Tải bản đầy đủ (.doc) (102 trang)

Đánh giá đa dạng di truyền và độ độc tính của các chủng vi khuẩn ralstonia solanacearum smith được thu thập tại các tỉnh phía nam việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.55 MB, 102 trang )

i

Låìi Caím Ån
Được sự phân công của khoa Nông học, trường Đại học Nông Lâm Huế
và được sự đồng ý của cô giáo hướng dẫn TS. Nguyễn Thị Thu Thủy, tôi đã thực
hiện đề tài luận văn “Đánh giá đa dạng di truyền và độ độc tính của các chủng
vi khuẩn Ralstonia solanacearum Smith được thu thập tại các tỉnh phía Nam
Việt Nam”.
Để có thể hoàn thành luận văn này, tôi tỏ lòng kính trọng và biết ơn sâu sắc
đến cô giáo TS. Nguyễn Thị Thu Thủy và cô giáo TS. Trương Thị Hồng Hải là 2
người đã trực tiếp tận tình hướng dẫn tôi trong suốt quá trình thực hiện và viết
đề tài. Với vốn kiến thức được tiếp thu trong quá trình học không chỉ là nền
tảng cho quá trình nghiên cứu đề tài mà còn là hành trang quý báu giúp tôi
trưởng thành hơn trong cuộc sống.
Xin chân thành cảm ơn các thầy cô giáo đã trực tiếp giảng dạy truyền đạt
những kiến thức khoa học chuyên ngành trong thời gian tôi học tập tại trường.
Xin ghi nhận những đóng góp nhiệt tình của các anh chị học viên cao học
trong và ngoài lớp K19, K20, nhóm các em sinh viên K45, K46, K47, các bạn ở
trường THPT Lê Hồng Phong đã giúp đỡ tôi trong quá trình thực hiện đề tài. Có
thể khẳng định sự thành công của luận văn này, trước hết thuộc về công lao của
tập thể. Đặc biệt là sự quan tâm, động viên khuyến khích từ phía gia đình và người
bạn tốt đồng hành Trần Thị Bảo Ngà. Nhân đây, tôi xin được bày tỏ lòng biết ơn
sâu đậm đến tất cả mọi người.
Mặc dù đã cố gắng rất nhiều song do buổi đầu mới làm quen với công tác
nghiên cứu khoa học trong phòng thí nghiệm cũng như hạn chế về kỹ năng thao
tác nên không thể tránh khỏi được những thiếu sót nhất định. Tôi rất mong nhận
được sự đóng góp của quý thầy cô và các bạn đồng nghiệp để luận văn được
hoàn chỉnh hơn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Huế, ngày 20 tháng 7 năm 2015
Học viên



Phạm Thanh Bình
LỜI CAM ĐOAN


ii
Để hoàn thiện công trình nghiên cứu này chúng tôi đã tiến hành các công việc
liên quan từ xử lý mẫu, phân lập mẫu, chạy PCR đánh giá đa dạng di truyền tại phòng
Công nghệ Sinh học, phòng thí nghiệm Bệnh cây và thực hiện thí nghiệm lây nhiễm
tại nhà lưới của Bộ môn Bảo vệ thực vật, trường Đại học Nông lâm Huế. Đây là thành
quả tập thể nhóm nghiên cứu của chúng tôi.
Tất cả số liệu, thông tin trong luận văn này được chúng tôi ghi nhận từ thực tế
nghiên cứu. Vì vậy tôi cam đoan tất cả số liệu ở trong luận văn này là chính xác và
khách quan, có tính khoa học cao và chưa từng được công bố ở trên một luận văn cao
học nào khác.

Huế, ngày 20 tháng 7 năm 2015
Học viên

Phạm Thanh Bình


iii
MỤC LỤC
1.4.3.1. Chỉ thị sinh hoá ......................................................................................29
1.4.3.2.1. Chỉ thị RFLP (Restriction Fregment Length Polymorphism).............31
1.4.3.2.2. Chỉ thị AFLP (Amplified Fragment Length Polymorphism)..............31
*Nguyên lý của phương pháp .............................................................................31
AFLP (Đa hình chiều dài các đoạn DNA được khuếch đại chọn lọc) là phương
pháp dựa trên cơ sở của kĩ thuật PCR. Nguyên lý của phương pháp này là gắn

các đoạn DNA ngắn (adapter) vào 2 đầu của mạch DNA sau khi đã được cắt
bằng enzyme giới hạn. Sau đó thiết kế mồi theo các đoạn DNA ngắn đó có gắn
thêm một hoặc một số nucleotide và tiến hành phản ứng PCR...........................31
1.4.3.2.3. Chỉ thị SSR (Simple Sequence Repeat)...............................................32


iv
DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU, CHỮ VIẾT TẮT

AFLP

: Amplified Fragment Length Polymorphism

AVRDC

: The World Vegetable Center (Trung tâm rau thế giới)

cs

: Cộng sự

DNA

: Deoxy ribonucleic axit

dNTP

:Deoxy nucleotide triphosphates

H7996


: Haiwaii 7996

HXVK

: Héo xanh vi khuẩn

PCR

: Polymerase chain reaction (Phản ứng chuỗi polymerase)

RAPD

: Random Amplified Polymorphic DNA (Phân tích DNA đa
hình được nhân bản ngẫu nhiên)

RE

: Restriction enzyme

RFLP

: Restriction Fragment Length Polymorphism

RNA

: Ribonucleic acid

SSR


: Simple Sequence Repeats

TBE

: Tris-Boric acid-EDTA

TE

: Tris-EDTA

TLB

: Tỷ lệ bệnh

Tp.

: Thành phố

W700

: West Virginia 700


v
DANH MỤC BẢNG
1.4.3.1. Chỉ thị sinh hoá .................................................................................29
1.4.3.1. Chỉ thị sinh hoá ......................................................................................29
1.4.3.2.1. Chỉ thị RFLP (Restriction Fregment Length Polymorphism)........31
1.4.3.2.1. Chỉ thị RFLP (Restriction Fregment Length Polymorphism).............31
1.4.3.2.2. Chỉ thị AFLP (Amplified Fragment Length Polymorphism).........31

1.4.3.2.2. Chỉ thị AFLP (Amplified Fragment Length Polymorphism)..............31
*Nguyên lý của phương pháp ........................................................................31
*Nguyên lý của phương pháp .............................................................................31
AFLP (Đa hình chiều dài các đoạn DNA được khuếch đại chọn lọc) là
phương pháp dựa trên cơ sở của kĩ thuật PCR. Nguyên lý của phương pháp
này là gắn các đoạn DNA ngắn (adapter) vào 2 đầu của mạch DNA sau khi đã
được cắt bằng enzyme giới hạn. Sau đó thiết kế mồi theo các đoạn DNA ngắn
đó có gắn thêm một hoặc một số nucleotide và tiến hành phản ứng PCR......31
AFLP (Đa hình chiều dài các đoạn DNA được khuếch đại chọn lọc) là phương
pháp dựa trên cơ sở của kĩ thuật PCR. Nguyên lý của phương pháp này là gắn
các đoạn DNA ngắn (adapter) vào 2 đầu của mạch DNA sau khi đã được cắt
bằng enzyme giới hạn. Sau đó thiết kế mồi theo các đoạn DNA ngắn đó có gắn
thêm một hoặc một số nucleotide và tiến hành phản ứng PCR...........................31
1.4.3.2.3. Chỉ thị SSR (Simple Sequence Repeat)..........................................32
1.4.3.2.3. Chỉ thị SSR (Simple Sequence Repeat)...............................................32


vi
DANH MỤC SƠ ĐỒ, HÌNH VẼ, ĐỒ THỊ
1.4.3.1. Chỉ thị sinh hoá .................................................................................29
1.4.3.1. Chỉ thị sinh hoá ......................................................................................29
1.4.3.2.1. Chỉ thị RFLP (Restriction Fregment Length Polymorphism)........31
1.4.3.2.1. Chỉ thị RFLP (Restriction Fregment Length Polymorphism).............31
1.4.3.2.2. Chỉ thị AFLP (Amplified Fragment Length Polymorphism).........31
1.4.3.2.2. Chỉ thị AFLP (Amplified Fragment Length Polymorphism)..............31
*Nguyên lý của phương pháp ........................................................................31
*Nguyên lý của phương pháp .............................................................................31
AFLP (Đa hình chiều dài các đoạn DNA được khuếch đại chọn lọc) là
phương pháp dựa trên cơ sở của kĩ thuật PCR. Nguyên lý của phương pháp
này là gắn các đoạn DNA ngắn (adapter) vào 2 đầu của mạch DNA sau khi đã

được cắt bằng enzyme giới hạn. Sau đó thiết kế mồi theo các đoạn DNA ngắn
đó có gắn thêm một hoặc một số nucleotide và tiến hành phản ứng PCR......31
AFLP (Đa hình chiều dài các đoạn DNA được khuếch đại chọn lọc) là phương
pháp dựa trên cơ sở của kĩ thuật PCR. Nguyên lý của phương pháp này là gắn
các đoạn DNA ngắn (adapter) vào 2 đầu của mạch DNA sau khi đã được cắt
bằng enzyme giới hạn. Sau đó thiết kế mồi theo các đoạn DNA ngắn đó có gắn
thêm một hoặc một số nucleotide và tiến hành phản ứng PCR...........................31
1.4.3.2.3. Chỉ thị SSR (Simple Sequence Repeat)..........................................32
1.4.3.2.3. Chỉ thị SSR (Simple Sequence Repeat)...............................................32


7
MỞ ĐẦU
1. ĐẶT VẤN ĐỀ
Bệnh héo xanh do vi khuẩn Ralstonia solanacearum gây ra là một trong những
bệnh hại rất phổ biến và nghiêm trọng trên các đồng ruộng, có khu phân bố rộng ở các
vùng nhiệt đới, cận nhiệt đới và nhiều khu vực ôn đới trên thế giới [39]. Đây là loại vi
khuẩn được tìm thấy trên cả 6 lục địa, có nhiều chủng sinh lý và nòi sinh học khác
nhau, có phổ ký chủ rất rộng, có khả năng gây hại trên 200 loại cây, đặc biệt gây hại
nặng trên cây họ cà như cà chua, cà tím, khoai tây, thuốc lá và các cây khác họ như
đậu phụng, gừng, chuối [64]. Bệnh rất khó phòng trừ do vi khuẩn có khả năng tồn tại
lâu dài trong đất, trong cơ thể ký chủ thực vật như thân, hạt giống, củ giống, tàn dư
thực vật,...
Tác hại của bệnh héo xanh là rất nghiêm trọng, bệnh héo gây hại nặng có thể làm
cây chết trên diện tích lớn, gây khuyết mật độ. Bệnh gây hại làm ảnh hưởng đến năng
suất, có thể giảm từ 15-95%, thậm chí có khi lên tới 100% ảnh hưởng đến phẩm chất
rau quả khi thu hoạch [38]. Chẳng hạn, đầu những năm 2000, bệnh héo xanh vi khuẩn
(HXVK) đã làm giảm năng suất từ 30-80% trên các ruộng khoai lang ở Đài Loan [99].
Theo dự báo của các nhà khoa học, cùng với sự thay đổi khí hậu toàn cầu, bệnh
HXVK sẽ ngày càng gây hại nghiêm trọng hơn trong sản xuất.

Việt Nam nằm trong khu vực khí hậu nhiệt đới nóng ẩm càng thuận lợi cho bệnh
phát triển. Bệnh HXVK thường phát sinh và gây hại nặng ở các vùng chuyên canh rau
màu truyền thống, bệnh gây hại hầu như trên cả nước, tuy nhiên mức độ nhiễm phụ
thuộc vào nhiều yếu tố như: chế độ luân canh cây trồng, kỹ thuật canh tác,.... Biện
pháp dùng hóa chất phòng chống bệnh HXVK được cho là ít có hiệu quả do vi khuẩn
có nguồn gốc từ đất xâm nhập và sinh sản trong hệ thống bó mạch của cây. Hiện nay
phương pháp ghép ngọn cà chua năng suất cao lên gốc cà tím EG203 có khả năng
kháng bệnh HXVK đang được áp dụng rộng rãi và được xem là biện pháp hiệu quả
nhất để phòng trị bệnh HXVK. Tuy nhiên, hiện nay nhiều ruộng trồng cà chua ghép
vẫn xuất hiện tỷ lệ cây bị bệnh cao, đặc biệt trong thời tiết nóng ẩm. Điều này cho thấy
sự không bền vững của tính kháng Ralstonia solanacearum ở các giống. Nguyên nhân
là do sự đa dạng di truyền của vi khuẩn gây bệnh và các yếu tố môi trường [96].
Chọn tạo giống mang gen kháng bệnh được xem là biện pháp ưu việt và hiệu quả
nhất. Nhưng tính kháng của giống phụ thuộc rất nhiều vào độ độc tính của các chủng
vi khuẩn. Chính vì vậy để tạo ra được giống kháng bền vững phải hiểu được đặc điểm
di truyền cũng như độ độc tính của các chủng vi khuẩn ở các vùng sinh thái khác nhau.
Để chọn tạo giống kháng bệnh cần định dạng được các chủng vi khuẩn gây bệnh và độ
độc tính của từng chủng đến đối tượng gây bệnh. Tuy nhiên, hiện nay vẫn chưa có một


8
tài liệu cụ thể nào nghiên cứu về phân loại và đánh giá độ độc tính của các chủng vi
khuẩn Ralstonia solanacearum tại Việt Nam.
Từ thực tiễn trên, chúng tôi tiến hành thực hiện đề tài: “Đánh giá đa dạng di
truyền và độ độc tính của các chủng vi khuẩn Ralstonia solanacearum Smith được
thu thập tại các tỉnh phía Nam Việt Nam”.
2. MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU
Đề tài nhằm đánh giá sự đa dạng di truyền và độc tính của các chủng vi khuẩn
Ralstonia solanacearum làm cơ sở cho công tác chọn tạo giống kháng bệnh HXVK.
3. Ý NGHĨA KHOA HỌC VÀ THỰC TIỄN

Ý nghĩa khoa học
Kết quả đề tài góp phần tạo cơ sở khoa học để xây dựng phương pháp đánh giá
đa dạng di truyền, phân loại và đánh giá độ độc tính của các chủng vi khuẩn Ralstonia
solanacearum.
Ý nghĩa thực tiễn
- Phân loại được các chủng vi khuẩn Ralstonia solanacearum thu thập tại phía
Nam Việt Nam để hỗ trợ trong việc thiết lập các chương trình kiểm soát bệnh HXVK
tại Việt Nam.
- Đánh giá được độ độc tính của các chủng vi khuẩn Ralstonia solanacearum góp
phần làm cơ sở cho việc chọn giống có tính kháng cao để bố trí trồng ở những vùng
thích hợp với mục đích hạn chế bệnh cao nhất có thể.
4. NHỮNG ĐIỂM MỚI CỦA ĐỀ TÀI
- Cung cấp cho các nhà sinh học, nhà lai tạo giống, nghiên cứu bệnh học thông
tin về các chủng vi khuẩn Ralstonia solanacearum tại các tỉnh ở phía Nam Việt Nam.
- Xác định được độ độc tính của các chủng vi khuẩn Ralstonia solanacearum tại
các tỉnh ở phía Nam Việt Nam.


9
Chương 1
TỔNG QUAN CÁC VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1.1. CÂY CÀ CHUA
Cây cà chua (Lyeopersicum esculentum Mill) thuộc họ Cà (Solanaceae) là một
trong những cây rau chính, chiếm vị trí thứ hai sau khoai tây, được trồng hầu hết ở các
nước trên thế giới. Cà chua được sử dụng dưới nhiều hình thức khác nhau như ăn tươi,
làm salat, nước uống hoặc chế biến làm dạng dự trữ, sản phẩm chế biến cũng có nhiều
dạng như đống hộp dạng quả bốc vỏ, dạng cô đặc, nước sốt cà chua, mứt cà chua,...
1.1.1. Giá trị dinh dưỡng
Theo bảng phân tích thành phần hoá học của Viện dinh dưỡng (Bộ Y tế), trong
100g cà chua có 94g nước; 0,6g protit; 4,2g gluxit; 0,8g xenlulô; 12mg canxi; 26mg

photpho; 1,4mg sắt; các loại vitamin caroten cung cấp được 20kcalo [4].
Quả cà chua chín có màu đỏ tươi tạo màu đẹp và sự ngon miệng cho các món ăn.
Màu đỏ này còn cho thấy hàm lượng vitamin A thiên nhiên trong cà chua cao, trung bình
chỉ cần 100g cà chua chín còn tươi sẽ đáp ứng được 13% nhu cầu hằng ngày về vitamin
A, cũng như các vitamin B6, vitamin C. Ngoài ra còn có các vitamin B1, B2, PP…[16].
Các chất khoáng vi lượng có trong cà chua như canxi, sắt, kali, photpho, lưu
huỳnh, nickel, cobalt, iôt, các axit hữu cơ dưới dạng muối citrat và tuỳ theo môi trường
trồng, trong cà chua có thể có cả đồng, molibden. Chính nhờ các yếu tố này, cà chua
được coi là một thức ăn giàu chất dinh dưỡng, dễ tiêu hoá, tăng cường sức đề kháng
của cơ thể.
Khi so sánh thành phần dinh dưỡng của cà chua với một số rau quả khác như táo,
chanh, anh đào, dâu tây thì Beeker-Billing thấy rằng: nhóm vitamin trong quả cà chua
chiếm tỷ lệ cao hơn (vitamin A, C, B1, B2) đặc biệt là vitamin A và C gấp 10 lần dâu
tây, gấp 2 lần so với anh đào [21].
Ngoài ra, cà chua còn có tác dụng về mặt y học. Theo Võ Văn Chí (1997) [6], cà
chua có vị ngọt tinh mát, giải nhiệt, kháng khuẩn, lọc máu, nhuận tràng, giúp hoạt hóa
tốt tinh bột. Nước ép cà chua kích thích gan, tốt cho dạ dày. Sắc tố lycopen trong cà
chua hiện đang được đánh giá cùng với bêta-caroten là những chất chống oxy hoá
mạnh, vừa ngăn chặn tế bào ung thư, vừa chống sự hình thành các cục máu đông trong
thành mạch. Cà chua cung cấp năng lượng, chất khoáng, làm tăng sức sống, làm cân
bằng tế bào, khai vị, giải nhiệt, hoạt huyết, chống nhiễm khuẩn, chống nhiễm độc, làm
kiềm hóa các quá trình axit, lợi tiểu, thải ure, giúp tiêu hóa dễ dàng tinh bột. Cà chua
được chỉ định dùng ăn hay lấy dịch quả để uống trị suy nhược, ăn không ngon miệng,
nhiễm độc mãn tính, thừa máu…


10
1.1.2. Tình hình sản xuất cà chua trên thế giới
Cà chua là loại cây trồng có lịch sử phát triển tương đối muộn nhưng lại là loại
thực phẩm được ưa chuộng hàng đầu do có khả năng thích ứng rộng, hiệu quả kinh tế

và giá trị sử dụng cao. Trên thế giới đã có nhiều giống mới được ra đời nhằm đáp ứng
được nhu cầu ngày càng cao của con người cả về số lượng và chất lượng.
Theo FAO (2013), hiện nay có tới 158 nước trồng cà chua. Diện tích, năng suất
và sản lượng cà chua trên thế giới cho đến năm 2013 như sau: 4725 nghìn ha, 34,69
tấn/ha, 163,963 triệu tấn.
Trong số 5 loại rau được trồng và sử dụng phổ biến nhất thế giới thì cà chua đứng
thứ 2 chỉ sau khoai tây. Diện tích lớn hơn nhiều lần so với các loại rau khác, cho thấy
được tầm quan trọng của cây cà chua trong vấn đề tiêu thụ và sử dụng của thế giới.
Bảng 1.1. Diện tích 5 loại rau được trồng phổ biến trên thế giới (năm 2013)
Loại rau

Diện tích (triệu ha)

Khoai tây

19.337

Cà chua

4.725

Đậu xanh

1.543

Súp lơ và bông cải xanh

1.251

Cà rốt và củ cải


1.199
“Nguồn: />
1.1.3. Tình hình sản xuất cà chua ở Việt Nam
Cà chua là cây mới du nhập vào Việt Nam được hơn 100 năm trở lại đây nhưng
đã trở thành một loại rau phổ biến và được sử dụng ngày càng rộng rãi. Cà chua ở
nước ta được trồng chủ yếu ở vụ Đông với diện tích khoảng 6.800-7.300 ha và thường
tập trung ở các tỉnh thuộc đồng bằng và trung du Bắc Bộ (Hà Nội, Hải Dương, Vĩnh
Phúc….), còn ở miền Nam tập trung ở các tỉnh An Giang, Tiền Giang, Lâm Đồng [1].
Hiện nay có một số giống chịu nhiệt mới lai tạo chọn lọc có thể được trồng tại miền
Trung, Tây Nguyên và Nam bộ nên diện tích ngày càng được mở rộng. Nhiều giống cà
chua lai ghép có chất lượng tốt được phát triển mạnh ở Đà Lạt, tỉnh Lâm Đồng. Một số
giống cà chua chất lượng đã được xuất khẩu ra thị trường thế giới.
Ở nước ta, các giống cà chua được trồng chủ yếu thuộc 3 nhóm sau đây:


11
+ Cà chua múi: quả to, nhiều ngăn tạo thành múi. Quả có vị chua nhiều hạt, ăn
không ngon nhưng cây con mọc khỏe, sai quả, chống chịu sâu bệnh khá. Giống điển
hình là cà chua múi Hải Phòng .
+ Cà chua hồng: quả hình quả hồng, không có múi hoặc múi không rõ. Thịt
quả nhiều bột, ăn ngon. Cây chống chịu sâu bệnh kém hơn cà chua múi, các giống
chính là: Đại Hồng, Yên Mỹ, Hp 5.
+ Cà chua bi: cây sai quả, quả ăn chua. Cây chống chịu sâu bệnh khá. Nhóm cà
chua này dễ trồng nhưng giá trị kinh tế thấp, thường nông dân trồng trong vườn để tự
túc trong vụ hè.
Sản xuất cà chua ở nước ta chủ yếu phục vụ nhu cầu tiêu dùng nội địa, việc sản
xuất tiêu thụ cà chua không cân đối, sản phẩm lúa thừa, lúc thiếu, giá cả không ổn
định. Theo Trần Khắc Thi (2003) [30], tồn tại cơ bản trong sản xuất cà chua ở nước ta
là chưa có bộ giống tốt cho từng vụ trồng, sản phẩm tập trung chủ yếu trong vụ Đông

Xuân (70%), nửa thời gian trong năm (tháng 5-10) thiếu cà chua, đầu tư cho cà chua
còn thấp, chưa đồng đều ở các vùng, chưa có quy trình canh tác thích hợp cho mỗi
vùng, mỗi vụ trồng và các giống khác nhau. Năng suất chưa cao trong khi đó cà chua
lại dễ bị nhiều nguồn sâu, bệnh hại tấn công, điển hình có bệnh HXVK làm giảm năng
suất từ 25-45% [28]. Bên cạnh đó sản xuất manh mún, chưa có sản phẩm hàng hóa lớn
cho chế biến công nghiệp, quá trình canh tác, thu hái hoàn toàn thủ công. Tuy nhiên
sản xuất cà chua ở nước ta có nhiều lợi thế về đất đai, thời tiết, kinh nghiệm trồng trọt
và nguồn lao động. Vì thế việc lựa chọn bộ giống cà chua có năng suất cao, có chất
lượng tốt và khả năng kháng bệnh HXVK cao đáp ứng các yêu cầu chế biến là một
yêu cầu bức thiết hiện nay ở nước ta.
1.1.4. Các bệnh thường gặp trên cây cà chua
Việc trồng cà chua trong điều kiện nóng ẩm như ở nước ta, cây cà chua dễ mắc
nhiều bệnh, đáng kể là các bệnh do vi khuẩn, virut, nấm gây ra.
* Bệnh héo xanh vi khuẩn: Bệnh do vi khuẩn Ralstonia Solanacearum Smith gây
ra, cây héo đột ngột, lá vẫn còn xanh, có thể héo từng cành, bó mạch hóa nâu chứa
dịch nhờn màu trắng đục.
* Bệnh héo vàng: Bệnh do nấm Rhizoctonia Solani làm mốc trắng gốc, cây héo,
lá gốc héo vàng, bó mạch thâm đen sau vài ngày cây bị bệnh và chết.
* Bệnh mốc sương: Bệnh do nấm Phytophthora thuộc bộ sương mai, lớp nấm tảo
khuẩn gây ra. Bệnh phá hoại tất cả các bộ phận trên và dưới mặt đất (lá, thân, cành, củ)
và kể cả lúc đang tồn trữ. Bệnh gây hại nặng từ cuối tháng 12 đến hết tháng 2.
* Bệnh xoăn lá: Bệnh do vi-rút gây ra. Biểu hiện bệnh là ngọn xoăn vàng, nhăn
nheo, màu vàng xanh xen kẽ, lá nhỏ dị hình. Nếu bị bệnh ở giai đoạn đầu, cây còi cọc,


12
đối với cây cà chua thì không ra, đối với khoai tây thì ra củ nhỏ. Bệnh lan truyền bằng
dịch cây, củ giống, hạt giống, qua tàn dư cây bệnh vụ trước, do bọ phấn chích hút
truyền bệnh.
* Bệnh thán thư: bệnh do nấm Colletotrichum phomoides gây ra. Bệnh thường

gây hại trên quả đang và đã chín, đôi khi ở trên quả già khi có mưa nhiều và độ ẩm
không khí cao. Đốm bệnh lúc đầu hình tròn, úng nước hơi lõm xuống. Sau đó đốm
bệnh lan dần ra, có đường kính 0,5-0,2 cm, tâm vết bệnh có màu nâu đen, viền màu
nâu xám. Bên trong vết bệnh có nhiều vòng đồng tâm với những chấm nhỏ li ti màu
đen nhô lên.
Trong các bệnh kể trên thì bệnh HXVK là một trong những bệnh gây thiệt hại
nặng nhất cho cây cà chua. Bệnh được ghi nhận đầu tiên tại Italy vào năm 1882,
nghiên cứu chuyên khảo được Smith thực hiện vào năm 1986 tại Mỹ. Cho đến nay
bệnh phổ biến rất rộng ở hầu hết các nước châu Á, Phi, Mỹ, Úc, bệnh gây hại nghiêm
trọng chủ yếu ở các nước vùng nhiệt đới, cận nhiệt đới có khí hậu nóng ẩm. Bệnh có
khả năng lây lan nhanh gây chết hàng loạt, bệnh gây thiệt hại kinh tế lớn, giảm năng
suất từ 5-100% tùy theo loại cây, giống cây, vùng địa lý và nhiều yếu tố khác.
1.1.5. Thiệt hại do bệnh héo xanh vi khuẩn gây ra trên cà chua
Bệnh HXVK phân bố rộng rãi, phổ biến và gây tác hại nghiêm trọng ở vùng nhiệt
đới, á nhiệt đới và những vùng có khí hậu ấm và ẩm trên thế giới [53].
Ở nhiều nước, bệnh HXVK đã là một yếu tố cản trở lớn đối với việc sản xuất rau
như Mỹ, Pháp, Úc,... Vi khuẩn Ralstonia solanacearum gây bệnh HXVK là loài ký
sinh đa thực, với nhiều chủng, nòi khác nhau, thể hiện tính độc, khả năng gây bệnh,
phân bố ở các vùng địa lý khác nhau.
Trên cây cà chua mức độ thiệt hại có thể lên đến 81,5% trên giống mẫn cảm
Marglobe và 47% đối với giống Talatuoya [37].
Nhiều vùng sản xuất cà chua trên thế giới, bệnh HXVK đã gây thiệt hại lớn đến
năng suất, có khi lên tới 95%.
Ở Brazil, tỷ lệ bệnh HXVK trung bình trên cà chua của 30 vùng điều tra là 13,1%
trong đó có 7 vùng tỷ lệ bệnh từ 20,1-50% và một vùng tỷ lệ bệnh lớn hơn 90% [86].
Ở Việt Nam, vi khuẩn này đã được xác định có chủng (race) 1 gồm nòi sinh học
(biovar) 3 và 4, đây là chủng có phạm vi ký chủ rộng, tồn tại lâu trong đất. Vì thế
ngoài phá hoại trên cà chua, loài vi khuẩn này còn xâm nhiễm gây hại trên nhiều đối
tượng cây trồng khác [13].



13
Đối với cà chua, hầu như các giống trồng trong sản xuất của nước ta đều nhiễm bệnh.
Sự phát sinh phát triển của bệnh HXVK trên cà chua có liên quan chặt chẽ với điều kiện
ngoại cảnh như: nhiệt độ và độ ẩm đất, lượng mưa, gió, kết cấu và pH đất, v.v...
Ở miền Bắc nước ta, bệnh HXVK hại cà chua đã và đang là một yếu tố hạn chế
lớn nhất đối với các vùng chuyên canh rau màu hiện nay như Hà Nội, Bắc Ninh, Hưng
Yên. Ở miền Nam, bệnh xuất hiện cũng tương tự ở các vùng chuyên canh cà chua lớn
ở Đà Lạt, Lâm Đồng, Kiên Giang [13].
Tạ Thị Thu Cúc và cs (1983) [8] cho biết: trong các loại bệnh chủ yếu hại cây cà
chua như mốc sương, virus, bệnh HXVK...thì bệnh HXVK do loài Ralstonia
solanacearum gây hại nghiêm trọng nhất.
Trong thực tế sản xuất bệnh HXVK đã phát sinh gây hại ở hầu hết các vùng trồng
cà chua ở miền Bắc, đặc biệt là những địa phương có truyền thống trồng rau màu như
khu vực ngoại thành Hà Nội, Hải Phòng, Hưng Yên....Theo Đỗ Tấn Dũng (1995a) [14]
thiệt hại do vi khuẩn gây chết héo cây cà chua lên tới 70-80%, thậm chí có thể lên tới
100%, nhất là cà chua vụ sớm và vụ muộn. Chính vì thế bệnh HXVK đã và đang là
vấn đề nan giải và nghiêm trọng đối với các vùng trồng rau trên cả nước.
1.2. TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VI KHUẨN RALSTONIA SOLANACEARUM
Các bệnh hại cây trồng có nguồn gốc trong đất, trong đó vi khuẩn Ralstonia
solanacearum Smith là nguyên nhân gây bệnh héo xanh phổ biến và nguy hiểm đã gây
tổn thất nghiêm trọng trong sản xuất nông nghiệp, nhất là các cây trồng có ý nghĩa
kinh tế như lạc, khoai tây, cà chua làm giảm đáng kể đến năng suất và chất lượng của
nông sản phẩm.
Do các tác nhân gây bệnh có nguồn gốc trong đất nên việc chẩn đoán và công tác
phòng trừ bệnh gặp rất nhiều khó khăn. Các bệnh này rất khó phòng trừ bằng thuốc
hóa học nên càng bị lạm dụng, gây ảnh hưởng không tốt đến sức khỏe con người, đất,
nước, môi trường sinh thái.
Mặt khác, hiện nay ở nước ta những nghiên cứu về chế phẩm sinh học để phòng
trừ các tác nhân gây bệnh có nguồn gốc trong đất hại cây trồng chưa được ứng dụng

nhiều trong sản xuất.
Vì vậy, những nghiên cứu về đánh giá đa dạng di truyền và độc tính của vi khuẩn
Ralstonia solanacearum sẽ góp phần tích cực trong việc tạo ra các giống kháng bệnh,
hay các chế phẩm sinh học,… để nâng cao hiệu quả phòng trừ bệnh héo xanh trên một
số cây trồng cạn là điều cấp thiết hiện nay.


14
1.2.1. Vi khuẩn Ralstonia solanacearum
Tế bào loài Ralstonia solanacearum có hình oval ngắn, gram âm, tròn ở hai đầu,
thường ở dạng đơn, ghép đôi hoặc ghép 4, ít khi kết thành chuỗi. Tuy có sự dao động
đáng kể nhưng kích thước của chúng khoảng 0,5-0,7 µm x 1,0-2,0 µm (Stevention, W
R. và cs, 2001) (dẫn theo Nguyễn Thị Thanh Thủy, 2014) [32]. Hầu như chúng luôn
chuyển động, có một đến vài tiên mao ở một cực của tế bào, bề mặt khuẩn lạc thường
nhẵn, đôi khi gồ ghề, chảy hoặc không chảy, màu trắng đục hoặc phớt hồng hoặc
trắng. Cả chủng có tính độc cao và tính độc thấp đều có các lông nhỏ ở rìa [74].
1.2.1.1. Đặc điểm sinh lý, sinh hoá của vi khuẩn Ralstonia solanacearum
Ralstonia solanacearum là loại vi khuẩn hiếu khí, không hình thành bào tử, có
thể sinh trưởng trên nhiều loại môi trường khác nhau. Nó có thể tổng hợp sắc tố
khuếch tán nitrat thành nitrit và tạo ra khí nhưng không thể thủy phân tinh bột, hóa
lỏng yếu hoặc không hóa lỏng getatin. Ralstonia solanacearum có khả năng tạo ra
H2S, khử nitrat, phân giải đối với sữa limut, có phản ứng oxidasa và catalasa, ure,
pectin, oxi hóa axetat, malonat và gluconat [13].
1.2.1.2. Các hình thức xâm nhập của Ralstonia solanacearum vào cây chủ
Ralstonia solanacearum xâm nhiễm vào rễ, gốc thân, thân và cuống lá qua vết
thương xây xát do nhổ cây con giống, do kỹ thuật chăm sóc hoặc thông qua côn trùng
như: ong, kiến hoặc các loại sâu gây hại khác v..v... có mang Ralstonia solanacearum,
chúng chích vào cây, qua đó vi khuẩn dễ dàng xâm nhập vào cây chủ, hình thức này có
thể là rất phổ biến và lan truyền nhanh.
Vi khuẩn sau khi xâm nhiễm vào rễ, thân cuống lá qua các vết thương cơ giới do

nhổ cây giống đem về trồng, do côn trùng hoặc tuyến trùng tạo ra, do chăm sóc vun
trồng…Vi khuẩn cũng có thể xâm nhập vào qua các lỗ hở tự nhiên, qua bì khổng trên
củ (khoai tây). Sau khi đã xâm nhập vào rễ lan tới các bó mạch dẫn xylem, sinh sản
phát triển ở trong đó. Sản sinh ra các men pectinaza và cellulaza để phân huỷ mô, sinh
ra các độc tố ở dạng exopolysaccarit (EPS) và lipopolysacrit (LPS) vít tắc mạch dẫn
cản trở sự vận chuyển nước và nhựa trong cây, dẫn tới cây héo nhanh chóng.
1.2.1.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến sinh trưởng của vi khuẩn Ralstonia solanacearum
Bệnh héo xanh thường xuất hiện ở những vùng có khí hậu nóng ẩm.
Nhiệt độ không khí: nhiệt độ thích hợp cho Ralstonia solanacearum phát triển là
25-35oC, nhiệt độ tối thiểu 10oC tối đa là 41oC, pH thích hợp 6,8-7,2 [55]. Tốc độ phát
triển của bệnh tăng sau khi lây nhiễm nếu nhiệt độ tăng trong phạm vi 26,7-37,8 oC.
Nhiệt độ cao làm tăng tốc độ sinh trưởng của vi khuẩn gây bệnh trong cây chủ, dẫn


15
đến cây bị héo nhanh hơn, số lượng vi khuẩn xâm nhiễm vào đất nhiều hơn, dẫn đến
sự xâm nhiễm vào cây bên cạnh cũng tăng lên.
Nhiệt độ đất: Nhiệt độ trên 25oC và ở độ sâu 5 cm cùng với độ ẩm của đất cao là
điều kiện thuận lợi cho bệnh héo xanh phát triển [62].
Ngoài nhiệt độ không khí, nhiệt độ của đất cũng là một yếu tố ảnh hưởng đến
sinh trưởng và phát triển của Ralstonia solanacearum.
Cường độ chiếu sáng: đã có một số nghiên cứu, khảo sát ảnh hưởng phối hợp của
cường độ chiếu sáng và chu kỳ quang lên sức đề kháng của cây chủ đối với vi khuẩn
gây bệnh héo xanh. Cường độ chiếu sáng giảm, không làm giảm sức đề kháng của cà
chua 1169 đối với chủng vi khuẩn LB-6 ở nhiệt độ 26,6 oC, trong khi đó làm giảm rất
đáng kể sức đề kháng của cà chua ở 29oC [50].
Độ ẩm của đất: độ ẩm cao của đất thường thấy ở những nơi đất phẳng, đất ruộng,
vùng bình nguyên hoặc những vùng có mưa lớn, nói chung rất thuận lợi cho vi khuẩn
phát triển. Sức đề kháng của vi khuẩn gây bệnh là rất lớn ở những nơi đất ẩm, nhưng
chúng sẽ bị tổn thương nặng khi đất gặp hạn và ngập nước, nhưng không tăng sinh ở

đất khô. Mức độ giảm quần thể Ralstonia solanacearum trong đất bị sấy khô xảy ra
chậm hơn so với đất bị xử lý ướt (ngập nước) [10].
Năm 1992, Chae Gun Phea [43] phát hiện ra rằng, sự xâm nhiễm không xảy ra ở
trên cát, nhưng nó lại là cao nhất ở đất thịt nặng, một mẫu đất sẽ không cản trở vi
khuẩn gây bệnh phát triển nhưng lại không cho phép bệnh phát triển, điều này dễ nhận
thấy bởi tỷ lệ cây chủ bị chết giảm, có thể nhờ sự tồn tại một thành phần nào đó ở
trong đất (như canxi chẳng hạn), trong trường hợp cụ thể này, nó ức chế vi khuẩn gây
bệnh phát triển đồng thời làm giảm mức độ gây hại của chúng.
1.2.1.4. Các chủng nòi (race, biovar) của vi khuẩn
Vi khuẩn Ralstonia solanacearum là loài kí sinh đa thực, chúng gây bệnh trên các
loài ký chủ với các chủng sinh lý khác nhau ở mỗi loài, mỗi giống cây trồng, mỗi vùng
miền khác nhau có thể chỉ nhiễm một hay một số chủng của chúng và ở những mức độ
nặng nhẹ khác nhau.
Loài vi khuẩn Ralstonia solanacearum, không phải là một đơn vi khuẩn đồng
dạng về sinh học hay phạm vi ký chủ, mà là một nhóm các dòng vi khuẩn biến thể
phức tạp, vi khuẩn rất dễ biến dị, phân hóa thành nhiều chủng, thể hiện qua các race,
biovar, phylotye,...khác nhau về phạm vi ký chủ, sự phân bố địa lý và khả năng tồn tại
dưới những môi trường khác nhau.
Dựa vào khả năng sử dụng, oxy hóa 3 loại rượu mạch vòng (hexose alcohol) là
manitol, sorbitol, dulcitol và 3 loại đường lactoza, maltoza, cellobioza. Hua et al (1984)
[57] đã nghiên cứu và phân loại vi khuẩn đến biovar (thứ sinh học). Theo Buddenhagen


16
(1962) [41], Hayward (1964) [52] đã xác định loài Ralstonia solanacearum có 5 biovar
gây bệnh HXVK, đó là:
Biovar 1: không có phản ứng oxy hóa cả hai nhóm đường và nhóm rượu
Biovar 2: chỉ oxy hóa nhóm đường và không oxy hóa nhóm rượu
Biovar 3: có phản ứng oxy hóa của nhóm đường và nhóm rượu
Biovar4: chỉ có phản ứng oxy hóa nhóm rượu

Biovar 5: chỉ oxy hóa lactoza, maltazo, cellobioza và manitol mà không oxy hóa
sorbitol vàddulcitol
Cho đến nay, đã có nhiều tác giả công bố kết quả nghiên cứu về race của loài
Ralstonia solanacearum. Người ta đã phát hiện công bố 5 race khác nhau trên cơ bản
phân biệt về phạm vi ký chủ, phân bố địa lý và khả năng tồn tại ở những môi trường
khác nhau.
Race 1 bao gồm biovar 1, 3, 4 có phổ ký chủ rộng, phân bố ở khắp các vùng đất
thấp nhiệt đới, cận nhiệt đới, gây bệnh chủ yếu trên các cây trồng thuộc họ cà như cà
chua, khoai tây, thuốc lá, ớt, một số cây cỏ dại và các cây thuộc họ cà khác.
Race 2 gồm biovar 1 gây héo chuối có phân bố hẹp ở một số nước, chủ yếu ở
vùng Trung và Nam Mỹ, nhưng hiện nay đã phát hiện thấy chủng này ở một số nước
thuộc châu Á.
Race 3 bao gồm biovar 2 gây hại chủ yếu trên khoai tây, cà chua và một số cây
ký chủ là cỏ dại. Nhóm này có độc tính cao đối với các cây thuộc họ cà.
Race 4 gồm biovar 4 gây héo cây gừng ở Trung Quốc, Philippin và một số
nước khác.
Race 5, biovar 5 chỉ gây hại ở cây dâu tằm.
Theo Buddenhagen (1986) [40], các đặc điểm sinh học của race 4 và 5, chưa
được xác định rõ ràng.
Gần đây, một cách phân loại khác dựa trên các trình tự gen hrpB, egl và mutS, vi
khuẩn này chia ra 4 phylotype [46] : Phylotype I: 144bp; phylotype II: 371bp;
phylotype III: 91bp; phylotype IV: 213 bp.
1.2.1.5. Tính độc của vi khuẩn
Tính độc của vi khuẩn có mối quan hệ với hình thái khuẩn lạc và các race tổng
hợp polysachrit ngoại bào [54]. Các biovar đột biến của Ralstonia solanacearum có
thể được phát hiện dễ dàng khi chúng được cấy vạch trên môi trường thạch Kelman có
2,3,5-triphenyl tetrazolium clorit (TTC) sau 36-48 giờ [54]. Môi trường TTC là môi
trường chỉ thị của vi khuẩn gây bệnh héo xanh và được sử dụng để phát hiện các dòng



17
vi khuẩn còn độc tính. Những đột biến có tính độc thường hình thành các khuẩn lạc
màu trắng, thể nhầy lỏng, khoanh tròn mực với màu phớt hồng ở tâm. Những khuẩn
lạc của vi khuẩn bị mất độc tính thường nhỏ, màu kem hay đỏ sẫm. Khả năng tổng hợp
chất nhầy polysacharit là một thuộc tính chung của tất cả các chủng phân lập
Ralstonia solanacearum có tính độc. Tuy nhiên sự tương quan giữa khả năng tổng hợp
chất nhầy và tính độc của vi khuẩn rất phức tạp.
Về mặt sinh hóa của tính độc, khi nghiên cứu so sánh sự tổng hợp IAA (axit indol
3-axetic) ở Ralstonia solanacearum dạng chảy không cố định có độc tính và dạng chảy
không độc, Sequeira and Williams (1963) [85] đã phát hiện ra rằng cả hai dạng đều
tổng hợp IAA dễ dàng ngay cả khi tryptophan không có mặt trong môi trường nuôi
cấy. Khi cấy trên môi trường TTC, tế bào vi khuẩn Ralstonia solanacearum tạo thành
các khuẩn lạc có bề mặt nhẵn, hơi chảy, màu trắng đục ở rìa và phớt hồng ở tâm.
1.2.2. Các nghiên cứu về vi khuẩn Ralstonia solanacearum trên thế giới
Vi khuẩn Ralstonia solanacearum là loài ký sinh đa thực. Nó có thể tồn tại lâu
dài trong đất, trong tàn dư cây bệnh và trên cỏ dại. Nhiều công trình của các tác giả
trước đây đã công bố cho thấy sự tồn tại của vi khuẩn Ralstonia solanacearum ảnh
hưởng rất lớn bởi điều kiện môi trường như: nhiệt độ và độ ẩm đất.
Vi khuẩn Ralstonia solanacearum gây bệnh cho hơn 200 loài cây trong hơn
50 họ bao gồm cây trồng, cây cảnh và cỏ dại. Ralstonia solanacearum phân bố rộng
trên toàn thế giới từ vùng nhiệt đới đến vùng ôn đới (Châu Á, Bắc Á). Đây là vi khuẩn
gây bệnh và lây lan trong đất và nước. Vi khuẩn có thể tồn tại nhiều năm ở một số loại
đất. Tuy nhiên sự tồn tại đó phụ thuộc vào race của loài Ralstonia solanacearum có
mặt trong đất và thường race 1 tồn tại nhiều năm hơn so với race 3 do khả năng sống
sót của race 3 bị giảm sút nhanh [73]. Ở lớp đất có độ sâu 55-65cm vi khuẩn Ralstonia
solanacearum race 3, biovar 2 có thể tồn tại được 82 ngày, còn ở lớp đất bề mặt (1015cm) thì race 3 chỉ tồn tại được 10 ngày. Ở Nhật Bản, Okabe (1975) [77] đã phát hiện
thấy vi khuẩn Ralstonia solanacearum ở độ sâu 80-100cm trên cánh đồng trồng thuốc
lá bị nhiễm bệnh tự nhiên sau thu hoạch 4 tháng.
Ralstonia solanacearum là một trong những loại vi khuẩn phá hoại cây nghiêm
trọng nhất trên toàn thế giới và hàng năm gây thiệt hại cho ngành nông nghiệp hàng tỉ

đô la Mỹ. Vi khuẩn Ralstonia solanacearum race 3 biovar 2 (R3bv2) không xuất hiện
ở Mỹ nhưng khả năng lây nhiễm vào nước này rất cao thông qua con đường nhập
khẩu cành giâm cây hoa phong lữ được sản xuất tại nước ngoài. Nếu vi khuẩn R3bv2
này lây nhiễm vào Mỹ sẽ dẫn tới hậu quả nghiêm trọng cho ngành sản xuất khoai tây.
Vi khuẩn này đã được liệt vào danh sách các tác nhân gây bệnh trên cây và có điều
luật kiểm tra an toàn sinh học chặt chẽ tại Mỹ [56].


18
Vi khuẩn Ralstonia solanacearum là tác nhân gây bệnh trong đất và trong nước,
vi khuẩn này có thể tồn tại và phân tán trong một thời gian dài trong đất hoặc nước bị
nhiễm khuẩn. Vi khuẩn thường lây nhiễm thông qua rễ cây khoai tây (thông qua các
vết thương hoặc tại các điểm xuất hiện của rễ bên). Các sinh vật trong đất như giun
tròn có thể gây ra tổn thương cho rễ cây và tạo điều kiện cho sự xâm nhập của vi
khuẩn vào cây. Trong một số trường hợp, vi khuẩn từ cây bị nhiễm bệnh có thể lây lan
qua các cây chưa bị nhiễm bệnh qua nước tưới. Từ những nguồn bệnh đó, vi khuẩn có
thể lây lan từ những ruộng bị nhiễm bệnh đến các ruộng chưa bị nhiễm bệnh qua đất
dính trên nông cụ, nước tưới hay do mưa.
Trong điều kiện nhiệt độ thấp (<4oC) mật độ vi khuẩn giảm nhanh chóng nhưng
vi khuẩn vẫn có thể tồn tại và thường ở trạng thái tiềm ẩn. Trong môi trường tự nhiên,
vi khuẩn Ralstonia solanacerum biovar 3 race 2 có thể sống sót qua mùa đông trong
cỏ dại bán thủy sinh, trong các phần sót lại của cây trên ruộng hoặc trong vùng đất
quanh rễ của các cây ký chủ [79].
1.2.3. Nghiên cứu về vi khuẩn Ralstonia solanacearum ở trong nước
Theo Tạ Thị Thu Cúc và cs (1983) [8], vi khuẩn Ralstonia solanacearum là loài
gây hại nghiêm trọng trên cà chua. Đặc biệt ở các vùng trồng cà chua đất trũng, không
thoát nước, đất thịt năng hoặc chân đất bón nhiều đạm, không cân đối với lân và kali.
Nguyễn Thị Ly và Phan Bích Thu (1993) [20] khi nghiên cứu nguyên nhân gây
bệnh HXVK hại lạc đã thấy rằng loài Ralstonia solanacearum được phân lập từ các
mẫu bệnh thu thập từ các vùng khác nhau có tính độc khác nhau. Điều đó có nghĩa là

cần thiết phải chọn lọc ra các giống kháng thích hợp với các vùng sinh thái.
Nghiên cứu về phạm vi ký chủ của loài Ralstonia solanacearum Smith, Đoàn Thị
Thanh và cs (1995) [29] cho rằng vi khuẩn Ralstonia solanancearum không những gây
hại trên cây khoai tây mà còn ký sinh và gây hại trên cây cà chua, thuốc lá, lạc, cây cà.
Tác giả còn cho rằng đây là loài vi khuẩn đa thực, có phạm vi ký chủ rộng, gây hại chủ
yếu trên các cây thuộc họ cà (Solanaceae), họ đậu (Leguminasae).
Theo tác giả Lê Lương Tề (1997a) [25] cho biết vi khuẩn xâm nhập qua vết
thương xây xát và di chuyển trong bó mạch ở thân, lá, sản sinh độc tố có tác động gây
héo. Các yếu tố thời tiết như nhiệt độ, ẩm độ cao sẽ làm bệnh hại năng hơn.
Nguyễn Thi Yến và cs (2002) [36] trong khi nghiên cứu thành phần nòi biovar vi
khuẩn trên cây trồng cạn đã thu được kết quả: các isolate vi khuẩn héo xanh thu thập
được từ các vùng trồng cà chua, khoai tây ở miền Bắc Việt Nam chủ yếu thuộc biovar
3. Các isolate thu thập trên lạc chủ yếu thuộc biovar 3 và 4, các biovar 3 và 4 đều gây
bệnh trên cà chua, khoai tây, thuốc lá và cà.


19
1.3. TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VỀ BỆNH HÉO XANH VI KHUẨN
1.3.1. Triệu chứng bệnh
Bệnh xuất hiện gây hại từ khi cây con đến khi thu hoạch nhưng gây hại chủ yếu
từ ra hoa đến thu quả đợt đầu. Đặc điểm của bệnh là cây héo đột ngột, chết nhanh mà
lá không kịp chuyển màu vàng. Cây mới bị bệnh thường héo vào ban ngày, lúc nắng to
và tươi lại vào sáng sớm và chiều mát, sau một vài ngày thì cây héo rũ rồi chết hẳn.
Lõi cây và rễ bị úng nước và sau đó chuyển màu nâu. Đôi khi lõi cây trở nên rỗng. Rễ
có thể mọc ra từ thân cây sau đó chuyển vàng và thối rễ, số lá khô và héo tăng cho đến
khi cây chết. Quá trình này có thể diễn ra rất nhanh. Khi cây mới bị bệnh nếu cắt
ngang đoạn thân gần rễ dài 3-5cm nhúng trong cốc nước sạch sau vài phút có dòng
dịch vi khuẩn màu trắng sữa chảy ra ở đầu lát cắt. Đó là triệu chứng bệnh HXVK.
Chất dịch này được gọi là ooze và chứa nhiều vi khuẩn. Các mô thân gỗ chuyển sang
màu nâu và có thể bắt đầu mọc ra từ thân cây. Vi khuẩn gây thối nhũn có thể xâm

nhiễm vào các bộ phận của cây. Cây cà chua nhiễm bệnh vào mọi giai đoạn sinh
trưởng nhưng mạnh nhất vào thời kỳ cây ra hoa, kết quả, quả lớn.
1.3.2. Nguyên nhân gây bệnh và điều kiện phát sinh bệnh
Do vi khuẩn Ralstonia solanacearum gây ra. Vi khuẩn phát triển thích hợp ở pH
6,8-7,2. Nhiệt độ thích hợp 25-35oC. Nhiệt độ gây chết 52oC.
Bệnh lan truyền từ cây này sang cây khác trên đồng ruộng nhờ nước tưới, nước
mưa, gió bụi, đất bám dính ở các dụng cụ dùng để vun sới, chăm sóc cây. Vai trò của
tuyến trùng nốt sưng Meloidogyne incognita và các loài tuyến trùng khác hoạt động ở
trong đất, tạo vết thương cho vi khuẩn lan truyền, lây bệnh hỗn hợp rất đáng chú ý để
ngăn ngừa.
Nguồn bệnh của bệnh HXVK hại cà chua có thể tồn tại ở nhiều dạng khác nhau:
vi khuẩn có thể sống lâu trong đất, trong tàn dư cây bệnh, trong vật liệu giống nhiễm
bệnh, trong các cây kí chủ phụ thuộc họ cà và cỏ dại là ký chủ của bệnh.
Bệnh xuất hiện gây hại ở cả giai đoạn vườn ươm cây con và ở ruộng trồng ngoài
sản xuất, gây hại nặng khi cây cà chua đã lớn, nhất là giai đoạn ra nụ - hoa đến hình
thành quả non - quả già thu hoạch. Ở giai đoạn cây con nhiễm bệnh thường làm toàn
bộ lá héo rũ nhanh chóng, lá héo xanh gục xuống, cây chết xanh.
Bệnh phát triển mạnh và nhanh trong điều kiện nhiệt độ cao, mưa gió, nhất là ở
trên đất cát pha, thịt nhẹ hoặc đất đã nhiễm vi khuẩn, trồng các giống mẫn cảm từ
trước. Nhiệt độ là yếu tố quan trọng ảnh hưởng tới sự phát sinh phát triển của bệnh.
Nhiệt độ thích hợp cho vi khuẩn phát triển trong khoảng từ 25-35
là 10

nhiệt độ tối thiểu

và tối đa là 52 ; pH thích hợp 6,8-7,2 [66]. Độ ẩm đất và các vi sinh vật đối


20
kháng cũng là những yếu tố hạn chế quan trọng khống chế hay thúc đẩy phát triển của

bệnh. Lượng mưa cũng ảnh hưởng rất lớn đến sự phát triển của vi khuẩn Ralstonia
solanacearum. Ở những vùng có mưa nhiều, nhiệt độ đất và không khí trong khoảng
25-35

bệnh thường gây thiệt hại nặng nề về kinh tế. Sau những trận mưa, thời tiết

nóng hoặc xen kẽ giữa ngày mưa và nắng ấm sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho bệnh phát
triển nhanh và hậu quả là bệnh sẽ xảy ra nghiêm trọng [89]. Đất khô ải hoặc ngâm
nước dài ngày (luân canh lúa nước), bón phân đạm hữu cơ, phân hoai mục với lượng
cao (thâm canh) đều có khả năng làm giảm bệnh.
Nguồn bệnh vi khuẩn đầu tiên lưu truyền qua vụ khác là đất, tàn dư cây bệnh và
giống (khoai tây). Ở trong đất vi khuẩn có thể bảo tồn sức sống lâu dài tới 5-6 năm
hoặc 6-7 tháng tuỳ thuộc vào ảnh hưởng của nhiệt độ, độ ẩm, loại đất, các yếu tố sinh
vật và các yếu tố khác. Đối với cà chua, hầu như các giống trồng trong sản xuất của
nước ta đều nhiễm. Sự phát sinh phát triển của bệnh HXVK trên cà chua có liên quan
chặt chẽ với điều kiện ngoại cảnh như: nhiệt độ và độ ẩm đất, lượng mưa, gió, kết cấu
và pH đất, v.v..
1.3.3. Các phương pháp chẩn đoán, phát hiện bệnh héo xanh vi khuẩn
Một phương pháp phát hiện, chẩn đoán bệnh HXVK nhanh ngoài đồng ruộng
thông thường được áp dụng là dựa vào triệu chứng bệnh điển hình trên cây như héo,
bó mạch màu nâu, thâm đen...Để xác định thêm độ chính xác khi cây mới bị bệnh, nếu cắt
ngang đoạn thân gần rễ dài 3-5cm nhúng trong cốc nước sạch sau vài phút thấy có dòng
dịch vi khuẩn màu trắng sữa chảy ra ở đầu lát cắt. Đó là triệu chứng bệnh HXVK [65].
Phương pháp thử phản ứng siêu nhạy trên thuốc lá: tiêm dịch vi khuẩn Ralstonia
solanacearum nồng độ 108-109 tế bào/1ml vào mô lá thuốc lá. Sau 24-48 giờ quan sát
thấy đốm hoại tử có màu sáng chuyển dần sang màu sẫm, còn nếu là vi khuẩn hoại
sinh hoặc mất khả năng gây bệnh thì không có hiện tượng mô bị chết [67].
Phương pháp phân ly, nuôi cấy vi khuẩn trên môi trường chọn lọc nhân tạo: trên
môi trường TTC thì khuẩn lạc của loài Ralstonia solanacearum có rìa không đều,
nhầy, rìa trắng sữa, ở giữa có phớt hồng nhạt [63].

Phương pháp PCR chẩn đoán và giám định loài Ralstonia solanacearum bằng
việc sử dụng cặp mồi AU.P759/760 [78] đặc hiệu cho loài vi khuẩn Ralstonia
solanacearum. Trong thực tế thì phương pháp PCR tỏ ra rất nhanh, nhạy, đặc hiệu và
hiệu quả cao hơn.
1.3.4. Biện pháp phòng trừ
Bệnh HXVK do vi khuẩn Ralstonia solanacearum gây ra có nguồn gốc từ đất, có
khả năng tồn tại lâu dài trong đất, trong cơ thể ký chủ thực vật như thân, hạt giống, củ
giống, tàn dư thực vật, phân bố rộng khắp ở các vùng trên thế giới...nên là loại bệnh


21
rất khó phòng trừ, con người rất khó kiểm soát bởi nhiều yếu tố như cây trồng, điều
kiện kinh tế xã hội, điều kiện tự nhiên...hơn thế vi khuẩn lại có sự phân hóa thành
nhiều race, biovar có tính chuyên hóa khác nhau và có khả năng biến thể tùy theo điều
kiện tự nhiên. Vì vậy, việc áp dụng biện pháp phòng chống bệnh HXVK riêng rẽ sẽ
không đem lại hiệu quả như mong muốn.
Để phòng chống bệnh HXVK có hiệu quả, theo Hayward (1994) [51] thì phải áp
dụng các biện pháp phòng trừ tổng hợp, kết hợp hài hòa các biện pháp như dùng giống
kháng bệnh, sử dụng các biện pháp sinh học, biện pháp canh tác, biện pháp hóa học,
cần có hiểu biết trạng thái của cây, các race và biovar của vi khuẩn gây bệnh và
phương thức lan truyền.
1.3.4.1. Biện pháp sử dụng giống kháng
Đây là một trong các biện pháp quan trọng và mang lại hiệu quả kinh tế nhất
trong phòng chống bệnh HXVK. Nhiều giống kháng trên khoai tây, cà chua, thuốc lá,
lạc cũng như các cây trồng khác đã đem lại hiệu quả trong việc phòng chống bệnh
HXVK.
Nguyễn Thị Vân và cs, 2014 [34] đã nghiên cứu chọn tạo giống vừng chống chịu
bệnh HXVK trên một số vùng trồng chính ở Nghệ An. Kết quả cũng đã chọn lọc được
12 dòng giống vừng mang nhiều đặc tính nông học tốt và kháng bệnh HXVK. Trong
đó có các dòng vừng số 10 có tiềm năng đưa vào sản xuất, đạt năng suất 9,1 tạ/ha,

thích ứng cao với cơ cấu cây trồng cây giống trong vụ Hè Thu tại Nghệ An.
Đỗ Văn Tuân và cs, 2014 [33] thực hiện các nghiên cứu phân lập và khảo sát khả
năng kháng vi khuẩn Ralstonia solanacearum của vi tảo Scenedesmus quadricauda.
Dịch chiết tảo Scenedesmus quadricauda trong dung môi methanol và n-hexan thể
hiện hoạt tính kháng vi khuẩn Ralstonia solanacearum. Nghiên cứu này sẽ là cơ sở
xây dựng được các nhóm chất kháng khuẩn dựa trên cơ chế kháng vi khuẩn của vi tảo.
Chọn tạo các giống kháng bệnh HXVK cũng đã được thực hiện bởi AVRDC và
các nhóm nghiên cứu khác [84]. Tuy nhiên, sự kháng bệnh của các giống đó không ổn
định do sự đa dạng di truyền của vi khuẩn gây bệnh và các yếu tố môi trường như
nhiệt độ cao [59] và các chủng đặc hiệu [49], [92], [93].
Để khắc phục điều này, phương pháp ghép cà chua trên cây cà kháng bệnh đã
được áp dụng. Kỹ thuật ghép cà chua trên gốc cà tím (Solanum intergrifolium) đã được
Nhật Bản áp dụng từ những năm 50 của thế kỷ XX. Wang (2000) [96] đã sử dụng 3
giống cà tím kháng bệnh HXVK là EG 190, EG 203, EG 219 làm gốc ghép và dùng
cành ghép là giống cà chua quả nhỏ: santana, ASVEG#6. Sau đó cây ghép được lây
nhiễm nhân tạo và trồng trong nhà lưới. Kết quả là trong vụ hè ở giống ASVEG#6 có


22
từ 20-31,8% số cây bị bệnh so với 100% số cây đối chứng không được ghép bị chết do
bệnh HXVK.
Ở Việt Nam cũng đã có nhiều nghiên cứu về việc sử dụng gốc ghép để hạn chế
bệnh HXVK. Chọn gốc cà tím EG 203 ở vùng đất thoát nước kém làm gốc ghép hoặc
sử dụng ngọn là cà chua Red Crown 250 ghép lên cà chua Đà Lạt vừa cho năng suất
cao lại đảm bảo tính kháng bệnh HXVK tốt, giảm tỉ lệ bệnh xuống 2,5% [3].
1.3.4.2. Biện pháp canh tác
Luân canh cây trồng không phải là cây ký chủ của vi khuẩn Ralstonia
solanacearum, đặc biệt là với cây trồng nước được coi là biện pháp hữu hiệu trong
việc giảm mật độ vi khuẩn trong đất cũng như giúp hạn chế tối đa nguồn bệnh từ vụ
trước. Ở Ấn Độ luân canh khoai tây - lúa mỳ- đậu lupin - ngô- khoai tây đã đem lại

hiệu quả làm giảm tỷ lệ nhiễm bệnh héo xanh trên khoai tây từ 80,1% xuống còn 6,3
và 7,5% ở năm thứ 5.
Biện pháp xen canh cũng đem lại hiệu quả trong phòng chống bệnh HXVK. Xen
cây giữa khoai tây với ngô hoặc đậu cove đã làm giảm tỷ lệ nhiễm bệnh héo xanh trên
khoai tây [45].
Vôi thường được sử dụng để phòng trừ các tác nhân gây bệnh có nguồn gốc trong
đất. Nó có thể tác động đến tiểu khí hậu trong đất, kích thích hoạt động của các vi sinh
vật đối kháng. Nó có thể thúc đẩy sự phát triển của cây trồng chống chịu lại điều kiện
bất thuận.
1.3.4.3. Biện pháp sinh học
Sử dụng chế phẩm sinh học phòng chống bệnh vi khuẩn, tạo điều kiện thuận lợi
cho các vi sinh vật đối kháng hoạt động tiêu diệt và ức chế sự phát triển của vi khuẩn
hại cây. Theo CAB.I (2004) [42], kẻ thù tự nhiên của loài vi khuẩn Ralstonia
solanacearum là Bacillus cereus, Chai flava,..
Một số nghiên cứu trong phòng trừ bệnh HXVK như sử dụng thuốc kháng sinh
Streptomycine, sử dụng vi khuẩn đối kháng B.subtilis, P.fluorescent...được nghiên cứu
chủ yếu trong phòng thí nghiệm tuy nhiên hiệu quả còn thấp, chưa ổn định và chưa
được áp dụng trong sản xuất [47]. Tại Mỹ một loại chủng không phải tác nhân gây
bệnh của vi khuẩn đã được bán như một tác nhân phòng trừ sinh học. Các tác nhân
phòng trừ sinh học không gây bệnh trong tương lai sẽ được bán trên thị trường châu
Á.
1.3.4.4. Biện pháp hóa học
Phòng chống bệnh HXVK bằng biện pháp hóa học nhìn chung ít hiệu quả, tốn
kém và khó thực hiện do vi khuẩn tồn tại trong đất, xâm nhiễm và sinh sản trong mạch


23
dẫn của cây. Dùng các chế phẩm kháng sinh được coi là biện pháp triển vọng thay thế
thuốc hóa học. Tuy nhiên, dùng các kháng sinh dễ tạo ra các dạng, chủng vi khuẩn mới
kháng thuốc. Hơn nữa, giá thành thuốc kháng sinh cao là một trở ngại lớn cho việc

ứng dụng rộng rãi.
Ngoài ra, một số biện pháp khác nhằm hạn chế sự phát sinh phát triển của vi
khuẩn Ralstonia solanacearum như vệ sinh đồng ruộng, dọn sạch tàn dư cây bệnh.
Việc kết hợp các biện pháp canh tác với các biện pháp vệ sinh có thể làm giảm và làm
chậm quá trình xâm nhiễm.
Việc bỏ hóa chất trong một vài tháng đồng thời trừ cỏ có hiệu quả trong việc
phòng chống bệnh HXVK.
1.3.4.5. Một số biện pháp khác
Thu hạt giống khỏe, sạch bệnh trên những cây trồng không bị nhiễm bệnh để
giống, xử lý hạt giống trước khi gieo trồng, khử trùng cây giống, đất trồng, dụng cụ để
diệt vi khuẩn là cách phòng tránh lây lan bệnh HXVK trên đồng ruộng.
Độ ẩm của hạt cũng là một trong những yếu tố ảnh hưởng đến sự phát sinh phát
triển của vi khuẩn, độ ẩm của hạt < 8,9% hầu như vi khuẩn gây hại không phát sinh
được. Xử lý hạt giống trong nước nóng 50 oC trong 25 phút làm giảm hiệu quả vi
khuẩn bám vào hạt giống.
Bón phân hợp lý và cân đối đảm bảo nhu cầu dinh dưỡng ở từng thời kì sinh
trưởng của cây cà chua. Bón phân ủ có thể làm giảm tỷ lệ bệnh HXVK, đó là do được
vệ sinh đồng ruộng và do cấu trúc và độ màu của đất được cải thiện. Các vật chất hữu
cơ cao trong đất cải thiện điều kiện sinh sống cho các vi sinh vật, trong đó gồm cả
những vi sinh vật đối kháng có thể chống lại vi khuẩn Ralstonia solanacearum. Ở Đài
Loan người ta đã nghiên cứu tác dụng của việc bón bột khô và tàn dư của các loại
hành và tàn dư cây tỏi nhằm cải tạo đất ảnh hưởng đến việc phòng trừ bệnh HXVK.
Nghiên cứu cho thấy nếu bón thêm 1% bột hành khô (không có rễ) cho đất trong chậu
trồng cà chua sẽ làm giảm đáng kể bệnh HXVK. Tuy nhiên khi đưa thí nghiệm ra
ngoài đồng ruộng thì tác dụng của biện pháp này không thể hiện rõ. Việc bón phân
xanh cây mù tạt vào đất cũng cho hiệu quả kìm hãm bệnh HXVK.
Nhằm nâng cao năng suất và phẩm chất cây trồng, theo Đỗ Tấn Dũng (2001) [13]
phải xây dựng hệ thống tổng hợp các biện pháp phòng trừ một cách đúng đắn, đảm
bảo thu hoạch có năng xuất cao, phẩm chất tốt và ổn định. Tuyển chọn và tạo ra các
giống chống chịu bệnh, sạch bệnh, chất lượng tốt. Kỹ thuật canh tác ngoài tác dụng

làm cho cây sinh trưởng, phát triển đạt năng suất cao, đồng thời hạn chế, tiêu diệt bệnh
hại. Do đó cần áp dụng cụ thể ngay từ khi gieo hạt cho đến khi thu hoạch. Đất vườn
ươm sạch sẽ không có tàn dư cây bệnh. Luân canh cây cà chua, khoai tây với cây trồng


24
nước (lúa) hoặc cây trồng cạn không là ký chủ, lên luống cao dễ thoát nước tránh
ngập úng. Kết hợp với công tác bón phân cân đối, chăm sóc chu đáo như bón lót
tro bếp, hoặc vôi có tác dụng làm giảm tỷ lệ bệnh. Ngoài ra cần chú trọng việc điều tra,
nhổ bỏ kịp thời cây bị héo rũ, tiêu độc chỗ cây bệnh bằng bón vôi, formo l2% hoặc
Cuso. Cần thiết thì dùng thuốc để phun phòng Streptomycine 50-200 ppm hoặc bón,
tưới một số chế phẩm sinh học Trichoderma viride.
1.3.5. Các nghiên cứu về bệnh héo xanh vi khuẩn trên thế giới
Bệnh héo xanh vi khuẩn là một trong các bệnh gây hại nghiêm trọng đến năng
suất và chất lượng cây lạc, cây khoai tây ở nhiều nước trên thế giới. Vi khuẩn được
Smith nghiên cứu và đặt tên là Ralstonia solanacearum từ năm 1896. Bệnh HXVK là
loại bệnh quan trọng và điển hình nhất ở vùng nhiệt đới, cận nhiệt đới và những vùng
có khí hậu ôn đới trên thế giới [51], [81]. Bệnh gây nên những thiệt hại nghiêm trọng
về kinh tế, làm giảm năng suất trên nhiều cây trồng từ 15-95%, thậm chí 100% trên
cây cà chua [38], đến 70% trên cây khoai tây [87] và 90% trên cây lạc [71]. Bệnh
HXVK phân bố rộng rãi, phổ biến và gây tác hại nghiêm trọng ở vùng nhiệt đới, á
nhiệt đới và những vùng có khí hậu ấm và ẩm trên thế giới [53], [65]. Trên cây lạc,
bệnh HXVK đã được công bố ở Indonesia vào năm 1905 và mức độ gây hại có thể làm
giảm năng suất 90% đối với lạc, 16% đối với cà chua và 18% đối với khoai tây.
Hàng năm ước tính thiệt hại do bệnh HXVK trên lạc từ 50.000 đến 150.000 tấn [72].
Ở Trung Quốc, bệnh HXVK gây hại nghiêm trọng trên nhiều loại cây trồng và
phân bố rộng rãi không chỉ có trên cây họ cà như cà chua, cây cà, khoai tây, thuốc lá,
gừng mà còn gây hại phổ biến trên cây thân gỗ như ôliu (Olea europoeo), cây dâu
(Morus alba) [54].
Trên cây lạc bệnh HXVK được phát hiện từ những năm 1930 ở những vùng trồng

lạc phía nam. Với diện tích trồng lạc 3,3 triệu ha, hàng năm có tới 200.000 ha (khoảng
6% trong tổng diện tích) bị nhiễm bệnh với mức độ phân bố rộng rãi ở 17 tỉnh trồng
lạc. Mức độ nhiễm bệnh rất khác nhau và thay đổi theo vùng với 1-5% ở các vùng có
luân canh lạc - lúa, 10-30% ở những vùng khô, còn những vùng bị nặng tỷ lệ này lên
đến 50% [76]. Bệnh gây thiệt hại ước tính từ 45.000-65.000 tấn lạc hàng năm
[88]. Với điều kiện nóng ẩm của vùng nhiệt đới ở Malaysia, bệnh HXVK gây hại
nghiêm trọng trên nhiều loài cây trồng [74]. Trên cây lạc tỷ lệ cây nhiễm bệnh trung bình
từ 5-20% và là nguyên nhân chính làm diện tích trồng lạc giảm từ 5.197 ha năm 1980 còn
1.318 ha năm 1986 với sản lượng tương ứng từ 19.437 tấn giảm còn 5.000 tấn.
Bệnh HXVK cũng được phát hiện trên các cây trồng khác như: cà chua, khoai
tây, thuốc lá, cây cà [70]. Bệnh HXVK do vi khuẩn Ralstonia solanacearum là một
bệnh hại nghiêm trọng có phân bố rộng rãi ở Thái Lan. Bệnh làm giảm năng suất đáng
kể đối với cà chua, khoai tây, gừng, cà, ớt, thuốc lá, lạc, vừng [91].


25
Bệnh héo xanh do vi khuẩn Ralstonia solanacearum (Smith) gây ra là một
vấn đề nghiêm trọng trong ngành công nghiệp sản xuất khoai tây ở Malawi do
làm giảm năng suất và chất lượng bảo quản của củ sau khi thu hoạch. Để định lượng
mức độ và tỷ lệ mắc bệnh, một cuộc khảo sát về kiến thức của nông dân về việc xác
định sự lây lan cũng như việc kiểm soát căn bệnh này đã được tiến hành với 81 nông
dân và 489 mẫu củ thu thập ngẫu nhiên trong 8 chợ lớn để xác định bệnh tiềm ẩn bằng
phương pháp DAS-ELISA. Kết quả cho thấy 100% nông dân đã nhận thức được sự
xuất hiện của bệnh héo xanh do vi khuẩn trên cánh đồng của họ và phương thức lây
lan. Mức độ nhiễm bệnh của vi khuẩn gây bệnh héo xanh được đánh giá là cao hơn
25% so với các loại vi khuẩn khác [61].
1.3.6. Các nghiên cứu về bệnh héo xanh vi khuẩn ở trong nước
Sau năm 1945, công tác nghiên cứu bệnh cây ở Việt Nam ngày càng được quan
tâm. Riêng bệnh do vi khuẩn Ralstonia solanacearum đã có nhiều cơ quan khoa học
trong nước quan tâm. Đặc biệt như: Viện Bảo vệ thực vật, Trường Đại học Nông

nghiệp Hà Nội, Viện Khoa học Kỹ thuật Việt Nam (cũ), Viện Nghiên cứu Rau Quả,
Viện Di truyền Nông nghiệp, Viện Thổ nhưỡng Nông hóa. Nhìn chung, những nghiên
cứu về bệnh héo xanh do Ralstonia solanacearum ở Việt Nam còn chưa nhiều, chưa
toàn diện và chưa sâu. Hiện nay, việc nghiên cứu Ralstonia solanacearum cũng đã trở
thành một vấn đề quan trọng trong công tác bảo vệ thực vật.
Những thông tin đầu tiên về bệnh HXVK như một bệnh hại quan trọng trên cây
lạc được thể hiện trong báo cáo Đặng Thái Thuận (1968) [31]. Trong báo cáo kết quả
điều tra bệnh cây năm 1967-1968 của Viện Bảo vệ thực vật cũng đã chỉ rõ bệnh
HXVK khá phổ biến ở đồng bằng, trung du và miền núi phía Bắc Việt Nam. Đối với
cây cà chua, bệnh HXVK đã và đang là vấn đề nan giải và nghiêm trọng đối với các
vùng trồng rau ngoại thành Hà Nội và các vùng phụ cận.
Qua điều tra, khảo sát bệnh trong những năm 1990-1993, Nguyễn Xuân Hồng
(1993) [17] đã cho biết: bệnh HXVK hại lạc xuất hiện phổ biến hầu hết ở các vùng,
mức độ bị bệnh có sự khác nhau giữa các vùng sinh thái. Bệnh hại nghiêm trọng ở một
số vùng trọng điểm như Nghệ An và Thanh Hóa với tỷ lệ bệnh dao động từ 15-35% và
các vùng trồng lạc của tỉnh Long An và Tây Ninh là 20-30%. Tác giả đã sử dụng
phương pháp lây bệnh nhân tạo bằng sát thương rễ trên cây lạc 2 tuần tuổi để đánh giá
khả năng kháng bệnh của các dòng/giống lạc.
Nghiên cứu về tính phổ biến của bệnh HXVK trên cây trồng cạn, tác giả Đỗ Tấn
Dũng (1995b) [14] cho rằng bệnh HXVK phát sinh phát triển và gây hại nghiêm trọng
trên cây cà chua, khoai tây, lạc. Trên cây thuốc lá tỷ lệ nhiễm bệnh do Ralstonia
solanacearum có phần nhẹ hơn. Đỗ Tấn Dũng đã cho biết những kết quả nghiên cứu
ban đầu về bệnh HXVK hại cây cà chua, đặc tính sinh học của vi khuẩn gây bệnh,


×