Tải bản đầy đủ (.docx) (34 trang)

Phân tích tác động kinh tế của du lịch đối với tỉnh Quảng Ninh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (781.3 KB, 34 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC THƯƠNG MẠI
Khoa Khách sạn – Du lịch
----------

BÀI THẢO LUẬN

HỌC PHẦN: TỔNG QUAN DU LỊCH
Đề tài: Phân tích tác động kinh tế của du lịch đối với tỉnh Quảng Ninh.

Nhóm thực hiện

: Nhóm 02

Giáo viên hướng dẫn

: Th.S Đỗ Thị Thu Huyền

Lớp học phần

: 1502TEMG0111


Hà Nội, năm 2015


MỤC LỤC


LỜI MỞ ĐẦU
Quảng Ninh nằm ở phía Đông Bắc tổ quốc, là một trong ba cực tam giác tăng trưởng


kinh tế khu vực phía Bắc, đồng thời cũng là điểm du lịch quan trọng của vùng du lịch Bắc
Bộ với nhiều di tích lịch sử văn hoá nổi tiếng như khu di tích Yên Tử, chùa Quỳnh Lâm,
cụm di tích Bạch Đằng v.v... Đặc biệt, Vịnh Hạ Long đã hai lần được UNESCO công
nhận là Di sản thiên nhiên thế giới. Với những điều kiện thuận lợi đó, Quảng Ninh đã trở
thành một điểm đến hấp dẫn khách du lịch trong và ngoài nước. Những năm gần đây
ngành du lịch của tỉnh Quảng Ninh ngày một phát triển, đã tạo ra nhiều việc làm cho lao
động địa phương, thúc đẩy kinh tế - xã hội phát triển, đồng thời góp phần quảng bá hình
ảnh, con người Quảng Ninh nói riêng, Việt Nam nói chung ra thế giới. Tuy nhiên, khi du
lịch càng phát triển thì những tác động kinh tế của nó tới địa phương càng rõ rệt. Và
những tác động đó có tính hai mặt: một mặt tạo ra những lợi ích kinh tế tới tỉnh Quảng
Ninh nhưng mặt khác cũng gây ra một số tồn tại.
Việc nghiên cứu tác động kinh tế của du lịch tới tỉnh Quảng Ninh sẽ cho ta biết được
những lợi ích kinh tế mà du lịch mang lại đồng thời xác định được những tồn tại của nó.
Từ đó ta có thể đưa ra được định hướng để phát triển ngành du lịch Quảng Ninh bền vững
và hạn chế tối đa những tác động tiêu cực mà hoạt động du lịch ở Quảng Ninh gây ra.
Chính vì vậy, nhóm 2 đã lựa chọn đề tài: “Phân tích tác động kinh tế của du lịch đối với
tỉnh Quảng Ninh”.
Trong quá trình học tập và thực hiện bài thảo luận nhóm, chúng em chân thành cảm
ơn cô Đỗ Thị Thu Huyền - Giáo viên giảng dạy bộ môn Tổng quan du lịch. Cảm ơn cô đã
hướng dẫn tận tình và giúp đỡ chúng em hoàn thiện bài thảo luận này.


NỘI DUNG
I.
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ TÁC ĐỘNG KINH TẾ CỦA DU
LỊCH
1. Quan niệm về tác động kinh tế của du lịch
1.1 Tác động Kinh tế:
Khái niệm: Là những lợi ích và chi phí trực tiếp và gián tiếp về kinh tế, nhận được từ
sự phát triển và sử dụng các tiện nghi và dịch vụ du lịch.

1.2 Hiệu quả bội:
Khái niệm: Là hiệu quả tăng thêm về thu nhập của một khu vực từ những thu nhập
ban đầu của du lịch (hoặc chi tiêu của du khách).
Đồng tiền chi tiêu ban đầu của du khách được sử dụng vài lần tạo nên một chuỗi: Chi
tiêu – Thu nhập – Chi tiêu – Thu nhập…và lan truyền đi khắp địa phương.
Ví dụ: Du khách chi trả tiền để ăn uống => Nhà hàng dùng tiền du khách trả để mua
đồ, thuê nhân viên => Nhân viên dùng lương để mua sắm, chi tiêu…
1.3 Sự rò rỉ:
Khái niệm: Là sự thất thoát về thu nhập du lịch do sự truyền ra địa phương của nguồn
thu nhập đó.
Sự rò rỉ sẽ làm giảm hiệu quả bội về thu nhập từ du lịch của một khu vực.
Ví dụ:
Người nước ngoài gửi tiền về nước hoặc sử dụng nguyên liệu từ quốc gia họ.
Khoản tiết kiệm của nhân viên…là sự rò rỉ ra chuỗi chi tiêu.
 Tác động Kinh tế của Du lịch chính là mối quan hệ giữa Hiệu quả bội và Sự rò rỉ.
2. Các lợi ích về kinh tế:
2.1 Cải thiện cán cân thương mại quốc gia:

Khách du lịch quốc tế đến mang theo ngoại tệ vào Việt Nam, do đó làm cải thiện cán
cân thanh toán thương mại của quốc gia. Du lịch quốc tế góp phần làm tăng dự trữ ngoại
tệ của một quốc gia, giảm hạn chế về nguồn tài chính, giúp quốc gia đó phát triển kinh tế.
Tuy nhiên lợi ích trên chỉ có được với điều kiện: có một số lượng đáng kể du khách
quốc tế đến và mang theo ngoại tệ, lượng ngoại tệ thu được không bị rò rỉ khỏi nền kinh
tế, đồng thời các du khách quốc tế đến và chi tiêu nhiều hơn công dân quốc gia đó đi du
lịch nước ngoài.
2.2 Tạo ra nhiều cơ hội việc làm mới:

Du lịch là một ngành tổng hợp, nó tạo ra nhiều công ăn việc làm, không chỉ cho riêng
ngành du lịch mà còn cho nhiều ngành khác nữa. Du lịch là ngành kinh doanh 24/24 và
24/7 nên giờ giấc không còn là vấn đề phải cân nhắc.

2.3 Quảng bá cho sản xuất địa phương:
Ở nhiều nước, ngành du lịch tạo ra sự nổi tiếng cho sản xuất công nghiệp cũng như
nông nghiệp địa phương thông qua việc đáp ứng nhu cầu của du khách về các sản phẩm
lương thực, thực phẩm, dụng cụ, đồ đạc, xây dựng… Đồng thời tạo khả năng để tăng khối


lượng sản xuất của địa phương nhằm đáp ứng những nhu cầu mới, nhu cầu bổ sung thêm
từ du khách. Ngoài ra những sản phẩm thủ công, hàng lưu niệm… từ những ngành nghề
đang bị mai một vì người dân địa phương không còn quan tâm đến sẽ lại được khôi phục
và phát triển.
Du lịch mang lại lợi ích phát triển kinh tế địa phương chỉ áp dụng cho những nước
nhận khách du lịch. Và những lợi ích trên chỉ có được với điều kiện các nguyên vật liệu
cần cho ngành du lịch được sản xuất tại địa phương hoặc trong nước chứ không nhập
khẩu từ nước ngoài.
2.4 Tăng nguồn thu cho Nhà nước:

Khách du lịch có nghĩa vụ phải nộp một số loại thuế. Có thể là các loại thuế trực tiếp
như thuế khởi hành (departure tax) phải trả ở các sân bay hoặc thuế phòng (bed tax) được
tính thêm vào hóa đơn thanh toán lưu trú tại khách sạn… Ví dụ như tại một khách sạn
bình dân ở quốc đảo Maldives, du khách sẽ phải trả thuế phòng trung bình là
$8/người/đêm. Và du khách cũng phải nộp một số loại thuế gián tiếp như thuế máy bay
tiếp đất, thuế nhiên liệu máy bay hoặc thuế giá trị gia tăng đối với các hàng hóa, dịch vụ
du khách mua sắm, sử dụng tại quốc gia điểm đến.
2.5 Tạo cơ sở để giúp phát triển các vùng đặc biệt:

Cùng với các lợi ích của mình, du lịch sẽ giúp tạo ra một môi trường thuận lợi cho các
vùng có những vấn đề khó khăn nhất định của một quốc gia, ví dụ như các vùng núi, hải
đảo, vùng sâu vùng xa, biên giới… Du lịch không chỉ giúp tăng nguồn thu, giải quyết vấn
đề thiếu việc làm ở đây mà còn làm cho các vùng này thu hút được sự quan tâm của công
chúng trong và ngoài nước. Để phát triển các điểm hấp dẫn ở các vùng đặc biệt, Nhà nước

sẽ giúp đỡ phát triển cơ sở hạ tầng, đưa lực lượng lao động đến khu vực, xây dựng nhà ở
và các trạm giao thông, thiết lập các trạm phát thanh, truyền hình và mạng lưới thông tin
liên lạc. Mặt khác phát triển du lịch tại các vùng đặc biệt sẽ thu hút người dân tới đây làm
ăn, sinh sống.
2.6 Khuyến khích nhu cầu nội địa:

Người dân địa phương có thể không có nhu cầu viếng thăm các điểm hấp dẫn du lịch
trong khu vực địa phương hay quốc gia mình ở. Nhưng khi một khu vực thu hút được du
khách quốc tế sẽ làm tăng sự quan tâm trong nước đối với các điểm hấp dẫn ở khu vực
đó. Từ đó khuyến khích nhu cầu du lịch của người dân địa phương cũng như người dân
trong nước.


THỰC TRẠNG: TÁC ĐỘNG KINH TẾ CỦA DU LỊCH ĐỐI VỚI TỈNH
QUẢNG NINH HIỆN NAY
1. Khái quát về hình hình phát triển du lịch tỉnh Quảng Ninh hiện nay:
Về tiềm năng du lịch, Quảng Ninh có tài nguyên du lịch đặc sắc vào loại bậc nhất của
cả nước. Nơi đây có nhiều bãi biển đẹp như Bãi Cháy, Bãi Dài, Trà Cổ…; Có cảnh quan
nổi tiếng Vịnh Hạ Long – Hai lần được Unesco xếp hạng là Di sản thiên nhiên thế giới và
trở thành một trong bảy Kỳ quan thiên nhiên mới của thế giới, ngoài ra tỉnh còn có tài
nguyên du lịch Văn hóa – Tâm linh đa dạng như các khu di tích: Khu Di tích nhà Trần ở
Đông Triều, Cụm Di tích chiến thắng Bạch Đằng, Cụm di tích và danh thắng Núi Bài
Thơ, Đền Cửa Ông, Chùa Yên Tử… và nhiều lễ hội truyền thống khác. Với nguồn tài
nguyên du lịch đa dạng, Quảng Ninh có đầy đủ tiềm năng để trở thành một trong những
tỉnh đi đầu cả nước về du lịch.
II.

Một số điểm du lịch tiêu biểu ở Quảng Ninh
Quảng Ninh là một trong những tỉnh đi tiên phong trong việc phát triển ngành du lịch
của Việt Nam. Trong những năm gần đây, ngành Du lịch Quảng Ninh đã đã không ngừng

nỗ lực phát triển và có những chuyển biến tích cực, bước đầu đã xây dựng được thương
hiệu hình ảnh du lịch của tỉnh, tạo việc làm ổn định cho hàng vạn lao động và góp phần
không nhỏ vào phát triển KT - XH chung của tỉnh. Tốc độ tăng trưởng du lịch bình quân
từ năm 2001 đến năm 2013 tăng khoảng 12%/năm. Các loại hình dịch vụ phục vụ khách
du lịch cũng tăng nhanh. Đến nay, trên địa bàn tỉnh có khoảng 1.000 cơ sở lưu trú du lịch,
trên 500 tàu du lịch các loại, 45 doanh nghiệp lữ hành, hàng trăm nhà hàng, điểm mua
sắm và bãi tắm du lịch thu hút khoảng 32 nghìn nhân lực trực tiếp và 37 nghìn nhân lực


gián tiếp. Du lịch đã đóng góp quan trọng vào kinh tế, xã hội của tỉnh, góp phần nâng cao
vị thế Quảng Ninh, trở thành điểm đến hấp dẫn đối với du khách trong nước và quốc tế.
Năm 2014, trong bối cảnh tình hình kinh tế có nhiều biến động, khó khăn, nhưng
ngành du lịch Quảng Ninh vẫn đạt được những kết quả khả quan. Theo báo cáo của
Phòng Nghiệp vụ Du lịch - Sở VHTT&DL, năm 2014 Quảng Ninh đón hơn 7,5 triệu lượt
(7,507,345 lượt du khách), bằng 100% so với năm 2013, trong đó khách quốc tế đạt hơn
2,5 triệu lượt (2,560,073 lượt), giảm 2% so với cùng kỳ năm ngoái; Khách lưu trú đạt
3,611,231 lượt, bằng 100% so với năm 2013. Khách du lịch quốc tế lưu trú có một số thị
trường tăng mạnh, như Pháp, Anh, Mỹ, Đức, Tây Ban Nha, Hà Lan, Italia, NewZeland…
Tổng doanh thu du lịch cả năm 2014 đạt trên 5,518 tỷ đồng tăng 9% so với năm 2013.
Năm 2014, thu ngân sách từ hoạt động du lịch đạt 830 tỷ đồng, chiếm 5,2% thu nội địa,
tăng 1,2% so với năm trước.
Theo số liệu thống kê của Sở Văn hoá, Thể thao và Du lịch, trong quý I - 2015, Quảng
Ninh đón 2,993 triệu lượt du khách, tăng 2% so với cùng kỳ và đạt gần 40% kế hoạch
năm. Tổng doanh thu du lịch quý I, đạt 1.634 tỷ đồng, tăng 15% so với cùng kỳ 2014.
Trong đó khách quốc tế đạt 791.600 lượt, tăng 1% so với cùng kỳ. Riêng trong tháng 3,
Quảng Ninh đón gần 1,2 triệu lượt khách, trong đó khách quốc tế đạt hơn 244.000 lượt.
 Du lịch hiện nay được coi là một trong những ngành kinh tế quan trọng trong mục tiêu
phát triển kinh tế từ tăng trưởng “nâu” sang tăng trưởng “xanh”, hướng tới phát triển bền
vững của tỉnh Quảng Ninh. Những kết quả khả quan đã thu được của ngành trong năm
trước và trong quý I/2015 đã ghóp phần làm cơ sở, làm bước đệm vững chắc giúp ngành

du lịch Quảng Ninh phát triển mạnh hơn trong những năm tiếp theo, đưa Quảng Ninh trở
thành trung tâm du lịch hàng đầu cả nước.
2. Các tác động kinh tế của du lịch đối với tỉnh Quảng Ninh
2.1 Cải thiện cán cân thương mại quốc gia:

Khách du lịch quốc tế mang theo tiền từ quốc gia mình tới Việt Nam (cụ thể ở đây là
Quảng Ninh) để chi tiêu, điều này có hiệu quả giống như một ngành xuất khẩu, và du
khách có “trách nhiệm” mang ngoại tệ vào, do đó làm cải thiện cán cân thanh toán thương
mại của quốc gia.
Trong những năm vừa qua, số lượt khách quốc tế tới Quảng Ninh tăng ngày càng
nhiều. Khách quốc tế đến Quảng Ninh rất đa dạng, từ nhiều thị trường tiềm năng như
châu Á: Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản, Đài Loan, Hồng Kông, Malaysia... ; châu Âu,
Mỹ, Úc… Đặc biệt trong năm 2014, lượt du khách tới Quảng Ninh từ Pháp tăng 15%,
Anh tăng 27%, Tây Ban Nha tăng 43%, Đan Mạch tăng 31%, Thụy Sỹ tăng 41%, Mỹ
tăng 16%, Úc tăng 4%...
Năm 2013, tổng số khách du lịch đến Quảng Ninh đạt hơn 7,5 triệu lượt, trong đó
khách quốc tế đạt 2,6 triệu lượt. Năm 2014, tổng khách du lịch đến Quảng Ninh đạt 7,5
triệu lượt, trong đó riêng khách quốc tế đạt 2,6 triệu lượt. Trong quý I năm 2015, Quảng
Ninh đón 2,993 triệu lượt du khách, trong đó khách quốc tế đạt 791.600 lượt, tăng 1% so


với cùng kỳ. Riêng trong tháng 3/2015, Quảng Ninh đón gần 1,2 triệu lượt khách, trong
đó khách quốc tế đạt hơn 244.000 lượt.

 Với hàng triệu lượt khách quốc tế mỗi năm và mức chi tiêu trung bình 1.143 USD/khách
(theo Số liệu điều tra chi tiêu bình quân một khách quốc tế tại Việt Nam năm 2013 do
Tổng cục Thống kê công bố), khách du lịch quốc tế đã mang thêm hàng tỷ USD doanh
thu cho ngành du lịch tỉnh Quảng Ninh, từ đó góp phần cải thiện cán cân thương mại và
tăng dự trữ ngoại tệ cho quốc gia.
2.2 Tạo ra nhiều cơ hội việc làm mới:


Dân số hiện nay của tỉnh Quảng Ninh lên đến 1.185.200 người, trong đó số người
trong độ tuổi lao động của tỉnh chiếm 67,83% tổng số dân. Quảng Ninh có cơ cấu dân số
trẻ, nguồn lao động khá dồi dào, đặc biệt số người trong độ tuổi lao động khá cao. Bên
cạnh nguồn lực lao động tại chỗ, Quảng Ninh còn là điểm đến hấp dẫn của lao động thời
vụ, đặc biệt là từ các địa phương lân cận đối với một số ngành như xây dựng, công nghiệp
và dịch vụ trong đó có du lịch.
Sự sẵn có về lao động cộng thêm sự phát triển của du lịch đang tạo ra hàng nghìn việc
làm mỗi năm, góp phần giảm tỉ lệ thất nghiệp, nâng cao chất lượng đời sống của người
dân Quảng Ninh. Trong năm 2014, ngành du lịch của tỉnh đã tạo việc làm ổn định cho
hơn 32.000 lao động trực tiếp (như lao động tại các nhà hàng, khách sạn, phương tiện vận
chuyển khách du lịch, hướng dẫn viên…) và 37.000 lao động gián tiếp.
Tính đến năm 2014, Quảng Ninh có 1.261 cơ sở lưu trú, trong đó có 3 khách sạn 5
sao, 15 khách sạn 4 sao, 11 khách sạn 3 sao, 53 khách sạn 2 sao, 56 khách sạn một sao và
1.123 khách sạn đạt chuẩn, trên 500 tàu du lịch các loại, hơn 50 doanh nghiệp lữ hành,
hàng trăm nhà hàng, điểm mua sắm và bãi tắm du lịch… Ngoài ra tỉnh còn rất nhiều dự án
đầu tư du lịch đang triển khai và nhiều doanh nghiệp du lịch mới sắp sửa hình thành... Đi
kèm với sự gia tăng này chính là sự tăng lên về số lao động trực tiếp của ngành du lịch
Quảng Ninh. Bên cạnh đó, lượng khách du lịch đến Quảng Ninh các năm vừa qua không
ngừng tăng lên, đòi hỏi ngành du lịch và những ngành có liên quan như giao thông, môi
trường, dịch vụ... cần tăng thêm số cán bộ, nhân viên, khiến cho số lao động gián tiếp của
ngành cũng tăng thêm. Ngành được hưởng lợi đầu tiên từ du lịch là giao thông vận tải. Ví
dụ như đối với ngành hàng không, khoảng 70% - 80% số khách nước ngoài đến Việt Nam
là đi du lịch và chủ yếu đi bằng đường hàng không, giúp ngành hàng không tăng trưởng
mạnh, tạo việc làm cho hàng nghìn lao động mỗi năm.
Với những tiềm năng và lợi thế sẵn có để phát triển du lịch, Quảng Ninh đang quyết
tâm phấn đấu trở thành trung tâm du lịch lớn của miền Bắc cũng như cả nước. Chính vì
vậy, nhu cầu về nguồn nhân lực đối với ngành du lịch Quảng Ninh nói riêng và đối với
tỉnh nói chung ngày càng lớn. Dự báo, đến năm 2015, số lao động trực tiếp trong ngành
du lịch toàn tỉnh dự kiến là 35.000 người, năm 2020 là 54.000 người, năm 2030 là



120.000 người; Số lao động gián tiếp năm 2015 là 35.000 người, năm 2020 là 53.000
người và đến năm 2030 là 155.000 người.

BIỂU ĐỒ THỐNG KÊ: Số lao động dự kiến do ngành Du lịch tạo ra trên địa bàn
tỉnh Quảng Ninh giai đoạn 2014 – 2030
(Nguồn: Sở VHTT&DL tỉnh Quảng Ninh).

 Trong tương lai, mỗi năm ngành du lịch Quảng Ninh sẽ tạo việc làm ổn định cho hàng
vạn lao động, giảm tỷ lệ thất nghiệp tại tỉnh, đồng thời góp phần phát triển du lịch của
tỉnh ngày một vững mạnh.
2.3 Quảng bá cho sản xuất địa phương:

Quảng Ninh là một tỉnh có cơ cấu nền kinh tế đa dạng, bên cạnh ngành mũi nhọn là
công nghiệp khai thác khoáng sản, tỉnh còn phát triển cả về công nghiệp chế biến thủy hải
sản, nông nghiệp, dịch vụ, thủ công mỹ nghệ... Du lịch Quảng Ninh đã góp phần quảng bá
cho sản xuất công nghiệp, nông nghiệp địa phương thông qua việc đáp ứng nhu cầu của
du khách về các sản phẩm đặc trưng, tiêu biểu của tỉnh như: Chả mực Hạ Long, gốm
Đông Triều, Gà Tiên Yên, mực Cô Tô…
Các làng nghề tiêu biểu ở Quảng Ninh như làng nghề thủ công mỹ nghệ bằng than đá,
làng chài Cửa Vạn, làng nghề nuôi cấy ngọc trai ở Vân Đồn, làng gốm Đông Triều…
cũng là những điểm đến yêu thích của du khách khi tới Quảng Ninh. Những nơi này thu
hút càng nhiều du khách tới thì lượng hàng hóa, sản phẩm của làng nghề sẽ càng được
tiêu thụ nhiều hơn và trở nên nổi tiếng hơn.


Nghề thủ công mỹ nghệ bằng than đá ở Quảng Ninh đến nay đã trở thành một nghề thủ
công truyền thống nổi tiếng thu hút du khách
2.4 Tăng nguồn thu cho Nhà nước:


Ngành du lịch Quảng Ninh ngày càng phát triển và đóng vai trò quan trọng trong nền
kinh tế của tỉnh. Trong nguồn thu ngân sách cho nhà nước của Quảng Ninh, nguồn thu từ
ngành du lịch chiếm một phần không nhỏ.
Trong năm 2013, ngành du lịch Quảng Ninh duy trì được tốc độ tăng trưởng với tổng
số khách du lịch đến Quảng Ninh đạt hơn 7,5 triệu lượt, tăng 7% so với cùng kỳ, tổng
doanh thu du lịch đạt 5.000 tỷ đồng. Tính đến hết ngày 31/12/2013, tổng thu ngân sách
nhà nước của Quảng Ninh đạt trên 33.846 tỷ đồng, đạt 100% dự toán tỉnh giao. Trong đó,
số thu nội địa đạt 15.598 tỷ đồng (chưa rõ thu từ lĩnh vực du lịch), đạt 104% so với dự
toán; thu XNK 18.248 tỷ đồng, đạt 97% dự toán.
Năm 2014, trong bối cảnh tình hình kinh tế có nhiều biến động, khó khăn, nhưng
ngành du lịch Quảng Ninh vẫn đạt được những kết quả khả quan. Theo số liệu thống kê
của Sở Văn hoá, Thể thao và Du lịch, tổng số khách du lịch đến Quảng Ninh đạt 7,5 triệu
lượt. Tổng doanh thu từ du lịch đạt 5.500 tỷ đồng, tăng 9% so với cùng kỳ năm 2013.
Theo báo cáo của Sở Tài chính, tính đến hết ngày 30/12/2014, tổng thu ngân sách nhà
nước trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh đạt 33.100 tỷ đồng, tăng 5,2% dự toán. Trong đó, thu
từ lĩnh vực du lịch đạt 830 tỷ, chiếm 5,2% số thu nội địa, tăng 1,2% so với năm 2013. Đây
là số thu nội địa cao nhất từ trước đến nay của Quảng Ninh. Với số thu này, Quảng Ninh
tiếp tục nằm trong tốp 5 tỉnh, thành phố có số thu ngân sách cao nhất toàn quốc.
Theo báo cáo của Sở Tài chính, trong quý I năm 2015, tổng thu ngân sách nhà nước
trên địa bàn Quảng Ninh đạt 10.264 tỷ đồng, đạt 28% dự toán năm, bằng 123% so cùng
kỳ, trong đó tổng thu từ lĩnh vực du lịch ước đạt 1.618 tỷ đồng, tăng 14% so cùng kỳ.
Với thành tích đã đạt được, ngành du lịch Quảng Ninh đã chứng tỏ được vị trí quan
trọng của mình đối với việc phát triển nền kinh tế địa phương nói riêng, cũng như trong
việc tăng nguồn thu cho nhà nước nói chung.
2.5 Tạo cơ sở để giúp phát triển các vùng đặc biệt:

Quảng Ninh là tỉnh nằm trong vùng kinh tế trọng điểm phía Bắc Việt Nam, với diện
tích tự nhiên là 6.110 km2, trong đó có 87% là đất liền, 13% là hải đảo, đồi núi chiếm trên
80% diện tích của tỉnh. Trong 14 huyện, thị xã, thành phố của tỉnh, có 08 huyện (thị xã),

112 xã, phường, thị trấn được công nhận là xã miền núi, vùng cao, biên giới, hải đảo, hiện
có 54 xã khó khăn, trong đó có 24 xã đặc biệt khó khăn.
Quảng Ninh có một số vùng đặc biệt, khó khăn, nằm ở vùng núi, hải đảo, biên giới
nhưng lại có điểm hấp dẫn du lịch, ví dụ như: Huyện đảo Vân Đồn, huyện đảo Cô Tô,
huyện Bình Liêu ở phía Tây Bắc Quảng Ninh… Để tận dụng và phát triển tiềm năng du


lịch ở những vùng này, trong những năm qua, tỉnh Quảng Ninh đã tập trung chỉ đạo phát
triển kinh tế - xã hội một cách toàn diện, tăng cường đầu tư có trọng điểm theo quy hoạch
vào hạ tầng và hệ thống cơ sở vật chất kỹ thuật, đưa lực lượng lao động đến khu vực, xây
dựng nhà và các trạm giao thông, truyền hình mạng lưới thông tin liên lạc... Ưu tiên đầu
tư phát triển nhân lực du lịch vùng sâu, vùng xa, vùng dân tộc thiểu số để từng bước tăng
cường năng lực tham gia của cộng đồng dân cư địa phương cho phát triển du lịch. Nhờ
đó, kinh tế - xã hội của tỉnh đạt được nhiều kết quả khả quan, diện mạo khu vực nông
thôn, miền núi, vùng có đồng bào dân tộc thiểu số có nhiều thay đổi và tiến bộ rõ rệt, tỷ lệ
hộ nghèo toàn tỉnh đã giảm từ 18,39% (năm 1999) xuống còn 4,46% (năm 2009).
Một ví dụ điển hình về việc các vùng đặc biệt, biên giới, hải đảo, vùng sâu vùng xa ở
Quảng Ninh được du lịch tạo cơ sở phát triển chính là huyện đảo Cô Tô. Cô Tô là vùng
biển đảo giàu tiềm năng để phát triển du lịch với môi trường trong lành, con người thân
thiện, những bãi biển đẹp dài hết tầm mắt và còn nguyên vẻ hoang sơ, nhiều loài hải sản
quý hiếm... và đặc biệt là hướng phát triển du lịch được xác định rất rõ ràng. Cô Tô được
xác định phát triển thành Khu du lịch sinh thái – nghỉ dưỡng biển đảo cấp quốc gia gắn
với Khu du lịch sinh thái biển đảo cao cấp Vân Đồn; đưa Cô Tô trở thành một trọng điểm
du lịch trong quần thể du lịch Cát Bà – Hạ Long – Vân Đồn – Cô Tô – Móng Cái – Trà
Cổ với đa dạng các loại hình du lịch, thể thao và vui chơi giải trí cả trên biển và trên các
đảo. Trong những năm gần đây, được sự quan tâm đầu tư của Trung ương và tỉnh Quảng
Ninh, kinh tế xã hội của huyện đảo Cô Tô có sự đổi thay nhanh chóng, đời sống của nhân
dân được nâng lên rõ rệt. Tốc độ tăng trưởng kinh tế của huyện đạt ở mức cao, năm 2011
đạt trên 14%. Tỷ lệ hộ nghèo toàn huyện giảm từ 13,95% năm 2005 xuống còn 3,1% năm
2011. Nhiều công trình hạ tầng kỹ thuật, hạ tầng kinh tế, văn hoá xã hội được đầu tư trên

địa bàn huyện đảo đã phát huy tác dụng, thúc đẩy kinh tế xã hội của huyện phát triển,
trong số đó phải kể đến Trung tâm Dịch vụ hậu cần nghề cá Bắc vịnh Bắc Bộ được khởi
công xây dựng năm 2008, với tổng giá trị đầu tư gần 470 tỉ đồng, đã hoàn thành hạng mục
bến cập tàu và đê chắn sóng từ cuối năm 2011, đặt nền tảng cho ngành công nghiệp chế
biến, dịch vụ hậu cần tại huyện đảo. Đến năm 2015 tập trung xây dựng hoàn chỉnh các cơ
sở hạ tầng thiết yếu, đặc biệt là giao thông kết nối đảo với đất liền chất lượng cao và các
công trình cấp điện, cấp nước, bưu chính viễn thông, tạo điều kiện cần thiết để phát triển
kinh tế - xã hội của vùng nói chung và thu hút đầu tư phát triển du lịch nói riêng. Công ty
Điện lực Quảng Ninh đã thực hiện dự án “Đưa điện lưới ra huyện đảo Cô Tô” để đảm bảo
cung điện cho nhu cầu ngày càng lớn tại Cô Tô. Giai đoạn 2016 – 2020 tập trung phát
triển nhanh và bền vững du lịch trong vùng theo hướng du lịch sinh thái chất lượng cao
phù hợp với đặc thù của du lịch biển, đảo. Phấn đấu đến năm 2015 vùng biển đảo Cô Tô
có thể thu hút 15 – 16 ngàn lượt khách, trong đó có 4 – 5 ngàn lượt khách quốc tế; doanh
thu du lịch đạt 14 – 15 tỷ đồng và năm 2020 đạt 30 – 35 ngàn lượt khách, trong đó có 10
– 12 ngàn lượt khách quốc tế; doanh thu du lịch đạt 45 – 47 tỷ đồng; đạt tốc độ tăng
trưởng 24,8%/năm bình quân thời kỳ 2015 – 2020.


Các đồng chí lãnh đạo T.Ư, tỉnh Quảng Ninh động thổ Dự án đưa điện lưới ra huyện
đảo Cô Tô.
2.6 Khuyến khích nhu cầu nội địa:

Như đã thống kê ở bên trên: Năm 2013, tổng số khách du lịch đến Quảng Ninh đạt
hơn 7,5 triệu lượt, trong đó khách quốc tế đạt 2,6 triệu lượt; Năm 2014, tổng khách du
lịch đến Quảng Ninh đạt 7,5 triệu lượt, trong đó riêng khách quốc tế đạt 2,6 triệu lượt.
Trong quý I năm 2015, Quảng Ninh đón 2,993 triệu lượt du khách, tăng 2% so với cùng
kỳ và đạt gần 40% kế hoạch năm. Tổng doanh thu du lịch quý I, đạt 1.634 tỷ đồng, tăng
15% so với cùng kỳ 2014. Trong đó khách quốc tế đạt 791.600 lượt, tăng 1% so với cùng
kỳ. Ngoài ra, trong 3 tháng đầu năm, Quảng Ninh cũng đón hàng chục chuyến tàu biển
quốc tế các hãng nổi tiếng như: Costa, Azamara, Henna, Celebrity Millennium...tới tham

quan.
Chính số lượng lớn du khách quốc tế đến với Quảng Ninh đã làm tăng sự quan tâm
trong nước đối với các điểm hấp dẫn ở Quảng Ninh và thu hút khách nội địa tới đây.
Người dân địa phương có thể không có nhu cầu viếng thăm các điểm hấp dẫn trong địa
phương mình nhưng họ vẫn thấy tự hào khi khách từ xa đến thăm địa phương. Cụ thể, từ
đầu năm đến nay, ngành du lịch Quảng Ninh đã đón trên 3,5 triệu lượt khách, chủ yếu là
khách nội địa. Riêng trong tháng 3/2015, Quảng Ninh đón gần 1,2 triệu lượt khách, trong
đó gần 1 triệu lượt là khách nội địa. Dự kiến, đến cuối năm đón trên 5 triệu lượt khách,
trong đó có 3 triệu khách nội địa… Như vậy có thể thấy rằng lượng khách nội địa chiếm
phần lớn du khách đến Quảng Ninh, chứng tỏ sức hút của du lịch tỉnh đối với du khách
trong nước. Cầu nội địa cao cũng là một xu hướng đáng mừng đối với Quảng Ninh.


Quảng Ninh hội tụ rất nhiều ưu thế để hấp dẫn, thu hút khách nội địa ghé thăm và hài
lòng với cảnh quan, dịch vụ ở nơi đây. Tỉnh đang phát triển các loại hình dịch vụ thu hút
cả khách quốc tế và khách nội địa đến với địa phương như: Lên kế hoạch đầu tư xây dựng
những dự án khu nghỉ dưỡng cao cấp; Xây dựng thêm các TTTM, các khu vui chơi giải
trí trong nhà và ngoài trời; Các rạp chiếu phim, khu mua sắm, khu ẩm thực… Ngành du
lịch Quảng Ninh không ngừng xây dựng sản phẩm du lịch mới, cộng với những tiềm
năng, thế mạnh sẵn có về du lịch biển đảo, phát triển các tiện nghi, cơ sở dịch vụ, các
khách sạn, khu vui chơi giải trí, các tiện ích khác, chúng vừa thu hút được khách du lịch
tới đây, vừa góp phần làm cho người dân địa phương thích nghỉ ngơi tại chính địa phương
mình.

 Việc khuyến khích nhu cầu nội địa sẽ làm tăng nhu cầu tiêu dùng của người dân trong
nước. Người dân Quảng Ninh nói riêng và Việt Nam nói chung sẽ đi du lịch trong nước
thay vì ra nước ngoài, giúp giảm đáng kể lượng khách đi du lịch outbout, hạn chế sự thất
thoát nội tệ và giảm thâm hụt cán cân thương mại quốc gia.



ĐÁNH GIÁ VỀ TÁC ĐỘNG KINH TẾ CỦA DU LỊCH ĐỐI VỚI TỈNH
QUẢNG NINH
Những lợi ích về kinh tế của du lịch đối với tỉnh Quảng Ninh là không thể phủ nhận.
Tuy nhiên, ngoài những lợi ích kinh tế nêu trên, tác động kinh tế của du lịch cũng gây ra
một số ảnh hưởng tiêu cực đối với tỉnh Quảng Ninh.
III.

1. Tiền tệ tiêu hao từ khu vực này sang khu vực khác do du lịch:
Quảng Ninh được biết đến là một trong những tỉnh có định hướng phát triển du lịch
sớm nhất cả nước. Cho đến nay, ngành du lịch của tỉnh cũng đã đạt được những thành
công nhất định, trở thành một trong những trung tâm du lịch nổi tiếng của nước ta. Khi
ngành du lịch Quảng Ninh nói riêng và ngành du lịch Việt Nam nói chung phát triển, thì
các hoạt động du lịch nội địa, inbound và outbound cũng sẽ phát triển theo.
Du lịch phát triển kéo theo sự tăng trưởng của tour outbound. Trong những năm gần
đây, do sự phát triển về kinh tế nên thu nhập của người dân cũng được cải thiện và nâng
cao hơn, nên số người dân Việt Nam (trong đó có Quảng Ninh) đi du lịch nước ngoài
cũng tăng dần. Khi đi du lịch, du khách đã đem đồng tiền do mình tạo ra tới địa phương
khác để chi tiêu, khiến cho tiền tệ tiêu hao từ quốc gia này sang quốc gia khác. Mỗi năm
có khoảng 4-5 triệu lượt du khách Việt Nam đi du lịch nước ngoài và con số này vẫn
không ngừng tăng lên theo từng năm. Thống kê của ngành du lịch cho thấy, trung bình
một du khách phải chi cho mỗi chuyến hành trình xuất ngoại của mình vào khoảng 1.000
USD. Điều này cũng đồng nghĩa với việc mỗi năm có khoảng 5 tỷ USD được đem ra
nước ngoài thông qua du lịch, số tiền này tương đương với kim ngạch xuất khẩu gỗ và đồ
gỗ của Việt Nam trong năm 2013. Việc tiền tệ bị tiêu hao sang các khu vực khác gây ra
khó khăn trong việc xác định tổng thu từ ngành du lịch của tỉnh Quảng Ninh, đồng thời
làm thâm hụt một khoản tiền không nhỏ đóng góp vào GDP của tỉnh.

2. Giá cả sinh hoạt tăng tại các khu du lịch, khó kiểm soát:
Ở Quảng Ninh có nhiều địa điểm hấp dẫn du lịch, tiêu biểu như: Hạ Long, Móng Cái,
Vân Đồn, Uông Bí… Việc tập trung phát triển loại hình du lịch biển ở Quảng Ninh đã

khiến cho giá cả sinh hoạt ở các khu du lịch này leo thang khó kiểm soát, nhất vào những
tháng cao điểm trong mùa du lịch, gây trở ngại cho công tác kiểm tra, bình ổn giá sinh
hoạt và phát triển du lịch ở tỉnh Quảng Ninh.
Lợi dụng thời gian cao điểm trong mùa du lịch, nhiều người dân nơi đây đã cố gắng
đẩy mạnh mức giá các loại mặt hàng, bao gồm giá các loại quà lưu niệm du lịch cho đến
những mặt hàng sinh hoạt, nhằm thu lợi nhuận cá nhân.
Bãi Cháy (Quảng Ninh) từng có thời kỳ bị gọi chệch đi một cách mỉa mai là... “Bãi
chém” do hiện tượng ép giá, ép khách diễn ra quá nhiều. Nhiều du khách đến đây cho biết
họ đã bị ép giá, chịu nhiều dịch vụ với giá cao ngất ngưởng, nhất là tại khu vực bãi tắm.
Có không ít trường hợp du khách đã phải trả từ 60.000-80.000 đồng cho một quả dừa
(thông thường giá chỉ khoảng 20.000 đồng), 200.000 đồng cho một con mực cỡ vừa (loại
chục con một kg) trong khi giá ngoài thị trường chỉ khoảng 600.000 đồng/kg. Thậm chí,
một số du khách đã phải thanh toán 70.000 đồng cho một lon nước tăng lực Redbull, phải
trả từ 40.000 - 50.000 đồng cho một cốc trà đá, cao gấp 10 lần so với giá thông thường…


Nhiều quầy dịch vụ ở khu bãi tắm Hoàng Gia không công khai các bảng niêm yết giá các
loại dịch vụ, đồ uống. Và đây chính là “cái bẫy” khiến cho du khách nào có tính chủ quan,
cứ mua hàng mà không hỏi giá trước sẽ bị “sập”.
Dịp nghỉ lễ 30/4, 1/5 vừa qua, lượng người dân và du khách đổ về Khu du lịch Bãi
Cháy (Hạ Long) tăng cao, lợi dụng cơ hội này, tình trạng "chặt chém" giá gửi xe lại tái
diễn. Tại đây, các bãi trông giữ xe tự phát mọc lên như nấm, chủ phương tiện phải trả giá
vé cao gấp 5 đến 10 lần so với quy định của nhà nước, gây bức xúc cho du khách. Dọc vỉa
hè, lòng đường gần khu vực Bãi tắm Hạ Long có đến hàng nghìn ô tô, xe máy đỗ la liệt
trong các bãi gửi xe tự phát, không hề có bảng niêm yết giá. Xe máy gửi tại đây phải trả
phí từ 30.000đ/xe, giá gửi xe ôtô 5 chỗ là 100.000đ/xe, các xe ôtô từ 24 chỗ trở lên được
thu với giá 200.000đ/xe. Thậm chí du khách chỉ đỗ xe bên lề đường, đúng vạch quy định
của bộ giao thông, vẫn bị người của các bãi giữ xe này gõ cửa đòi thu phí. Mỗi ngày các
điểm trông giữ xe tại đây thu về với số tiền hàng trăm triệu đồng, thế nhưng người trông
giữ xe không phải nộp bất kỳ khoản thuế nào vào ngân sách Nhà Nước. Hơn nữa, vỉa hè,

lòng đường bị chiếm dụng làm nơi trông xe thu phí tự phát là nguyên nhân khiến cho
tuyến đường Hạ Long ùn tắc kéo dài.

Các bãi đỗ xe tự phát thu của mỗi xe ôtô con 100.000đ/lần gửi xe tại khu du lịch Bãi
Cháy – Hạ Long (Nguồn: />Cơ hội việc làm của ngành không ổn định:
Du lịch là ngành mang tính thời vụ nên công việc trong ngành thường thời vụ, theo
ca. Tuy hàng năm du lịch tạo ra hàng ngàn việc làm cho lao động trong và ngoài tỉnh, tuy
nhiên so với số lượng các công ty du lịch, lữ hành, các khách sạn, nhà nghỉ… của Quảng
Ninh thì con số đó vẫn chưa thực sự nhiều. Trên thực tế, với những người lao động có
3.


trình độ chuyên môn cao, họ có thể có nhiều cơ hội việc làm ổn định hơn (Ví dụ như: làm
quản lý khách sạn, bếp trưởng, hướng dẫn viên...); Đối với những công việc lao động
chân tay, không đòi hỏi trình độ chuyên môn cao (nhân viên chạy bàn, phục vụ phòng,
phụ bếp, …) thì công việc mang tính thời vụ cao, không ổn định, vì với những công việc
chân tay vào thời kỳ chính vụ thì cầu có thể nhiều, nhưng vào trái vụ lượng khách giảm
mạnh, cơ hội việc làm ít đi, thậm chí là không có việc làm, để đảm bảo thu nhập người
lao động buộc phải đi tìm những công việc khác để có thêm thu nhập.
Mặt khác do cơ hội thăng tiến của nhân viên trong ngành còn chậm, chế độ đãi ngộ
nhân viên không hợp lí, lương không cao cũng là lí do mà người lao động sẵn sàng đổi
sang các loại công việc khác. Tại Quảng Ninh, có rất nhiều các khách sạn, nhà hàng cao
cấp như khách sạn Vườn Đào, khách sạn Heritage Hạ Long… nơi có rất nhiều cơ hội việc
làm, xong nó lại có một hạn chế đó là lao động địa phương thường chỉ được tuyển dụng
vào những vị trí thấp còn các vị trí cao như chủ các doanh nghiệp, các khách sạn cao cấp
thì hầu hết đều là những người có trình độ cao và là người nước ngoài đảm nhiệm nên
hầu như phần lớn nhân viên sẽ rời khỏi ngành với chức danh và vị trí gần như khi họ vào..
bởi họ nghĩ dù họ có cố gắng đến đâu thì những vị trí cao cũng không đến với họ.
Thực tế, năm 2013, dân số tỉnh Quảng Ninh ước khoảng 1.185.200 người; có
760.475 người ở độ tuổi lao động, chiếm 64,16% dân số, trong đó 54% có việc làm ổn

định; lực lượng lao động tham gia hoạt động kinh tế gần 673 ngàn người nhưng số lao
động có việc làm chỉ khoảng gần 650 ngàn người, có nghĩa là số lao động thiếu việc làm,
trong đó có cả lao động của ngành du lịch, vẫn còn hàng chục ngàn người.
4. Một số tồn tại khác:
4.1 Ngân sách nhà nước có thể thâm hụt nếu chi vào đầu tư du lịch không hiệu quả,

không đúng mục đích:
Tại phiên họp thường niên của Ủy ban Thường vụ Quốc hội ngày 11/10/2013, khi
bàn về những lo lắng trong thu chi NSNN, Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Sinh Hùng đã nói
“Đầu tư không hiệu quả lấy đâu ra thu ngân sách?”. Ông cho rằng nhìn vào thu ngân sách
lúc bấy giờ (năm 2013) có thể thấy được hiệu quả đầu tư trong nền kinh tế và ngân sách
từ lúc đó đến năm 2015 có thể mất cân đối, cụ thể là hụt thu ngân sách. Nguyên nhân là
do lãng phí, thất thoát, trong đầu tư công, đầu tư của doanh nghiệp của toàn xã hội.
Thực tế, năm 2014 trong khi một số địa phương chấp hành nghiêm túc chỉ đạo của
Thủ tướng Chính phủ về việc hạn chế khởi công mới các dự án đầu tư, tránh thất thoát và
lãng phí NSNN, thì Quảng Ninh lại có tới quá nửa dự án đang triển khai là dự án khởi
công mới (có 262 dự án khởi công mới/416 dự án, chiếm 62,98%).
Tỉnh đã và đang triển khai thực hiện nhiều chính sách đầu tư phát triển cơ sở hạ
tầng, cơ sở vật chất kỹ thuật, nhằm có được những tiện nghi đầy đủ để có thể thu hút
khách du lịch bốn phương. Theo báo cáo của Kho bạc nhà nước tỉnh Quảng Ninh, tổng


chi NSNN cho đầu tư phát triển năm 2014 là 5.132 tỷ đồng. Nếu số tiền này không được
đầu tư đúng đắn, hợp lý, rất có thể gây thất thoát, lãng phí hàng tỷ đồng cho nhà nước.
4.2 Đất đai trở nên khan hiếm và đắt đỏ do quy hoạch du lịch

Quy hoạch là điều rất cần thiết để phát triển du lịch. Tuy nhiên, quy hoạch không triệt
để, không có những dự báo từ trước mà quy hoạch tới đâu thực hiện tới đó lại là một
trong những nguyên nhân khiến đất đai trở nên khan hiếm và đắt đỏ.
Vân Đồn là một huyện đảo thuộc tỉnh Quảng Ninh. Trước đây, giao thông đi lại tới

đây khá khó khăn, người dân phải dùng phà để di chuyển đi lại giữa Vân Đồn và các
huyện khác của tỉnh và cả nước. Giá đất ở Vân Đồn trước năm 2009 cũng tương đối rẻ so
với mặt bằng giá đất chung tại Quảng Ninh. Sau đó, Vân Đồn được Thủ tướng Chính Phủ
phê duyệt Đề án phát triển kinh tế - xã hội Khu kinh tế Vân Đồn, với các khu chức năng
được phân rõ ràng như: khu du lịch, khu trung tâm thương mại và tài chính quốc tế, khu
công nghiệp sạch… Theo Đề án đã được Thủ tướng phê duyệt thì tới năm 2020 Vân Đồn
sẽ trở thành một trong các khu kinh tế trọng điểm của Bắc Bộ và cả nước, khai thác tiềm
năng thế mạnh của vùng đất này là du lịnh sinh thái biển đảo và nuôi trồng thuỷ sản.
Chính vì vậy mà ngay sau đó, hàng loạt các nhà đầu tư trong và ngoài nước đã đến đầu tư
và tìm kiếm cơ hội làm ăn ở Vân Đồn, khiến giá đất tại đây đã có mức tăng cao rõ rệt.
4.3 Các công trình du lịch được phát triển có thể gây mâu thuẫn và tranh chấp với các

mục tiêu sử dụng khác:
Quảng Ninh là tỉnh duy nhất có cả đường biên giới trên bộ và trên biển với Trung
Quốc, trong giai đoạn tình hình chính trị giữa Việt Nam và Trung Quốc đang căng thẳng
thì vấn đề an ninh quốc gia tại biên giới là một trong những vấn đề rất quan trọng. Tại
Thành phố Móng Cái, Cụm Thông tin cổ động biên giới Sa Vĩ đã trở thành 1 điểm đến du
lịch văn hóa hấp dẫn không thể thiếu trong hành trình khám phá Móng Cái của đông đảo
du khách. Cụm Thông tin cổ động biên giới Sa Vĩ là công trình chào mừng 50 năm thành
lập tỉnh Quảng Ninh do Sở Văn hóa Thể thao và Du lịch làm chủ đầu tư và đã được bàn
giao cho TP Móng Cái vào cuối năm 2013. Qua đó, du khách bốn phương đã tìm đến đây
để tham quan như một địa điểm khám phá và tìm hiểu những nét văn hóa người Việt.
Nhưng đây cũng là một công trình quốc gia nằm sát trên biên giới, vì vậy, nếu không có
sự quy hoạch và quản lý chặt chẽ của Bộ VHTT&DL thì rất dễ có nguy cơ gây mâu thuẫn
về mục đích sử dụng (như quân sự, an ninh quốc gia…).


ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN CÁC LỢI ÍCH VỀ KINH TẾ
CỦA DU LỊCH ĐỐI VỚI TỈNH QUẢNG NINH
1. Định hướng và giải pháp khắc phục một số hạn chế về kinh tế của du lịch đối

với tỉnh Quảng Ninh.
1.1 Đối với vấn đề tiền tệ tiêu hao từ khu vực này sang khu vực khác do du lịch:
Nguyên nhân chính là do người dân đi du lịch nước ngoài ngày càng nhiều, nên để
khắc phục vấn đề này, nhà nước cần buộc người dân ở nhà trong các kỳ nghỉ, hạn chế về
thời gian đi cũng như hạn chế về số lượng tiền người đi du lịch có thể mang ra khỏi đất
nước hoặc áp dụng thị thực nhập cảnh (visa) hoặc giấy phép cho người đi du lịch nước
ngoài.
IV.

Về việc hạn chế lượng tiền người du lịch có thể mang khỏi đất nước, Việt Nam có thể
vận dụng kinh nghiệm từ Thái Lan: Thái Lan không hạn chế lượng ngoại tệ mang từ nước
ngoài vào. Du khách cũng có thể đem ngoại tệ ra khỏi Thái Lan, nhưng không được nhiều
hơn số lượng đã kê khai trong tờ khai hải quan khi nhập cảnh. Mỗi du khách rời Thái Lan
không được phép mang quá 50.000 baht tiền Thái Lan.
Bên cạnh việc hạn chế người dân đi du lịch quốc tế, Quảng Ninh cần thực hiện các
biện pháp kích cầu nội địa để tăng nhu cầu du lịch trong nước, giảm lượng khách đi du
lịch nước ngoài (Sẽ phân tích thêm ở phần 2.6 – IV)
1.2 Đối với vấn đề giá cả sinh hoạt tăng tại các khu du lịch, khó kiểm soát:

Đây là vấn đề nổi cộm nói chung của ngành du lịch Việt Nam. Đối với ngành du lịch
Việt Nam nói chung, trước thực trạng này, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch phối hợp với
các cơ quan chức năng thuộc các Bộ, ngành hữu quan như Bộ Công an, Bộ Công Thương,
Bộ Giao thông Vận tải... thống nhất đề xuất kế hoạch hành động liên ngành trong công tác
xử lý, giải quyết các vụ việc, hiện tượng trên, chỉ đạo các đơn vị chức năng ngành dọc tại
các địa phương triển khai thực hiện

• Hiệp hội Du lịch Việt Nam chuẩn bị các biện pháp chấn chỉnh tình trạng lộn xộn, triển
khai ký kết giữa các doanh nghiệp cam kết không vi phạm để đảm bảo chất lượng dịch vụ
du lịch, có các hình thức phổ biến thông tin quảng bá, khuyến khích các cơ sở có chất
lượng dịch vụ tốt. Thanh tra Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch thành lập đoàn kiểm tra liên

ngành để nắm bắt diễn biến thực tiễn các hoạt động dịch vụ du lịch đề xuất các biện pháp
hợp lý.
• Tại các trung tâm du trên cả nước, ngành Du lịch địa phương đều phối hợp với chính
quyền địa phương, Công an và các ngành hữu quan khác đã thường xuyên triển khai lực
lượng tại các điểm du lịch lúc cao điểm nên phần nào các hiện tượng như cò mồi, bán
hàng rong đã có phần giảm. Các Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch các địa phương trong
thời gian qua đã cố gắng triển khai các công tác bình ổn giá cả dịch vụ du lịch trên địa
bàn, đặc biệt trong các dịp lễ, tết và mùa du lịch cao điểm.


Về phía Quảng Ninh, Sở Văn hóa Thể thao & Du lịch tỉnh đã đưa ra các danh mục
hàng hóa, dịch vụ thực hiện bình ổn giá trên địa bàn. Ví dụ như: Dịch vụ cho thuê phòng
tại các cơ sở lưu trú du lịch; Dịch vụ chụp ảnh; Dịch vụ xe điện, xe xích lô, cho thuê xe
đạp đôi; Dịch vụ cho thuê ghế lưới ngồi trên bãi biển; Dịch vụ cho thuê phao bơi, áo tắm,
tắm nước ngọt; Dịch vụ vui chơi giải trí: Xe tàu lượn cao tốc, xe điện đụng, nhà phao hơi
nhún, xe điện lượn siêu nhân… Trên cơ sở các danh mục hàng hoá trong diện bình ổn
trên, UBND Tỉnh giao trách nhiệm cho các cơ quan địa phương có trách nhiệm tuyên
truyền, hướng dẫn, kiểm tra các tổ chức, cá nhân kinh doanh thực hiện đăng ký giá, niêm
yết giá và bán theo giá niêm yết. Đối với hàng hoá, dịch vụ không thuộc danh mục hàng
hoá dịch vụ bình ổn giá, cơ quan địa phương có trách nhiệm chỉ đạo niêm yết theo giá do
tổ chức, cá nhân sản xuất, kinh doanh quyết định và không được mua, bán cao hơn giá
niêm yết.
Ông Đoàn Mạnh Linh, Trưởng Phòng Nghiệp vụ (Sở Văn hóa Thể thao & Du lịch
Quảng Ninh), cho biết trong bốn ngày nghỉ lễ từ 28/4-1/5 vừa qua, lượng khách du lịch
lưu trú ở Quảng Ninh tăng mạnh, khoảng 130.000 lượt người. Để hạn chế tình trạng ép
giá khách du lịch, Sở VHTT&DL tỉnh đã yêu cầu các đơn vị, doanh nghiệp thực hiện
đúng Kế hoạch bình ổn giá thị trường, yêu cầu thực hiện đăng ký giá, niêm yết giá và bán
theo giá niêm yết. Vì vậy, trong dịp nghỉ lễ vừa qua, giá thuê phòng, giá dịch vụ của các
nhà hàng, khách sạn và các dịch vụ liên quan đều được niêm yết công khai, cơ bản giá
được giữ ổn định.

Mới đây, tại khu du lịch Bãi Cháy xuất hiện tình trạng các dịch vụ trông xe tự phát với
giá cao khiến du khách bất bình. Ngay ngày 1/5, Chủ tịch Ủy ban Nhân dân tỉnh Quảng
Ninh Nguyễn Đức Long đã có công điện chỉ đạo Ủy ban Nhân dân thành phố Hạ Long
tiến hành kiểm tra, rà soát và xử lý nghiêm các trường hợp tăng giá dịch vụ dịp nghỉ lễ.
Theo chỉ đạo, thành phố Hạ Long tổ chức hai đoàn kiểm tra, chấn chỉnh, đến chiều ngày
1/5 đã dẹp bỏ tình trạng trên.
1.3 Đối với vấn đề cơ hội việc làm của ngành không ổn định:

Để cơ hội việc làm trong ngành được ổn định hơn, cần đào tạo chuyên sâu, bài bản
cho lực lượng lao động trong ngành, góp phần tăng cơ hội việc làm, đồng thời tăng chất
lượng dịch vụ du lịch, giúp kéo dài thời gian du lịch của du khách và làm giảm tính thời
vụ của ngành.
Theo số liệu thống kê của Sở Văn hoá, Thể thao và Du lịch Quảng Ninh, trong 3 năm
trở lại đây, ngành Du lịch tỉnh đã phối hợp với các cơ sở đào tạo có uy tín đẩy mạnh đào
tạo, đào tạo lại, bồi dưỡng cho 61 khoá học với tổng số gần 5 ngàn nhân lực của ngành
theo nhiều hình thức khác nhau, như đào tạo chuyên sâu, bồi dưỡng, nâng cao… Trong
các chương trình đào tạo, ngành Du lịch đã chú trọng đào tạo kỹ năng giao tiếp, ứng xử
văn hoá trong du lịch.


Giờ thực hành Nghiệp vụ bàn của sinh viên trường Cao đẳng Văn hóa Nghệ thuật và
Du lịch Hạ Long
Năm 2012 ngành Du lịch Quảng Ninh đã ký Biên bản hợp tác phát triển du lịch với
dự án EU của Liên minh châu Âu để hỗ trợ xây dựng Điều khoản tham chiếu cho chuyên
gia quy hoạch tổng thể phát triển Du lịch Quảng Ninh đến 2020, tầm nhìn 2030; hỗ trợ
chương trình tổng thể quản lý điểm đến; chương trình đào tạo nhân lực du lịch. Chỉ tính
riêng trong năm 2013, ngành Du lịch phối hợp với chuyên gia dự án EU mở 14 lớp đào
tạo cho 1.014 cán bộ quản lý, thuyết minh viên du lịch và cộng đồng tham gia hoạt động
du lịch tiêu chuẩn quốc tế. Ngoài ra, Dự án EU còn phối hợp với ngành Du lịch xây dựng
bộ tiêu chuẩn nghề “Phục vụ tàu du lịch” dành cho nhân lực phục vụ tàu du lịch trên Vịnh

Hạ Long. Sau khi bộ tiêu chuẩn nghề này hoàn thành sẽ được Tổng cục Du lịch chính
thức phê duyệt và áp dụng đào tạo thí điểm tại khu vực Hạ Long.
Ngày 30-9-2014, Quảng Ninh đã thông qua Quy hoạch phát triển nhân lực đến năm
2020, tầm nhìn đến năm 2030, trong đó mục tiêu chung là xây dựng đội ngũ nhân lực tỉnh
Quảng Ninh có quy mô, cơ cấu, chất lượng cao đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội
trong điều kiện hội nhập và phát triển mạnh mẽ trong giai đoạn từ năm 2020 và 2030. Với
mục tiêu giảm tỷ lệ thất nghiệp, tạo việc làm ổn định cho lao động trong tỉnh, vào tháng
10 năm 2014, UBND tỉnh Quảng Ninh cũng đã ban hành Đề án Đào tạo, bồi dưỡng, phát
triển toàn diện và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực tỉnh Quảng Ninh tầm nhìn đến
năm 2020. Nghị quyết số 15-NQ/TU ngày 09-6-2014 của Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh về
Đẩy mạnh cải cách hành chính và phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao tỉnh Quảng


Ninh đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030 cũng xác định mục tiêu: phát triển nguồn
nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao là một khâu đột phá quyết định nhằm
thực hiện đổi mới mô hình tăng trưởng, chuyển đổi phương thức phát triển từ “nâu” sang
“xanh”, trong đó nhân lực trong lĩnh vực dịch vụ du lịch - ngành kinh tế mũi nhọn của
tỉnh, đóng vai trò vô cùng quan trọng. Quảng Ninh cũng xác định ưu tiên đào tạo, phát
triển nguồn nhân lực tại chỗ, chú trọng nhân lực trình độ cao, cán bộ quản lý, kinh doanh
giỏi, nhân viên giỏi,… góp phần nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế. Trong năm
2014, Quảng Ninh cũng là một trong các tỉnh, thành có chỉ số sử dụng lao động trong các
doanh nghiệp tăng so với cùng thời điểm năm 2013.
1.4 Đối với một số vấn đề tồn tại khác:


Đối với vấn đề ngân sách nhà nước có thể thâm hụt nếu chi vào đầu tư du lịch không hiệu
quả:
Nhằm tránh lãng phí, thất thoát NSNN trong đầu tư phát triển nói chung và đầu tư
vào du lịch nói riêng, ngày 14/1/2015, UBND tỉnh Quảng Ninh đã phát động chương trình
“Thực hành tiết kiệm, chống lãng phí 2015”. Theo đó, chương trình được phát động với

mục tiêu: Ngăn chặn và giảm thiểu tối đa lãng phí, đẩy lùi tham nhũng trong việc quản lý,
sử dụng NSNN, vốn, tài sản nhà nước…; Quản lý, khai thác tài nguyên hợp lý, hiệu
quả…; Nâng cao ý thức về thực hành tiết kiệm, chống lãng phí của các cấp, ngành, cơ
quan chức năng, đơn vị tổ chức, cán bộ, CCVC và người lao động…
Bên cạnh đó, tỉnh còn thực hiện nghiêm túc chương trình giám sát công tác thực hiện
Luật Quản lý, sử dụng tài sản nhà nước. Chiều ngày 15/4/2015, Đoàn giám sát Ban Kinh
tế - Ngân sách HĐND tỉnh do đồng chí Vũ Ngọc Giao, Ủy viên BTV Tỉnh ủy, Trưởng
Ban Kinh tế - Ngân sách HĐND tỉnh làm Trưởng đoàn đã có buổi làm việc với Sở Văn
hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh Quảng Ninh, nhằm kiểm tra hình hình sử dụng sản sản nhà
nước, trong đó có vốn đầu tư cho du lịch từ NSNN, yêu cầu các đơn vị sự nghiệp được
giao quản lý, sử dụng tài sản nhà nước cần sử dụng đúng mục đích, tiết kiệm, chống thất
thoát, lãng phí.
• Đối với vấn đề đất đai trở nên khan hiếm và đắt đỏ do quy hoạch du lịch:
Quy hoạch du lịch là một trong những việc làm quan trọng để có thể phát triển điểm
đến du lịch. Tuy nhiên để tránh vấn đề đất đai trở nên khan hiếm và đắt đỏ do quy hoạch,
quy hoạch du lịch cần có tính dài hạn và chiến lược, tầm nhìn từ 10, 15 đến 20 năm, tránh
quy hoạch đến đâu thực hiện ngay đến đó. Đồng thời, Quảng Ninh cũng cần ban hành
những quyết định về mức giá đất chung tại các huyện, xã, yêu cầu các cá nhân, tổ chức
nghiêm túc chấp hành.
2. Định hướng và giải pháp phát triển các lợi ích về kinh tế của du lịch đối với

tỉnh Quảng Ninh.
2.1 Đối với vấn đề cải thiện cán cân thương mại quốc gia:
Lợi ích này chỉ có thể có được với điều kiện có một số lượng đáng kể du khách quốc tế
đến và mang theo ngoại tệ, lượng ngoại tệ thu được không bị rò rỉ khỏi nền kinh tế đồng


thời các du khách quốc tế đến chi tiêu nhiều hơn công dân nước ta đi du lịch nước ngoài.
Do đó, để duy trì và phát triển lợi ích này, cần phải:
• Giảm thiểu lượng khách nội địa đi du lịch nước ngoài (Đã phân tích trong mục 1.1 – IV).

• Thu hút khách quốc tế đến với Quảng Ninh:
- Xúc tiến, quảng bá, xây dựng hình ảnh ngành du lịch Quảng Ninh:
Thời gian qua, cùng với việc đầu tư nâng cấp cơ sở vật chất các khách sạn, phòng
nghỉ, Quảng Ninh đã thường xuyên tổ chức các sự kiện và duy trì đều đặn hoạt động của
các loại hình vui chơi giải trí như khu ẩm thực, câu lạc bộ biểu diễn cá heo, sư tử biển để
thu hút du khách; tham gia nhiều hội chợ trong nước và quốc tế như tại Seoul (Hàn
Quốc), Nhật, Nga… nhằm kích cầu du lịch trong và ngoài nước.
Nhằm triển khai một số giải pháp thu hút khách du lịch, từng bước chuyển dịch thị
trường khách, tích cực khai thác các thị trường mới, thời gian qua, ngành du lịch Quảng
Ninh đã phối hợp chặt chẽ với các doanh nghiệp tăng cường công tác tuyên truyền quảng
bá điểm đến, chăm sóc tốt các thị trường truyền thống hiện có, đồng thời thực hiện mở
rộng thị trường mới sang Nga, Tây Âu, Bắc Mỹ, Ấn Độ và Trung Đông. Đồng thời kêu
gọi các doanh nghiệp tích cực tham gia vào chương trình kích cầu du lịch, thúc đẩy kết
nối các điểm, khu du lịch; xây dựng liên kết các đơn vị cung cấp dịch vụ, các chương
trình quảng bá, khuyến mãi để chào bán sản phẩm; tạo mối liên kết với các hãng hàng
không, các gói giảm giá cước cho khách.
Trong tháng 6 và tháng 7 năm 2014, ngành du lịch Quảng Ninh đã triển khai chương
trình tiếp thị, quảng bá, tham gia các hội chợ du lịch tại các thị trường Hàn Quốc, Nhật
Bản, Đài Loan, Hồng Kông, Malaysia và tham gia chương trình xúc tiến thị trường Nga
do Tổng Cục Du lịch tổ chức. Ngoài ra, một số đoàn doanh nghiệp lữ hành Thái Lan,
Nga… và các đoàn famtrip đã đến khảo sát, quảng bá hình ảnh du lịch của Quảng Ninh
thông qua các sản phẩm du lịch của tỉnh nhằm khẳng định Quảng Ninh là “Điểm đến an
toàn, thân thiện và hấp dẫn”.
Trong những tháng đầu năm 2015, ngành du lịch tỉnh cũng đẩy mạnh công tác quảng
bá, xúc tiến du lịch, hợp tác quốc tế và phát triển sản phẩm du lịch với các hình thức
phong phú, đạt hiệu quả cao, thông qua việc tham gia hội chợ, các chương trình famtrip...
Trong đó phải kể đến một số hoạt động quảng bá, xúc tiến diễn ra trong tháng 3, ngành du
lịch đã gửi các ấn phẩm tài liệu quảng bá du lịch tham gia Ngày hội văn hoá “Sắc màu
Việt Nam” do Hội Sinh viên Việt Nam tại Trường Đại học Luân Đôn, Vương Quốc Anh
và Bắc Ai-len tổ chức. Và gần đây nhất là từ ngày 26 đến 29-3, ngành du lịch cùng với

các doanh nghiệp du lịch của tỉnh đã tham gia quảng bá, xúc tiến điểm đến du lịch tại
Ngày hội Du lịch TP Hồ Chí Minh 2015. Tại Ngày hội Du lịch lần này, ngoài tham gia
gian hàng giới thiệu, quảng bá di sản kỳ quan thiên nhiên thế giới Vịnh Hạ Long, du lịch
Quảng Ninh giới thiệu đến bạn bè, du khách và các hãng lữ hành trong và ngoài nước biết
đến các tour tuyến, điểm đến du lịch của Quảng Ninh. Trong thời gian diễn ra hội chợ,
gian hàng du lịch của Quảng Ninh đã thu hút một lượng khách lớn đến tham quan và mua


tour. Nhiều doanh nghiệp du lịch của Quảng Ninh đã ký kết được các hợp đồng lớn với
đối tác.
- Có những chính sách ưu đãi nhằm thu hút khách nước ngoài:
Ví dụ như: Ngày 29/12/2014, Chính phủ đã ban hành Nghị quyết số 99/NQ-CP về việc
miễn thị thực có thời hạn đối với công dân các nước: Liên bang Nga, Nhật Bản, Đại Hàn
Dân Quốc, Vương quốc Đan Mạch, Vương quốc Na Uy, Vương quốc Thụy Điển và Cộng
hòa Phần Lan. Theo đó, Việt Nam sẽ miễn thị thực cho công dân 7 nước kể trên với thời
hạn tạm trú tại Việt Nam không quá 15 ngày kể từ ngày nhập cảnh, không phân biệt loại
hộ chiếu, mục đích nhập cảnh, trên cơ sở đáp ứng đủ các điều kiện theo quy định của
pháp luật Việt Nam. Chính sách trên sẽ chính thức được áp dụng từ ngày 1/1/2015, và
thực hiện trong vòng 5 năm (đến hết ngày 31/12/2019) để tiếp tục xem xét, gia hạn theo
quy định của pháp luật Việt Nam.
2.2 Đối với vấn đề tạo nhiều cơ hội việc làm mới:

Các giải pháp nhằm tạo thêm nhiều cơ hội việc làm mới trong ngành chính là các giải
pháp giúp tăng tính ổn định trong cơ hội việc làm của ngành (Đã phân tích ở mục 1.3 –
IV)
2.3 Đối với vấn đề quảng bá cho sản xuất địa phương:
Trong thời gian qua, tỉnh Quảng Ninh đã rất tích cực tổ chức các chiến dịch quảng bá,
tổ chức các ngày hội giới thiệu hàng hóa, sản phẩm của địa phương tới du khách, góp
phần quảng bá cho sản xuất địa phương và khôi phục lại một số nghề thủ công đang dần
bị mai một.

Từ ngày 12/4 đến 20/4/2014, tại Cung văn hóa thiếu nhi Quảng Ninh, phường Bạch
Đằng, TP Hạ Long đã diễn ra “Ngày hội văn hóa Quảng bá thương hiệu đặc sản vùng
miền”, nhằm mục đích lưu trữ, tôn vinh bản sắc văn hóa dân tộc trong quá trình đầu tư hội
nhập và phát triển của đất nước, đồng thời quảng bá các đặc sản của địa phương tới du
khách. Ngày hội quy tụ từ 120 đến 180 gian hàng trong và ngoài nước thuộc các thành
phần kinh tế, bao gồm: Khu triển lãm hoa và cây cảnh; Khu ẩm thực du lịch và Khu
doanh nghiệp.
Ngày 5/7/2014, “Khu phố ẩm thực đêm Hạ Long” đã được khai trương ở phố Bến
Đoan, phường Hồng Gai, TP Hạ Long. Đây hứa hẹn trở thành điểm đến lý tưởng cho các
du khách khi tới Hạ Long, đồng thời góp phần quảng bá và nâng tầm thương hiệu ẩm thực
của tỉnh Quảng Ninh. Phố ẩm thực Hạ Long có diện tích hơn 11.000 m2, kinh doanh các
thực phẩm đặc trưng của Quảng Ninh như: xôi chả mực, bánh cuốn chả mực, mực Cô
Tô... nhằm quảng bá, giới thiệu các món đặc sản của địa phương tới du khách.
Sáng 3/12/2014, Thành phố Uông Bí là địa phương đầu tiên của tỉnh Quảng Ninh tổ
chức “Hội nghị bàn các giải pháp phát triển hàng hóa, sản phẩm lưu niệm phục vụ khách
du lịch”. Hiện Uông Bí có tương đối đủ chủng loại nhóm hàng hoá phục vụ khách du lịch,


như nhóm hàng thủ công mỹ nghệ; nhóm đồ uống; nhóm thảo dược; nhóm bánh kẹo;
nhóm nông sản và nhóm băng đĩa xuất bản ấn phẩm. Trong đó một số sản phẩm khách du
lịch ưa chuộng như tranh sơn mài; tượng phật, tranh phong cảnh... bằng chất liệu gỗ; huy
hiệu Phật hoàng, Chùa Đồng, 12 con giáp, chuông gió, khánh bằng đồ đồng; quần áo,
khăn... bằng vải thổ cẩm; một số sản phẩm thuộc nhóm đồ uống như: Rượu mơ Yên Tử,
rượu ba kích, rượu ngâm các loại cây thảo dược. Một số hàng hoá, sản phẩm lưu niệm của
Công ty CP hệ thống Lộc Tài; Xí nghiệp bia Thăng Long; cơ sở sản xuất rượu mơ Quang
Vinh... đã được nhiều du khách lựa chọn, bước đầu tạo được thị trường tiêu thụ.

Các đại biểu tham quan sản phẩm lưu niệm của tỉnh Uông Bí tại Hội nghị
Tối 26/04/2015 vừa qua, Hội chợ “Mỗi xã phường một sản phẩm (OCOP - One
commune, one product) Quảng Ninh – 2015” đã khai mạc tại TP Hạ Long. Với chủ đề

“Thương hiệu Quảng Ninh - Hội tụ và lan toả”, Hội chợ OCOP Quảng Ninh năm 2015
được tổ chức từ ngày 26-4 đến 2-5, có sự tham gia 200 gian hàng của trên 100 doanh
nghiệp trong và ngoài tỉnh. Trong đó, có 50 gian hàng của các doanh nghiệp đến từ 13
tỉnh, thành phố trong nước với các sản phẩm làng nghề truyền thống thủ công mỹ nghệ;
100 gian hàng thuộc chương trình OCOP Quảng Ninh; 50 gian hàng thương mại với các
sản phẩm tiêu biểu, uy tín trong tỉnh. Hội chợ OCOP Quảng Ninh 2015 là cơ hội để thúc
đẩy sản xuất phát triển, tạo tiền đề cho ngành dịch vụ du lịch; cung cấp cho thị trường
những sản phẩm đặc sản truyền thống, sản phẩm xây dựng thương hiệu, góp phần quảng
bá những sản phẩm truyền thống của tỉnh tới du khách; tăng thu nhập cho người nông
dân; nâng cao nhận thức của người sản xuất và người tiêu dùng....


×