Tải bản đầy đủ (.pdf) (11 trang)

CHỮ NGƯỜI TỬ TÙ (NGUYỄN TUÂN)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (239.9 KB, 11 trang )

CHỮ NGƯỜI TỬ TÙ (NGUYỄN TUÂN)
I. Kiến thức cơ bản:
1. Tác giả:
( Kết hợp với đề: Anh ( chị) hãy nêu những nét chính trong sự nghiệp sáng tác
của Nguyễn Tuân )
-Nguyễn Tuân là một nhà văn lớn của văn học Việt Nam. Sự nghiệp của ông trải
ra trên hai chặng đường: trước và sau CM T8 năm 1945 : trước năm 1945, là nhà
văn lãng mạn; sau năm 1945, chuyển biến thành nhà văn cách mạng.
- Trước năm 1945, sáng tác của Nguyễn Tuân xoay quanh các đề tài chính:
+ Chủ nghĩa xê dịch: Viết về cái tôi lãng tử qua những miền quê, trong đó hiện
ra cảnh sắc và phong vị quê hương, cùng một tấm lòng yêu nước thiết tha. Tác
phẩm chính: Một chuyến đi, Thiếu quê hương…
+ Vẻ đẹp “ vang bóng một thời”: Là những nét đẹp còn vương sót lại của một
thời đã lùi vào dĩ vãng gắn với lớp nho sĩ cuối mùa. Tác phẩm chính: Vang bóng
một thời..
+ Đời sống truỵ lạc: Ghi lại quãng đời do hoang mang bế tắc, cái tôi lãng tử đã
lao vào rượu, thuốc phiện và hát cô đầu, qua đó thấy hiện lên tâm trạng khủng
hoảng của lớp thanh niêm đương thời. Tác phẩm chính: Chiếc lư đồng mắt cua,
ngọn đèn dầu lạc,…
- Sau năm 1945, sáng tác Nguyễn Tuân tập trung phản ánh hai cuộc kháng
chiến, qua đó thấy được vẻ đẹp của người Việt Nam vừa anh dũng vừa tài hoa.
Tác phẩm chính: Tình chiến dịch, Đường vui, Hà Nội ta đánh Mỹ giỏi,…Ông
cũng viết về công cuộc xây dựng đất nước, trong đó hiện lên con người Việt
Nam với vẻ đẹp cần cù mà rất mực tài hoa. Tác phẩm chính: Sông Đà, ký
Nguyễn Tuân,…
- Nguyễn Tuân là nhà văn suốt đời tìm kiếm cái đẹp và khẳng định những giá trị
nhân văn cao quý, với những nét phong cách nổi bật: tài hoa, uyên bác, hiện đại
mà cổ điển,…Ông có nhiều đóng góp cho sự phát triển của thể tuỳ bút và tiếng
Việt,…
2. Tác phẩm:
“Chữ người tử tù” ( đăng báo 1939, in trong tập “ Vang bóng một thời” (1940) )


là truyện ngắn đặc sắc nhất của Nguyễn Tuân. Cốt truyện xoay quanh cuộc gặp
gỡ kì lạ và éo le của hai nhân vật chính: Ông Huấn Cao có tài viết chữ đẹp, có
thiên lương và khí phách đã lãnh đạo nông dân khởi nghĩa và bị bắt giam vào
trại giam tỉnh Sơn. Viên quản ngục lại là một kẻ say mê chữ đẹp của ông Huấn
Cao, quyết tâm tìm mọi cách để xin chữ của Huấn Cao.
Truyện kết thúc bằng cảnh cho chữ - Một cảnh tượng xưa nay chưa từng có.


II. Kiến thức cho các dạng đề thi đại học.
1. Tình huống chuyện độc đáo
Tình huống là hoàn cảnh có vấn đề nhà văn tạo dựng để các nhân vật buộc phải
thể hiện đúng tính cách của mình. Hoàn cảnh điển hình sẽ làm nảy sinh tính
cách điển hình. Nguyễn Tuân đã tạo dựng một tình huống vừa kì lạ vừa oái oăm:
( Có lẽ chứ hề xảy ra trong thực tế ). Nơi gặp gỡ là nhà ngục và sự gặp nhau
giữa hai con người thộc về hai phía đối lập nhau: Huấn Cao – kẻ tử tù bất đắc dĩ
và viên quản ngục.
- Xét trên bình diện xã hội họ không thể tồn tại chung, Huấn Cao đại diện cho
những kẻ cầm đầu cuộc nổi loạn chống lại triểu đình, quản ngục đại diện cho hệ
thống và trật tự của giai cấp cầm quyền đương thời. Nhưng éo le thay, Huấn Cao
lại là người có tài viết chữ đẹp, còn quản ngục lại lả kẻ tôn thờ những con chữ,
hàng ngày khát mong có được chữ của Huấn Cao.
- Xét trên bình diện nghệ thuật họ hoàn toàn có thể trở thành tri âm, tri kỉ. Huấn
Cao – người sáng tạo ra cái đẹp tuyệt vời của nghệ thuật thư pháp, quản ngục
người gìn giữ và tôn thờ cái đẹp. Nếu gặp nhau trong một hoàn cảnh khác, hay
một bầu trời chỉ có nghệ thuật thì họ lại trở thành Bá Nha và Tử Kì thuở
trước.Cuộc gặp gỡ đã tạo dựng một tình huống kịch tính, từ cuộc gặp gỡ này hai
nhân vật sẽ bộc lộ tính cách. Huấn Cao: tài hoa, thiên lương và khí phách anh
hung, quản ngục là kẻ dịu dàng, biết giá người, biết trọng người ngay. Hành rình
gian nan và có lúc tưởng như ngục tù ấy không chỉ giam giữ Huấn Cao mà còn
là tiêu tan đi cái đẹp bởi cái nhơ bẩn và cái ác. Thế nhưng những tấm lòng trong

thiên hạ đã gặp nhau, sự thành tâm và sở thích cao quý của quản ngục đã làm
Huấn Cao cảm động.
2. Phân tích vẻ đẹp của hình tượng nhân vật Huấn Cao trong truyện ngắn “Chữ
người tử tù”.
- Huấn Cao được nhà văn Nguyễn Tuân xây dựng từ nguyên mẫu người anh
hùng Cao Bá Quát đầu thế kỷ XIX.
- Nguyễn Tuân đã tạo ra tình huống éo le để tô đậm những vẻ đẹp khác thường
của nhân vật. ( Tình huống điển hình lảm nảy sinh những tính cách điển hình).
a, Huấn Cao – Một nghệ sĩ tài hoa trong nghệ thuật thư pháp:
- Tài viết chữ của ông Huấn qua lời đồn của dân vùng tỉnh Sơn và qua những lời
nhận xét của viên quản ngụ c và thầy thơ lại.
- Niềm ao ước cháy bỏng của quản ngục và tấm chân tình, sự đối đáp của quản
ngục để xin chữ Huấn Cao. “ Chữ ông Huấn Cao đẹp lắm, vuông lắm ( …). Có
được chữ Huấn Cao mà treo là có một vật báu trên đời”. Cho nên , “ Sở nguyện
của viên quan coi ngục này là có một ngày kia treo ở nhà riêng mình một câu
đối do tay ông Huấn Cao viết”. Để có được chữ của ông Huấn Cao, viên quản


ngục không chỉ phải kiên trì, mà còn phải liều mạng. Bởi quản ngục cũng biết
thế nào là cái giá phải trả cho kẻ bỏ qua lệnh triều đình biệt đãi tội phạm nguy
hiểm, có khi phải trả giá bằng tính mạnh của mình.
- Chữ Huấn Cao vuông vắn, tươi tắn, nó nói lên cái hoài bão tung hoành của cả
một đời con người.
b, Huấn Cao – Một con người có thiên lương trong sáng:
- Ông chỉ cho chữ chỗ bạn thân và tri kỉ, không vì bạc vàng hay quyền thế mà ép
mình viết chữ bao giờ “ta nhất sinh không vì vàng ngọc hay vì quyền thế mà ép
mình viết câu đối bao giờ”.
- ý thức tự trọng, tinh thần nghĩa khí qua hành động đuổi viên quản ngục
- Trọng thiên lương, Huấn Cao đã thực sự cảm động trước “tấm lòng trong thiên
hạ” và sở thích cao quý của quản ngục

- Muốn người khác giữ trọn thiên lương, bằng việc gửi lại cái đẹp, cái ân tình
của nhữngc người tri kỉ Huấn Cao đã khuyên quản ngục và quản ngục cảm
động, tỉnh ngộ. Việc Huấn Cao cho chữ quản ngục không chỉ vì mục đích chơi
chữ mà chủ yếu để cữu người, cứu một thiên lương lầm đường lạc lối quá lâu
ngủ quên trong lớp tro tàn nguội lạnh của ngục tù phong kíên.
c, Huấn cao – Một khí phách anh hùng.
- Lãnh đạo nông dân khởi nghĩa chống triều đình, chấp nhn tội danh “ cầm đầu
bọn phản nghịch”
- Ngục tù chỉ gông cùm được thể xác, Huấn Cao vẫn sống tự do về tinh thần,
vẫn những hứng sinh bình mà ông từng làm: Rỗ gông, nhận rượu thịt thảm
nhiên, đuổi quản ngục…lạnh lùng, thảm nhiên trước cái chết đang đến gần
- Một tử tù chỉ đợi ngày ra pháp trường mà không hề nao núng, vẫn ung dung,
đàng hoàng “ Đến cái cảnh chết chém, ông còn chẳng sợ nữa là…”. Đối với viên
quản ngục, ônh chẳng những không sợ mà còn tỏ ra khinh bạc đến điều”.
- Sáng tạo thư pháp và truyền lại cái đẹp trước khi lĩnh án tử hình mà vẫn ung
dung, đường hoàng chứng tỏ trong con người tài hoa ây là một khí phách vô
cùng cứng cỏi và vượt trên hoàn cảnh.
d, Cảnh cho chữ - Nơi hội tụ và thăng hoa tất cả những vẻ đẹp của hình
tượng Huấn Cao
- Cảnh xưa nay chưa từng có: Thời gian, không gian đặc biệt, tư thế cuả kẻ xin
người cho. Cái đẹp, cái thiện đã chiến thắng cái ác và cái xấu, thiên lương và
nhân cách con người đã làm cảm động và thanh lọc tâm hồn một con người.
e, Tư tưởng của nhà văn gửi gắm.
- Một tinh thần dân tộc sâu sắc: Yêu mến và trân trọng nét đẹp của truyền thống
văn hoá dân tộc.
- Lòng say mê cái đẹp và đi tìm cái đẹp ở tài năng, đạo đức và nhân cách con
người.


- Khẳng định sự chiến thắng của cái đẹp, thiên lương và nhân cách ngay trong

hoàn cảnh ngặt nghèo, ngay ở môi trường của cái ác và bóng tối.
3. Phân tích nhân vật viên quản ngục trong truyện ngắn “ Chữ người tử tù”
(Nguyễn Tuân ):
Làm sáng tỏ nhận xét : “ Trong hoàn cảnh đề lao, người ta sống bằng tàn
nhẫn, bằng lừa lọc, tính cách dịu dàng và lòng biết giá người, biết trọng người
ngay của viên quan coi ngục này là một âm thanh trong trẻo chen vào giữa một
bản đàn mà nhạc luật đều hỗn loạn xô bồ” ( Chữ người tử tù – Nguyễn Tuân )
- Là một người làm nghề coi ngục, là công cụ trấn áp của bộ mãy thống trị
đương thời, nhưng viên quản ngục lại có thú chơi thanh cao- thú chơi chữ.
Ngay từ thời trẻ khi mới “ biết đọc vỡ nghĩa sách thánh hiền” ông đã có sở
nguyện “ một ngày kia được treo ơ rnhà riêng của mình một câu đối do tay ông
Huấn Cao viết
- Quản ngục trân trọng giá trị con người. Điều đó thể hiện rõ qua hành động “
biệt đãi” của ông đối với Huấn Cao: Dám chơi chữ của một kẻ đại nghịch là
Huấn Cao, Dám xin chữ tử tù ngay trong nhà ngục; Kiên trì, nhẫn nhục để có
được một bức chữ như sở nguyện
- Sở nguyện thanh cao muốn có được chữ Huấn Cao để treo ở nhà riêng của
mình bất chấp nguy hiểm, cùng thái độ thành kính đón nhận chữ của Huấn Cao
cho thấy tấm lòng “ biệt nhỡn liên tài”, biết trân trọng những giá trị văn hoá của
viên quản ngục.
- Diễn biến nội tâm, hành động và cách ững xử của viên quản ngục cho ta thấy
không chỉ Huấn Cao mà cả viên quản ngục cũng có một nhân cách đẹp đẽ “ một
tấm lòng trong thiên hạ” tri âm, tri kỉ với Huấn Cao. Đó là một âm thanh trong
trẻo chen vào giữa một bản đàn mà nhạc luật đều hỗn loạn xô bồ”.
- Viên quan ngục là một người biết chữ thiên lương, biết trân trọng giá trị văn
hoá và tài năng, là người có tâm hồn nghệ sĩ, không có tài nhưng yêu tài, không
sáng tạo được cái đẹp nhưng biết yêu và trân trọng cái đẹp.
4. Giá trị tư tưởng và nghệ thuật của đoạn văn tả cảnh ông Huấn Cao cho chữ.
Tại sao có thể nói là “ đây là một cảnh xưa nay chưa từng có”?
- Hoàn cảnh cho chữ: thời gian, địa điểm, ánh sáng

- Tư thế của người xin và người cho xưa nay chưa có: Sự đổi ngôi giữa Huấn
Cao và Quản ngục
- Lần đầu tiên cũng là lần cuối cùng
- Giá trị, ý nghĩa: cái đẹp không thể chung sống với cái ác, muốn tôn thờ cái đẹp
phái có thiên lương, Khẳng định sự bất tử của cái đẹp và cái thiện, của thiên


lương
- Nghệ thuật tạo hình, tương phản
Bài viết tham khảo:
Đề 1: Phân tích vẻ đẹp nhân vật Huấn Cao trong Chữ người tử tù
Vườn văn học Việt Nam, đặc biệt là phong trào văn học lãng mạn(19301945) toả ngát những bông hoa muôn màu, muôn sắc. Giữa vườn hoa ngàn sắc
tía đó nổi lên một bông hoa ngát hương: Vang bóng một thời của Nguyễn Tuântác phẩm viết về một thời đã qua nay chỉ còn vang bóng. Trong Vang bóng một
thời truyện ngắn Chữ người tử tù có một giá trị thiêng liêng, nổi bật. Ai đã từng
đọc Chữ người tử tù đều rung động cảm phục, sùng kính trước vẻ đẹp của người
anh hùng sa cơ lỡ vận mà hiên ngang, bất khuất, có tài, có tâm, mến mộ nghĩa
khí. Đó là Huấn Cao (HC), HC là kết tinh, là hội tụ phẩm chất của một con
người có nhân, dũng, trí. Ông là tập hợp của tất cả những gì tinh khiết nhất, cao
đẹp nhấT.
HC là một hình tượng thẩm mỹ, một nét đẹp trong cuộc sống đời thường, là
một người có nhân cách vẹn toàn, vừa có tài văn, tài võ, vừa là người có nghĩa
khí. HC phảng phất bóng dáng của Cao Bá Quát đã từng sống một cuộc sống
tung hoành ngang dọc, là người có tài ,có đức, văn hay chữ đẹp, sống trong giai
đoạn của Nguyễn triều, dám đứng lên chống lại bọn thực dân phong kiến, bọn
cường quyền, đả kích xã hội PK thối nát, bỉ ổi. Phải chăng, Nguyễn Tuân(NT)
đã mượn HC để ca ngợi Cao Bá Quát và mặt khác dựa vào Cao Bá Quát, khái
quá lên một hình tượng HC mà cái đẹp của tài hoa quyện với cái đẹp của khí
phách, tuy chí không thành nhưng vẫn coi thường hiểm nguy gian khổ, coi khinh
cái chết. Tư thế của HC hiên ngang lồng lộng toả sáng trên cái nền đen quánh
của tù ngục. Nói đến vẻ đẹp của hình tượng HC trước hết phải nhắc đến cái tái.

HC là một người viết chũa đẹp. Trong thị hiếu thẩm mỹ của người xưa từ Trung
Quốc đến Việt Nam thì viết chữ đẹp là cả một nghệ thuật cao quý và chơi chữ
đẹp là biểu hiện của con người có tri thức, một vẻ đẹp hoàn mỹ trong văn hoá
truyền thống dân tộc. Nó như một sản phẩm nghệ thuật, như một vật báu mà con
người khát khao, thèm muốn. Ngào ra, HC còn có tài bẻ khoá vượt ngục coi nhà
tù như nơi không người, ra vào như chơi. Điều đó thể hiện một con người khát
khao tự do, hoài bão tung hoành luôn đấu tranh cho chính nghĩa, chống lại triều
đình PK mục nát. Tất cả những tài năng đó làm thành một HC có tầm lớn, đi vào
lòng độc giả như một anh hùng, một trượng phu đã vượt lên tất cả cái bình
thường nhỏ nhoi của cuộc đời để vẫy vùng để chọc trời khuấy nước. Nhưng
trong cái xã hội PK bóc lột người, nhân tài như lá mùa thu ấy thì HC hiện lên là
một anh hùng thất thế. Nguyễn Du đã từng viết về Từ Hải-một anh hùng thời cổ:


Hùm thiêng khi đã sa cơ cũng hèn
Song vị hùm thiêng HC này tuy có sa cơ, lỡ nghiệp nhưng HC vẫn kiên
cừơng, bất khuất, vẫn dũng khí. Do đó, người đọc không chỉ nhận ra HC là một
người có tài mà ông còn là người có dũng khí, hiên ngang trước cường quyền,
trước một cái chết treo lơ lửng. Hết mực ca ngợi cái tài của HC, đồng thời
Nguyễn Tuân cũng hết sức trân trọng cái tâm của HC. Bởi Cái tâm kia mới bằng
ba chữ tài(Nguyễn Du).
Cái tâm của ông cũng vuông lắm, cao khiết và đày sức chinh phục như nét chữ
của ông vậy. Có lẽ phong cách tức là con người đã được thể hiện rất rõ ở đây.
Mặc dù viết chữ Nho đẹp lẽ ra ông phải trung thành với đạo thánh hiền, giữu
mình theo lễ nghĩa Nho giáo, trung với vua, một lòng một dạ theo triều đình.
Nhưng không! HC không chịu vào luồn ra cúi, không chịu sống trong cảnh
nhung hoa áo gấm, thà làm giặc triều đình sống theo chính nghĩa mà mình đã
vạch ra. Sự nghiệp dang dở, bị bát, bị kết án tử hình nhưng ông vẫn không hề tỏ
thái độ run sợ, không mảy may tiếc nuối, hối hận. HC- ngôi sao Hôm chính vị
ấy- bước vào ngục trong tư thế thật hiên ngang, khí phách ung dung. Trong con

mắt của bọ lính ông thật cao thượng, bất khuất, khinh đời. Ngay cả với gông
xiềng, với cái án tử hình sắp đến gần, thái độ của ông vẫn ngang tàn, lạnh lùng.
HC ung dung, lãnh đạm dỗ gông trước mạt bọn lính, không thèm chấp mấy lời
đe doạ. Ông bình thản ăn những món ăn do quan ngục biệt đãi, coi như mình có
quyền hưởng thụ, ông làm việc theo ý mình, hoàn toàn tự chủ. Ông ngước mát
nhìn lên nhà lao, lên những bộ mặt bất nhân, nham nhở. Cái nhìn hiên ngang đó
không run sợ, không căm hờn, oán hận, không van xin, cầu khẩn. Đó là một cái
nhìn của kẻ dám làm dám chịu.
Thậm chí ông còn khinh bạc, nặng lời khi chưa rõ ý tốt cuả quản ngục: Ngươi
hỏ i ta muốn gì?Ta chỉ muốn có một điều. Là nhà ngươi đừng đặt chân vào đây.
Con người khuấy nước trọc trời chẳng biết nể sợ ai. Nừu trong đời thương trừ
chỗ tri kỷ, ông ít chịu cho chữ, nhất sinh không vì vàng ngọc hay quyền thế mà
phải ép mình viết câu đối bao giờ, thì khi sa vào chốn giam cầm thì mấy chén
rượu, vài bữa cơm thịt của hai con người vô danh tiểu tốt ở chốn tù ngục bé nhỏ
này làm sao lung lay được ông hay vì quyền uy mà làm ông run sợ. Thật đúng là
nhân cách lý tưởng mà con người của ngàn năm qua vẫn ao ước. Cái thái độ
khinh đời, ngang tàn đó phải chăng làm cho viên quản ngục ngây ngất, kính nể.
Hc đã mang đén chốn lao tù, cho cái địa ngục sống này một ánh sáng ký ảo,
huyền diệu, lung linh, chói rọi, soi sáng đạo lý làm người. Thiên lương cao đẹp


của ông là một vầng hào quang toả sáng rực rỡ trên bầu trời đầy u ám của nhà
tù.
HC-vầng hào quang chói lọi này không những là một người có dũng trí mà còn
là một con người có trài tim nhân hậu. Khi biết thiện ý của quản ngục, HC đã rất
cảm động.
Từ đó, ta thấy ông Huấn là người có lòng bao dung, độ lượng, chia sẻ nỗi niềm
cùng với hai người bạn bạn mới mà suýt nữa ông đã đánh mất: Ta cảm cái tấm
lòng biệt nhỡn liên tài của các ngươi. Nào ta biết đâu một người thầy quản đay
lại có cái sở thích cao quý như vậy. Thiếu chút nữ ta đi phụ mất một tấm lòng

trong thiên hạ. Sự biệt đãi bằng vật chất và thái độ ân cần không làm cho trái tim
sắt đá kia mềm lòng. Chính cái tấm lòng biệt nhỡn liên tài và những sở thích cao
quý, hướng về văn minh, văn hoá mới cảm hoá được trái tim dường như được
đúc bằng thép ấy. Thái độ biệt nhỡn liên tài của HC đối với quản ngục không
phải sự liên tài sự trả ân đối với người đã đối xử tử tế, biết chơi chữ của mình,
mà là sự trân trọng, cảm đọng trước một nhân cách Gần bùn mà chẳng hôi tanh
mùi bùn. Quản ngục sống giưũa bùn nhơ nhớp mà vẫn giữu được thiên lương,
biết trọng người tài, kính cái đẹp. Đó đúng là một đoá sen trong bùn.
ánh hào quang rực rỡ, vẻ đẹp tuyệt diệu toả ra rất rõ ở cảnh HC cho chữ. Nó bộc
lộ trọn vẹn nhất vẻ đẹo nhân cách HC. ở đây vẻ đẹp này toả hương thơm ngát
hơn lúc vào hết. Dưới ngòi bút của NT, một cảnh tượng đày kịch tính diễn ra,
một cảnh tượng xưa nay chưa từng có. Đó là sự tương phản giữa một bên là một
buồng tối chật hẹp, ẩm ướt, tương đày mạng nhện, đất bừa bãi phân chuột, phân
gián với một bên là tấm lụa trắng tinh, căng phẳng và với ánh sáng của bó đuốc
tẩm dầu đang cháy rừng rực. Ba đầu người chăm chú trên một tấm lụa bạch
nguyên vẹn.
Nó là sự trái ngược của sự tàn bạo, đánh đập, tra khảo dã man với ánh sáng của
nền văn minh, văn hóa. Đó còn là sự mâu thuẫn giữa bóng tối và ánh sáng, cái
xấu và cái đẹp, cái ác và cái thiện, cái chết và cái sống, cái xấu xa đê tiện và cái
trong trẻo cao thượng. Ngòi bút dựng cảnh, dựng người của Nguyễn Tuân rất
giàu tính tạo hình với trình độ nghệ thuật điêu luyện, sức sảo, gần đạt đến sự
hoàn mĩ( Vũ Ngọc Phan ).
Dưới ánh sáng của bó đuốc đỏ rực-bó đuóc của trí tuện, của niềm tin, của hy
vọng và trong khung cảnh thật nghiêm trang, thật thiêng liêng này, HC dồn hết
tâm linh, sinh lực vào từng nét chữ. Ông không mảy may lưu ý gì đến cái xấu xa
xa, bẩn thỉu đang tồn tại mà hoàn toàn bị thu hút, quyến rũ vào một sự vật :tấm
lụa bạch nguyên vẹn. Đúng thế, ở đay chỉ có cái đẹp, cái cao thượng mới thực sự


tồn tại. Chính tấm lụa trắng tinh này mà ông HC đang cho ra đời những con chữ

tuyệt tác ấy mới thực sự có sức mạnh. Ở đây không còn là một HC tử tù nữa.
Chỉ còn một HC tự do nhất, sống động nhất. Cái giá treo cổ kia cũng không còn
nữa mà chỉ có cuộc sống vĩnh hằng về chân lý của cái đẹp. Ngôi sao sáng –HC đang phát quan bừng tỉnh cái không gian u tối, phá vỡ caí màn đem ngự trị ngàn
đời ở đây. HC đem đén nơi đay một thế giới văn hoá. Vẻ đẹp cao nhân đó đã
làm cho viên quản ngục lại vội khúm núm cất những đòng tiền kẽm đánh dấu ô
chữ đặt trên phiến lụa óng. Và cái thầy thơ lại gầy gò, thì run run bưng chậu
mực. Tuy nhiên, ở nhà ngục này có sự thay bậc đổi ngôi, có sự chuyển hoá vị
thế, vị trí xã hội của con người. Nó noí lên một sự thật mà đày tính lãng mạn.
Giờ phút này và tại nơi đay không phải do quản ngục làm chủ. Sức mạnh, quyền
lực của cái đẹp và chân lý tồn tại trên đời, thể hiện sức mạnh, quyền uy theo
cách riêng của nó.
Nó không khất phục người ta bằng bạo lực, nó chinh phục người ta bằng tự bản
chất của nó. Nó không giày xéo áp đặt con người để bắt người ta phải tuân theo
nó, trái lại, nó vực con người ta đứng dậy, tự nguyện đi theo nó để hướng tới cái
CHÂN-THIỆN-MỸ trở nên trong sáng và tốt đẹp hơn. Và ở đây caí đẹp đã lên
ngôi thay thế cho cái xấu xa, thấp kém, cái đẹp nâng đỡ con người, cứu vớt con
người(Đôxtôiepxki). Cái đẹp đăng quan, cái xâú xa đã phải chìm xuống nhường
chỗ cho cái đẹp. Cái đẹp đã tồn tại, sẵn sàng và rất cần sự đánh thức cái thiên
lương ở mỗi con người. HC cho chữ như chuyển giao một nhân cách tự do,
chuyển giao cái đẹp đẻ cái đẹp mãi sinh sôi nảy nở, đi vào cõi vĩnh hằng. Hình
tượng nhân vật HC được khắc hoạ bằng ngòi bút lãng mạn cứ sừng sững hiên
ngang hiện lên như muốn cất bổng lên, phá vỡ chốn lao tù, phá vỡ cái cuộc sống
đang tràn ngập màn đêm, ngột ngạt, trì trệ.
Phải chăng đó là quan niệm thẩm mỹ của HC hay của là của chính NT: cái đẹp
phải gắn với cái thiện không thể ở chung với cái xấu, cái ác. Sự chân thành, bộc
bạch giản dị đó của HC đã khiến cho ngục quan cảm đọng vái người tù một cái
và rưng rưng: Kẻ mê muội nỳa xin bái lĩnh.
Nói tóm lại, HC là một con người tích tụ những phẩm chất tốt đẹp nhất. Tuy bị
cầm tù về thể xác nhưng lại tự do về tâm hồn. Hay nói khac đi, HC dưới ngòi
bút của Nguyễn Tuân là biểu tượng cho cái đẹp trong hoàn cảnh lịch sử đang

đày rẫy những cái xấu xa ,tội lỗi, biểu tượng cho Thiên lương cao quý. Con
người sống vượt lên những hiện thực tầm thường, tăm tối để toả sáng, đẻ vĩnh
cửu, để bất diệt, truyền cho người đời phẩm giá làm người, những phẩm giá tiêu
biểu cho đạo lý dân tộc.


Dựng lên hình tượng HC với vẻ đẹp rực rỡ tráng lệ giữa chốn lao tù ẩm thấp
chật chội. NT đã thể hiện niềm cảm phục sâu sắc đối với những người anh hùng
xả thân vì nghĩa lớn. Nhà văn đã sử dụng ngòi bút tả thực đầy kịch tính kết hợp
với việc khắc hoạ tính cách nhân vật và ngòi bút miêu tả phong cảnh hiện thực
lẫn lãng mạn. Có thể nói Chữ người tử tù với bút pháp sắc sảo khi dựng người,
dựng cảnh, với ngôn ngữ văn xuôi giàu có và góc cạnh, với vẻ đẹp tuyệt vơì của
HC, tác phẩm xứng đáng là một áng văn chương một thời vang bóng và nó mãi
mài vang bóng trong bạn đọc nhiều thời.
Đề 2: Phân tích bút pháp lãng mạn trong Chữ người tử tù của Nguyễn Tuân
Trong sự nghiệp Nguyễn Tuân, tập truyện ngắn “Vang bóng một thời” là một
mốc son đậm nét giúp người đọc hiểu và gần Nguyễn Tuân hơn, một Nguyễn
Tuân tài ba, uyên bác và làm chủ gần như tuyệt đối vốn tiếng Việt phong phú,
dồi dào và đầy sáng tạo. Tập truyện ngắn này của Nguyễn Tuân cũng là một
thành tựu rực rỡ của văn xuôi lãng mạn Việt Nam 1930 – 1945, hội tụ trong đó
những yếu tố thẩm mỹ và nguyên tắc sáng tác của phương pháp sáng tác này.
Truyện ngắn “Chữ người tử tù” là một trong số đó.
Trong “Chữ người tử tù” nói riêng và tập truyện ngắn “Vang bóng một thời” nói
chung, Nguyễn Tuân đã dựng lại những mảnh của cuộc sống một thời đã qua,
một thời vang bóng. Cả một dấu xưa vàng son, quá vãng nay trở về sáng lại trên
mỗi trang văn với vẻ đẹp mê hồn, có khi rùng rợn mang đầy nuối tiếc, bâng
khuâng. Truyện tuy ngắn nhưng cũng đủ để nhà văn vẽ ra một sự tương phản
giữa cái lý tưởng và hoàn cảnh thực tại, giữa cái Thiện và cái Ác, giữa ánh sáng
và bóng tối. Nhân vật Huấn Cao, quản ngục, thầy thư lại là một bộ ba nhân vật
mà trong đó chỉ Huấn Cao là có tên (một cái tên cũng khá mơ hồ gồm tên gọi tắt

của chức vụ (Huấn) đi kèm với họ (Cao)) nhưng vẫn sáng lên như những nốt
nhấn giữa một mặt bằng tăm tối. Có thể nói hoàn cảnh nhà lao nói riêng và hoàn
cảnh xã hội nói chung đã giam hãm những con người trong sạch đó vào cái lồng
thiên địa chật hẹp và bó buộc, là một không gian thù địch và luôn ẩn chứa sức
phá hoại đối với cái Tài, cái Đẹp, cái Thiên lương. Nhân vật quản ngục và thư
lại là những con người trung gian mà Huấn Cao là nhân vật lý tưởng, mẫu hình
lý tưởng đối lập với cuộc sống đang níu giữ, kéo ghì quản ngục và thư lại xuống.
Quản ngục và thư lại sống lẫn trong cuộc sống đó, Huấn Cao vượt lên khỏi cuộc
sống đó nhưng xét đến cùng họ đều là nhân vật của văn học lãng mạn. Huấn Cao
sống một cuộc sống mà bình sinh chọc trời khuấy nước mặc dầu với những hình
tích và hành trạng bí ẩn đầy màu sắc truyền thuyết. Con người ấy đối lập mình
với thế giới, với chế độ mà mình đang sống bởi tự ý thức được mình, ý thức
được phẩm giá của mình, kiêu hãnh đứng riêng ra và cao hơn với xung quanh và


cảm thấy cô độc trong niềm kiêu hãnh đó. Tuy quản ngục và thầy thư lại không
được như Huấn Cao nhưng họ vẫn là những người xa lạ với hoàn cảnh của mình
đang sống. “Trong hoàn cảnh đề lao, người ta sống bằng tàn nhẫn, bằng lừa lọc,
tính cách dịu dàng và lòng biết giá người (…) của viên quan coi ngục này là một
thanh âm trong trẻo chen vào giữa một bản đàn mà nhạc luật đều hỗn loạn, xô
bồ”. Họ sống lạc lõng với xung quanh, là những người chọn nhầm nghề bởi nơi
họ sống là một nơi “lẫn lộn (…) khó giữ thiên lương”, là nơi mà những cái thuần
khiết bị đày ải giữa một đống cặn bã. Giữa cảnh sống đó, nhân cách và tài năng
của Huấn Cao càng rực sáng hơn, Huấn Cao đã vượt lên khỏi những ràng buộc
của hoàn cảnh để sống với chính bản thân mình dù rằng ông đang ở trong cảnh
tù đày, cá nằm trên thớt. Nguyễn Tuân đã dùng những lời thật đẹp để tả lại
khung cảnh “một ngôi sao Hôm nhấp nháy như muốn trụt xuống phía chân trời
không định (…); bấy nhiêu âm thanh phức tạp bay cao dần lên khỏi mặt đất tối,
nâng đỡ lấy một ngôi sao chính vị muốn từ biệt vũ trụ…”. Những câu văn bay
bổng, tài hoa đó đã nói lên phần nào lòng yêu mến của nhà văn với các nhân vật

lý tưởng của mình.
Truyện ngắn “Chữ người tử tù” là một bức tranh gồm nhiều mảng màu khác
nhau, phân rõ tối sáng, đậm nhạt mà trong đó cái Thiện và cái Ác, ánh sáng và
bóng tối luôn tương phản với nhau. Có thể nói, ngay ước muốn xin chữ Huấn
Cao của viên quản ngục đã là một ý định đầy chất lãng mạn. Ước mơ đó đã là
cái nền nâng đỡ cho hàng loạt chi tiết sau này để những mảng màu tương phản
được bày ra. Cảnh tượng Huấn Cao cho chữ là tột đỉnh của quan điểm lãng mạn
mà tại điểm hội tụ đó cái Thiện chiến thắng cái Ác, ánh sáng đã lấn át bóng tối
và quan trọng hơn là sự phát triển của tính cách nhân vật không còn phụ thuộc
vào hoàn cảnh. Tính cách, cảm xúc của nhân vật đã vượt lên trên hoàn cảnh.
Nguyễn Tuân đã nói đó là “một cảnh tượng xưa nay chưa từng có” và chúng ta
có thể nói nếu theo logic thông thường của cuộc sống thì đó là một cảnh tượng
“không thể có”. Ở đây các nhân vật đã quên đi tất cả, quên đi địa vị, danh phận,
địa điểm mình đang đứng mà chỉ sống với cái đẹp, hướng tới ánh sáng, thưởng
thức chung một nét chữ, cảm nhận cùng một mùi thơm của mực. Trong bức
tranh sơn dầu đó, Huấn Cao có cái đẹp lan toả của một người nghệ sĩ còn viên
quản ngục và thầy thư lại có cái đẹp của lòng biệt nhỡn liên tài, vẻ đẹp của thiên
lương còn giữ được giữa bao quay cuồng đen trắng. Từ hành động rỗ gông của
Huấn Cao ở đầu truyện tới việc Huấn Cao viết chữ ở cuối truyện là sự thống
nhất nhân cách của một nhân vật lãng mạn. Quản ngục, thư lại là hai nhân vật
nâng đỡ nhưng cũng đẹp và đầy chất thơ – chất thơ của cái đẹp, của tài hoa đối
lập và vượt lên khỏi thực tại tầm thường, tăm tối. Câu nói “Xin lĩnh ý” của viên
quản ngục khi bị Huấn Cao quát đuổi ra ngoài chỉ đơn thuần là một sự nhũn


nhặn nhưng câu nói “Xin bái lĩnh” của chính nhân vật này ở cuối truyện, nói sau
khi được Huấn Cao cho chữ và khuyên bảo lại là một nét đẹp của một tâm hồn
hướng thiện, yêu mến tài hoa.
Trong sáng tác của các nhà văn lãng mạn, người ta có thể nhận ra được hình
bóng nhà văn trong nhân vật lý tưởng của mình. Huấn Cao trong “Chữ người tử

tù” là một nhân vật như thế. Hành trạng một đời tung hoành không biết trên đầu
có ai cùng sự tài hoa, ngông nghênh của ông Huấn cũng là một phần tâm hồn
Nguyễn Tuân gửi vào trong đó. Con người Nguyễn Tuân ở ngoài đời cũng như
con người ông trong văn chương và các nhân vật của ông có những nét chồng
khít đến kỳ lạ mà trong đó sự tài hoa, ngang tàng, phóng túng là mẫu số chung
của những phân số đó. Con người nghệ sĩ ấy không chấp nhận cái tầm thường
xung quanh, muốn nổi loạn với tất cả mà ở đây hình mẫu lịch sử của nhân vật
Huấn Cao (một số nhà nghiên cứu nói là Cao Bá Quát) chỉ còn tiếng vọng. Cũng
chính con người nghệ sĩ trong Nguyễn Tuân đã giúp ông bỏ đi phần kết của
truyện này khi in trên báo, không đưa vào trong tập sách “Vang bóng một thời”.
Khi truyện ngắn “Vang bóng một thời” in lần đầu trên báo, sau khi nói “Xin bái
lĩnh”, viên quản ngục đã nghĩ rằng mình đã có “lời”, có “lãi” khi biệt đãi Huấn
Cao và nhận được bức châm do chính tay Huấn Cao viết. Cái kết này đã bị lược
bỏ khi truyện được in thành sách và chính sự lược bỏ đó đã làm cho truyện
thành công hơn, cuốn hút hơn. Truyện cuốn hút vì nó là một khối lãng mạn thực
sự mà không bị những ý nghĩ vụ lợi xen vào dù chỉ trong từng chi tiết nhỏ. Đó
chính là quan niệm cái Đẹp không gắn liền với cái hữu ích, cái Đẹp đối lập với
cái vụ lợi, như Nguyễn Tuân từng nói: “Nghệ thuật là cái mà bọn con buôn coi
là vô giá trị…”.
“Vang bóng một thời” là một tiếng vọng đầy cuốn hút trong trào lưu văn học
lãng mạn 1930 – 1945 và “Chữ người tử tù” là một tiếng nói góp phần làm nên
sự thành công của tập truyện này. Có thể nói rằng, những đặc trưng của phương
pháp sáng tác lãng mạn chủ nghĩa không phải đã tập trung đầy đủ ở đây nhưng
nhà văn đã thực sự đem chúng ta đến một thế giới mà trong đó nhân vật lãng
mạn vượt lên khỏi hoàn cảnh để sống khác biệt với những tầm thường, tăm tối
quanh mình. Cái Đẹp, cái Thiện và sự tài hoa đã cùng nhau châu tuần về đó.




×