Tải bản đầy đủ (.docx) (99 trang)

THỰC HIỆN BẢO HIỂM XÃ HỘI THEO HƯỚNG BỀN VỮNG Ở TỈNH HẢI DƯƠNG

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (450.28 KB, 99 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ

NGUYỄN THỊ MAI

THỰC HIỆN BẢO HIỂM XÃ HỘI
THEO HƯỚNG BỀN VỮNG Ở TỈNH HẢI DƯƠNG
Chuyên ngành: Kinh tế Chính trị
Mã số: 60 31 01

LUẬN VĂN THẠC SỸ KINH TẾ CHÍNH TRỊ

Người hướng dẫn khoa học: GS.TS VŨ VĂN HIỀN


HÀ NỘI - 2014

2


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan: Luận văn “ Thực hiện bảo hiểm xã hội theo hướng
bền vững ở tỉnh Hải Dương” là công trình nghiên cứu riêng của cá nhân tôi.
Các nội dung nghiên cứu và kết quả trình bày trong luận văn là trung thực và
rõ ràng.
Hà Nội, ngày 5 tháng 08 năm 2014
Tác giả luận văn

Nguyễn Thị Mai



LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành được luận văn này tôi đã nhận được rất nhiều sự động
viên, giúp đỡ của nhiều cá nhân và tập thể.
Trước hết, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến GS.TS. Vũ Văn Hiền đã
hướng dẫn tôi thực hiện nghiên cứu của mình. Trong quá trình hướng dẫn nghiên
cứu thầy luôn tận tình, động viên và khuyến khích tôi hoàn thành luận văn.
Tôi cũng xin gửi lời cám ơn chân thành tới Ban Giám hiệu, Phòng Đào
tạo sau đại học, Đại học Kinh tế, Ban Chủ nhiệm Khoa Kinh tế chính trị, đã
tạo điều kiện cho tôi trong quá trình học tập và hoàn thành luận văn.
Cuối cùng tôi xin gửi lời cám ơn đến gia đình, bạn bè, những người đã
luôn bên tôi, động viên và khuyến khích tôi trong quá trình thực hiện đề tài
nghiên cứu của mình.
Do thời gian có hạn và kinh nghiệm nghiên cứu chưa nhiều nên luận
văn vẫn còn thiếu sót, rất mong nhận được sự góp ý của quý Thầy/Cô và các
anh chị học viên.
Hà Nội, ngày 05 tháng 08 năm 2014
Học viên

Nguyễn Thị Mai


MỤC LỤC
Danh mục viết tắt.............................................................................................. i
Danh mục bảng.................................................................................................ii
Danh mục biểu..................................................................................................ii


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
STT
1

2
3
4
5
6
7
8
9
10
11
12
13
14
15
16

Ký hiệu
ASXH
BHXH
BHXH BB
BHXH TN
BHYT
BHTN
BLĐTBXH
CNTT
CP
KCB

NSNN
NXB

TNLĐ- BNN
TW
UBND

Nguyên nghĩa
An sinh xã hội
Bảo hiểm xã hội
Bảo hiểm xã hội bắt buộc
Bảo hiểm xã hội tự nguyện
Bảo hiểm y tế
Bảo hiểm thất nghiệp
Bộ lao động thương binh xã hội
Công nghệ thông tin
Chính phủ
Khám chữa bệnh
Nghị định
Ngân sách nhà nước
Nhà xuất bản
Tai nạn lao động – Bệnh nghề nghiệp
Trung Ương
Ủy ban nhân dân

6


DANH MỤC BẢNG
STT
1
2
3

4
5
6
7
8

Bảng
2.1
2.2
2.3
2.4
2.5
2.6
2.7
2.8

9

2.9

10

2.10

11

2.11

12


2.12

Nội dung
Số lao động tham gia BHXH
Số người tham gia và diện bao phủ BHYT
Thực trạng thu BHXH
Đối tượng hưởng các chế độ BHXH năm 2012
Thực trạng cân đối quỹ BHXH
Thực trạng cân đối quỹ BHYT
Thực trạng cân đối quỹ BHTN
Các khoản tổng thu từ các loại BHXH
Chi trả chế độ ốm đau các năm 2007 -2010 của BHXH tỉnh Hải
Dương
Chi trả chế độ thai sản các năm 2007 – 2010 của BHXH tỉnh Hải
Dương
Chi trả chế dưỡng , phục hồi sức khỏe năm 2007-2010 của BHXH tỉnh
Hải Dương
Chi trả mai táng năm 2007

Biểu
2.1
2.2
2.3
2.4
2.5
2.6

62
63
64

68

DANH MỤC BIỂU
STT
1
2
3
4
5
6

Trang
37
40
43
46
46
53
56
57

Nội dung
Số đơn vị sử dụng BHXH
Số người tham gia BHTN từ năm 2009-2012
Tình hình chi BHXH
Tổng tiền thu từ BHYT
Tổng tiền chi cho BHYT
Tổng tiền thu từ BHTN

7


Trang
37
41
45
49
51
55


8


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Bảo hiểm xã hội (BHXH) là chính sách lớn của Đảng và Nhà nước
được thực hiện ở nước ta ngay từ những ngày đầu thành lập nước. Từ đó đến
nay, chính sách BHXH không ngừng được sửa đổi, bổ sung phù hợp với từng
thời kỳ phát triển của đất nước, góp phần đảm bảo cuộc sống cho cán bộ,
công chức, viên chức, lực lượng vũ trang nhân dân và người lao động.
Trong công cuộc đổi mới toàn diện nền kinh tế - xã hội, để chính sách
BHXH phù hợp với tình hình thực tiễn và hội nhập quốc tế, tại Đại hội đại
biểu toàn quốc lần thứ VIII, Đảng ta đã xác định quan điểm "Thực hiện và
hoàn thiện chế độ BHXH, bảo đảm đời sống người nghỉ hưu được ổn định,
từng bước cải thiện". Nghị quyết Đại hội XI của Đảng tiếp tục nhấn mạnh:
"Thực hiện các chính sách xã hội bảo đảm an toàn cuộc sống mọi thành viên
cộng đồng, bao gồm BHXH đối với người lao động thuộc các thành phần
kinh tế". Cùng với các quan điểm, nghị quyết của Đảng, pháp luật của Nhà
nước cũng thể hiện nhất quán vị trí, vai trò của BHXH. Bộ Luật Lao động,
trong đó có Chương XII quy định về BHXH, đặc biệt tháng 01/2007 Luật

BHXH đã xác định rõ các đối tượng tham gia đóng, hưởng BHXH đã được
thực hiện đến tất cả lao động làm việc trong các thành phần kinh tế và mở
rộng loại hình BHXH tự nguyện, tạo nên sự bình đẳng về BHXH đối với mọi
người lao động. Quá trình thực hiện từ năm 2006 – 2010 trong phạm vi cả
nước, số lao động tham gia BHXH tăng hàng năm khoảng 7%, số thu BHXH
tăng bình quân khoảng 33% và hình thành quỹ BHXH độc lập với ngân sách
nhà nước. Đây là bước chuyển đổi căn bản và cũng là thành công lớn trong sự
nghiệp BHXH từ chế độ bao cấp chủ yếu dựa vào ngân sách nhà nước sang
cơ chế quỹ BHXH chủ yếu dựa trên nguồn thu do người lao động, chủ sử
dụng lao động đóng góp để chi trả các chế độ BHXH.
9


Cùng với cả nước trong những năm qua, việc thực hiện BHXH ở Hải
Dương đã có nhiều tiến bộ, vừa có những đặc điểm chung của cả nước vừa có
những nét đặc thù. Kết quả của việc thực hiện chính sách BHXH ở Hải
Dương đã thực sự là yếu tố quan trọng hàng đầu bảo đảm an sinh xã hội, góp
phần ổn định chính trị, xã hội thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh.
Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện chính sách BHXH nếu được xem
xét theo tiêu chí bảo đảm tính ổn định và bền vững trong thời gian qua, công
tác này ở Hải Dương còn bộc lộ những hạn chế, bất cập và đang đặt ra những
vấn đề cần quan tâm giải quyết, đó là:
- Việc phát triển đối tượng tham gia BHXH ở cả hai loại hình bắt buộc
và tự nguyện còn nhiều hạn chế, tình trạng trốn đóng, nợ đọng BHXH, chưa
tham gia hoặc tham gia không đầy đủ cho số lao động làm việc tại đơn vị còn
xảy ra phổ biến ở các địa phương. Số lao động tham gia BHXH chiếm tỷ lệ
thấp (60%) so với lao động tham gia BHXH bắt buộc. Số lao động chưa tham
gia BHXH tập trung chủ yếu ở các doanh nghiệp tư nhân, thậm chí có những
doanh nghiệp lạm dụng quỹ BHXH, lạm dụng tiền đóng BHXH của người lao
động để làm vốn sản xuất kinh doanh... Do đó, đã ảnh hưởng không nhỏ đến

việc thực hiện chế độ, chính sách BHXH đối với người lao động và kết quả
thu BHXH.
- Công tác quản lý về BHXH của các cơ quan chức năng có thẩm quyền
còn yếu.
- Công tác tuyên truyền pháp luật về BHXH của cơ quan BHXH và các
đơn vị chưa được thường xuyên; công tác kiểm tra xử lý vi phạm pháp luật
BHXH đối với các chủ doanh nghiệp vi phạm, giải quyết nợ đọng vẫn còn là
một trong những vấn đề gây bức xúc hiện nay.
- Chưa làm tốt việc cải cách hành chính, đổi mới tác phong, phong cách
phục vụ của đội ngũ cán bộ trực tiếp làm công tác thu BHXH còn chậm trễ trong
việc ứng dụng công nghệ thông tin vào công tác thu – chi BHXH.

10


Từ những lý do trên “ Thực hiện bảo hiểm xã hội theo hướng bền vững ở
tỉnh Hải Dương” được lựa chọn làm đề tài nghiên cứu với mong muốn góp
phần giải quyết yêu cầu thực tế về hoàn thiện và thực hiện tốt BHXH hiện nay.
2. Tình hình nghiên cứu
Trong các năm qua, chủ đề về BHXH Việt Nam đã có một số công
trình khoa học nghiên cứu của cán bộ lãnh đạo, quản lý, từ đề tài cấp bộ, luận
văn tiến sỹ, luận văn thạc sỹ đến những công trình khoa học đăng trên sách,
báo đã nghiên cứu những vấn đề chung, cũng như từng lĩnh vực cụ thể về
BHXH. Có thể nói tới các công trình như:
- Viện khoa học lao động và các vấn đề xã hội thuộc Bộ lao động
Thương binh và xã hội ( năm 1990), “ Luận cứ khoa học cho việc đổi mới và
hoàn thiện các chính sách bảo đảm xã hội trong diều kiện nền kinh tế hàng
hoá nhiều thành phần định hướng XHCN ở Việt Nam, đề tài khoa học cấp Bộ,
Hà Nội. Công trình nghiên cứu có tính khoa học đòi hỏi phải đổi mới và hoàn
thiện các chính sách bảo đảm xã hội trong điều kiện nền kinh tế hàng hoá

nhiều thành phần định hướng XHCN ở nước ta.
- Lê Thị Hoài Thu ( 2004), “Thực trạng pháp luật ASXH ở Việt Nam”,
tạp chí Bảo hiểm xã hội số 6/2004. Bài viết đề cập đến hệ thống pháp luật an
sinh xã hội ở Việt Nam từ năm 1945 đến 2004 từ đó đưa ra một số ý kiến để
hoàn thiện hệ thống pháp luật an sinh xã hội ở nước ta trong đó có pháp luật
về bảo hiểm xã hội.
- Đề tài “Thực trạng quản lý thu Bảo hiểm xã hội hiện nay và các bịên
pháp nâng cao hiệu quả công tác thu”, đề tài nghiên cứu khoa học cấp bộ do
Tiến sỹ Nguyễn Văn Châu làm chủ nhiệm, đã hoàn thành năm 1996.Trên cơ
sở nghiên cứu kinh nghiệm quản lý thu BHXH của một số nước trên thế giới
và tổng kết hoạt động thực tiễn của quản lý thu BHXH ở Việt Nam trước năm
1995 và đến năm 1996, tác giả làm rõ thực trạng hoạt động BHXH, đặc biệt là

11


công tác thu BHXH trong thời gian qua, nhằm phân tích khả năng thu BHXH
để bù đắp các chế độ BHXH được hưởng nhằm thay thế dần các nguồn chi
lấy từ Ngân sách Nhà nước, đồng thời đề xuất kiến nghị một số vấn đề cụ thể
nhằm cải tiến công tác thu BHXH ở Việt Nam.
- Đề tài“Cơ sở khoa học hoàn thiện quy trình quản lý thu BHXH” đề tài
nghiên cứu khoa học cấp Bộ do Tiến sỹ Dương Xuân Triệu chủ nhiệm, hoàn
thành năm 1999.
- “Hoàn thiện quản lý thu BHXH khu vực doanh nghiệp ngoài quốc
doanh ở Việt Nam”, Luận văn thạc sỹ quản lý kinh tế của tác giả Trần Quốc
Túy bảo vệ năm 2000.
-Nguyễn Thị Kim Phụng, giáo trình “ Luật an sinh xã hội”, NXB tư
pháp, Hà Nội ( năm 2005).
Cuốn sách viết về hệ thống các chính sách an sinh xã hội bao gồm các
nội dung như lý luận chung về pháp luật an sinh xã hội, quan hệ pháp luật an

sinh xã hội và pháp luật về an sinh xã hội trong đó có pháp luật về bảo hiểm
xã hội.
- Phan Văn Sáng, Ngô Quang Minh, Bùi Văn Huyền, Nguyễn Anh
Dũng “Lý thuyết và mô hình an sinh xã hội”, NXB Chính trị Quốc gia, Hà
Nội – 2009. Cuốn sách trình bày những bất cập, xu hướng vận động và kinh
nghiệm quốc tế về xây dựng và phát triển hệ thống an sinh xã hội đồng thời
phân tích an sinh xã hội nhìn từ đối tượng thụ hưởng và những trụ cột chính
trong an sinh xã hội thực tiễn ở Đồng Nai.
- Mai Ngọc Cường ( chủ nhiệm đề tài) Cơ sở khoa học của việc xây
dựng, hoàn thiện hệ thống chính sách an sinh xã hội ở nước ta giai đoạn
2006- 2015, đề tài cấp nhà nước, chương trình KH&CN trọng điểm cấp nhà
nước, bộ khoa học và công nghệ năm 2009. Công trình nghiên cứu làm rõ
những vấn đề cơ bản về an sinh xã hội và hệ thống chính sách ASXH trong

12


nền kinh tế thị trường; đánh giá thực trạng của hệ thống ASXH và việc thực
hiện chính sách ASXH; phân tích xu hướng đổi mới hệ thống ASXH và hệ
thống chính sách ASXH; đề xuất các giải pháp xây dựng hệ thống tổng thể
quốc gia về ASXH ở Việt Nam giai đoạn 2006 – 2015.
Nhìn chung các công trình, bài viết trên, dưới những góc độ tiếp cận
khác nhau đã đề cập đến BHXH, nhưng đến nay chưa có công trình khoa học
nào nghiên cứu cụ thể về BHXH ở địa bàn tỉnh Hải Dương, đặc biệt là xem
xét dưới góc độ phát triển theo hướng bền vững. Tuy nhiên những nội dung
của các công trình khoa học đã nêu đều được tác giả luận văn nghiên cứu, kế
thừa để giải quyết những vấn đề đặc thù đặt ra trong luận văn của mình.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
3.1. Mục đích nghiên cứu của luận văn
Trên cơ sở vận dụng lý luận và kinh nghiệm thực tiễn về BHXH và

thực hiện BHXH theo hướng bền vững, luận văn phân tích thực trạng BHXH
ở Hải Dương từ năm 2006 đến nay; từ đó đề xuất những định hướng và giải
pháp chủ yếu nhằm nâng cao hiệu quả và bảo đảm tính bền vững của việc
thực hiện BHXH ở Hải Dương trong thời gian tới.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
- Làm rõ cơ sở lý luận và kinh nghiệm thực tiễn về BHXH, thực hiện
BHXH theo hướng bền vững.
- Phân tích đánh giá thực trạng việc thực hiện BHXH theo tiêu chí bền
vững, chỉ ra những kết quả đã đạt được, những hạn chế và những vấn đề đang
đặt ra hịên nay trong công tác BHXH ở tỉnh Hải Dương.
- Đề xuất phương hướng và giải pháp hoàn thiện về thực hiện chính
sách BHXH theo hướng bền vững ở tỉnh Hải Dương.
- Kiến nghị với Nhà nước bổ sung sửa đổi chính sách liên quan đến
công tác thực hiện BHXH theo hướng bền vững.

13


4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của lụân văn
- Về đối tượng: Nghiên cứu việc thực hiện BHXH ở tỉnh Hải Dương.
- Về phạm vi nghiên cứu: Nghiên cứu về việc thực hiện chính sách
BHXH theo hướng bền vững ở Hải Dương từ năm 2006 đến nay.
5. Phương pháp nghiên cứu của luận văn
- Luận văn thực hiện trên cơ sở phương pháp luận của Chủ nghĩa Mác Lê nin và Tư tưởng Hồ Chí Minh để hệ thống hóa những vấn đề lý luận ở
chương I.
- Luận văn sử dụng phương pháp phân tích, đối chiếu so sánh số liệu để
đưa ra những nhận định khoa học ở chương II.
- Luận văn sử dụng phương pháp tổng hợp đúc rút từ thực tiễn ở
chương III.
6. Những đóng góp của luận văn

- Làm rõ nội dung và các tố chất bền vững trong việc thực hiện BHXH.
- Phân tích thực trạng việc thực hiện BHXH theo hướng bền vững ở
tỉnh Hải Dương
- Đưa ra một số quan điểm, định hướng, giải pháp chủ yếu nhằm góp
phần nâng cao hiệu quả và đảm bảo tính bền vững khi thực hiện chính sách
BHXH .
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
gồm 3 chương, 10 tiết.
Chương 1: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn của việc thực hiện
BHXH theo hướng bền vững.
Chương 2: Thực trạng việc thực hiện BHXH theo hướng bền vững
ở tỉnh Hải Dương.
Chương 3: Phương hướng, giải pháp thực hiện BHXH theo hướng
bền vững ở tỉnh Hải Dương.

14


Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
CỦA VIỆC THỰC HIỆN BHXH THEO HƯỚNG BỀN VỮNG
1.1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ BHXH
1.1.1. Khái niệm BHXH
Bảo hiểm xã hội được thực hiện từ khá lâu và cũng đã có nhiều sự thay
đổi về chất với nhiều mô hình phong phú. Tuy nhiên cho đến nay định nghĩa thế
nào là bảo hiểm xã hội vẫn là vấn đề còn nhiều tranh luận, bởi lẽ khi tiếp cận bảo
hiểm xã hội ở những góc độ khác nhau lại có những quan điểm khác nhau:
Dưới góc độ chính sách: “BHXH là một chính sách xã hội, nhằm giải
quyết các vấn đề xã hội liên quan đến các tầng lớp đông đảo người lao động và

bảo vệ sự phát triển kinh tế - xã hội, sự ổn định chính trị quốc gia” [29, tr.10].
Dưới góc độ quản lý: “ BHXH là công cụ để quản lý, thông qua pháp
luật về BHXH điều chỉnh mối quan hệ kinh tế giữa người lao động, chủ sử
dụng lao động và Nhà nước; thực hiện quá trình phân phối và phân phối lại
thu nhập giữa các thành viên trong xã hội”[29, tr.10].
Dưới góc độ thu nhập: “BHXH là sự bảo đảm thay thế một phần thu
nhập khi người lao động có tham gia BHXH mất hoặc giảm thu nhập”.
Vì vậy, cho đến nay chưa có một khái niệm thống nhất về BHXH.
Ngoài ra các nhà nghiên cứu còn đưa ra một số khái niệm như:
Khái niệm thứ nhất: BHXH là mọi chế độ về bảo hiểm cho người lao
động. Đây là loại bảo hiểm bắt buộc. Những người lao động bắt buộc phải
đóng góp theo các quy định của Chính phủ vào các tổ chức bảo hiểm quốc gia
để nhận được các khoản trợ cấp [29, tr.10].
Khái niệm thứ hai: BHXH là tổng hợp những quy định của Nhà nước về
bảo đảm vật chất, góp phần ổn định đời sống cho người lao động và gia đình

15


trong các trường hợp người lao động ốm đau, thai sản, hết tuổi lao động, bệnh
nghề nghiệp, mất việc làm, gặp rủi ro hoặc các khó khăn khác [29, tr.11].
Hai khái niệm trên thể hiện được những điểm cơ bản về BHXH như:
- BHXH là tổng hợp những quy định của nhà nước về quyền lợi và
trách nhiệm của người lao động khi tham gia BHXH.
- Quy định các chế độ về BHXH như: ốm đau, thai sản, tai nạn lao
động bệnh nghề nghiệp, hết tuổi lao động, mất việc làm, chết...
Tuy nhiên ở từng khái niệm chưa thể hiện đầy đủ các khía cạnh của
BHXH: khái niệm thứ nhất đưa ra một loại hình BHXH bắt buộc, trên thực tế
còn có BHXH tự nguyện; khái niệm thứ hai không thể hiện trách nhiệm đóng
góp của người lao động; cả hai khái niệm trên đều không nêu sự bảo đảm thực

hiện và bảo hộ của nhà nước đối với việc thực hiện BHXH.
Từ những phân tích trên tác giả đưa ra khái niệm như sau: Bảo hiểm xã
hội là những quy định của Nhà nước nhằm đảm bảo chế độ hưu trí, mất sức
lao động hoặc thay thế, bù đắp một phần thu nhập cho đối tượng bị ốm đau,
thai sản, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, tàn tật, thất nghiệp, tuổi già, tử
tuất... dựa trên cơ sở quỹ tài chính do các bên tham gia BHXH đóng góp và
sự bảo hộ của Nhà nước nhằm ổn định đời sống cho người tham gia BHXH
và gia đình, đồng thời góp phần bảo đảm bình yên cho xã hội.
1.1.2 . Sơ lược sự ra đời và lịch sử phát triển của bảo hiểm xã hội
Bảo hiểm xã hội (BHXH) ra đời là kết quả của một quá trình đấu tranh
lâu dài giữa giai cấp công nhân làm thuê với giới chủ tư bản. Kết quả này đã
được các nước trên thế giới ghi nhận và đều cố gắng xây dựng cho mình một
hệ thống BHXH phù hợp. Qua nhiều năm nghiên cứu về BHXH, giáo sư
Henri Kliller thuộc trường đại học Sol ray của Bỉ đã khẳng định rằng nguồn
gốc của BHXH xuất phát từ những vấn đề kinh tế, chính trị xã hội.
Cuộc cách mạng công nghiệp đã tạo điều kiện cho chủ nghĩa tư bản ra
đời và ngày càng lớn mạnh. Xã hội tư bản chủ nghĩa là điển hình của quan hệ
16


tư hữu về tư liệu sản xuất và sản xuất hàng hóa đã ra đời. Kinh tế hàng hóa đã
buộc các chủ tư bản phải thuê mướn lao động. Sản xuất hàng hóa càng phát
triển thì nhu cầu thuê mướn ngày càng tăng lên và đội ngũ những người gia
nhập đội quân làm thuê ngày càng đông. Vì vậy giai cấp công nhân cũng đã ra
đời từ cuộc cách mạng công nghiệp.
Khi nền kinh tế hàng hóa phát triển, việc thuê mướn nhân công trở nên
phổ biến. Giai cấp công nhân là giai cấp làm thuê cho giới chủ và được giới
chủ trả tiền. Lúc đầu giới chủ cam kết trả tiền lương, tiền công. Người lao
động bị bóc lột tàn bạo và bị đối xử không công bằng. Giờ làm việc của họ
thường bị kéo dài và cường độ lao động rất cao nhưng tiền công được trả rất

thấp. Hiện tượng ốm đau, tai nạn lao động xảy ra phổ biến. Và với tiền công
được trả đó họ không thể đảm bảo cuộc sống của mình cũng như gia đình
mình. Thêm vào đó, nhà nước cũng như giới chủ không hề quan tâm hay giúp
đỡ họ. Đứng trước tình hình đó giai cấp công nhân đã liên kết lại với nhau để
tương trợ, giúp đỡ lẫn nhau; lập ra các quỹ cứu trợ người ốm, người bị tai
nạn; lập các tổ chức tương tế và vận động mọi người tham gia; đấu tranh tự
phát với giới chủ như: đòi tăng lương giảm giờ làm; thành lập các tổ chức
công đoàn và sau này là đấu tranh có tổ chức nhưng bị giới chủ đàn áp dã
man, nhiều khi giai cấp công nhân không đòi được quyền lợi mà còn bị tổn
thất nặng nề. Mâu thuẫn giữa giới chủ và thợ ngày càng trầm trọng và sâu sắc.
Các cuộc đấu trang của giai cấp công nhân diễn ra ngày càng rộng lớn và có
tác động nhiều mặt đến đời sống kinh tế xã hội. Do vậy, Nhà nước đã phải
đứng ra can thiệp và điều hòa mâu thuẫn. Sự can thiệp này một mặt làm tăng
vai trò của Nhà nước, mặt khác buộc cả giới chủ và giới thợ đều phải đóng
góp một khoản tiền nhất định hàng tháng. Nhận thức được lợi ích của việc
này nên cả giới chủ và thợ đều tham gia. Ngoài nguồn đóng góp của giới chủ,
thợ để hình thành qũy còn có sự tham gia đóng góp bổ sung từ ngân sách Nhà

17


nước khi cần thiết. Nguồn quỹ này nhằm đảm bảo đời sống cho người lao
động khi không may gặp phải những biến cố bất lợi. Chính nhờ những mối
quan hệ ràng buộc đó mà rủi ro, bất lợi của người lao động được dàn trải,
cuộc sống của người lao động và gia đình họ ngày càng đưạơc đảm bảo ổn
định. Giới chủ cũng thấy mình có lợi và được bảo vệ, sản xuất kinh doanh
diễn ra bình thường, tránh được những xáo trộn không cần thiết. Vì vậy,
nguồn quỹ tiền tệ tập trung được thiết lập ngày càng lớn và nhanh chóng. Khả
năng giải quyết các phát sinh lớn của quỹ ngày càng đảm bảo. Đó chính là
nguồn gốc sự ra đời của bảo hiểm xã hội.

1.1.3. Bản chất, mục tiêu của BHXH
- Bản chất của BHXH
Con người sống lao động, làm việc nhằm thoả mãn các nhu cầu của
mình, từ các nhu cầu cơ bản, thiết yếu như ăn, mặc, ở, đi lại... đến các nhu cầu
cao hơn như vui chơi giải trí, có địa vị trong xã hội, được tôn trọng bảo vệ...
Khi cuộc sống càng phát triển thì nhu cầu của con người cũng ngày càng cao
hơn. Để thoả mãn được nhu cầu của mình con người phải lao động. Tuy nhiên
trong cuộc sống không phải lúc nào con người cũng gặp thuận lợi có được
một cuộc sống ổn định. Trái lại có rất nhiều khó khăn, bất lợi ít nhiều ngẫu
nhiên phát sinh làm cho người ta bị giảm hoặc mất thu nhập hoặc các điều
kiện sinh sống khác.
Chẳng hạn bất ngờ bị ốm đau hay bị tai nạn lao động, mất việc làm,
tuổi già khả năng lao động và khả năng tự phục vụ bị suy giảm... Khi rơi vào
trường hợp này, các nhu cầu thiết yếu trong cuộc sống không bị giảm đi mà
còn tăng lên thậm chí xuất hiện một số nhu cầu mới như: ốm đau thì cần được
khám chữa bệnh, tai nạn thì cần được người chăm sóc nuôi dưỡng, về hưu thì
cần được đi thăm bạn bè... Bởi vậy để đảm bảo ổn định cuộc sống của mỗi cá
nhân cũng như toàn xã hội con người đã có nhiều cách khác nhau như tương
18


trợ, giúp đỡ lẫn nhau, vay mượn đi xin, kêu gọi sự giúp đỡ của nhà nước. Tuy
vậy các hình thức này đều mang tính bị động và không chắc chắn.
BHXH ra đời, tồn tại và phát triển là một tất yếu khách quan gắn liền
với sự phát triển của xã hội loài người, bởi vậy nó mang trong mình bản chất
kinh tế và bản chất xã hội.
Bản chất xã hội của BHXH thể hiện ở chỗ những người tham gia cùng
đóng góp một khoản tiền ( khoản đóng góp này là khoản tiền trích trong thu
nhập của người lao động sau khi đã chi tiêu cho các nhu cầu tối thiểu và nhu
cầu cần thiết) để lập ra một quỹ dự trữ nhằm góp phần ổn định cuộc sống của

người tham gia và gia đình họ khi gặp rủi ro làm giảm hoặc mất khả năng thu
nhập từ lao động. Mục đích của việc hình thành quỹ này để trợ cấp cho những
người khi gặp rủi ro tránh được những hụt hẫng về thu nhập [12, tr.35].
Bản chất kinh tế được thể hiện ở chỗ, người lao động chỉ đóng góp một
phần nhỏ trong thu nhập của mình nhưng do mối quan hệ giữa các bên trong
bảo hiểm xã hội phát sinh trên cơ sở quan hệ lao động diễn ra giữa 3 bên: bên
tham gia BHXH (người lao động và người sử dụng lao động), bên BHXH (cơ
quan nhận nhiệm vụ BHXH), bên được BHXH (người lao động và gia đình
họ) cho nên phần thu nhập bị mất đi, bị giảm của người lao động được thay
thế, bù đắp từ nguồn quỹ BHXH. Nguồn này do bên tham gia đóng góp là chủ
yếu còn lại do nhà nước bù thiếu, nên quỹ BHXH có khoản tiền lớn đảm bảo
đủ tài chính để chi trả khi người lao động phát sinh nhu cầu thanh toán. Quỹ
hoạt động theo nguyên tắc có một phần chia sẻ rủi ro: “ Lấy số đông bù số ít
người rủi ro”.
- Mục tiêu của BHXH
BHXH là một hoạt động không vì mục đích lợi nhuận. Mục tiêu của
BHXH là mục tiêu xã hội. Điều này được thể hiện thông qua việc chi trả chế
độ BHXH. Người tham gia BHXH sẽ được hưởng khoản trợ cấp khi họ bị

19


mất khả năng hoặc giảm khả năng thu nhập từ lao động. Các khoản trợ cấp đó
được xây dựng từ sự đóng góp cuả chính người lao động. Tuy nhiên sự đóng
góp của người lao động có thể không đủ chi trả các chế độ nên Nhà nước phải
trợ giúp. Chính các khoản trợ cấp đó giúp họ vượt qua khó khăn, ổn định cuộc
sống và tiếp tục tham gia lao động sản xuất. BHXH đã góp phần ổn định an
ninh chính trị, an toàn xã hội và góp phần xóa đói giảm nghèo [12, tr.36].
Nhìn chung BHXH hoạt động BHXH không vì mục tiêu lợi nhuận mà
hoạt động để đảm bảo sự phát triển lâu bền của nền kinh tế, thúc đẩy tiến bộ

xã hội. Điều này lý giải tại sao BHXH được coi là một trong những chỉ tiêu
đánh giá mức độ phát triển của một quốc gia.
1.1.4. Đối tượng, hình thức của BHXH
- Đối tượng của BHXH
Quan điểm về đối tượng bảo hiểm xã hội chưa có sự thống nhất giữa
các nước cũng như trong mỗi thời kỳ ở từng quốc gia.
Hầu hết các nước trong trong buổi sơ khai của BHXH đều theo khuynh
hướng chỉ thực hiện BHXH cho công nhân viên chức nhà nước. Việt Nam
cũng không nằm ngoài thực tế đó, mặc dù như vậy là không bình đẳng giữa
những người lao động.
Ngoài ra còn có quan niệm: Đối tượng của BHXH là các loại tài sản và
sinh mạng con người, từ đó cũng hình thành hai ngành bảo hiểm: Bảo hiểm
tài sản và bảo hiểm sinh mạng. Tùy thuộc vào trình độ phát triển kinh tế và
nhu cầu của mọi người mà mỗi ngành trên đây lại được chia thành những
ngành nhỏ và tiến hành bảo hiểm theo những nghiệp vụ khác nhau [41, tr.6].
-

Hình thức của BHXH
Thứ nhất : Phân loại theo loại hình BHXH cuả người tham gia BHXH
bao gồm:
+ BHXH bắt buộc: Đây là loại BHXH do luật pháp nhà nước quy định
bắt buộc đối với chủ thể bảo hiểm.
20


+ BHXH tự nguyện: Là hình thức bảo hiểm hai bên thỏa thuận với
nhau để ký kết hợp đồng bảo hiểm, là tự nguyện đóng phí bảo hiểm theo quy
định của tổ chức bảo hiểm.
Thứ hai : Phân theo thời gian cân đối và hạch toán quỹ BHXH
+ BHXH ngắn hạn

+ BHXH dài hạn
Thứ ba : Các cách phân loại khác:
+ Căn cứ vào tần suất chi trả BHXH : BHXH 1 lần, BHXH thường xuyên
+ Căn cứ vào đối tượng BHXH: có các loại bảo hiểm sau đây:
Một là, bảo hiểm tài sản: Những tài sản được phân chia thành các nhóm
để tiến hành bảo hiểm như: Bảo hiểm hàng hóa vận chuyển, bảo hiểm phương
tiện vận tải, bảo hiểm tài sản trong các gia đình và doanh nghiệp......Người
được bảo hiểm là chủ sở hữu hay chủ sử dụng các tài sản trên đã đóng phí bảo
hiểm [41, tr.7].
Hai là, bảo hiểm sinh mạng : Bao gồm bảo hiểm sức khỏe, bảo hiểm y tế,
bảo hiểm tai nạn lao động hoặc các bệnh nghề nghiệp, bảo hiểm hưu trí, bảo
hiểm tử tuất.....Tham gia bảo hiểm sinh mạng là mọi người trong xã hội không
phân biệt tuổi tác, thành phần kinh tế khi đã nộp phí bảo hiểm cho một tổ chức
bảo hiểm nào đó thì được tổ chức đó bồi thường lúc gặp rủi ro [41, tr.7].
Để bảo đảm quyền lợi cơ bản cho người lao động trên toàn thế giới và an
toàn xã hội, Tổ chức Lao động quốc tế (ILO) ban hành Công ước số 102 ngày
4/6/1952 về quy phạm tối thiểu an toàn xã hội, có quy định 09 chế độ trợ cấp
gồm:
- Chế độ chăm sóc y tế

- Chế độ trợ cấp gia đình

- Chế độ trợ cấp ốm đau

- Chế độ trợ cấp thai sản;

- Chế độ trợ cấp thất nghiệp

- Chế độ trợ cấp tàn tật


- Chế độ trợ cấp tuổi già

- Chế độ trợ cấp tiền tuất.

21


- Chế độ trợ cấp tai nạn lao động
Việc thực hiện các chế độ BHXH ở mỗi nước rất khác nhau, tuỳ thuộc vào
điều kiện kinh tế, lịch sử, chính trị và xã hội cụ thể của mỗi nước. Đối với những
nước có nền kinh tế phát triển thì gần như thực hiện đầy đủ cả 9 chế độ được quy
định trong Công ước 102 và quy định bổ sung của Tổ chức Lao động quốc tế [12,
tr.36].Còn những nước lạc hậu, nền kinh tế nghèo nàn thì chỉ áp dụng một số chế
độ bắt buộc chủ yếu là: Ốm đau, thai sản, tai nạn lao động, hưu trí và tử tuất. Ở
nước ta, theo quy định tại Điều lệ BHXH ban hành kèm theo Nghị định số: 12/CP
ngày 26/01/1995 và Nghị định số 45/CP ngày 15/07/1995 của Chính phủ, NĐ
63/2005/NĐ - CP ngày 16/5/2005, Luật BHXH được quốc hội khóa XII thông
qua ngày 12 tháng 07 năm 2006 đang thực hiện 08 chế độ:
- Chế độ trợ cấp ốm đau
- Chế độ trợ cấp thai sản
- Chế độ trợ cấp tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp
- Chế độ trợ cấp hưu trí
- Chế độ trợ cấp tử tuất.
- Chế độ dưỡng sức và phục hồi sức khoẻ
- Chế độ trợ cấp thất nghiệp
- Chế độ khám chữa bệnh BHYT.
1.1.5. Nguyên tắc hoạt động của BHXH
Nguyên tắc hoạt động của BHXH là quy định nhằm bảo đảm cho các
hoạt động của BHXH diễn ra bình thường. Đó là những quan điểm, định
hướng và những quy định về BHXH để đề ra các phương thức hoạt động của

cả hệ thống BHXH nhằm đạt được mục tiêu. Nói cách khác nguyên tắc
BHXH là những quy tắc của các hoạt động BHXH, từ việc hoạch định chính
sách đến xây dựng các chế độ bảo hiểm phải hướng tới để đạt được những
mục tiêu đề ra [12, tr.37]. BHXH phải được xây dựng trên nền tảng các

22


nguyên tắc sau đây:
Thứ nhất, nguyên tắc đóng – hưởng: BHXH được xây dựng trên cơ sở
người lao động với tư cách là người tham gia đóng và hưởng BHXH. Đây là
nguyên tắc cơ bản nhất. Nó áp dụng với mọi đối tượng.
Về mức đóng: Do tham gia BHXH bao gồm nhiều loại hình lao động có
các hình thức thu nhập lao động khác nhau nên việc quy định mức đóng
BHXH cũng có sự khác nhau [12, tr.37].
Đối với BHXH bắt buộc mức đóng bảo hiểm thường được tính trên cơ
sở tiền lương, tiền công của người lao động.
Đối với BHXH tự nguyện việc quy định mức đóng góp không mang
tính chất bắt buộc. Họ tham gia BHXH mang tính tự nguyện. Họ sẽ căn cứ
vào tính lợi ích khi tham gia BHXH.
Về mức hưởng: Do không bao hàm chính sách trợ cấp ưu đãi nên muốn
hưởng BHXH phải được xây dựng trên cơ sở mức đóng, thời gian đóng
BHXH và sự chia sẻ giữa những người tham gia BHXH. Nguyên tắc này đảm
bảo quyền bình đẳng của người tham gia BHXH, đồng thời cũng là nguyên
tắc đảm bảo quỹ BHXH an toàn, khuyến khích người lao động tham gia [12,
tr.38].
Thứ hai,mọi người đều có quyền tham gia BHXH và có quyền hưởng
BHXH khi có nhu cầu về BHXH
Quyền được BHXH của người lao động là một trong những biểu hiện
cụ thể của quyền con người. Nhưng BHXH không phải là cái có sẵn mà trước

hết phải tạo ra nó. Ở mỗi nước khi muốn xây dựng hệ thống BHXH thì đầu
tiên Nhà Nước phải tạo ra điều kiện và môi trường về kinh tế - xã hội, về
chính sách và luật pháp, về tổ chức và cơ chế tổ chức quản lý cần thiết. Đồng
thời người lao động phải thực hiện trách nhiệm đóng góp tài chính của mình.
Chính trách nhiệm đóng góp tài chính BHXH là điều kiện cơ bản nhất để

23


người lao động được hưởng quyền BHXH.
Biểu hiện cụ thể của quyền được BHXH của người lao động là việc họ
được hưởng trợ cấp BHXH theo chế độ xác định. Các chế độ này gắn với các
trường hợp người lao động bị giảm hoặc mất khả năng lao động hoặc mất việc
làm do đó làm giảm hoặc mất nguồn sinh sống.
Thứ ba, nhà nước và người sử dụng lao động có trách nhiệm phải đóng
BHXH đối với người lao động, người lao động cũng có trách nhiệm phải tự
đóng BHXH cho mình.
Đây là quan hệ ba bên trong nền kinh tế thị trường, trong đó Nhà nước
phải có vai trò quản lí vĩ mô mọi hoạt động kinh tế - xã hội trên phạm vi cả
nước. Với vai trò này, Nhà nước có trong tay mọi điều kiện vật chất của toàn
xã hội, đồng thời cũng có mọi công cụ cần thiết để thực hiện vai trò của mình.
Trong quá trình phát triển, tăng trưởng kinh tế thì không phải lúc nào cũng
thuận lợi và đạt hiệu quả cao, cũng có những lúc có kết quả bất lợi, không
mong muốn. Điều này trực tiếp hoặc gián tiếp sẽ dẫn đến những rủi ro cho
người lao động. Vì vậy BHXH là rất cần thiết. Trong khuôn khổ của mình
Nhà nước có trách nhiệm tổ chức và khuyến khích mọi người tham gia vào
các loại hình BHXH. Bên cạnh đó, trách nhiệm của Nhà Nước còn thông qua
cơ quan BHXH – cơ quan Nhà Nước quản lý quỹ BHXH. Trong quá trình
quản lý quỹ BHXH cơ quan BHXH phải thực hiện các biện pháp nhằm bảo
toàn quỹ, đảm bảo tài chính để chi trả các chế độ BHXH. Tài chính để chi trả

các chế độ BHXH chủ yếu phải từ đóng góp của người tham gia BHXH. Tuy
nhiên với những đóng góp của người lao động không đảm bảo chi trả thì cơ
quan BHXH phải có trách nhiệm bù đắp phần thiếu hụt đó [12, tr.40].
Bên cạnh đó giữa người lao động và người sử dụng lao động có mối
quan hệ rất chặt chẽ. Người sử dụng lao động muốn ổn định và phát triển sản
xuất kinh doanh không chỉ chăm lo đầu tư máy móc thiết bị mà còn phải
24


chăm lo tay nghề và đời sống người lao động mà mình sử dụng. Khi người lao
động làm việc bình thường thì phải trả lương cho họ còn khi họ gặp rủi ro, bị
ốm đau, tai nạn lao động...mà có gắn với quá trình lao động thì phải có trách
nhiệm BHXH cho họ. Chỉ có như vậy, người lao động mới yên tâm công tác
góp phần tăng năng suất lao động và tăng hiệu quả kinh tế cho doanh
nghiệp.Đối với người lao động, khi gặp rủi ro không mong muốn và không
phải hoàn toàn hay trực tiếp do lỗi của người khác thì trước hết đó là rủi ro
của bản thân. Vì thế nếu muốn được BHXH tức là muốn nhiều người khác hỗ
trợ cho mình, là dàn trải rủi ro của mình cho nhiều người khác thì mình cũng
phải đóng BHXH. Điều đó cho thấy bản thân người lao động phải có trách
nhiệm tham gia BHXH để tự bảo hiểm cho mình.
Thứ tư, nguyên tắc lấy số đông bù số ít.
BHXH là hình thức chia sẻ rủi ro của đông người cho số ít người. Chỉ
có việc thực hiện việc san sẻ này thì người lao động mới có thể đảm bảo về
thu nhập khi họ bị giảm hoặc mất thu nhập khi gặp phải những biến cố. Cách
làm riêng có của BHXH là mọi người tham gia BHXH đóng góp tồn tích dần
thành một quỹ BHXH độc lập và tập trung dùng để chi trả trợ cấp cho những
người lao động khi và chỉ khi họ bị giảm hoặc mất khả năng thu nhập từ lao
động theo các chế độ xác định. Mức đóng góp thấp nên phần lớn những người
lao động trong nước đều có thể đóng góp dễ dàng nhưng điều quan trọng là sự
đóng góp đó được thực hiện đều kỳ ( tháng, quý, năm) để giảm gánh nặng về

tài chính cho những người tham gia BHXH.
Trong số đông những người tham gia BHXH chỉ những người lao động
có những điều kiện cần thiết mới được hưởng trợ cấp. Trong số đó có những
người đã có thời gian tham gia đóng góp lâu dài, nhưng cũng có người vừa
mới tham gia BHXH, vì thế trợ cấp mà họ nhận được lớn hơn rất nhiều so với
số tiền đã đóng góp của họ. Muốn như vậy không có cách nào khác là phải lấy
25


×