Tải bản đầy đủ (.docx) (18 trang)

bai bao cao cơ sở khoa học môi trường

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (840.96 KB, 18 trang )

KHOA TÀI NGUYÊN MÔI TRƯỜNG
BỘ MÔN KHOA HỌC MÔI TRƯỜNG

MÔN: CƠ SỞ KHOA HỌC MÔI TRƯỜNG

Nhóm 2


MỤC LỤC

Nhóm 2


1.

Mở đầu

Trong các vấn đề đáng lo ngại về môi trường hiện nay, thì vấn đề
Ôzon và thủng tầng ôzon là vấn đề bức xúc và nghiêm trọng mang tính
toàn cầu. Ôzon là “quả tim” của trái đất, nếu một mai ôzon không còn nữa
thì sự sống trên Trái Đất bị hủy diệt. Vậy Ôzon ,tầng Ôzon, thủng tầng
Ôzon là gì? Bài tiểu luận sau đây trình bày những vấn đề cơ bản và quan
trọng nhất về Ôzon, thủng tầng Ôzon và nguyên nhân hậu quả của nó.
1.1. Mục tiêu nghiên cứu
 Tìm hiểu về tầng Ôzon trong khí quyển (vị trí, chức năng…)
 Giúp chúng ta hiểu rõ hơn về quá trình hình thành và phân hủy Ôzon
 Nguyên nhân vì sao “quả tim” của chúng ta ngày càng bị suy yếu
 Biện pháp để bảo vệ “quả tim” của chúng ta
1.2. Phạm vi nghiên cứu
 Ôzon trong khí quyển
 Các tác nhân và cơ chế


2. Các khái niệm
2.1. Ôzon
Là một dạng thù hình của oxi
Tính chất vật lí
Ôzon(O3) là một dạng thù hình của
ôxy, trong phân tử của nó chứa ba nguyên
tử ôxy thay vì hai như thông thường. Là chất
khí màu xanh lam nhạt (trong điều kiện nhiệt
độ và áp suất tiêu chuẩn) mùi xốc. Ôzon hóa
lỏng màu xanh thẫm ở -112 °C, và hóa rắn có
màu xanh thẫm ở -193 °C. Có nhiệt độ sôi
-111,9 0C, tỉ khối so với không khí là 1,658,
trong môi trường nước pH=0
2.1.1.

Hình 2.1 Phân tử ôzon

Ôzon là chất hấp thụ mạnh các tia tử ngoại, tia nhìn thấy và tia hồng
ngoại. Ôzon có khả năng hấp thụ cao nhất ở bước sóng là 254 nm đối với
Nhóm 2


các tia tử ngoại, ở bước sóng là 600 nm đối với các tia nhìn thấy và ở bước
sóng là 900 nm đối với tia hồng ngoại.

Hình 2.2
hấp thụ tia tử ngoại, hồng ngoại, ánh sáng nhìn thấy
Tính chất
hóaSựhọc
Ôzon có tính ôxy hóa mạnh hơn ôxy, do nó không bền, dễ dàng bị

phân huỷ thành ôxy phân tử và ôxy nguyên tử.

2.1.2.
-

O3 → O2 + O
o

O3 dễ dàng oxi hóa iodua đến iốt tự do:
O3 + 2KI + H2O → I2 + O2 + 2 KOH

o



Giấy tẩm dung dịch iodua kali và hồ tinh bột (giấy iốt tinh bột)
chuyển ngay thành màu xanh khi có mặt ôzon trong không khí,
nhưng nó kém bền hơn ôxy, dễ bị phân hủy thành ôxy thường
theo phản ứng:

2O3 → 3O2
o Tác dụng với phi kim nhóm halogen
o Khử các chất gây ô nhiễm trong nước bằng phương pháp hóa
học: Fe, Asen, H2S…
Cấu tạo

Nhóm 2


Hình 2.3 Cấu tạo Ôzon




Sự tạo thành Ôzon
o Ôzon được biết đến do khả năng hấp thụ bức xạ UV-B. Ôzon

được tạo thành một cách tự nhiên trong tầng Ôzon. Sự suy
giảm Ôzon và lỗ thủng Ôzon diễn ra bởi cloroflorocacbon
(CFC) và các chất gây ô nhiễm khác trong bầu khí quyển.
o Ôzon trong bầu khí quyển Trái Đất nói chung được tạo thành

bỏi tia cực tím, nó phá vỡ các phân tử O2 tạo thành oxi nguyên
tử. Oxi nguyên tử sau đó kết hợp với phân tử oxi chưa phá vỡ
để tạo thành O3. Trong một số trường hợp oxi nguyên tử kết
hợp với N2 để tạo các oxit nitơ, sau đó phá vỡ ánh sáng nhìn
thấy để tái tạo Ôzon.
o Khi tia cực tím chiếu vào Ôzon, nó chia Ôzon thành phân tử O2

và oxi nguyên tử quá trình liên tục này gọi là ôzon-oxi. Chu
trình này có thể phá vỡ sự có mặt của các nguyên tử Clo, Flo
hay Brôm trong khí quyển.

Nhóm 2


2.2. Tầng
Hình
Ôzon
2.4 Sự tạo thành Ôzon
Tầng bình lưu nằm trên tầng đối lưu với ranh giới trên dao động

trong khoảng độ cao 50 km. Ở độ cao khoảng 25 km trong tầng bình lưu
tồn tại một lớp không khí giàu khí Ôzon (O3) thường được gọi là tầng
Ôzon. Hàm lượng khí Ôzon trong không khí rất thấp, chiếm một phần triệu,
chỉ ở độ cao 25 - 30 km, khí Ôzon mới đậm đặc hơn (chiếm tỉ lệ 1/100.000
trong khí quyển). Người ta gọi tầng khí quyển ở độ cao này là tầng Ôzon.

Hình 2.5 Tầng Ôzon

2.3.

Nhóm 2

Thủng tầng Ôzon


Những chỗ loang lổ ôzon do bị loãng được hiểu là “lỗ thủng ôzon”.
Lỗ thủng của tầng ôzon theo định nghĩa của Cục Môi Trường (EPA) Mỹ là
khu vực có hàm lượng ôzon thấp hơn 220 đơn vị dobson (DU). Một DU
tương đương với 27 triệu phân tử ôzon trên một cm2.

3.

Vai trò và độ độc hại của Ôzon

Hình 2.7 Lỗ thủng tầng Ôzon ở Bắc cực

3.1. Vai trò
Tuy mỏng manh nhưng Ôzon có vai trò rất quan trọng đối vời sự sống
trên trái đất, hấp thụ 93-99% tia bức xạ có hại từ mặt trời. Chính vì thế
trong lịch sử của giới sinh vật, sự sống chỉ được di cư lên cạn khi trên Trái

Đất xuất hiện tầng ôzon. Do vậy, nếu tầng ôzon bị phá hủy sẽ gây tác hại
rất lớn đối với mọi sinh vật trên hành tinh.
Như chúng ta đã biết, tia bức xạ UV mà Mặt Trời tỏa ra chia làm 3
loại: UV-A (400-315nm), UV-B (315-280nm), và UV-C (280-100 nm).
Trong đó, UV-C rất có hại cho con người, UV-B gây tác hại cho da và có
thể gây tổn thương tế bào dẫn đến ung thư da. Tầng ôzon đã giúp cản trở tia
bức xạ UV-B và UV-C, còn hầu hết tia UV-A chiếu được tới bề mặt Trái
Đất, nhưng may mắn là tia này ít gây hại cho sinh vật. Các nghiên cứu cho
thấy rằng cường độ bức xạ UV-B trên bề mặt Trái Đất nhờ sự ngăn cản của
tầng ôzon trở nên yếu hơn tới 350 tỉ lần so với trên tầng khí quyển.
Nếu tầng ôzon bị suy giảm, bức xạ UV sẽ đến Trái Đất nhiều hơn và
làm tăng bệnh ung thư da, đục thủy tinh thể ở mắt, làm giảm sản lượng
lương thực, ảnh hưởng đến hệ sinh thái biển.

Nhóm 2


Hình 3.1 Ôzon ngăn chặn tia UV vào Trái Đất
Nhóm 2


3.2. Độ độc hại
Ôzon là một chất độc có khả năng ăn mòn và là một chất gây ô
nhiễm chung. Nó có mùi hăng mạnh. Nó tồn tại với một tỷ lệ nhỏ trong
bầu khí quyển Trái Đất.
Ôxi là chất duy trì sự sống nếu trong khí thở có dưới 15% oxi thì cơ
thể đã bị chết ngạt, nhưng Ôzon gây phù phổi nặng làm co thắt và tê liệt
đường hô hấp khiến người bệnh không có phản ứng khi có các dị vật lọt
vào. Vì vậy, khi tiếp xúc lâu dài với Ôzon sẽ có nguy cơ bị tích tụ các dị
vật trong phế quản và phổi, là điều kiện có khả năng dẫn đến ung thư.

Ngưỡng cho phép của Ôzon trong khí thở là 0,2 mg/m3 (0,1ppm), tuy
nhiên nếu tiếp xúc lâu dài với Ôzon ngay cả khi trong điều kiện nồng độ
thấp hơn ngưỡng cho phép này cũng sẽ làm cho con người mệt mỏi, đau
đầu, viêm họng và niêm mạc mắt….
Tại các cùng công nghiệp tập trung có khói mù công nghiệp, vào
mùa hè nồng độ Ôzon trong khói mù có thể đạt 0,3-0,4 mg/m3 và rất
nguy hại cho cuộc sống con người.

Hình 3.8 Những thiệt hại do khí ôzone gây ra ở lá cây

Nhóm 2


Hình 3.9 Ô nhiễm Ôzon

4. Hiện trạng thủng tầng Ôzon trong khí quyển
Sự giảm mật độ của tầng ôzon được nghiên cứu trong những năm
1970 chủ yếu ở vùng cực.

Hình 4.1 Tầng Ôzon bao phủ Trái Đất

Cái được gọi là lỗ thủng tầng Ôzon trong bầu khí quyển Trái đất ở vùng
Nam Cực tháng 9 năm 2000, là lỗ thủng lớn nhất đã từng quan sát được.
Diện tích lỗ thủng tháng 9 năm 2000 là 11,4 triệu dặm vuông.
Lỗ thủng lớn thứ 2 hình thành năm 2003 và bao phủ 11,1 triệu dặm
vuông. Những lỗ thủng tầng Ôzon lớn này che phủ toàn bộ phần Nam Cực
và đỉnh phía Nam của Nam Mỹ. Để dễ hình dung, diện tích bao phủ to gấp
ba lần diện tích nước Mỹ không kể Alaska, hoặc Châu Úc.
Năm 1979. Việc đo lỗ thủng tầng Ôzon bằng vệ tinh lần đầu tiên được
NASA thực hiện vào năm này.

Năm 1998. Lỗ thủng lớn che phủ 10,5 triệu dặm vuông vào tháng 9 năm
1998. Đó là kích thước lớn kỷ lục trước năm 2000.
Nhóm 2


Năm 2000. Lỗ thủng tầng Ôzon khổng lồ đạt
tới 11,4 triệu dặm vuông vào tháng 9 năm 2000.
Đó là lỗ thủng lớn nhất đã từng đo được. Diện
tích xấp xỉ ba lần diện tích nước Mỹ. Sau đó, năm
2003, lỗ thủng tầng Ôzon che phủ 11,1 triệu dặm
vuông là lỗ thủng lớn thứ 2.
Hình 4.2 Lỗ thủng 2000

Năm 2001. Vào tháng 9 năm 2001, lỗ thủng tầng Ôzon bao phủ khoảng
10 triệu dặm vuông. Lỗ thủng này nhỏ hơn năm 2000, nhưng vẫn lớn hơn
tổng diện tích của Nước Mỹ, Canada và Mexico.

Năm 2002. Lỗ thủng tầng Ôzon thu hẹp lại và
tháng 9 năm 2002 là lỗ thủng nhỏ nhất từ năm
1998. Lỗ thủng ở Nam Cực năm 2002 không
những nhỏ hơn năm 2000 và 2001, mà còn tách ra
thành 2 lỗ riêng biệt. Kích thước nhỏ có thể do điều
kiện nóng ấm không bình thường và sự phân tách
có thể do các khu vực thời tiết của tầng bình lưu
khác thường.
Hình 4.3 Lỗ thủng 2002

Năm 2003. Lỗ thủng tầng Ôzon che phủ 11,1
triệu dặm vuông, và là lỗ thủng kỷ lục đứng thứ hai.
Năm 2000 là năm lỗ thủng lớn nhất. Lỗ thủng lớn do

gió lặng và thời tiết rất lạnh.
Hình 4.4 Lỗ thủng 2003

Nhóm 2


Năm 2004. Tháng 9 năm 2004, lỗ thủng là 9,4
triệu dặm vuông. Lỗ thủng này nhỏ hơn năm 2003, có
thể do thời tiết Cực Nam tương đối ấm.
Hình 4.5 Lỗ thủng 2004

Năm 2005. Lỗ thủng ở tầng Ôzon phía trên Cực
Nam xuất hiện lớn hơn năm ngoái nhưng vẫn nhỏ hơn
năm 2003. Lỗ thủng năm 2005 che phủ khoảng 10 triệu
dặm vuông. Theo số liệu về thời tiết của Tổ chức Khí
tượng Thế giới (WMO) cho thấy mùa đông 2005 ấm hơn
năm 2003, nhưng lạnh hơn năm 2004. Kích thước lỗ
thủng năm 2005 gần mức trung bình năm 1995-2004.
Lỗ thủng này lớn hơn năm 2004, nhưng nhỏ hơn năm
2003.
Hình 4.6 Lỗ thủng 2005
Năm 2008. Lỗ thủng tầng ôzone ở Nam Cực có diện tích đến 27 triệu
km . Con số này lớn hơn nhiều so với diện tích lớn nhất của nó được ghi
nhận năm 2007 là 25 triệu km2.
2

5. Nguyên nhân gây thủng tầng Ôzon
5.1. Ảnh hưởng của khí CFC
Tầng ôzone bị suy giảm do con người thải các chất khí CFC
(Chlorofluorocarbon) và các chất ODS (Ôzone depleting substances)

khác vào khí quyển.
CFC được sử dụng làm chất sinh hàn, chất tạo bọt, dung môi...
Các chất ODS khác bao gồm: methyl bromide (làm thuốc trừ
sâu), halons (trong các bình chữa cháy), methyl chloroform (dùng
làm dung môi trong nhiều ngành công nghệ)...
Điều hòa không khí trên xe buýt,xe đò, xe hơi… cũng sử dụng
chất phá hủy tầng ôzon HCFC

Nhóm 2


Hình 5.1 Lượng khí thải do xe buýt thoát ra

Hình 5.2 CFC từ điện lạnh

Khói thoát ra trong các vụ phóng tên lửa có thể bào mòn tầng
ôzone, tạo điều kiện cho các tia tử ngoại có hại từ mặt trời xâm nhập
vào trái đất.
Khi phóng các tên lửa dùng nhiên
liệu rắn,
chúng thải trực tiếp khí clo ra tầng bình
lưu. Tại
đây clo phản ứng với oxy để tạo ra clo oxit - chất có khả năng hủy
diệt ôzone.

Hình 5.2 Khói thoát ra từ tên lửa

Hình 5.3 Khí Clo tác dụng với oxi

Khói từ một số nhà máy công

nghiệp như công nghiệp điện lạnh,
công nghiệp dệt nhuộm (giặt khô),
công nghiệp bảo quản thực phẩm…
gây tổn hại rất lớn đến tầng ôzon.

Hình 5.4 Công nghiệp dệt

Nhóm 2


Do sự phát triển của công nghiệp và đời sống (nhu cầu về tủ lạnh,
máy điều hoà gia đình) cũng gián tiếp phá huỷ tầng ôzon.

Hình 5.5 Chất CFC trong máy lạnh tủ lạnh

5.2. Ảnh hưởng của khí N2O
N2O không làm thủng tầng ôzone nhưng nó khiến toàn thể lớp ôzon
mỏng hơn.
N2O được tạo thành tự nhiên khi vi khuẩn phân hủy nitơ trong đất
hoặc nước. N2O bốc lên tầng bình lưu.Hợp chất này phản ứng với nguyên
tử oxy năng lượng cao để tạo thành hợp chất nitric oxide (NO). Chính hợp
chất này là tác nhân phá hủy ôzon.
N2O có thể có tác động phá hủy nhiều hơn bởi vì nguồn sản sinh
chúng quá phong phú. Mỗi năm có khoảng 10 triệu tấn N2O bị thải ra môi
trường, tương đương hơn 1 triệu tấn CFC các loại tại điểm thải cao nhất.
N2O cũng là khí gây hiệu ứng nhà kính khi liên kết với khí metan hoặc
CO2. Vì vậy việc ngăn chặn chúng là rất cần thiết.
-

Núi lửa và các đại dương ảnh hưởng đến

sự suy giảm tầng ôzone

Hoạt động của núi lửa phóng thích một
lượng lớn HCl vào khí quyển; muối biển cũng
chứa rất nhiều Clo, nếu các hợp chất Clo này
tích tụ ở tầng bình lưu nó sẽ là nguyên nhân
chính làm suy giảm tầng ôzone.
Hình 5.6 Núi lửa phun trào

Nhóm 2


Hình 5.7 Biểu đồ phát thải lượng các-bon Đioxide của 10 quốc gia nhiều nhất thế giới

6. Hậu quả và biện pháp
6.1. Hậu quả thủng tầng ôzon

Thủng tầng ôzon, một lượng lớn tia tử ngoại sẽ chiếu thẳng xuống
Trái Đất. Con người và động thực vật phải gánh chịu những hậu quả
nặng nề sau:
Phá hủy hệ thống miễn dịch của cơ thể người và động vật, làm tăng
khả năng mắc bệnh cho con người và động vật: Theo báo cáo của Liên
Hợp Quốc, sự giảm sút 10% tầng ôzon trong khí quyển đã làm tăng lên
26% số trường hợp bị ung thư (khoảng 300.000 ca trên thế giới). Ngoài
ung thư, tia tử ngoại còn gây bệnh đục thủy tinh thể, mắt sẽ bị lão hóa
và mù lòa. Tại vị trí thẳng góc với lỗ thủng của tầng ôzon ở Nam Cực
gần Punta Arena (Chile), người chăn cừu suốt năm phải đội mũ và đeo
kính râm, nhiều con cừu trong đàn đã bị mù do tia tử ngoại. Các tia bức
xạ cực tím có năng lượng cao được hấp thụ bởi ôzon được công nhận
chung là một yếu tố tham gia tạo thành các khối u ác tính (ung thư da).

Thí dụ như theo một nghiên cứu, tăng 10% các tia cực tím có năng
lượng cao được liên kết với tăng 19% các khối u ác tính ở đàn ông và
16% ở phụ nữ.
Hủy hoại các sinh vật nhỏ.
Làm mất cân bằng hệ sinh thái động thực vật biển: Chúng ta biết
hơn 30% lượng đạm động vật cung cấp cho con người được lấy từ biển
nên bất kỳ sự thay đổi nào của lượng UV-B cũng ảnh hưởng sự phát
triển của hệ sinh thái biển. Tia tử ngoại UV-B tăng lên có thể làm giảm
khối lượng các sinh vật phù du-nguồn thức ăn của nhiều loài sinh vật
biển. Sự tăng lên của tia UV-B cũng có ảnh hưởng nghiêm trọng sự sinh
trưởng của các loài cá, tôm, cua và nhiều sinh vật khác, chủ yếu là giảm
khả năng sinh sản của chúng. Bức xạ UV-B tăng cũng làm thay đổi
thành phần các loài.
Làm giảm chất lượng không khí: Suy giảm tầng ôzon làm tăng
lượng bức xạ tử ngoại UV-B đến mặt đất và làm tăng các phản ứng hóa
học dẫn tới ô nhiễm khí quyển. Bức xạ tử ngoại UV-B kích thích tạo
thành các phân tử có tác động hóa học mạnh, nhanh chóng tác dụng với
các chất khác tạo thành các chất ô nhiễm mới. Khói mù và mưa a-xít sẽ
tăng lên do các chất tạo thành mưa a-xít tăng lên cùng với sự tăng hoạt
động của tia UV-B.
Ở thực vật: Vì quá trình phát triển của cây trồng phụ thuộc rất
nhiều vào tia tử ngoại nên khi tăng tia tử ngoại UV-B có thể tác động

Nhóm 2


các vi sinh vật trong đất, làm giảm năng suất lúa và của một số loại cây
trồng khác. Sự tăng tia UV-B có thể làm giảm khả năng chịu đựng của
cây trồng, nếu chiếu tia tử ngoại với liều cao vào ngô, lúa thì năng suất
sẽ kém, chất lượng cũng giảm sút.

Tác động đến các loại vật liệu: Bức xạ tử ngoại tăng sẽ làm giảm
nhanh tuổi thọ của các vật liệu, làm chúng mất đi độ bền chắc.
Sự phá hủy tầng ôzon còn gây ra sự biến đổi về mặt khí hậu bởi lẽ tình
trạng gia tăng tia tử ngoại cũng góp phần vào việc tăng cường hiệu ứng nhà
kính.

6.2.
6.2.1.

Có hai hậu quả chính
Gia tăng tia cực tím vì lỗ thủng ôzon

Mặc dầu chỉ là một thành phần nhỏ của khí quyển, ôzon có vai trò chính
trong việc hấp thụ phần lớn tia bức xạ cực tím. Lượng bức xạ cực tím xuyên
qua lớp ôzon giảm theo hàm mũ với độ dầy đặc của lớp ôzon. Do đó việc giảm
ôzon trong không khí được dự đoán sẽ cho phép tăng mức độ các tia cực tím ở
gần mặt đất một cách đáng kể.
Việc tăng các bức xạ của tia cực tím trên bề mặt Trái Đất vì lỗ thủng
ôzon chỉ có thể suy ra một phần từ các mô hình tính toán di chuyển nhưng
chưa có thể tính toán từ các đo lường trực tiếp vì thiếu các dữ liệu lịch sử (thời
kỳ trước lỗ thủng) đáng tinh cậy của tia cực tím mặc dù có nhiều chương trình
mới đo lường quan sát tia cực tím trên bề mặt.
Bởi vì cũng chính những tia cực tím chiếm vị trí đầu tiên trong việc tạo
thành ôzon trong lớp ôzon ở tầng bình lưu bằng ôxy, giảm bớt ôzon ở tầng
bình lưu sẽ tạo ra xu hướng gia tăng các quá trình quang hóa sản xuất ôzon ở
tầng thấp hơn (tầng đối lưu).
6.2.2.

Các tác động sinh học do tăng cường tia cực tím


Mối quan tâm chính của dư luận về lỗ thủng ôzon là các tác động của
ôzon đến sức khỏe con người. Khi lỗ thủng ôzon trên Nam Cực tăng to đến mức
bao phủ các phần phía nam của Úc và New Zealand, những người bảo vệ môi
trường lo rằng các tia cực tím trên bề mặt Trái Đất có thể gia tăng đáng kể.
Các tia bức xạ cực tím có năng lượng cao được hấp thụ bởi ôzon được
công nhận chung là một yếu tố tham gia tạo thành các khối u ác tính (ung thư
da). Thí dụ như theo một nghiên cứu, tăng 10% các tia cực tím có năng lượng
cao được liên kết với tăng 19% các khối u ác tính ở đàn ông và 16% ở phụ nữ.
Nhóm 2


Cho đến nay thâm thủng ôzon ở phần lớn các địa điểm tiêu biểu chỉ vào
khoảng vài phần trăm. Nếu sự thâm thủng ở mức độ cao được quan sát thấy ở
lỗ thủng ôzon trở thành chung cho toàn cầu, các tác động thực chất có thể sẽ
tăng nhiều hơn nữa. Thí dụ như một nghiên cứu mới đây đã phân tích cho thấy
việc tiêu hủy rộng lớn các phiêu sinh vật 2 triệu năm trước đây trùng khớp với
một sao băng đến gần. Các nhà nghiên cứu cho rằng sự hủy diệt được gây ra
bởi vì lớp ôzon suy yếu đi trong thời gian này khi các bức xạ từ sao băng tạo
thành các ôxít của nitơ làm chất xúc tác phá hủy ôzon (các phiêu sinh vật đặc
biệt rất nhạy đối với tác động của tia cực tím và rất quan trọng trong dây
chuyền thức ăn dưới biển.
Tăng cường bức xạ tia cực tím có thể cũng ảnh hưởng đến mùa màng.
Sản lượng nhiều loại cây trồng có tầm quan trọng về kinh tế như lúa phụ thuộc
vào quá trình cố định nitơ của vi khuẩn lam cộng sinh ở rễ cây. Mà vi khuẩn
lam rất nhạy cảm với ánh sáng cực tím và có thể bị chết khi hàm lượng tia cực
tím gia tăng.
Bên cạnh các ảnh hưởng trực tiếp của bức xạ cực tím đối với sinh vật,
gia tăng tia cực tím trên bề mặt sẽ làm gia tăng lượng ôzon ở tầng đối lưu. Ở
mặt đất ôzon thông thường được công nhận là một yếu tố gây nguy hiểm đến
sức khỏe vì ôzon có độc tính thể theo tính chất ôxy hóa mạnh. Vào thời điểm

này ôzon trên mặt đất được tạo thành chủ yếu qua tác dụng của bức xạ cực
tím đối với các khí thải từ xe cộ.
Hậu quả xấu gây ra cho cuộc sống do suy giảm nghiêm trọng tầng ôzon đã
khiến cộng đồng quốc tế hết sức quan tâm và thấy cần thiết phải có những
hành động cụ thể bảo vệ tầng ôzon
6.3.

Biện pháp ngăn chặn thũng tầng ôzone

Để ngăn chặn sự suy thoái của tầng ôzon, những chính sách cụ thể cần
được đưa ra thực hiện như:
Khuyến khích hạn chế sử dụng năng lượng hạt nhân, từng bước nghiên
cứu sử dụng năng lượng sạch như: năng lượng Mặt Trời, năng lượng gió, sóng
biển…
Xử lý ô nhiễm cục bộ trong từng khu công nghiệp, từng nhà máy, từng
công đoạn sản xuất riêng biệt để giảm thiểu các loại bụi và khí độc hại vào bầu
khí quyển.
Áp dụng chính sách thuế rác thải chất ô nhiễm.
Giáo dục, tư vấn, tuyên truyền, vận động và hỗ trợ để các doanh nghiệp
vừa và nhỏ cải tiến công nghệ nhằm loại trừ và ngăn chặn các hoạt động có
ảnh hưởng xấu đến tầng ôzon, làm cho họ hiểu bảo vệ môi trường – bảo vệ
tầng ôzon là bảo vệ cuộc sống của chính họ.
Nhóm 2


Điều mà mỗi người chúng ta có thể làm để đóng góp vào việc ngăn chặn
quá trình suy thoái tầng ôzon rất cụ thể và đơn giản, đó là:
Tự bảo vệ mình khỏi sự tiếp xúc trực tiếp với ánh nắng. Che chắn da, đeo
kính râm, đội mũ nón khi đi ra ngoài nắng.
Giảm ô nhiễm không khí do xe cộ và các thiết bị khác khi hoạt động xả khí

thải vào môi trường.
Tiết kiệm năng lượng, tiết kiệm nước trong sinh hoạt và làm việc.
Sử dụng ánh sáng tự nhiên trong nhà và nơi làm việc nếu có thể.
Tận dụng phương tiện giao thông công cộng hơn là dùng xe máy cá nhân
hoặc taxi nếu có thể. Thỉnh thoảng đi xe đạp hoặc đi bộ đến nơi làm việc.
Khi mua các sản phẩm gia dụng, nhất là các loại dùng trong bình xịt, tìm
loại ghi trên nhãn “không có CFC”.
Sơn nhà, nên sơn bằng cách quét hoặc lăn, không dùng cách phun sơn.
Giảm dùng các bao bì bằng nhựa xốp. Nếu có sẵn, nên tận dụng nhiều lần.

Nhóm 2



×