1
1
MỞ ĐẦU
1.Tính cấp thiết của đề tài
Việt Nam là quốc gia đa dân tộc với 54 dân tộc anh em cùng chung
sống, trong đó dân tộc Kinh là dân tộc chiếm đa số, còn lại là 53 DTTS khác.
Đồng bào DTTS chủ yếu sinh sống ở miền núi, vùng sâu, vùng xa và nơi biên
cương của Tổ quốc. Đây là nơi còn có nhiều khó khăn, địa bàn chia cắt;
nhưng lại có vị trí chiến lược hết sức quan trọng, phên dậu của đất nước.
Vấn đề dân tộc luôn được Đảng và Nhà nước ta coi là vấn đề chiến
lược, cơ bản, lâu dài của cách mạng Việt Nam. Trong tất cả các văn kiện của
Đảng từ trước đến nay luôn thể hiện nguyên tắc: “Bình đẳng, đoàn kết, tôn
trọng, giúp nhau cùng phát triển giữa các dân tộc”. Tính nguyên tắc ấy được
thể hiện nhất quán trên tất cả các phương diện chính trị, kinh tế, văn hóa, xã
hội, an ninh, quốc phòng… Đó cũng là sự thể hiện ý chí của Đảng Cộng sản
Việt Nam, của bản chất Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Để đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà
nước đi vào cuộc sống của đồng bào các DTTS, công tác tuyên truyền chính
sách dân tộc ở vùng đồng bào DTTS là hết sức quan trọng. Trong thời kỳ
mới, đất nước ta bước vào thời kỳ mở cửa, hội nhập quốc tế, vùng DTTS đã
từng bước chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng CNH, HĐH. Việc đẩy
mạnh công tác tuyên truyền nói chung, công tác tuyên truyền chính sách dân
tộc ở vùng DTTS nói riêng, đó cũng chính là một trong những nhiệm vụ công
tác tư tưởng của Đảng.
Vùng núi, vùng DTTS cùng với xu hướng phát triển chung của xã hội
cần có sự phát triển để tiến kịp miền xuôi. Do vậy Đảng, Nhà nước, các doanh
nghiệp cần có sự quan tâm hơn nữa đối với đồng bào các DTTS. Việc tăng
cường hơn nữa công tác tuyên truyền chính sách dân tộc là nhiệm vụ của toàn
Đảng, toàn dân, nhằm góp phần phát triển kinh tế, xã hội vùng đồng bào DTTS
để tiến tới đồng bào DTTS thoát nghèo có cuộc sống ấm no và phát triển.
2
2
Dựa trên quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về vấn đề dân tộc và
thực tiễn lịch sử đấu tranh cách mạng Việt Nam. Đảng và Nhà nước ta ngay từ
khi thành lập cho đến nay luôn luôn coi vấn đề dân tộc và xây dựng khối đại
đoàn kết toàn dân tộc có tầm quan trọng đặc biệt. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã
nói: Nước Việt Nam là một, dân tộc Việt Nam là một, đồng bào các dân tộc
đều là anh em ruột thịt, là con cháu một nhà, thương yêu đoàn kết giúp đỡ nhau
là nghĩa vụ thiêng liêng của các dân tộc. Người còn khẳngđịnh: Đoàn kết, đoàn
kết, đại đoàn kết. Thành công, thành công, đại thành công. Trong mỗi thời kỳ
cách mạng, Đảng và Nhà nước coi việc giải quyết đúng đắn vấn đề dân tộc là
nhiệm vụ có tính chiến lược nhằm phát huy sức mạnh tổng hợp, cũng như
tiềm năng riêng của từng dân tộc trong sự nghiệp đấu tranh giành độc lập dân
tộc và đưa đất nước quá độ lên CNXH.
Trong văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Đảng ta đã
khẳng định:
“Đoàn kết các dân tộc có vị trí chiến lược trong sự nghiệp cách
mạng của nước ta. Các dân tộc trong đại gia đình Việt Nam bình
đẳng, đoàn kết, thương yêu, tôn trọng và giúp nhau cùng tiến bộ,
thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây
dựng và bảo vệ tổ quốc vì dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công
bằng, văn minh. Nghiên cứu xây dựng các cơ chế, chính sách,
tạo chuyển biến rõ rệt trong phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội
vùng dân tộc thiểu số. Tăng cường kiểm tra, giám sát, đánh giá
kết quả thực hiện các chủ trương, chính sách dân tộc của Đảng
và nhà nước ở các cấp” [20; tr244.245].
Với quan điểm cách mạng là sáng tạo không ngừng, trong thời kỳ đổi
mới,chính sách dân tộc của Đảng ta vừa đảm bảo tính nhất quán, vừa đổi
mới trước yêu cầu phát triển và hội nhập kinh tế quốc tế nhằm phát triển
3
3
kinh tế xã hội vùng vùng núi vùng DTTS phát triển đáp ứng yêu cầu của sự
nghiệp CNH, HĐH.
Phú Thọ là tỉnh trung du miền núi, (theo kết quả điều tra ngày
01/4/2009) trên địa bàn tỉnh có 28 dân tộc, đông nhất là dân tộc Kinh chiếm
85,89% dân số của tỉnh. Dân số là người DTTS chiếm 14,11% số dân toàn
tỉnh. Trong số các DTTS dân tộc Mường chiếm 13,62%; dân tộc Dao chiếm
0,92%; dân tộc Sán Chay chiếm 0,22%; dân tộc Tày chiếm 0,15%; dân tộc
Mông chiếm 0,05%; dân tộc Thái chiếm 0,04%...
Trong những năm gần đây, công tác tuyên truyền chính sách dân tộc
có sự thay đổi cả về hình thức lẫn nội dung, các chính sách đã được tuyên
truyền rộng rãi cho đồng bào dân tộc như chính sách 135, 134, 167…đời sống
nhân dân ngày càng được nâng cao rõ rệt. Xuất phát từ đặc điểm các DTTS
thường cư trú ở những địa bàn hiểm trở, phức tạp, phong tục tập quán các dân
tộc khác nhau và còn nhiều lạc hậu, chính vì vậy mà công tác tuyên truyền hết
sức chú trọng. Qua các báo cáo cho thấy trên địa bàn tỉnh đa số các chính sách
của Đảng và Nhà nước đều được đa số quần chúng tin và làm theo, tuy nhiên
một bộ phận nhỏ bị các thế lực thù địch lôi kéo, nên luôn tìm cách chống phá
Đảng ta. Các vấn đề đó một phần do nhận thức người dân còn thấp, thiếu hiểu
biết; mặt khác công tác tuyên truyền nói chung và tuyên truyền chính sách
dân tộc nói riêng ở một số địa phương của tỉnh Phú Thọ còn chưa hiệu quả.
Sự thiếu quan tâm chỉ đạo sát sao của các cấp ủy Đảng, sự phối hợp chưa chặt
chẽ của các ngành có liên quan; đội ngũ cán bộ làm công tác tuyên truyền còn
mỏng, trình độ chưa đáp ứng yêu cầu thực tiễn, nội dung, hình thức, phương
pháp tuyên truyền chưa sâu, chưa thuyết phục và toàn diện…là những nguyên
nhân của sự yếu kém trong công tác tuyên truyền chính sách dân tộc.
Từ những vấn đề đã nêu trên nhằm giúp cho đồng bào các DTTS của
tỉnh Phú Thọ nắm được tốt hơn các chính sách Đảng trong việc tổ chức thực
4
4
hiện chính sách dân tộc của đồng bào, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần,
giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa truyền thống của dân tộc. Đây là vấn đề
rất bức thiết đối với công tác tư tưởng nói chung và công tác tuyên truyền ở
Tỉnh Phú Thọ nói riêng. Xuất phát từ thực tiễn đó, tôi chọn đề tài: “Công tác
tuyên truyền chính sách dân tộc ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số trên địa
bàn tỉnh Phú Thọ hiện nay” để làm luận văn thạc sĩ chuyên ngành công tác
tư tưởng.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Nghiên cứu về tuyên truyền và công tác tuyên truyền chính sách dân
tộc ở nước ta trong những năm gần đây có nhiều công trình nghiên cứu dưới
nhiều góc độ khác nhau, trong đó có nhiều tác giả đã đề cập đến các khía cạnh
mà đề tài này quan tâm, cụ thể tập trung vào ba nhóm vấn đề chính:
Thứ nhất, nhóm vấn đề về lý luận bao gồm các công trình
- PGS. TS Nguyễn Quốc Phẩm, GS. TS Trịnh Quốc Tuấn (1999): “Mấy
vấn đề lý luận và thực tiễn về dân tộc và quan hệ dân tộc ở Việt Nam”, nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội. Nội dung cuốn sách các tác giả đưa ra sự lý giải
về một số khái niệm liên quan đến vấn đề dân tộc, quan hệ dân tộc và trình
bày thực tiễn vấn đề dân tộc và chính sách dân tộc ở Việt Nam.
- GS.TS Phan Hữu Dật (2001): “Mấy vấn đề lý luận và thực tiễn cấp
bách liên quan đến mối quan hệ dân tộc hiện nay”, nxb Chính trị quốc gia,
Hà Nội. Nội dung cuốn sách đã phân tích và đưa ra những nhận thức mới về
khái niệm dân tộc, quan hệ dân tộc và chính sách dân tộc của Đảng ta.
- TS. Trịnh Quang Cảnh (2013): “Một số vấn đề cơ bản về công tác dân
tộc”, nxb Đại học quốc gia, Hà Nội. Cuốn sách đã phân tích và bình luận
những kiến thức cơ bản về vấn đề dân tộc, quản lý xã hội về dân tộc trong
thời kỳ mới. Làm rõ tư tưởng Hồ Chí Minh và chính sách dân tộc của Đảng,
Nhà nước ta trong giai đoạn hiện nay.
5
5
Thứ hai, nhóm vấn đề liên quan đếnchính sách bao gồm các công trình
- Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Phân viện Hà Nội, Khoa
dân tộc học (1995): “Vấn đề dân tộc và chính sách dân tộc của Đảng và Nhà
nước ta”. Nội dung cuốn sách làm rõ những vấn đề cơ bản về dân tộc và chính
sách dân tộc của Đảng và Nhà nước trong những năm đổi mới.
- Ủy ban Dân tộc và miền núi (2001): “Về vấn đề dân tộc và công tác
dân tộc ở nước ta”, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Nội dung cuốn sách đề ra
vấn đề tìm hiểu quan điểm chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước ta và
nêu những yêu cầu, nhiệm vụ đối với đội ngũ cán bộ làm công tác dân tộc
hiện nay.
- TS. Trịnh Quang Cảnh (2005): “Phát huy vai trò đội ngũ trí thức
người dân tộc thiểu số trong công cuộc đổi mới”, Nxb Chính trị quốc gia,
Hà Nội. Nội dung cuốn sách đã làm rõ vai trò đội ngũ trí thức trong công
cuộc đổi mới đất nước.
- GS.TS Hoàng Chí Bảo (2009): “Bảo đảm bình đẳng và tăng cường
hợptác giữa các dân tộc trong sự phát triển kinh tế - xã hội ở nước ta hiện nay”,
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Nội dung cuốn sách phân tích và đánh giá thực
trạng công bằng, bình đẳng và hợp tác giữa các dân tộc ở miền núi và các vấn đề
thực hiện chính sách dân tộc ở miền núi nước ta trong thời kỳ đổi mới.
- Lâm Thị Bích Nguyệt: “Đổi mới việc thực hiện chính sách dân tộc
tỉnhYên Bái hiện nay” luận văn thạc sĩ triết học, Học viện Chính trị quốc gia
Hồ Chí Minh, 2005. Nội dung luận văn phân tích, đánh giá thực trạng tình
hình thực hiện chính sách dân tộc ở tỉnh Yên Bái, từ đó đưa ra giải pháp.
Thứ ba, nhóm vấn đề về công tác tuyên truyền bao gồm các công trình
- Nguyên Tổng Giám đốc Đài Truyền hình Việt Nam Hồ Anh Dũng có
bài viết về: “Sự nghiệp phát triển truyền hình ở vùng dân tộc thiểu số” trong
cuốn “Các dân tộc thiểu số Việt Nam thế kỷ XX”. Nội dung bài viết cho thấy
6
6
sự cần thiết và dự báo khả năng đóng góp, tăng cường đầu tư cho công tác
thông tin tuyên tuyền của Đài Truyền hình Việt Nam đối với vùng dân tộc
thiểu số trong tình hình mới.
- Hội thảo tổng kết “Tăng cường và đổi mới công tác thông tin phục vụ
đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi” năm 2001, do Bộ Văn hóa – Thông tin
(nay là Bộ Văn hóa – Thể thao và Du lịch) tổ chức. Hội thảo về đọc các báo
cáo tham luận, tổng kết của những đại diện cơ quan báo chí. Hội thảo chưa đi
sâu bàn bạc, tìm kiếm giải pháp tăng cường đổi mới nội dung, hình thức, chất
lương của đơn vị mình.
- Nguyễn Xuân An Việt: “Thông tin về dân tộc miền núi trên VTV1 –
Đài Truyền hình Việt Nam”. Tác giả đưa ra giải pháp cụ thể nâng cao chất
lượng chương trình, nhằm tăng cường hiệu quả thông tin về vấn đề dân tộc
miền núi của Đài Truyền hình Việt Nam.
Tóm lại có thể thấy các công trình nghiên cứu của các nhà khoa học ở
Trung ương và địa phương đều có giá trị rất lớn về cả mặt lý luận và thực
tiễn. Các tác giả đã đề cập nhiều vấn đề khác nhau trong các lĩnh vực như:
Vấn đề dân tộc, đặc điểm dân tộc, công tác dân tộc… Tuy nhiên các công
trình ấy vẫn chưa có công trình nghiên cứu nào về: “Công tác tuyên truyền
chính sách dân tộc ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số trên địa bàn tỉnh Phú
Thọ hiện nay”. Vì vậy, đề tài không trùng lặp với các công trình đã được công
bố. Những tài liệu nêu trên sẽ giúp ích cho tác giả trong việc tham khảo để
nghiên cứu đề tài luận văn.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
3.1 Mục đích của luận văn
Luận văn làm sáng tỏ cơ sở lý luận, thực tiễn của công tác tuyên truyền
và đánh giá thực trạng công tác tuyên truyền chính sách dân tộc ở vùng đồng
bào DTTS. Đồng thời đề xuất một số giải pháp nâng cao hiệu quả công tác
tuyên truyền chính sách dân tộc ở vùng đồng bào DTTS trên địa bàn tỉnh Phú
Thọ hiện nay.
7
7
3.2 Nhiệm vụ nghiên cứu
Một là, phân tích làm rõ một số khái niệm công cụ và lý luận về
công tác tuyên truyền; sự cần thiết phải tiến hành công tác tuyên truyền
chính sách dân tộc;
Hai là, phân tích đánh giá thực trạng và những vấn đề đặt ra về công
tác tuyên truyền chính sách dân tộc ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số trên địa
bàn Tỉnh Phú Thọ;
Ba là, đề xuất một số giải pháp nâng cao hiệu quả công tác tuyên
truyền chính sách dân tộc ở vùng đồng bào DTTS trên địa bàn Tỉnh Phú Thọ
hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
4.1 Đối tượng nghiên cứu của luận văn
Đối tượng nghiên cứu là công tác tuyên truyền chính sách dân tộc ở
vùng đồng bào DTTS trên địa bàn Tỉnh Phú Thọ.
4.2 Phạm vi nghiên cứu
Luận văn chỉ tập trung nghiên cứu công tác tuyên truyền chính sách
dân tộc ở vùng đồng bào DTTS trên địa bàn Tỉnh Phú Thọ trong vòng 05 năm
trở lại đây (từ năm 2009 đến nay)
5.Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn
5.1 Cơ sở lý luận
Luận văn dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng
Hồ Chí Minh và các quan điểm cơ bản của Đảng và Nhà nước ta về công tác
tuyên truyền chính sách dân tộc.
5.2 Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp luận: Luận văn dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ
nghĩa duy vật biện chứng, chủ nghĩa duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác – Lênin.
- Phương pháp cụ thể: Sử dụng phương pháp lịch sử - logic, phân tích tổng hợp, so sánh, thống kê, khảo sát thực tế, điều tra xã hội học, tổng kết
thực tiễn…để nghiên cứu đề tài.
8
8
6. Đóng góp của luận văn
Luận văn góp phần làm rõ thực trạng, những thành tựu, hạn chế đồng
thời chỉ ra những nguyên nhân của việc thực hiện công tác tuyên truyền chính
sách dân tộc vùng đồng bào DTTS trên địa bàn tỉnh Phú Thọ, từ đó đề xuất
một số giải pháp chủ yếu để nâng cao hiệu quả công tác tuyên truyền chính
sách dân tộc ở vùng đồng bào DTTS trên địa bàn tỉnh Phú Thọ.
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Luận văn góp phần làm rõ quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về công
tác tuyên truyền chính sách dân tộc ở vùng đồng bào DTTS nói chung và
công tác tuyên truyền chính sách dân tộc trên địa bàn tỉnh Phú Thọ nói riêng,
từ đó tác giả đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả công tác tuyên
truyền chính sách dân tộc ở vùng đồng bào DTTS trên địa bàn tỉnh Phú Thọ
trong thời gian tới.
Ngoài ra luận văn có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo trong nghiên
cứu, giảng dạy ở các trường cao đẳng, đại học, đồng thời làm rõ những vấn đề
có liên quan đến công tác tuyên truyền, chính sách dân tộc ở vùng đồng bào
các DTTS trên địa bàn tỉnh Phú Thọ cho các đọc giả quan tâm tới vấn đề trên.
8. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo và phụ lục, luận văn
được kết cấu theo 3 chương, 9 tiết.
9
9
Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ
CÔNG TÁC TUYÊN TRUYỀNCHÍNH SÁCH DÂN TỘC
Ở VÙNG ĐỒNG BÀO DÂN TỘC THIỂU SỐ
1.1 Tuyên truyền và công tác tuyên truyền chính sách dân tộc ở
vùng đồng bào DTTS
1.1.1 Tuyên truyền và công tác tuyên truyền
1.1.1.1 Tuyên truyền
Tuyên truyền theo tiếng Latinh (Prapaganda) là truyền bá, truyền đạt
một quan điểm nào đó.
Theo Từ điển tiếng Việt (1997): Tuyên truyền là giải thích rộng rãi để
thuyết phục mọi người tán thành, ủng hộ và làm theo [42; tr1031]
Trong bài “Người tuyên truyền và cách tuyên truyền” Chủ tịch Hồ Chí
Minh cho rằng:
“Tuyên truyền là đem một việc gì đó nói cho dân hiểu, dân nhớ,
dân tin, dân theo, dân làm. Nếu không đạt mục tiêu đó, là tuyên
truyền thất bại” [29; tr162]
Theo cách nói của Bác thì tuyên truyền gồm các hoạt động chính sau:
cung cấp thông tin, để “dân biết”; phân tích làm rõ bản chất của sự việc, hiện
tượng được thông tin, qua tin đó để “dân hiểu”, từ đó để “dân tin”; người làm
tuyên truyền cần liên hệ với thực tiễn có các hình thức để khắc họa trong ý
thức của người dân, để “dân nhớ”; đồng thời hướng dẫn cách thực hiện vì lợi
ích của người dân, để “dân làm”.
Theo Đại bách khoa toàn thư Liên Xô trước đây, thuật ngữ tuyên
truyền được hiểu ở hai khía cạnh: nghĩa rộng và nghĩa hẹp.
Theo nghĩa rộng, tuyên truyền là sự truyền bá những quan điểm, tư tưởng
về chính trị, triết học, khoa học, nghệ thuật...nhằm biến những quan điểm, tư
tưởng ấy thành ý thức xã hội, thành hành động cụ thể của quần chúng.
10
10
Hay nói cách khác: “Tuyên truyền” theo nghĩa rộng là truyền bá những
tri thức, những giá trị tinh thần đến đối tượng, nhằm biến những kiến thức, giá
trị tinh thần đó thành nhận thức, niềm tin, tình cảm của đối tượng, thôi thúc
đối tượng hành động theo những định hướng nhất định và các mục tiêu đề ra.
Theo nghĩa hẹp, tuyên truyền là sự truyền bá những quan điểm lý luận
nhằm xây dựng cho quần chúng thế giới quan nhất định phù hợp với lợi ích,
thế giới quan ấy.
Tuyền truyền có ba nội dung chủ yếu là: Thông tin; giáo dục và vận
động quần chúng; tổ chức quần chúng đi tới hành động.
Như vậy qua các quan điểm của các nhà khoa học đã trình bày ở trên
chúng ta có thể hiểu khái niệm tuyên truyền như sau: Tuyên truyền là hoạt
động truyền bá hệ tư tưởng, đường lối, chủ trương, chính sách của một chính
đảng, một giai cấp đến đông đảo công chúng trong xã hội nhằm nâng cao
nhận thức và thúc đẩy tính tích cực của họ để thực hiện mục đích chủ thể hệ
tư tưởng của một chính Đảng trong xã hội.
1.1.1.2. Khái niệm công tác tuyên truyền
Công tác tuyên truyền có vai trò rất to lớn trong sự nghiệp cách mạng
cũng như trong tiến trình phát triển của xã hội loài người. Công tác tuyên
truyền thể hiện ở chỗ nó truyền bá, phổ biến hệ tư tưởng cách mạng trong xã
hội. C.Mác đã khẳng định:
“Vũ khí của sự phê phán cố nhiên không thể thay thế được sự phê
phán của vũ khí, lực lượng vật chất chỉ có thể bị đánh đổ bằng lực
lượng vật chất; nhưng lý luận cũng sẽ trở thành lực lượng vật chất,
một khi nó thâm nhập vào quần chúng”. [27; tr580].
Điều đó có ý nghĩa là để biến “lý luận thành lực lượng vật chất” công
tác tuyên truyền có vai trò vô cùng quan trọng cho nên nó phải được coi trọng
và được đặt lên hàng đầu.
11
11
Trong giáo trình Nguyên lý công tác tư tưởng khi bàn về hình thái công
tác tư tưởng PGS, TS. Lương Khắc Hiếu chỉ rõ:
“Công tác tuyên truyền là một hình thái, một bộ phận cấu thành
của công tác tư tưởng nhằm truyền bá hệ tư tưởng và đường lối
chiến lược, sách lược trong quần chúng, xây dựng cho quần chúng
thế giới quan phù hợp với lợi ích của chủ thể hệ tư tưởng, hình
thành và củng cố niềm tin, tập hợp và cổ vũ quần chúng hành động
theo thế giới quan và niềm tin đó.
Trong công tác tư tưởng của Đảng và Nhà nước ta, công tác tuyên
truyền là hoạt động nhằm truyền bá chủ nghĩa Mác – Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm, đường lối của Đảng, chính sách,
pháp luật của Nhà nước và những tinh hoa văn hóa của dân tộc và
nhân loại… làm cho chúng trở thành nhân tố chi phối, thống trị
trong đời sống tinh thần của xã hội; động viên, cổ vũ tính tích cực,
tự giác, sáng tạo của nhân dân trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ
Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa” [22; tr31-32].
Trên cơ sở kế thừa những quan điểm nêu trên chúng ta có thể hiểu khái
niệm công tác tuyên truyền như sau:
Công tác tuyên truyền là những phương thức, cách thức và hoạt động
có chủ đích của Đảng Cộng sản Việt Nam nhằm truyền bá chủ nghĩa Mác –
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng,
pháp luật của Nhà nước tới cán bộ đảng viên, quần chúng nhân dân tạo ra sự
thống nhất tư tưởng và hành động, tạo ra sự đồng thuận trong xã hội để thực
hiện thắng lợi sự nghiệp cách mạng của Đảng và của dân tộc.
1.1.2 Dân tộc thiểu số và chính sách dân tộc
1.1.2.1 Dân tộc thiểu số
Việt Nam là quốc gia thống nhất gồm 54 dân tộc anh em cùng chung
sống, ngoài dân tộc Kinh (Việt) là dân tộc đa số, trong đó 53 DTTS chiếm tỷ
12
12
lệ 14,27% dân số cả nước. Cộng đồng các dân tộc Việt Nam được hình thành
và phát triển cùng với tiến trình lịch sử hàng nghìn năm dựng nước và giữ
nước tạo nên một dân tộc Việt Nam thống nhất.
Khái niệm DTTS trước tiên cần phải hiểu khái niệm DTTS là một trong
những hình thái cộng đồng tộc người quan trọng nhất của quá trình phát triển
nhân loại. Việc nghiên cứu dân tộc không chỉ quan trọng về mặt nhận thức mà
cả về thực tiễn.
Theo Từ điển Bách Khoa Việt Nam khái niệm dân tộc được hiểu:
Thứ nhất, Dân tộc (Nation) hay quốc gia dân tộc là cộng đồng chính trị -xã
hội được chỉ đạo bởi một nhà nước, trải rộng trên một lãnh thổ nhất định, ban đầu
được hình thành do sự tập hợp của nhiều bộ lạc và liên minh bộ lạc, sau này của
nhiều cộng đồng mang tính tộc người (Ethnic) của bộ phận tộc người.
Thứ hai, Dân tộc (Nation) còn đồng nghĩa với cộng đồng mang tính
tộcngười (Ethnic), cộng đồng này có thể là bộ phận chủ thể hay thiểu số
của một dân tộc sinh sống ở nhiều quốc gia khác nhau được liên kết với
nhau bằng những đặc điểm, ngôn ngữ, văn hóa và nhất là ý thức tự giác
tộc người. [41; tr.655].
Hay chúng ta có thể hiểu dân tộc theo hai nghĩa:
- Theo nghĩa rộng, dân tộc là để chỉ cộng đồng quốc gia dân tộc như
dân tộc Việt Nam, dân tộc Nga, dân tộc Lào, dân tộc Campuchia…
- Theo nghĩa hẹp, dân tộc là để chỉ cộng đồng các (tộc người) có quốc
tịch thuộc một cộng đồng quốc gia dân tộc, như dân tộc Kinh, Mường, Jrai…
thuộc nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Khi đề cập tới thuật ngữ “Dân tộc thiểu số” là một khái niệm khoa học
được sử dụng phổ biến trên thế giới hiện nay. Khái niệm “dân tộc thiểu số”
chỉ có ý nghĩa biểu thị tương quan về dân số trong một quốc gia đa dân tộc.
Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và xuất
phát từ nguyên tắc bình đẳng dân tộc thì khái niệm “dân tộc thiểu số” không
13
13
mang ý nghĩa phân biệt địa vị, trình độ phát triển của các DTTS. Địa vị, trình
độ phát triển của các DTTS không phụ thuộc ở số dân nhiều hay ít mà nó
được chi phối bởi những điều kiện kinh tế - chính trị - xã hội và lịch sử của
mỗi dân tộc.
Khi dùng từ DTTS Chủ tịch Hồ Chí Minh nói một cách rất thân mật:
“Đồng bào Kinh hay Thổ, Mường hay Mán, Gia Rai hay Ê đê,
Xê
Đăng hay Ba Na và các dân tộc thiểu số khác đều là con
cháu
Việt Nam, đều là anh em ruột thịt. Chúng ta sống chết có
nhau,
sướng khổ cùng nhau, no đói giúp nhau” [28; tr 217].
Người đã sử dụng rất nhiều thuật ngữ như: Dân tộc Kinh, đồng bào
DTTS, anh chị em, các dân tộc…để gọi tên các dân tộc một cách thân thiết.
Khái niệm về DTTS trong Nghị định 05/2011/NĐ-CP, ngày 14/01/2011
của Chính phủ về công tác dân tộc như sau:
DTTS là những dân tộc có số dân ít hơn so với dân tộc đa số trên phạm
vi lãnh thổ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam; Dân tộc đa số là dân
tộc có số dân trên 50% tổng dân số cả nước. [34; tr.2].
Từ những luận giải trên chúng ta có thể hiểu khái niệm DTTS: Dân tộc
thiểu số là một bộ phận trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam, cùng sinh
sống trên đất nước Việt Nam, có quốc tịch Việt Nam, có số dân ít hơn so
với dân tộc đa số trên phạm vi lãnh thổ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam.
1.1.2.2 Chính sách dân tộc
Ở đây để hiểu khái niệm chính sách dân tộc cần giải quyết ở ba cấp độ:
chính sách; chính sách của Đảng và Nhà nước Việt Nam và chính sách dân
tộc (được hiểu là chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước Việt Nam).
Khái niệm chính sách: Là cách thức tác động có chủ đích của một
nhóm, tập đoàn xã hội này vào những nhóm tập đoàn xã hội khác thông
qua các thiết chế khác nhau của hệ thống chính trị nhằm thực hiện mục
tiêu đã được xác định trước.
14
14
Chính sách của Đảng và Nhà nước Việt Nam: Là muốn nhấn mạnh đến
chủ thể trong mối quan hệ với đối tượng; chủ thể tác động là Đảng, Nhà nước
Việt Nam với mục tiêu xây dựng chế độ xã hội chủ nghĩa, dân giàu nước
mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Thông qua quyền lực, công cụ, luật
pháp nhằm bắt buộc mọi công dân phải tuân thủ, nếu không sẽ bị cưỡng chế
thực hiện hoặc nếu vi phạm pháp luật thì sẽ bị xét xử theo luật định.
Chính sách dân tộc (được hiểu là chính sách dân tộc của Đảng và Nhà
nước Việt Nam): Là tổng hợp các quan điểm, nguyên tắc, chủ trương, giải
pháp tác động đến các dân tộc, vùng dân tộc nhằm phát triển kinh tế - xã hội,
văn hóa các dân tộc theo hướng đảm bảo khối đại đoàn kết thống nhất giữa
các dân tộc và phát triển cộng đồng dân tộc Việt Nam [33; tr 7-8].
Như vậy, thuật ngữ chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước Việt
Nam chúng ta cần chú ý các khía cạnh:
Một là, chủ thể tác động ở đây là Đảng Cộng sản và Nhà nước Việt
Nam thể hiện tính đảng trong hệ thống chính sách dân tộc.
Hai là, đối tượng tác động (thụ hưởng chính sách) là các DTTS, vùng
DTTS và miền núi.
Ba là, mục tiêu của chính sách dân tộc nhằm đảm bảo thực hiện nguyên
tắc: Bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng, giúp đỡ nhau cùng phát triển, củng cố
khối đại đoàn kết dân tộc và phát triển cộng đồng dân tộc Việt Nam.
Bốn là, biểu hiện của chính sách là ở nhiều cường độ khác nhau trong
nhiều loại hình văn bản khác nhau như: Các chủ trương, nghị quyết, chỉ thị do
Đảng Cộng sản ban hành, Hiến pháp, pháp luật, các loại văn bản quy phạm
pháp luật khác do Quốc hội, Chính phủ và cơ quan quản lý Nhà nước ban
hành theo thẩm quyền.
Từ sự phân tích trên về chính sách dân tộc ta có thể hiểu: Chính sách
dân tộc là tổng hợp các quan điểm, nguyên tắc, chủ trương, giải pháp, tác động
15
15
đến các dân tộc, vùng dân tộc nhằm phát triển kinh tế, xã hội, văn hóa, an ninh
quốc phòng theo hướng xây dựng và phát triển khối đại đoàn kết dân tộc thống
nhất giữa các dân tộc và phát triển cộng đồng các dân tộc Việt Nam.
1.1.3 Công tác tuyên truyền chính sách dân tộc ở vùng đồng bào DTTS
Chính sách dân tộc là hệ thống các nguyên tắc, chủ trương, giải pháp
phát triển đối với các dân tộc nhằm đảm bảo nguyên tắc bình đẳng, đoàn kết,
tôn trọng, giúp nhau cùng phát triển giữa các dân tộc. Do đó hoạt động
tuyên truyền là truyền bá chủ trương, đường lối, chính sách về kinh tế của
Đảng, Nhà nước cho vùng đồng bào DTTS nhằm nâng nhận thức, cung
cấp tri thức, các nguyên tắc, chủ trương, giải pháp phát triển trên các lĩnh
vực: kinh tế, chính trị, văn hóa…để đảm bảo sự thống nhất của cộng đồng
quốc gia dân tộc.
Đại hội lần thứ VI của Đảng (tháng 12-1986) đã tổng kết bài học kinh
nghiệm số một của cách mạng nước ta là "Trong toàn bộ hoạt động của mình,
Đảng phải quán triệt tư tưởng "lấy dân làm gốc", xây dựng và phát huy
quyền làm chủ của nhân dân lao động", yêu cầu thực hiện có nền nếp phương
châm "Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra". Đồng thời, Đảng cũng
khẳng định công tác quần chúng là trách nhiệm của Đảng, Nhà nước và toàn
thể nhân dân. Công tác quần chúng không chỉ là trách nhiệm của các đoàn thể
mà là trách nhiệm của các tổ chức trong hệ thống chính trị cần sự phối hợp
với nhau dưới sự lãnh đạo của Đảng. Mọi cán bộ đảng viên và nhân viên Nhà
nước đều phải làm công tác quần chúng theo chức năng của mình.
Để làm được điều đó công tác tuyên truyền chính sách dân tộc ở vùng
đồng bào DTTS có vị trí, vai trò vô cùng quan trọng, thể hiện:
Tuyên truyền là một trong những bộ phận quan trọng của công tác tư
tưởng có nhiệm vụ phổ biến, truyền bá hệ tư tưởng, chủ trương, đường lối của
Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước đối với quần chúng nhân dân.
16
16
Tuyên truyền góp phần quan trọng vào việc nâng cao nhận thức, hình
thành và củng cố niềm tin, giáo dục lý luận, đạo đức lối sống, lẽ sống, bồi
dưỡng phương hướng, kỹ năng hành động cho cán bộ đảng viên và quần
chúng nhân dân.
Công tác tuyên truyền góp phần uốn nắn những nhận thức lệch lạc, đấu
tranh chống quan điểm sai trái, bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, góp phần
xây dựng con người mới, cuộc sống mới.
Từ năm 1930, theo đường lối cách mạng đúng đắn của Đảng Cộng sản
Việt Nam, với tư tưởng chiến lược đại đoàn kết dân tộc của Chủ tịch Hồ Chí
Minh, các dân tộc nước ta đã có những cống hiến xuất sắc trong công cuộc
đấu tranh khôi phục lại chủ quyền quốc gia - dân tộc, góp phần xứng đáng
làm nên cách mạng tháng Tám 1945, lập nên Nhà nước Việt Nam dân chủ
cộng hoà. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng dạy:
“Dân ta có một lòng nồng nàn yêu nước. Đó là một truyền thống
quý báu của ta. Từ xưa đến nay mỗi khi Tổ quốc bị xâm lăng thì
tinh thần ấy lại sôi nổi, kết thành một làn sóng vô cùng mạnh mẽ,
to lớn. Nó lướt qua mọi nguy hiểm khó khăn, nó nhấn chìm tất cả
lũ bán nước và lũ cướp nước”[30; tr.171].
Các dân tộc nước ta dấy lên phong trào thi đua yêu nước sôi nổi và
rộng khắp, đưa sự nghiệp kháng chiến và kiến quốc đi từ thắng lợi này
đến thắng lợi khác.
Trong thời kỳ mở cửa hội nhập quốc tế, việc tuyên truyền, giáo dục các
chủ trương, chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước là hết sức cần thiết.Trong
giai đoạn hiện nay cần làm tốt công tác tuyên truyền, giáo dục các chủ trương,
chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước cho mọi cán bộ, đảng viên và cho nhân
dân. Tuyên truyền để đồng bào các dân tộc thấy rõ những thành tựu trong công
cuộc đổi mới và trong công tác dân tộc để phát huy, cùng với đó cũng làm rõ
17
17
những tồn tại, yếu kém để cùng nhau khắc phục, xây dựng tinh thần đoàn kết,
bình đẳng, tôn trọng, giúp đỡ lẫn nhau cùng tiến bộ.
Trong công tác tuyên truyền, việc tôn vinh người tốt, biểu dương việc tốt,
bồi dưỡng và nhân rộng các điển hình tiên tiến trong đồng bào các DTTS cần
được quan tâm chú trọng. Công tác tuyên truyền cần đẩy mạnh các phong trào thi
đua yêu nước trong vùng đồng bào dân tộc và miền núi. Thực hiện tốt các cuộc
vận động về từng lĩnh vực cụ thể và cuộc vận động chung “Toàn dân đoàn kết
phấn đấu vì dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.
Trong kinh tế thị trường, tuyên truyền phổ biến cách làm ăn mới, hướng
dẫn việc ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật, chuyển giao công nghệ, động
viên đồng bào tích cực XĐGN, vươn lên làm giàu đó là những nhiệm vụ quan
trọng của cán bộ tuyên truyền. Tuyên truyền và hướng dẫn ứng dụng tiến bộ
khoa học - công nghệ, nhất là công nghệ sinh học vào sản xuất để chuyển dịch
mạnh cơ cấu kinh tế trong vùng đồng bào DTTS. Khuyến khích phát triển các
doanh nghiệp vừa và nhỏ, chuyên chế biến nông, lâm, thuỷ sản trong vùng
đồng bào dân tộc. Đồng thời phát triển mạnh mạng lưới thương mại liên tỉnh huyện - cụm xã và khuyến khích mọi thành phần kinh tế tham gia lưu thông
hàng hoá, tạo động lực cho sản xuất, dịch vụ phát triển ở các xã thuộc vùng
sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn.
Trong giao lưu quốc tế, việc tuyên truyền, vận động đồng bào DTTS
tích cực tham gia xây dựng đời sống văn hoá, phát triển giáo dục, y tế; phòng,
chống các tệ nạn xã hội, bài trừ các hủ tục lạc hậu cần được quan tâm đúng
mức. Song song với việc tăng cường xây dựng các thiết chế văn hoá ở cơ sở,
cần có biện pháp đẩy mạnh các hoạt động văn hoá - văn nghệ quần chúng
nhằm đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu hưởng thụ văn hoá tinh thần của
đồng bào các dân tộc; vận động và tạo điều kiện cho đồng bào giữ gìn, phát
huy truyền thống văn hoá của mỗi dân tộc, góp phần xây dựng nền văn hoá
18
18
Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; đẩy mạnh tuyên truyền, vận động
thực hiện cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá”;
tích cực tham gia phòng, chống các tệ nạn xã hội, đặc biệt là tệ nghiện hút ma
tuý, cờ bạc; bài trừ các hủ tục lạc hậu và mê tín dị đoan; băng hoại giá trị
truyền thống dân tộc.
Vùng núi, vùng DTTS là nơi biên cương của Tổ quốc chính vì vậy việc
tập trung tuyên truyền, vận động đồng bào đấu tranh làm thất bại âm mưu lợi
dụng tôn giáo, dân tộc để chống phá cách mạng của các thế lực thù địch; ngăn
chặn kịp thời các vụ truyền đạo trái phép. Bám sát cơ sở, thường xuyên nắm
chắc mọi diễn biến, phát sinh trong tư tưởng, trong đời sống của đồng bào dân
tộc; có biện pháp ngăn chặn kịp thời, không để phát sinh “điểm nóng” ở cơ
sở. Tăng cường công tác vận động để xây dựng tốt lực lượng chính trị, xây
dựng cốt cán trong vùng đồng bào DTTS.
Từ các nội dung trên, có thể hiểu công tác tuyên truyền chính sách dân
tộc vùng đồng bào DTTS như sau:
Là một hoạt động có chủ đích của chủ thể tuyên truyền, tác động một
cách trực tiếp hoặc gián tiếp đến đối tượng tuyên truyền bằng những
phương thức, cách thức hoạt động nhằm nâng cao nhận thức về chính sách
dân tộc; hình thành thái độ và tính tích cực hành động ở đối tượng tuyên
truyền trong việc tuyên truyền chính sách dân tộc ở vùng đồng bào DTTS.
1.2 Những nguyên tắc cơ bản trong công tác tuyên truyền chính
sách dân tộc ở vùng đồng bào DTTS
Trong công tác tuyên truyền, vận động đồng bào DTTS phải tuân thủ các
nguyên tắc sau:
Thứ nhất: Tính đảng, tính giai cấp
Khi trình bày, giải thích mọi sự vật, hiện tượng xảy ra trong thực tiễn
đều phải đứng trên lập trường của giai cấp công nhân, lợi ích của giai cấp, của
dân tộc, tức là trên quan điểm của Đảng, Nhà nước để xem xét, đánh giá, phân
19
19
tích. Luôn coi trọng giáo dục nhận thức, mỗi cán bộ tuyên truyền chính sách
dân tộc phải tuyệt đối trung thành với đường lối, chính sách của Đảng về công
tác dân tộc, đồng thời luôn có ý thức tổ chức kỷ luật, nói và viết không được
trái với quan điểm đường lối của Đảng. Đồng thời cần kiên quyết đấu tranh
với các luận điệu thù địch, thói hư tật xấu và các tệ nạn xã hội.
Thứ hai: Tính khoa học và thực tiễn
Công tác tuyên truyền chính sách dân tộc phải dựa trên các luận cứ
khoa học và thực tiễn của vùng núi, vùng DTTS để nhìn nhận, phân tích sự
vật, hiện tượng, từ đó thuyết phục cảm hóa đối tượng. Vì vậy cần phải gắn
thực tiễn, tổng kết thực tiễn trong tuyên truyền chính sách dân tộc ở vùng
đồng bào DTTS và miền núi nhằm giải đáp những thắc mắc đặt ra trong thực
tế để từ đó định hướng cho nhiệm vụ, nội dung, phương pháp, hình thức,
phương tiện phù hợp với hoàn cảnh, đối tượng tuyên truyền.
Thứ ba: Tính chân thật
Công tác tuyên truyền chính sách dân tộc cần được trình bày một cách
khách quan dựa trên kết quả thực tiễn (thành tựu – thiếu xót và sai lầm) để
phân tích phản ánh sự vật và hiện tượng đúng theo bản chất của nó. Chủ tịch
Hồ Chí Minh thường căn dặn người cán bộ cách mạng không được nói dối
dân, phải tôn trọng sự thật của các loại chính sách. Trong lúc khó khăn, nói rõ
cho đồng bào biết, giải thích rõ bản chất những khó khăn đó, nguyên nhân và
cách khắc phục. Từ đó phản ánh tâm tư nguyện vọng của đồng bào DTTS,
đưa ra những giải pháp kiến nghị nhằm hoàn chỉnh đường lối, chính sách của
Đảng, pháp luật của Nhà nước ở vùng DTTS và miền núi.
Thứ tư: Tính chiến đấu
Tính chiến đấu chính là bản chất của công tác tuyên truyền chính trị.
Do vậy người làm công tác tuyên truyền chính sách dân tộc ở vùng đồng bào
DTTS cần phải có sự nhạy bén chính trị và bản lĩnh chính trị. Trong mỗi sự
vật hiện tượng phải biết phân biệt đúng sai, phải trái, xác định nhanh được cái
tốt để biểu dương, cái xấu kịp thời phê phán.
20
20
Người làm công tác tuyên truyền luôn có tinh thần tiến công chống lại
mọi quan điểm sai trái với quan điểm của Đảng, Nhà nước trong lĩnh vực
công tác tư tưởng – văn hóa – chính sách dân tộc ở vùng DTTS và miền núi.
Thứ năm: Tính phổ thông, đại chúng
Xây dựng nội dung tuyên truyền chính sách dân tộc cần gắn chặt với
cuộc sống thực tiễn phong phú của nhân dân các dân tộc, giải đáp những vấn
đề mà cuộc sống của đồng bào DTTS đặt ra. Người làm công tác tuyên truyền
cần có kiến thức dân tộc phù hợp với trình độ, tâm lý của từng dân tộc và hiểu
được những loại hình đồng bào ưa thích, nắm bắt thông tin nhanh nhạy. Chủ
tịch Hồ Chí Minh căn dặn: Tuyên truyền phải dễ nhớ, dễ hiểu, dễ làm nếu
không làm được như vậy thì tuyền truyền thất bại.
1.3 Các yếu tố trong công tác tuyên truyền chính sách dân tộc ở
vùng đồng bào DTTS
Khi xem xét công tác tuyên truyền như một hoạt động xã hội đặc thù
thì công tác này cấu thành bởi các yếu tố sau: chủ thể, đối tượng, mục đích,
nội dung, phương pháp, phương tiện, hình thức tổ chức và hiệu quả tuyên
truyền. Như vậy, hệ thống tuyên truyền là toàn bộ các yếu tố cấu thành công
tác tuyên truyền và hiệu quả tuyên truyền.
1.3.1 Chủ thể tuyên truyền
Chủ thể công tác tuyên truyền chính sách dân tộc là các cấp ủy đảng và
đội ngũ cán bộ làm công tác tuyên truyền. Ở nước ta, công tác tuyên truyền là
nhiệm vụ của toàn Đảng, toàn dân và toàn hệ thống chính trị, đội ngũ này có
lực lượng chuyên trách, chuyên môn ở các cơ quan đảng, nhà nước, Mặt trận
Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội, cụ thể:
Một là, các đảng bộ cơ sở, các chi bộ đảng trực tiếp tuyên tuyên truyền,
vận động quần chúng vùng DTTS hoặc thông qua đội ngũ đảng viên.
21
21
Hai là, mặt trận và các đoàn thể nhân dân làm công tác tuyên truyền
vận động đồng bào DTTS dưới sự lãnh đạo cuả cấp uỷ.
Ba là,nhà nước đảm bảo quyền làm chủ của nhân dân thể hiện thông
qua hoạt động của bộ máy Nhà nước dưới sự lãnh đạo của Đảng. Tổ chức
Nhà nước, cơ quan chính quyền có trách nhiệm làm công tác tuyên truyền,
vận động đồng bào dân tộc. Cán bộ, công chức Nhà nước phải tôn trọng dân,
gần dân, hiểu dân, phải biết tuyên truyền, vận động đồng bào các dân tộc ủng
hộ chính quyền, hợp sức với chính quyền để thực hiện các nhiệm vụ đề ra.
Nhà nước quản lý bằng pháp luật và bằng vận động quần chúng.
Bốn là, các lực lượng vũ trang (Quân đội, Công an, Bộ đội biên
phòng...) chủ động và phối hợp với các tổ chức chính quyền, Mặt trận, các
đoàn thể nhân dân làm công tác tuyên truyền, vận động đồng bào DTTS.
Năm là, các cơ quan thông tin đại chúng (Báo chí, Đài phát thanh truyền hình...), các cơ quan văn hoá, văn nghệ có trách nhiệm thường xuyên
phổ biến, tuyên truyền các chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ:
“Chẳng những các người phụ trách tuyên truyền, những người viết
báo, viết sách, những người nghệ sĩ là những người tuyên truyền
mà tất cả cán bộ, tất cả đảng viên, hễ những người có tiếp xúc với
dân chúng đều là người tuyên truyền của Đảng. Vì vậy ai cũng phải
học nói, nhất là học nói cho quần chúng hiểu”[29; tr 300-301].
Như vậy, chủ thể tuyên truyền là một trong những nhân tố quan trọng
trong công tác tuyên truyền, chủ thể tuyên truyền vừa là người tổ chức, chỉ
đạo, định hướng, chèo lái công tác tuyên truyền đúng đường lối, chủ trương,
chính sách của Đảng, Nhà nước từ Trung ương đến địa phương. Việc quan
tâm, xác định rõ vị trí vai trò, tầm quan trọng của chủ thể tuyên truyền có ảnh
hưởng đến chất lượng, nội dung công tác tuyên truyền.
22
22
1.3.2 Đối tượng tuyên truyền
Đối tượng công tác tuyên truyền là tất cả các cá nhân, tập thể, tầng lớp
giai cấp… trong xã hội. Đối tượng tuyên truyền rất đa dạng, phức tạp. Hiện
nay, đối tượng tuyên truyền ở nước ta là toàn thể các tổ chức, cá nhân, cộng
đồng xã hội, là cán bộ, đảng viên, công nhân, nông dân, trí thức, phụ nữ,
người cao tuổi, thanh niên, thiếu niên, nhi đồng, người có uy tín, tiêu biểu
trong đồng bào dân tộc, các chức sắc tôn giáo và đồng bào có đạo...
Phải tuỳ theo từng đối tượng, trình độ dân trí và hoàn cảnh trong thực
tiễn mà có những hình thức tuyên truyền, vận động đem lại hiệu quả cao, đạt
được mục đích, yêu cầu đề ra; tránh vận động chung chung hình thức.
1.3.3 Xác định mục đích tuyên truyền
Việc xác định mục đích tuyên truyền là hết sức quan trọng, vì xác định
được mục đích đúng thì công tác tuyên truyền mới đạt hiệu quả cao. Hay nói
cách khác công tác tuyên truyền là sự phản ánh những mong muốn ước
nguyện có chủ đích để đạt tới mục đích trong tương lai. Đồng thời là sự phản
ánh trước sản phẩm dự kiến của hoạt động tuyên truyền. Sản phẩm dự kiến đó
là một kiểu thế giới quan, một kiểu ý thức xã hội và ý thức cá nhân, là một
loại hình tích cực xã hội của con người. Mục đích thường được thể hiện thông
qua một hệ thống mục tiêu cụ thể thuộc từng mặt, từng bộ phận và nhiệm vụ
của công tác tuyên truyền trong mỗi thời kỳ, mỗi giai đoạn cách mạng. Nói
cách khác, mục đích tuyên truyền chính sách dân tộc là làm cho mỗi cộng
đồng các DTTS hiểu và nắm được đường lối, chủ trương, chính sách của
Đảng và Nhà nước và chính sách dân tộc. Khẳng định nguyên tắc nhất quán
của Đảng và Nhà nước ta là: “Bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng, giúp nhau cùng
phát triển giữa các dân tộc”.
23
23
1.3.4 Nội dung tuyên truyền
Nội dung công tác tuyên truyền chính sách dân tộc là nội dung các hoạt
động mà chủ thể tuyên truyền xác định nhằm thực hiện mục đích đặt ra. Nội
dung công tác tuyên truyền chính sách dân tộc do mục đích công tác tuyên
truyền và nhiệm vụ cụ thể của mỗi giai đoạn cách mạng quy định.
1.3.5 Phương pháp tuyên truyền
Phương pháp công tác tuyên truyền chính sách dân tộc là tổng hợp các
phương tiện, thao tác, cách thức, quy trình mà chủ thể sử dụng để cung cấp
cho đối tượng những thông tin nhất định nhằm củng cố, bổ sung hoặc xây
dựng ở họ kiểu thế giới quan, nhân sinh quan mới về tự nhiên hoặc xã hội,
qua đó tác động đến nhận thức, thái độ và hiệu quả hành động thực tiễn của
họ trong đời sống xã hội, như vậy người làm công tác tuyên truyền cần nắm
được một số nghiệp vụ:
Thứ nhất, tìm hiểu và nắm vững phong tục, tập quán sinh hoạt và tổ
chức xã hội truyền thống của từng dân tộc
Tìm hiểu phong tục, tập quán sinh hoạt của từng dân tộc để đề ra chủ
trương, nhiệm vụ công tác đúng đắn, sát hợp, có tính khả thi. Mỗi dân tộc có
phong tục, tập quán khác nhau. Có hiểu rõ, hiểu sâu phong tục, tập quán của
từng dân tộc thì mới dễ dàng gần gũi với đồng bào, có thể đề ra và thực hiện
tốt các nhiệm vụ công tác dân tộc trên cả hai mặt xoá bỏ cái cũ, lạc hậu và xây
dựng cái mới, tiến bộ.
Tìm hiểu về tổ chức xã hội truyền thống trong từng dân tộc để kế
thừa và phát huy những nhân tố cần thiết và có tác dụng tích cực. Trong
vùng đồng bào DTTS, tổ chức xã hội truyền thống còn có vai trò quan
trọng và được tin cậy ở mức độ nhất định. Cho nên, khéo léo sử dụng, phát
huy vai trò của tổ chức xã hội truyền thống trong quá trình triển khai thực
hiện các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước là một yêu cầu và
biện pháp công tác quan trọng.
24
24
Thứ hai, quán triệt và thực hiện thật tốt phong cách công tác dân vận:
Trọng dân, gần dân, hiểu dân, học dân, có trách nhiệm với dân
Trọng dân: Tôn trọng quyền dân chủ của nhân dân, không được phiền
nhiễu nhân dân; tôn trọng tự do tín ngưỡng, tự do không tín ngưỡng, phong
tục tập quán của đồng bào các dân tộc. Người cán bộ phải có thái độ chân
thành, hướng dẫn và giúp đỡ nhân dân, không thành kiến phân biệt đối xử với
nhân dân. Khi giao tiếp với đồng bào dân tộc phải thể hiện đầy đủ sự bình
đẳng và quý trọng đối với đồng bào.
Gần dân: Người cán bộ làm công tác dân tộc phải có cách tiếp cận tốt
với đồng bào DTTS, thái độ, tác phong, lối sống phải gần gũi với dân, không
được xa dân, cách biệt với dân. Tại nơi cư trú cũng phải luôn luôn gương
mẫu, tích cực tham gia mọi hoạt động của nhân dân địa phương.
Hiểu dân: Phải nghe được tiếng nói thực của đồng bào DTTS, ở địa
phương công tác, thấu hiểu tâm tư, nguyện vọng của đồng bào. Để hiểu được
đồng bào DTTS, thì cán bộ công tác ở nơi nào phải học để có thể nghe và nói
được tiếng dân tộc ở nơi đó.
Học dân: Người cán bộ phải khiêm tốn, biết lắng nghe, học hỏi đồng
bào DTTS, không được tự cho mình cái gì cũng giỏi, cái gì cũng biết.
Có trách nhiệm với dân: Phải đoàn kết chặt chẽ với nhân dân, chăm lo
đời sống vật chất, tinh thần của đồng bào các dân tộc. Cán bộ không phải là
"quan cách mạng" mà là "người đầy tớ thật trung thành của nhân dân", khi
làm việc cho dân phải làm cho tốt và phải xác định rõ : "Bao nhiêu lợi ích đều
vì dân".
Các yếu tố nêu trên có mối quan hệ biện chứng với nhau, để người
tuyên truyền đưa được chính sách đến với đồng bào thì người tuyên truyền
phải gần dân sẽ hiểu dân và có trách nhiệm với dân, ngược lại nếu người
tuyên truyền không trọng dân thì sẽ không hiểu dân và tuyên truyền thiếu
25
25
trách nhiệm với dân, không học hỏi được kinh nghiệm của dân. Như vậy
người tuyên truyền và đối tượng tuyên truyền phải gắn bó mật thiết và không
tách rời nhau từ đó công tác tuyên truyền mới đem lại kết quả thực sự.
Thứ ba, cụ thể hoá chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước thành
các chương trình, dự án
Cụ thể hoá chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước thành các chương
trình, dự án, nhất là các kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội ở địa phương và
cơ sở. Việc xây dựng và thực hiện các chương trình, dự án, kế hoạch phải
xuất phát từ điều kiện và khả năng thực tế, chú trọng khai thác và phát huy lợi
thế về các nguồn lực của từng vùng, từng dân tộc, hết sức tránh chủ quan, duy
ý chí. Đã đề ra thì tập trung tổ chức thực hiện đến nơi đến chốn, đạt được kết
quả thực tế mà bà con cảm nhận được. Thực hiện nghiêm chỉnh việc công
khai hóa các chính sách, chương trình, dự án, vốn đầu tư…
Thứ tư, công tác tuyên truyền chính sách dân tộc phải phải cụ thể, thiết
thực, dễ hiểu
Những thông tin sử dụng trong công tác tuyên truyền phải rất cụ thể,
thiết thực, chính xác để đồng bào dễ nghe, dễ hiểu, dễ tin và dễ tiếp thu. Nội
dung tuyên truyền phải chân thực, không tô vẽ; tuyên truyền một cách chân
thành tới đồng bào dân tộc. Đồng thời cần thường xuyên cải tiến nâng cao
chất lượng của công tác tuyên truyền chính sách dân tộc.
1.3.6 Hình thức tuyên tuyền
Hình thức công tác tuyên truyền chính sách dân tộc là cách thức sắp
xếp nội dung tuyên truyền, hình thức tổ chức các hoạt động giữa chủ thể và
đối tượng tuyên truyền. Hình thức công tác tuyên truyền rất đa dạng và phong
phú. Việc lựa chọn hình thức nào là do đối tượng và nội dung quy định.
Trong công tác tuyên truyền chính sách dân tộc chúng ta có thể sử dụng
các hình thức tuyên truyền, giáo dục sinh động, thiết thực, sát với từng vùng,
từng đối tượng như: