hoặc ngắn hơn dẫn đến sẽ làm tăng hoặc giảm năng suất
cây trồng.


Một trong những hậu quả nghiêm trọng do biến đổi khí hậu là làm tăng
mực nước biển gây ra tình trạng xâm nhập mặn, làm nhiểm mặn ở các vùng đất
lân cận và mạch nước ngầm. Trên những vùng đất nhiểm mặn này, cây trồng
thường sinh trưởng kém, cho năng suất thấp. Thực tế này đòi hỏi muốn duy trì
và phát triển ổn định trên đất nhiểm mặn thì cần có những giống cây trồng có
khả năng chịu mặn tốt, đặc biệt cần duy trì và bảo tồn các giống có nguồn gốc
bản địa thích nghi tốt trong điều kiện đất đai bị nhiểm mặn [10].
Biến đổi khí hậu là một trong những nguyên nhân làm tăng dịch bệnh trên
cây trồng. Biến đổi khí hậu làm thay đổi điều kiện sống của các loại sinh vật,
làm mất đi hoặc làm thay đổi các mắt xích trong chuổi thức ăn và lưới thức ăn
dẩn đến tình trạng biến mất của một số loài sinh vật và ngược lại xuất hiện nguy

cơ gia tăng các loại thiên địch. Nhiệt độ tăng trong mùa đông sẽ tạo điều kiện
cho nguồn sau có khả năng phát triển nhanh hơn và gây hại mạnh hơn. Biến đổi
khí hậu cũng có thể làm phát sinh một số chủng, nòi sâu mới, gây hại không
những trong sản xuất mà còn trong bảo quản chế biến nông sản, thực phẩm [8].
Ngoài ra, biến đổi khí hậu còn ảnh hưởng tác động đến thay đổi trong
hình thức sử dụng đất dẩn đến thay đổi trong phân bố cây trồng và sản xuất nông
nghiệp. Phân bố cây trồng và sản xuất nông nghiệp phụ thuộc rất lớn vào sự
phân bố địa lí của nhiệt độ và độ ẩm. Hiện tượng ấm lên toàn cầu có thể tăng
diện tích có lợi cho tăng trưởng cây trồng và sản xuất nông nghiệp cũng như kéo
dài mùa vụ cây trồng ở một số nước.[10]
1.4. Thích nghi với biến đổi khí hậu trong sản xuất nông nghiệp:
1.4.1. Khái niệm thích nghi với biến đổi khí hậu:
Có nhiều khái niệm về sự thích nghi với biến đổi khí hậu được đưa ra bởi
các nhà khoa học nghiên cứu về biến đổi khí hậu. Dưới đây là một số thuật ngữ
được định nghĩa về sự thích nghi với biến đổi khí hậu.[10]
- Sự thích nghi với biến đổi khí hậu là một tiến trình xuyên suốt mà con
người làm giảm những tác động bất lợi của khí hậu lên sức khỏe và hạnh phúc
của họ, lợi dụng những cơ hội mà môi trường khí hậu cung cấp.


- Sự thích nghi bao gồm những sự điều chỉnh để tăng cường khả năng của
xã hội và các hoạt động kinh tế và làm giảm thiểu các tổn thương đến khí hậu,
bao gồm cả hiện tại và các sự kiện cực đoan cũng như thay đổi khí hậu lâu dài.
- Sự thích nghi với biến đổi khí hậu bao gồm tất cả những điều chỉnh hành
động hoặc cấu trúc kinh tế mà lảm giảm thiểu tổn thương xã hội đến những thay
đổi trong hệ thống khí hậu.
- Tính thích nghi đề cập đến mức độ điều chỉnh có thể trong hành động,
xử lý, cấu trúc của hệ thống đối với những biến đổi dự kiến có thể xảy ra hoặc
thật sự sẽ xảy ra của khí hậu. Sự thích nghi có thể là tự phát hay được lập kế
hoạch, và có thể được thực hiện thích ứng với những biến đổi trong nhiều điều

kiện khác nhau [9] (IPCC, 1996).
1.4.2. Thích nghi với sản xuất nông nghiệp:
Thích nghi trong sản xuất nông nghiệp có rất nhiều hình thức:
Thứ nhất, chọn giống cây trồng và vật nuôi
Đối tượng của sản xuất nông nghiệp chủ yếu là cây trồng và vật nuôi. Để
phát triển sản xuất nông nghiệp thì việc chọn giống cây trồng và vật nuôi là rất
quan trọng. Nó tác động đến việc quyết định năng suất, chất lượng cũng như khả
năng chống chịu với thay đổi của các tác nhân tác động thông qua gen di truyền.
Vì vậy, trong bối cảnh biến đổi khí hậu, thích nghi trên phương diện giống cây
trồng và vật nuôi là thích nghi đầu tiên để đảm bảo sản xuất nông nghiệp tiếp
tục.
Trong điều kiện nhiệt độ không khí có xu hướng ngày càng tăng, sự gia
tăng của các hiện tượng bất thường về các hiện tượng cực đoan, gia tăng mực
nước biển, thay đổi môi trường dẩn đến xuất hiện nhiều dịch bệnh đã gây ra
những khó khăn đối với sản xuất lương thực và đảm bảo an ninh lương thực.
Việc sử dụng nhiều giống chịu hạn, chịu nhiệt trong vùng bị khó khăn trong
nguồn nước, sử dụng nhiều giống kháng với sâu hại và dịch bệnh, sử dụng giống
chịu mặn năng suất cao và chín sớm ở các vùng lạnh. Trong lĩnh vực chăn nuôi
và thủy hải sản cũng vậy, cũng cần chọn giống thích nghi thời tiết khí hậu và
cho năng suất cao.


Do đó, để thích nghi với biến đổi khí hậu trong sản xuất nông nghiệp
chúng ta cần chọn những giống thích nghi tốt trước tác động của biến đổi khí
hậu. Đặc biệt là những giống bản địa đã trải qua một thời gian dài chuyển đổi để
thích nghi trong những điều kiện sản xuất khó khăn. Mặt khác trong quá trình
nghiên cứu thích nghi với biến đổi khí hậu trong lĩnh vực chọn giống cây trồng
và vật nuôi cần phải nghiên cứu từng loại giống trong mỗi vùng và điều kiện cụ
thể.
Thứ hai, phương thức sản xuất

Thích nghi trong phương thức sản xuất bao gồm thay đổi cơ cấu cây trồng
và vật nuôi trên một đơn vị diện tích hay liên kết các loại cây trồng và vật nuôi
trong một hệ thống sản xuất. Để thích nghi với các biến đổi khí hậu, các vùng
khác nhau phải có cách bảo tồn trong nông nghiệp, chất hữu cơ trong đất và đối
phó với các rủi ro trong sản xuất. Vì vậy các phương thức sản xuất như kết hợp
chặt chẽ trong việc luân canh cây trồng, nông lâm kết hợp, liên kết giữa trồng
trọt và chăn nuôi, hệ thống các cây, hệ thống cây trồng theo ruộng bậc thang và
các hệ thống canh tác khác đã được áp dụng rộng rãi tại nhiều vùng được xem là
thích nghi trong phương thức sản xuất.
Thứ ba, thời vụ sản xuất
Thời vụ sản xuất của hệ thống cây trồng và vật nuôi phụ thuộc vào nhiều
yếu tố khí hậu thời tiết. Vì vậy hệ thống thông tin dự báo các điều kiện thời tiết
khí hậu liên quan đến biến đổi khí hậu là rất cần thiết để xác định thời vụ thích
hợp cho mỗi loại cây trồng và vật nuôi. Vì vậy cách tiếp cận kết hợp giữa khoa
học khí tượng và khoa học cây trồng vật nuôi xuất hiện là cách duy nhất để thích
nghi với biến đổi khí hậu trong tương lai. Để thích nghi thì việc thay đổi thời
gian mùa vụ gieo trồng, bảo vệ cây trồng vật nuôi, xác định được thời điểm thu
hoạch sản phẩm nông nghiệp ngoài đồng tránh được lũ lụt xảy ra là quan trọng
nhất. Bố trí mùa vụ thích hợp trong việc sản xuất của mùa vụ tăng trưởng của
cây trồng và vật nuôi làm tăng tiềm năng tối đa năng suất cây trồng và vật nuôi
trong điều kiện thiếu ẩm và căng thẳng về nhiệt.
Thứ tư, thay đổi kĩ thuật canh tác


Thích nghi trong lĩnh vực kỹ thuật canh tác rất phong phú và đa dạng
thuộc vào loại biến đổi khí hậu, điều kiện kinh tế- xã hội- tự nhiên của vùng
cũng như nhận thức của người dân, điều này được thể hiện rõ thông qua kiến
thức bản địa. Kiến thức bản địa là cái cơ bản nhất để đưa ra quyết định ở cấp độ
địa phương trong nhiều cộng đồng nông thôn. Nó không chỉ có giá trị văn hóa
mà nó còn là cơ sở cho các nhà khoa học và các nhà lập kế hoạch để cải thiện

các điều kiện ở cộng đồng nông thôn. Kết hợp chặt chẽ giữa kiến thức bản địa
trong các chính sách cho biến đổi khí hậu có thể dẩn đến phát triển hiệu quả sự
tham gia của cộng đồng và đạt được tính bền vững.[7]
2. Cơ sở thực tiễn:
Nước ta với hơn 70% dân số sống chủ yếu vào sản xuất nông nghiệp, nền
nông nghiệp đóng vai trò hàng đầu đối với kinh tế và sự phát triển của nước ta.
Qua nhiều năm sản xuất lúa, người dân đã có những kỹ năng sản xuất lúa tốt
cùng với đó là sự phát triển của khoa học nông nghiệp các tiến bộ kỹ thuật được
ứng dụng đã đẩy mạnh việc thâm canh lúa tốt, nâng cao năng suất và sản lượng
cây trồng lúa nước.
Thực tiễn thế giới đã chứng minh việc phát triển kinh tế nhanh chóng thì
phải có đủ lương thực đảm bảo cho cuộc sống của người dân, nhất là ở Việt
Nam thì điều này còn quan trọng hơn vì nó còn có ý nghĩa phát triển kinh tế hộ
gia đình, tạo thu nhập cho người dân, nâng cao mức sống cho toàn xã hội. Do
đó, cần phải đẩy mạnh nâng cao khả năng tiếp nhận các tiến bộ kỹ thuật trong
nông nghiệp, tạo kênh thông tin tin cậy giúp người dân có thể nhạy bén tiếp cận
thị trường đảm bảo mức cung cầu phù hợp có lợi cho sự phát triển của xã hội.
Tuy nhiên trong những năm gần đây thế giới có xu hướng biến động
mạnh về biến đổi thời tiết, khí hậu ảnh hưởng đến môi trường phát triển của cây
trồng nông nghiệp. Ở Việt Nam cũng đã chịu những ảnh hưởng tác động của yếu
tố khi hậu thời tiết cực đoan gây ra như ở đồng bằng Sông Cửu Long.
Một số tác động của biến đổi khí hậu có thể gây ra đối với sự phát triển
sản xuất của vùng đồng bằng sông Cửu Long:


-

Thay đổi thời tiết: lượng mưa sẽ tăng vào mùa mưa và giảm vào mùa khô, cùng
với đó là các trận bão nhiệt đới mạnh hơn. Quỹ đạo bão ngày càng di chuyển


-

dần vào phía Nam
Biến đổi, biến động ranh giới các vùng nước mặn, nước ngọt, nước lợ làm ảnh

-

hưởng đến cơ cấu cây trồng và vật nuôi.
Đối với những vùng có địa hình thấp, trũng, gần sông càng ảnh hưởng nghiêm
trọng hơn nữa vì mức độ nhiểm mặn sẽ tăng lên, vùng bị ngập úng lũ lụt cũng
gia tăng ảnh hưởng nghiêm trọng đến an ninh lương thực quốc gia….
Trước sự thay đổi khí hậu ngày càng xấu nhiều vùng địa phương khác
cũng chịu ảnh hưởng không nhỏ. Ở Nghệ An là vùng người dân nhiều nơi chủ
yếu sống dựa vào nền lúa nước, những tác động của biến đổi khí hậu cũng được
thể hiện rõ ở đây. Do đó để hiểu rõ tầm nghiêm trọng mà biến đổi khí hậu đang
gây ra nhằm định hướng chiến lược điều chỉnh phù hợp cho sản xuất nông
nghiệp đảm bảo năng suất cây trồng là điều hết sức cần thiết.


×