Tải bản đầy đủ (.docx) (210 trang)

Cấu tạo SGK lịch sử bậc THPT của cộng hòa Pháp và khả năng vận dụng vào Việt Nam qua nội dung: Các quốc gia cổ đại phương Tây Hi Lạp và Rô ma

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (9.64 MB, 210 trang )

MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài:

1.1 Xuất phát từ vị trí, vai trò đặc biệt quan trọng của SGK trong quá trình
dạy học lịch sử.
Quá trình dạy học là sự tổng hòa các yếu tố như mục tiêu dạy học, nội dung
dạy học, phương pháp dạy học, hoạt động của GV và HS, phương tiện dạy học, môi
trường dạy học... Trong phương tiện dạy học, SGK nói chung, SGK lịch sử nói
riêng có vị trí, vai trò đặc biệt quan trọng.`
Cuộc cách mạng khoa học công nghệ ngày nay phát triển như vũ bão, thành
tựu của nó không chỉ được ứng dụng trong sản xuất mà trong mọi mặt đời sống xã
hội, trong đó có giáo dục. Đó là sự xuất hiện ngày càng nhiều các phương tiện, kĩ
thuật, thiết bị hỗ trợ dạy học. Tuy nhiên, không một phương tiện dạy học nào có thể
thay thế hoàn toàn SGK. SGK có vị trí trung tâm trong tổ hợp sách và tài liệu dùng
trong nhà trường, giữ vị trí chủ đạo đối với các phương tiện dạy học.
Đối với GV, SGK quy định phạm vi và mức độ kiến thức, kỹ năng cần phải
truyền đạt đến HS. SGK là tài liệu quan trọng của GV trong quá trình soạn giáo án,
tiến hành bài giảng, tổ chức lớp học và đánh giá HS.
Đối với HS, SGK là nguồn cung cấp những kiến thức cơ bản của môn học,
phát triển kỹ năng làm bài tập, hình thành và phát triển ở các em phương pháp học
tập, nghiên cứu khoa học, thu thập và xử lý thông tin, vận dụng vào thực tiễn và tự
kiểm tra đánh giá kết quả học tập của mình. Là tài liệu thể hiện nội dung chủ yếu của
CT, ngoài việc cung cấp cho HS những kiến thức cơ bản, chính xác, hiện đại, có hệ
thống, SGK còn bồi dưỡng những phẩm chất đạo đức, trí tuệ, tình cảm tốt đẹp của
con người. Nó xứng đáng là người bạn trí tuệ của HS.
Do đó, việc nghiên cứu SGK có ý nghĩa rất quan trọng đối với công tác dạy
học và nghiên cứu khoa học giáo dục, đặc biệt trong thời kì phát triển hội nhập và
đổi mới giáo dục hiện nay.
1.2 Xuất phát từ yêu cầu đổi mới giáo dục, trong đó có đổi mới phương pháp
dạy học bộ môn lịch sử.


1

1


Bất kì một CT giáo dục nào cũng có tuổi thọ nhất định, không có CT nào tồn
tại vĩnh cửu. CT, SGK hiện hành được thực hiện từ năm 2002-2003, đến nay đã được
hơn chục năm và bắt đầu bộc lộ nhiều bất cập. Sự thay đổi CT đòi hỏi SGK cũng phải
thay đổi theo cho phù hợp với CT mới. SGK môn lịch sử cũng không nằm ngoài quy
luật đó.
Chiến lược phát triển kinh tế-xã hội giai đoạn 2001-2010 của cả nước từng đề
ra nhiệm vụ: “Khẩn trương biên soạn và đưa vào sử dụng ổn định trong cả nước bộ
CT và SGK phổ thông phù hợp với yêu cầu phát triển mới” (44; 7) Từ đó, trong
Chiến lược phát triển giáo dục năm 2001-2010 của Bộ Giáo Dục đã cụ thể hóa yêu
cầu này “ Đổi mới CT, SGK giáo dục phổ thông sau năm 2015 theo hướng tiếp cận
năng lực, vừa đảm bảo tính thống nhất trong toàn quốc, vừa vận dụng phù hợp ở các
địa phương. Chú trọng nội dung giáo dục đạo đức, pháp luật, thể chế, quốc phòng,
an ninh và các giá trị văn hóa truyền thống...” (44;7)
Vì vậy, việc định hướng, biên soạn lại SGK nói chung, SGK lịch sử nói riêng
theo hướng đổi mới đang trở thành một yêu cầu cấp thiết trước thềm lộ trình thay
sách năm 2015.
1.3 Xuất phát từ xu thế cải cách giáo dục thế giới, trong đó Pháp là nước đi đầu, trở thành

một trong những quốc gia có nền giáo dục tiến tiến, hiện đại nhất trên thế giới.
Từ cuối thế kỉ XX, nhiều quốc gia trên thế giới đã chuẩn bị và triển khai cải
cách giáo dục, tập trung chủ yếu vào giáo dục phổ thông. Trong đó, hai mắt xích quan
trọng nhất chính là CT và SGK. CT của các nước đều hướng đến mục tiêu: nâng cao
chất lượng giáo dục, trực tiếp góp phần cải cách nguồn nhân lực, nâng cao chất lượng
sống của con người; khắc phục tình trạng học tập nặng nề, căng thẳng, gây mất hứng
thú và niềm tin với việc học tập của HS; yêu cầu quá cao về mặt lí thuyết mà xem nhẹ

thực hành, năng lực hoạt động thực tiễn của người học bị hạn chế.
Pháp là nước có nền giáo dục tiên tiến hàng đầu thế giới, đồng thời cũng là
nước hết sức chú trọng đối với việc cải cách giáo dục. SGK lịch sử phổ thông nước
Ccộng hòa Pháp tiếp cận ba xu thế trên khá rõ nét với nhiều ưu điểm vượt trội cả về
hình thức và nội dung. Mục tiêu đề ra của môn học lịch sử THPT ở Pháp bên cạnh

2

2


việc cung cấp kiến thức, còn hướng đến rèn luyện nhiều kĩ năng cho người học. Nhìn
ra thế giới, chúng ta học tập kinh nghiệm biên soạn SGK của nước ngoài, đề xuất
những định hướng cho việc biên soạn SGK Lịch sử sao cho phù hợp với thực tiễn
Việt Nam nhằm nâng cao chất lượng dạy và học là việc làm hết sức cần thiết.
1.4 Những năm gần đây, nhiều bộ SGK nước ngoài nói chung và SGK lịch
sử nước Pháp nói riêng đã lần lượt được giới thiệu vào nước ta thông qua sách báo,
tạp chí, triển lãm... Tuy nhiên, tài liệu nghiên cứu về SGK lịch sử nước Pháp ở nước
ta còn khá khiêm tốn. Trong phạm vi có hạn của luận văn, chúng tôi mong muốn
giới thiệu một cách cụ thể về cấu tạo SGK lịch sử bậc THPT của cộng hòa Pháp,
trên cơ sở đó so sánh những nét tương đồng và khác biệt với SGK lịch sử Việt Nam
và đề xuất định hướng biên soạn một bài học trên cơ sở tiếp thu kinh nghiệm của
nước Pháp, vận dụng vào thực tiễn Việt Nam.
Xuất phát từ những lí do trên, chúng tôi quyết định chọn vấn đề “Cấu tạo
SGK lịch sử bậc THPT của cộng hòa Pháp và khả năng vận dụng vào Việt Nam qua
nội dung: Các quốc gia cổ đại phương Tây - Hi Lạp và Rô ma” làm đề tài luận văn
cao học.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
SGK có vị trí và vai trò đặc biệt quan trọng trong hệ thống giáo dục quốc dân
nên từ lâu đã trở thành mối quan tâm của nhiều nhà khoa học giáo dục cũng như

toàn xã hội. Đến nay, có nhiều công trình nghiên cứu về SGK nói chung, SGK lịch
sử nói riêng liên quan đến đề tài này :
2.1. Tài liệu nước ngoài
Thông qua nguồn tài liệu dịch, chúng tôi đã tiếp cận được một số công trình sau:
Các nhà giáo dục học và lí luận dạy học Liên Xô đi đầu trong nghiên cứu về
SGK như: E.Ia.Goolan, B.P.Exipop, N.G Dairi, I.F. Kharlamop….
Trong cuốn “Những phương pháp dạy học trong nhà trường Xô Viết” tại
Maxcova, xuất bản năm 1957, tác giả E.Ia.Goolan đã khẳng định vài trò của việc sử
dụng kết hợp các phương pháp dạy học trong nhà trường Xô viết, tập trung nhấn
mạnh ảnh hưởng của SGK đối với việc chuẩn bị bài tập ở nhà của HS.

3

3


Trong cuốn Chuẩn bị giờ học như thế nào? của N.G.Dairi (Đặng Bích Hà,
Nguyễn Cao Lũy dịch, NXB Giáo dục-1973), tác giả không chỉ quan tâm đến yêu
cầu biên soạn SGK mà còn giải quyết một cách khoa học việc sử dụng SGK như thế
nào để đạt hiệu quả cao. Tác giả đề cập đến mối tương quan giữa nội dung SGK và
bài giảng của thầy giáo trong một giờ học. Theo tác giả, vấn đề đầu tiên là mối
tương quan giữa tài liệu của SGK và tài liệu chứa đựng trong bài giảng của thầy
giáo trong giờ lên lớp. Tác giả chỉ ra có 4 vấn đề tùy thuộc vào mối tương quan này,
trong đó có hứng thú đối với giờ học và SGK. Công thức sơ đồ Đai ri đã giúp chúng
ta hướng dẫn HS sử dụng SGK trong dạy học lịch sử một cách có hiệu quả.
Trong cuốn Phát huy tính tích cực của HS như thế nào của Kharlamop, tập II
( NXB Giáo dục, 1979) đã trình bày về vị trí và vai trò của SGK, sử dụng SGK trên
lớp một cách có hiệu quả. SGK giữ một “vị trí” đáng kể trong việc nắm vững kiến
thức và phát huy tính tích cực học tập ở HS.
Như vậy, những đóng góp của N.G.Dairi về nghiên cứu giờ học lịch sử nói

chung và SGK nói riêng đã giúp chúng ta có được những định hướng cơ bản về việc
sử dụng SGK đạt hiệu quả cao nhất.
2.2. Tài liệu trong nước
2.2.1 Tài liệu giáo dục học – tâm lí học:
Nghiên cứu SGK không chỉ là đề tài được các nhà khoa học nước ngoài quan
tâm mà các nhà giáo dục học trong nước hết sức chú ý.
Trong cuốn Giáo dục học tập 1 (Hà Thế Ngữ - Đặng Vũ Hoạt, NXB Giáo
dục Hà Nội 1978), các tác giả đã nêu lên các vấn đề cơ bản của SGK và phương
pháp sử dụng SGK trong học tập của HS và giảng dạy của GV.
Cuốn Xã hội với SGK do NXB Giáo dục phát hành, là tập hợp các bài viết về
CT SGK và việc đổi mới CT SGK được đăng tải trên các báo chí của nhiều tác giả
khác nhau. Bên cạnh những vấn đề như đổi mới CT SGK, nội dung sách, công tác
phát hành, có tác giả đề cập đến quy trình biên soạn SGK ở Việt Nam. Đó là cơ sở
để thấy được những ưu điểm và hạn chế trong việc biên soạn SGK hiện nay và so
sánh với cách biên soạn SGK ở các nước trên thế giới.

4

4


Tài liệu phương pháp dạy học
Cuốn Đổi mới phương pháp dạy học, CT và SGK của tác giả Trần Bá Hoành.
Mặc dù vấn đề SGK không phải là vấn đề trọng tâm của sách nhưng trong đó cũng
có một phần nhỏ trình bày một cách cặn kẽ, cụ thể về SGK như tổ chức biên soạn,
tiến độ triển khai, xuất bản và phát hành SGK. Đặc biệt tác giả còn có những đánh
giá về CT SGK hiện nay cả mặt ưu điểm lẫn hạn chế. Đây là cơ sở để hiểu rõ quá
trình biên soạn SGK ở Việt Nam hiện nay, từ đó đề tài có những luận cứ xác thực về
những mặt còn tồn tại trong việc biên soạn SGK ở Việt Nam.
Trong cuốn “Phương pháp dạy hoc lịch sử” (NXB Giáo dục, 1992), được tái

bản, sửa chữa, bổ sung vào năm 1998, 1999, 2000,2001 do Giáo sư Phan Ngọc Liên
và Trần Văn Trị chủ biên đã đề cập đến việc xây dựng CT và biên soạn SGK lịch sử
ở trường THPT.
Trong cuốn Giáo trình phương pháp dạy học lịch sử tập 1, Phan Ngọc Liên
(chủ biên), Nguyễn Thị Côi, Trịnh Đình Tùng, NXB Đại hoc sư phạm năm 2010,
các tác giả đều khẳng định, CT được thể hiện cụ thể ở SGK, do đó cần tìm hiểu kĩ,
toàn diện loại tài liệu học tập này. Các tác giả đưa ra những nhận xét, đánh giá về vị
trí, ý nghĩa của SGK trong dạy học lịch sử ở trường phổ thông; cấu tạo SGK lịch sử
và từ cấu tạo chung, các tác giả đi sâu nghiên cứu về cấu tạo bài viết của SGK; phần
cơ chế sư phạm của SGK lịch sử.
Trong cuốn Giáo trình phương pháp dạy học lịch sử tập 2, Phan Ngọc Liên
(chủ biên), Nguyễn Thị Côi, Trịnh Đình Tùng, NXB Đại học sư phạm năm 2010, ở
chương X, phần III, các tác giả đưa ra phương pháp sử dụng hiệu quả SGK và các
tài liệu học tập. Các tác giả nhấn mạnh vai trò của SGK đối với GV và HS. Từ đó,
các tác giả xác định có hai cách sử dụng SGK chủ yếu đó là: Thứ nhất, trong giờ
học, GV trình bày bài giảng của mình được soạn theo nội dung SGK, giúp HS nắm
những sự kiện cơ bản nhất. Thứ hai, hướng dẫn HS nghiên cứu, nắm được nội dung
bài viết cũng như phần tư liệu học tập, chú trọng rèn luyện tính tự học cho các em.
Đề tài nghiên cứu khoa học Mô hình SGV trung học hiện đại: Dạy và học
môn lịch sử theo hướng đổi mới phương pháp dạy học (chủ nhiệm đề tài: PGS.TS

5

5


Trịnh Đình Tùng, các thành viên GS.TS Nguyễn Thị Côi, TS Nguyễn Mạnh Hưởng)
tháng 2 năm 2012. Đề tài mang tính cấp thiết, thời sự trong bối cảnh chuẩn bị cho lộ
trình thay sách năm 2015. Bên cạnh việc đề cập đến SGV, các tác giả cũng dành
một số nội dung viết về SGK lịch sử hiện nay và nhu cầu đổi mới. Các tác giả đưa

ra một số yêu cầu cơ bản đối với SGV, đề xuất xây dựng mô hình SGV hiện đại
môn lịch sử và minh họa một số bài cụ thể ở lớp 11 THPT.
2.2.3 Các nguồn tài liệu khác
Trong luận án tiến sĩ khoa học giáo dục SGK của trường PTTH Việt Nam
từ năm 1954 đến nay của Phạm Thị Kim Anh,1998, Đại học quốc gia Hà Nội và
Đại học sư phạm Hà Nội, Hà Nội, tác giả nghiên cứu về lịch sử SGK trải qua các
giai đoạn và tổng kết, nhận xét, đánh giá, rút ra bài học kinh nghiệm từ việc
biên soạn SGK lịch sử.
Cuốn Kỉ yếu hội thảo SGK thế kỉ XXI Kinh nghiệm thế giới, thực tiễn
Việt Nam của ban Tuyên giáo trung ương xuất bản tháng 2 năm 2012 đã tập hợp
nhiều bài nghiên cứu có giá trị về đổi mới CT và SGK giáo dục phổ thông.
Trong đó, các tác giả đề cập đến xu thế đổi mới giáo dục trên thế giới, sự cần
thiết phải đổi mới CT, SGK hiện hành, định hướng đổi mới CT giáo dục phổ
thông, SGK sau năm 2015. Các tác giả cũng giới thiệu một số mô hình SGK
của các nước như Pháp, Đức, Ấn Độ, Hàn Quốc, Colombia, bước đầu có so
sánh với SGK Việt Nam. Tuy nhiên, những bài viết đó mới chỉ dừng ở việc
nghiên cứu SGK nói chung, chưa đi sâu nghiên cứu, so sánh về SGK môn lịch
sử ở Việt Nam với Pháp.
Cuốn Kỷ yếu hội thảo khoa học quốc gia về dạy - học lịch sử ở trường phổ
thông Việt Nam tại Đà Nẵng, 8-2012. Kỉ yếu gồm ba phần, trong đó phần thứ nhất tập
trung đánh giá CT, SGK hiện hành, đề xuất định hướng đổi mới CT, SGK sau năm
2015. Phần thứ hai là các bài viết tập trung phân tích những giải pháp nhằm đổi mới
phương pháp dạy học lịch sử ở trường phổ thông. Những bài viết của các nhà nghiên
cứu lịch sử có giá trị và mang tính thực tiễn cao như: “Từ CT và SGK lịch sử phổ
thông của nước cộng hòa Pháp đến khả năng vận dụng của Việt Nam” của TS.

6

6



Nguyễn Văn Ninh; “Một số vấn đề về CT môn lịch sử trong hệ thống giáo dục ở Mĩ
và Canada” của PGS.TS Trần Thị Vinh; “Đào tạo GV dạy lịch sử cấp THPT ở Pháp
- những kinh nghiệm cho quá trình nâng cao chất lượng đào tạo GV ở Việt Nam” của
TS Nguyễn Thị Hạnh….
Nhìn chung, lịch sử nghiên cứu vấn đề SGK đã có nền tảng từ nhiều
năm, từ tài liệu nước ngoài đến tài liệu trong nước đều đề cập tới SGK và coi
đó là tài liệu giảng dạy, học tập không thể thiếu được của thầy và trò trong quá
trình dạy học. Tuy nhiên, nguồn tài liệu nghiên cứu, đối chiếu SGK của Việt
Nam với SGK nước ngoài, đặc biệt là nước Pháp đến nay vẫn còn rất khiêm
tốn, chủ yếu dừng lại ở bài viết trên các báo, tạp chí hoặc trong các đợt hội
thảo, các cuốn kỉ yếu. Những nguồn tài liệu trên giúp chúng tôi có cái nhìn đa
chiều về SGK Việt Nam nói riêng, SGK của các quốc gia trên thế giới nói
chung, là định hướng quan trọng để chúng tôi tiếp tục nghiên cứu, bổ sung và
hoàn thiện cho đề tài của luận văn.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là: Tìm hiểu cấu tạo SGK lịch sử bậc THPT
của nước cộng hòa Pháp và khả năng vận dụng vào Việt Nam.
3.2 Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi, giới hạn của đề tài:
-

Đề tài tập trung nghiên cứu cấu tạo SGK lịch sử THPT của cộng hòa Pháp, từ đó rút
ra những kinh nghiệm có khả năng vận dụng vào Việt Nam.

-

Để có cơ sở vận dụng những kinh nghiệm tốt từ cấu tạo của SGK nước cộng hòa

Pháp, đề tài còn tìm hiểu một số vấn đề cơ bản về CT, cách biên soạn, nội dung
SGK lịch sử THPT của Việt Nam để rút ra những ưu điểm và hạn chế.

-

Trên cơ sở học tập kinh nghiệm trong cấu tạo SGK lịch sử THPT của Pháp, đề tài
đề xuất mô hình cấu tạo mới trong SGK lịch sử THPT ở Việt Nam và tiến hành thực
nghiệm sư phạm ở trường THPT của tỉnh Tuyên Quang để chứng minh tính khả thi
của đề tài.

4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

7

7


4.1. Mục đích nghiên cứu
Khẳng định vai trò, ý nghĩa của SGK trong dạy học lịch sử.
Tìm hiểu mô hình cấu tạo SGK trong dạy học lịch sử bậc THPT của nước
cộng hòa Pháp.
Từ đó rút ra những kinh nghiệm có thể vận dụng vào Việt Nam và đề
xuất mô hình cấu tạo trong SGK lịch sử THPT ở Việt Nam.
4.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích trên, đề tài cần thực hiện những nhiệm vụ cụ thể sau:
- Tìm hiểu những vấn đề lí luận về xây dựng và biên soạn SGK của Pháp và
Việt Nam.
- Điều tra thực tế về việc sử dụng SGK lịch sử nói chung và SGK THPT nói riêng
ở một số trường để thấy ưu điểm và hạn chế của SGK hiện hành.
- Tìm hiểu, so sánh mô hình cấu tạo SGK Lịch sử của Pháp và Việt Nam, rút

ra những bài học kinh nghiệm có khả năng vận dụng vào Việt Nam.
- Đề xuất mô hình cấu tạo SGK lịch sử THPT Việt Nam trên cơ sở học tập
kinh nghiệm của nước cộng hòa Pháp.
- Tiến hành thực nghiệm sư phạm để khẳng định tính khả thi của những đề
xuất đưa ra.
5. Cơ sở phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
5.1 Cơ sở phương pháp luận
- Những quan điểm lí luận của chủ nghĩa Mác – Lênin về nhận thức và giáo
dục; đường lối của Đảng, tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục đào tạo; lý luận về tâm
lý học, giáo dục học, phương pháp dạy học của các nhà giáo dục và giáo dục lịch sử
có liên quan đến đề tài.
5.2 Phương pháp nghiên cứu
- Nghiên cứu lí thuyết: Nghiên cứu các tác phẩm của chủ nghĩa Mác – Lênin,
tư tưởng Hồ Chí Minh bàn về giáo dục, giáo dục lịch sử. Nghiên cứu các công trình
của các nhà giáo dục, giáo dục lịch sử có liên quan đến đề tài nghiên cứu.
- Nghiên cứu khái quát: CT, SGK lịch sử THPT ở Việt Nam và Pháp; Đề

8

8


xuất mô hình cấu tạo SGK lịch sử THPT ở Việt Nam trên cơ sở học tập kinh nghiệm
của cộng hòa Pháp.
- Điều tra khảo sát thực tiễn ở trường THPT qua dự giờ, quan sát, điều tra, trao
đổi với GV, cán bộ quản lí và HS để thấy được thực tế việc sử dụng SGK và vai trò, ý
nghĩa của SGK đối với việc dạy học lịch sử ở trường phổ thông hiện nay.
- Phương pháp so sánh tìm ra những điểm tương đồng và khác biệt giữa cấu
tạo SGK nước cộng hòa Pháp và Việt Nam.
- Thực nghiệm sư phạm nhằm khẳng định tính khả thi của đề tài.

6. Giả thuyết khoa học
Chất lượng dạy học lịch sử ở trường THPT sẽ được nâng cao nếu xây dựng
mô hình cấu tạo SGK lịch sử trên cơ sở tiếp thu có chọn lọc kinh nghiệm của cộng
hòa Pháp theo những yêu cầu đề tài đưa ra.
7. Đóng góp mới của đề tài
- Bên cạnh việc khẳng định tầm quan trọng của việc biên soạn SGK lịch sử
THPT, đề tài chỉ ra cấu tạo SGK lịch sử THPT của cộng hòa Pháp, rút ra những
kinh nghiệm tốt có khả năng vận dụng vào Việt Nam. Từ đó, đề xuất xây dựng cấu
tạo SGK lịch sử THPT ở Việt Nam qua nội dung “Các quốc gia cổ đại phương Tây
- Hi Lạp và Rô Ma” trên cơ sở học tập kinh nghiệm của cộng hòa Pháp.
8. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
8.1 Ý nghĩa khoa học
Kết quả nghiên cứu của đề tài góp phần làm phong phú lí luận dạy học bộ
môn về vấn đề biên soạn và sử dụng SGK lịch sử ở trường THPT.
8.2 Ý nghĩa thực tiễn
Kết quả nghiên cứu của đề tài giúp bản thân nắm vững hơn kiến thức lịch sử,
kiến thức lí luận dạy học bộ môn, đặc biệt là việc sử dụng SGK trong dạy học lịch
sử. Kết quả nghiên cứu của đề tài cũng góp một ý kiến vào vấn đề đổi mới việc biên
soạn SGK sau này.

9. Bố cục của đề tài

9

9


Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo và phụ lục, đề tài gồm có
ba chương:
Chương 1: Cơ sở lí luận và thực tiễn của việc tìm hiểu cấu tạo SGK lịch

sử THPT nước cộng hòa Pháp và Việt Nam
Chương 2: So sánh cấu tạo bài “Các quốc gia cổ đại phương Tây- Hiy
Lạp và Rôma” trong SGK lịch sử THPT của cộng hòa Pháp và Việt Nam.
Chương 3: Đề xuất biên soạn cấu tạo bài “Các quốc gia cổ đại phương
Tây - Hiy Lạp và Rô Ma” trên cơ sở học tập kinh nghiệm của cộng hòa Pháp.

10

10


NỘI DUNG
Chương 1: CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA VIỆC TÌM HIỂU
CẤU TẠO SGK LỊCH SỬ PHÁP VÀ VIỆT NAMCơ sở lí luận và thực tiễn
của việc tìm hiểu cấu tạo SGK lịch sử Pháp và Việt Nam
1.1 Cơ sở lí luận
1.1.1

Quan niệm về CT, SGK lịch sử ở trường THPT
* Về CT:
CT dạy học lịch sử ở trường phổ thông là một văn bản mang tính pháp quy
của nhà nước quy định vị trí, nội dung, mục tiêu, kế hoạch dạy và học bộ môn lịch
sử ở trường phổ thông phù hợp với cấp học, lớp học, khả năng nhận thức của HS.
CT bị chi phối bởi triết lý giáo dục và điều kiện hoàn cảnh kinh tế, chính trị, xã hội
của đất nước; phụ thuộc vào mục tiêu đào tạo. Không có CT dạy học nào là vĩnh
cửu. CT chỉ đúng trong một giai đoạn, một thời kỳ của lịch sử, thường tuổi thọ của
một CT ở các nước trên thế giới nói chung và nước ta nói riêng khoảng 12-15 năm.
CT bộ môn lịch sử hiện nay trên thế giới được tiếp cận theo ba cách: tiếp cận về nội
dung dạy học, tiếp cận về mục tiêu, tiếp cận xuất phát từ năng lực của người học.
Thứ nhất, tiếp cận về nội dung dạy học, nghĩa là lấy kiến thức làm trọng tâm,

thước đo, căn cứ để xây dựng CT. Quan điểm này xuất phát từ chỗ nhà nước, người
thầy độc quyền về kiến thức, mọi kiến thức phải thông qua CT, thông qua người
thầy đến với HS và do đó học ở trên lớp, HS được học những kiến thức mà nhà
trường, người thầy đã định sẵn. Quan điểm này đã tỏ ra lạc hậu vì sự bùng nổ công
nghệ thông tin, công nghệ tri thức, người học có thể tiếp cận nhiều nguồn tri thức
khác nhau.
Thứ hai, tiếp cận về mục tiêu, nghĩa là lấy mục tiêu giáo dục, mục tiêu đào
tạo làm thước đo, làm căn cứ để xây dựng CT. Cách tiếp cận này có ưu điểm là đào
tạo ra thế hệ trẻ, thế hệ phù hợp với chính trị, yêu cầu của xã hội nhưng không đề
cập được năng lực của người học và kiến thức lại bị chi phối, ảnh hưởng bởi mục
tiêu đào tạo.

11

11


Thứ ba, tiếp cận xuất phát từ năng lực của người học, quan điểm này coi
việc học là suốt đời lấy năng lực tự học, tư duy của bộ môn, phương pháp tiếp cận
làm tiêu chí cơ bản để xây dựng CT. Cách tiếp cận này tạo điều kiện hơn cho người
học phát huy được năng lực của mỗi người trong quá trình học tập ở trường, ở nhà
và sau này. Tiếp cận từ năng lực xuất hiện trên thế giới khoảng 15- 20 năm nay cùng
với sự bùng nổ của thông tin, tri thức.
Ở Pháp, CT giáo dục phổ thông của Pháp được thiết kế theo nguyên tắc sau:
Thứ nhất, nguyên tắc dạy học tích hợp, đặc biệt là cấp THCS. Trong CT cấp
THCS, môn Lịch sử - Địa lí- Giáo dục công dân được tích hợp với nhau.
Ví dụ: CT trung học cơ sở giảng dạy lớp nhập môn Địa lí- Lịch sử - Giáo dục
công dân. Trong những năm đầu tiên THCS, HS học các nguồn tư liệu đơn giản,
lịch sử (khảo cổ học, tranh ảnh, trích đoạn….) học hỏi và đặt chúng trong ngữ cảnh.
Xây dựng những câu chuyện ngắn gọn về lịch sử.

Thứ hai, nguyên tắc đồng tâm kết hợp với đường thẳng, trong đó nội dung
bài học được xây dựng thành các chủ đề lịch sử, hạn chế sự trùng lặp kiến thức. Bản
chất của nguyên tắc đồng tâm kết hợp với đường thẳng được thể hiện ở chỗ “cấu
tạo các khóa trình có nội dung giống nhau trong CT của hai cấp trung học, sự khác
nhau giữa hai khóa trình thể hiện ở trình độ kiến thức – thường được phân biệt
bằng khối lượng kiến thức cung cấp cho mỗi cấp và chỉ khác nhau về trình độ”
(5; 22). Ngoài việc lựa chọn nội dung kiến thức khác nhau thì mức độ nhận thức sâu
sắc về lịch sử ở hai cấp học phổ thông cũng khác nhau. Cấp THCS chú trọng nhiều
đến các sự kiện lịch sử cụ thể, trong khi đó cấp THPT lại chú trọng đến trình độ
khái quát và độ sâu cũng như bản chất của sự kiện.
Việc biên soạn SGK ở Pháp cho các ban và phân ban được thực hiện bởi các
NXB, chủ yếu là các NXB tư nhân. Ở Pháp, một CT nhiều bộ SGK. Người đóng vai
trò quan trọng nhất để lựa chọn sách không ai khác chính là những GV trực tiếp
giảng dạy. Khi đã lựa chọn được SGK tốt nhất để giảng dạy, họ sẽ trực tiếp đề nghị
với Hội đồng nhà trường để đưa ra quyết định cuối cùng. Ở Pháp, quyền in ấn và
quyền lựa chọn SGK là “một trong những quyền tự do nhất trên thế giới”. (22; 61)

12

12


CT của Pháp được biên soạn đảm bảo những yếu tố kiến thức cơ bản nhất, nền tảng
nhất; chỉ ra những cách tiếp cận và năng lực cho người học sau khi học xong một
chủ đề nào đó.
Ví dụ: Trong CT THCS dạy Địa lí- Lịch sử- Giáo dục công dân lớp nhập
môn, khi thiết kế CT, các tác giả đều tính đến các yếu tố sau: Tên chủ đề; thời
lượng dạy chủ đề; Đơn vị kiến thức trong chủ đề; Những cách tiếp cận chủ đề. Với
chủ đề nền văn minh Hi Lạp, thời lượng học chiếm khoảng 25% thời gian của CT.
(Xem phụ lục 8). CT của Pháp được thiết kế theo hướng tiếp cận năng lực của người

học. Không chỉ quan tâm đến lượng kiến thức trong một chủ đề, CT còn đưa ra
những gợi ý về cách khai thác nguồn kiến thức, cách tiếp cận kiến thức. Tức là chỉ
cho người học, người dạy con đường đi đến tri thức đúng đắn. Nguồn tiếp cận có
thể là Bản đồ, các tác phẩm văn học, các ví dụ tự chọn, các trang Web tra
cứu….Đặc biệt, CT còn chỉ ra những năng lực đạt được sau khi học xong chủ đề
như: năng lực thuyết trình, giới thiệu về một vấn đề lịch sử, năng lực thực hành như
quan sát và chỉ bản đồ….
Ở Việt Nam, Luật giáo dục của nước ta đã khẳng định “CT giáo dục thể hiện
mục tiêu giáo dục; quy định chuẩn kiến thức, kĩ năng, phạm vi và cấu trúc nội dung
giáo dục; phương pháp và hình thức tổ chức hoạt động giáo dục, cách thức đánh
giá kết quả giáo dục đối với môn học hoặc trình độ đào tạo” (5;102). Do đó, CT
giáo dục có tính pháp lệnh, song việc thực hiện phải linh hoạt, sáng tạo để đạt trình
độ mà CT quy định.
CT có tính pháp lệnh nên việc xây dựng phải dựa trên cơ sở pháp lí và thực
tiễn:
- Căn cứ pháp lí là những văn kiên, nghị quyết, chỉ thị... của Đảng và Nhà
nước (nghị quyết các Đại hội Đại biểu toàn quốc của Đảng, Luật Giáo dục, Quyết
định của Quốc hội, chỉ thị của Bộ Giáo Dục và Đào tạo...)
- Căn cứ thực tiễn là những thành tựu, kinh nghiệm giáo dục của nước ta qua
các thời kì lịch sử.

13

13


Như vậy, nếu Pháp thiết kế CT dạy học theo hướng tiếp cận năng lực thì Việt
Nam thiết kế CT theo hướng tiếp cận về nội dung cho nên mới có những điểm khác
nhau như trên.
Việc xây dựng CT Lịch sử ở trường phổ thông ở Việt Nam vừa qua đã đáp

ứng yêu cầu, nhiệm vụ chính trị, kinh tế xã hội của đất nước và được thể hiện ở mục
tiêu môn học. CT đã giải quyết tốt mối quan hệ giữa khoa học lịch sử và giáo dục
lịch sử; xử lí mối quan hệ giữa kiến thức lịch sử thế giới và lịch sử dân tộc trong CT
học; thể hiện tính “hiện đại, cơ bản, phù hợp với thực tiễn Việt Nam”; thể hiện
nguyên tắc đồng tâm kết hợp với đường thẳng.
CT môn lịch sử hiện nay tồn tại được khoảng thời gian dài từ 10-15 năm có
nhiều ưu điểm song bên cạnh đó cũng bộc lộ nhiều bất cập. (Soát lần cuối đến đây)
Về ưu điểm:
CT lịch sử ở trường phổ thông theo các nguyên tắc trên đã phát huy tác dụng
nhất định trong đào tạo thế hệ trẻ. CT đã bám sát mục tiêu giáo dục của cấp học,thê
hiện quan điểm, đường lối cúa Đảng, Nhà nước trong việc nhìn nhận, đánh giá các
sự kiện, nhân vật lịch sử, chú ý tới việc giáo dục toàn diện con người, CT cũng đã
cập nhật, phản ánh những thành tựu mới nhất và tương đối ổn định của khoa học
lịch sử, đề cao lịch sử dân tộc (Quốc sử), lấy lịch sử dân tộc làm trung tâm. CT đảm
bảo được tính tương đối khả thi cho các vùng miền cùng một CT, một bộ SGK.
Tuy nhiên, CT môn Sử cũng bộc lộ nhiều hạn chế:
Cách tiếp cận CT đã tỏ ra lạc hậu, nghĩa là quá coi trọng về kiến thức, lấy
kiến thức làm thước đo CT mà không chú trọng đến năng lực của người học, dẫn
đến quá tải, nặng nề.
Cách thiết kế CT đồng tâm kết hợp với đường thẳng của môn lịch sử chưa
sâu, chưa thực sự nâng cao về nhận thức, trình độ, nên HS lên THPT lại phải học lại
những nội dung đã học ở THCS dẫn đến sự nhàm chán đối với người học. Cấu trúc
CT, SGK chưa thật sự cân đối giữa phần lịch sử Việt Nam với lịch sử thế giới, giữa
các nội dung kinh tế, văn hóa với các nội dung khác. Nhiều nội dung kiến thức hàn
lâm, chưa phù hợp với nhận thức của lứa tuổi HS. Lịch sử loài người cũng như lịch
sử dân tộc phải là lịch sử toàn diện trên tất cả các lĩnh vực đời sống, tiếc ràng CT

14

14



của chúng ta hiện nay quá nhẹ về kiến thức kinh tế, văn hóa, khoa học kỹ thuật. CT
của lịch sử thế giới và lịch sử dân tộc nặng về chiến tranh, đấu tranh giai cấp, chính
trị dẫn đến nhàm chán, khó khăn trong khi bối cảnh lịch sử thế giới có nhiều thay
đổi. CT được xây dựng theo hướng coi trọng việc trang bị kiến thức ho HS. Việc đề
cập đến một số năng lực còn hạn chế, mới dừng ở mục tiêu giáo dục. Việc chuẩn bị
cho HS tính năng động tự học, tự tìm hiểu chưa được chú trọng nhiều.
* Về SGK lịch sử:
(1) Quan niệm về SGK
Ở Việt Nam, có một số người quan niệm chưa đúng về vị trí, vai trò của
SGK. Họ cho rằng, SGK chỉ là một tài liệu rút gọn, thông báo tóm tắt nội dung của
khoa học lịch sử. Trước khi hiểu đúng về vai trò của SGK, cần phải hiểu thế nào là
SGK? SGK có những chức năng cơ bản gì?
Cuốn từ điển Tiếng Việt phổ thông (NXB Phương Đông) giải thích: SGK là
sách soạn theo CT giảng dạy ở trường học. Cuốn từ điển Anh Việt (Oxford)- NXB
Thanh niên – 2002 định nghĩa: SGK là quyển sách chứa đựng thông tin được dùng
trong nghiên cứu môn học nào đó.
Cách định nghĩa SGK tuy có khác nhau về hình thức biểu đạt từ ngữ,
nhưng đều thống nhất ở bản chất: SGK là một công cụ dạy học trong nhà
trường, là yếu tố quan trọng của quá trình tổ chức dạy học môn học với hai
nhóm chức năng chính là cung cấp thông tin khoa học và tổ chức hoạt động dạy
học.(4;1) Từ khái niệm chung về SGK, có thể thấy, SGK lịch sử là quyển sách
được soạn theo CT giảng dạy môn lịch sử, chứa đựng thông tin được dùng trong
nghiên cứu để dạy học lịch sử.
Trong quá trình dạy học, SGK ở vị trí logic sau đây:
Mục tiêu giáo dục
Mục tiêu các môn học và hoạt động
giáo dục
SGK

HS
GV
Kết quả dạy học

15

15


(2) Về chức năng của SGK, một cuốn SGK phổ thông có thể chứa nhiều chức
năng khác nhau. Chúng sẽ thay đổi tùy theo người sử dụng, tùy theo môn học và tùy
hoàn cảnh biên soạn sách. Một cuốn SGK cho HS sẽ có một số chức năng khi nó
nằm trong tay HS, nhưng lại có một số chức năng khác khi nó nằm trong tay GV.
Đối với HS, SGK không chỉ có một chức năng là cung cấp kiến thức, tiếp thu
được các khái niệm, thuật ngữ.. mà còn có nhiều chức năng khác như củng cố các
hiểu biết, kiểm tra, đánh giá, tra cứu, giúp hình thành và phát triển các kĩ năng.
Đối với GV, SGK là công cụ, phương tiện cho phép GV thực hiện tốt vai trò
của mình trong quá trình dạy học. Như vậy, SGK phổ thông sẽ tham gia vào việc
đổi mới sư phạm, bồi dưỡng nghiệp vụ sư phạm, giúp đỡ việc học tập và xác định
tiến trình sư phạm đối với GV.
Ở Pháp, SGK được thiết kế theo mô hình: “ Một CT chuẩn nhiều bộ SGK. Ở
nước Cộng hòa Pháp, chỉ có một CT chuẩn quốc gia và có nhiều bộ SGK khác
nhau” (5;241). Dựa trên CT chuẩn do các nhóm chuyên gia soạn thảo, việc biên
soạn các bộ SGK cho các ban và phân ban được tiến hành bởi các NXB. Các NXB
này chủ yếu là các NXB tư nhân. Họ thành lập ra các nhóm biên soạn SGK cho
từng môn hoc và các bộ SGK này không được bảo trợ bởi nhà nước. Ở Pháp, GV
chính là người trực tiếp lựa chọn và quyết định chọn bộ SGK nào để phục vụ công
tác giảng dạy của mình. Sau khi các GV bộ môn lựa chọn SGK họ trực tiếp đề nghị
lên Hội đồng nhà trường (Ban giám hiệu) để đưa ra quyết định cuối cùng.
(3) Cấu trúc SGK:

Ở Pháp, CT lịch sử của Pháp được cấu trúc theo các chủ đề lịch sử nhất định.
Các chủ đề lịch sử được thiết kế như sau:
+ Phần giới thiệu khái quát chủ đề: Trong phần này, các tác giả trình bày
khái quát nội dung của toàn chủ đề và đặt ra một câu hỏi dưới dạng bài tập nhận
thức. Sau đó, ít nhất hai kênh hình mang tính điển hình, tiêu biểu cho toàn chủ đề

16

16


được trình bày. Cuối cùng là một sơ đồ niên biểu, trên đó đề cập tới tất cả những
mốc thời gian tiêu biểu nhất cho toàn chủ đề. Sơ đồ niên biểu này có tác dụng định
hướng cho hoạt động dạy học của GV và hoạt động học tập của HS.
+ Phần các tiết học (cours) trong chủ đề chung: Phần các tiết học này ít hay
nhiều (thông thường từ 2 đến 4 tiết) phù thuộc vào nội dung của những chủ đề khác
nhau. Đây là phần trọng tâm của cả chủ đề và nó bao gồm phần bài viết (kênh chữ)
và phần cơ chế sư phạm (kênh hình, tài liệu tham khảo và câu hỏi).
+ Phần hồ sơ tư liệu: Phần này không có bài viết mà chỉ có tư liệu tham
khảo và kênh hình. Sau mỗi tiết có ít nhất một phần hồ sơ tư liệu, có những tiết
có hai hoặc ba phần hồ sơ tư liệu. Tài liệu tham khảo là tư liệu gốc và sau mỗi tài
liệu và kênh hình là một hệ thống câu hỏi để GV tổ chức, hướng dẫn để HS tự
chiếm hội tri thức.
+ Phần bài tập và ôn tập: Phần này hệ thống lại toàn bộ những nội dung cơ
bản của toàn chủ đề mà HS cần phải nắm dưới dạng câu hỏi, sơ đồ, bảng biểu và
cách thức trả lời các bài tập nhận thức đầu của chủ đề hay đầu các tiết. Bên cạnh đó,
các trang Website có các bài tập lịch sử có liên quan đến chủ đề cũng được giới
thiệu để GV và HS có thể tham khảo.
Ở Việt Nam, SGK được thiết kế theo các phần, chương, bài, tiết. Trong đó,
mỗi một bài bao giờ cũng có:

+ Bắt đầu bài học bao giờ cũng là tựa đề bài học.
+ Sau phần tựa đề, cũng giống như SGK Lịch sử của Pháp, SGK Việt Nam
có một phần giới thiệu khái quát nội dung bài học.
+ Tiếp đến là phần nội dung kiến thức của bài học. Trong đó bao gồm phần
bài viết và phần cơ chế sư phạm. Trong phần này, nội dung kiến thức được trình bày
thành các mục và tiểu mục. Mối quan hệ giữa phần bài viết và phần cơ chế sư phạm
được thể hiện rất chặt chẽ, trong đó, bài viết là bộ phận chủ yếu HS phải nắm vững,
còn phần cơ chế sư phạm (câu hỏi, bài tập, tư liệu tham khảo, phần đọc thêm, phần
minh họa (tranh ảnh), bản đồ, các loại đồ dùng quy ước trực quan khác như sơ đồ,

17

17


biểu đồ, đồ thị…) giúp HS hiểu sâu sắc bài viết, kiểm tra nhận thức, kết quả học tập
của mình, phát triển năng lực tư duy độc lập, thông minh sáng tạo…
+ Cuối cùng là phần câu hỏi và bài tập cuối bài, giúp HS củng cố và ôn tập.
1.1.2 Quan niệm về cấu tạo SGK
Cấu tạo, theo từ điển tiếng Việt (Cấu: kết lại; Tạo: làm thành), có nghĩa là
kết hợp nhiều bộ phận để làm thành một đối tượng. Cấu tạo SGK được hiểu là sự
kết hợp những thành phần không thể thiếu được của một cuốn sách, đó chính là
“bài viết” và “cơ chế sư phạm”.
Ở Pháp, SGK lịch sử bao gồm 2 phần là bài viết và cơ chế sư phạm. Trong
đó, bài viết cũng là phần chính của SGK, bài viết được trình bày ngắn gọn, súc
tích, nội dung được trình bày dưới dạng các chủ đề. Phần cơ chế sư phạm gồm
có hệ thống kênh hình đa dạng, được in màu đẹp, kênh hình cũng là một nguồn
tài liệu cung cấp kiến thức; câu hỏi, bài tập trong SGK Pháp khá phong phú,
chủ yếu là những câu hỏi đòi hỏi sự nhìn nhận đánh giá về sự kiện lịch sử, phát
huy tư duy độc lập của HS. Ngoài ra, ở phần mở đầu mỗi chủ đề đều giới thiệu

một cách khái quát nhất về chủ đề mà các em sẽ được học. Nhìn chung, cấu tạo
SGK lịch sử của Pháp có một sự kết hợp hài hòa giữa nội dung bài viết và cơ chế
sư phạm. Sự phong phú, đa dạng của cơ chế sư phạm sẽ góp phần làm cho nội
dung bài viết trở nên gần gũi, dễ hiểu hơn đối với người học. Ngược lại, tính
khoa học, cơ bản trong nội dung bài viết cũng làm cho cơ chế sư phạm trở nên
sinh động, hấp dẫn hơn.
Ở Việt Nam, đến nay vẫn có nhiều quan niệm khác nhau về cấu tạo SGK nói
chung và SGK Lịch sử nói riêng. Hiện nay tồn tại hai quan niệm cơ bản sau:
Quan niệm thứ nhất: Từ lâu, nhiều nhà giáo dục lịch sử nước ta cũng như
nước ngoài thường phân chia nội dung SGK ra hai phần: “kênh chữ” và “ kênh
hình”.
“Kênh chữ”, chỉ tất cả những phần có chữ viết, bao gồm bài viết chính cho
tiết học và những phần khác như câu hỏi, tóm tắt mở đầu, tư liệu tham khảo, chú
thích…là những thông tin thành văn chủ yếu được dùng trong SGK để trình bày nội

18

18


dung tri thức của môn học, chỉ dẫn về phương pháp học tập, đánh giá, kiểm tra kết
quả học tập của HS.
Kênh hình bao gồm những ảnh chụp, tranh vẽ, hình vẽ, sơ đồ, đồ thị…. Theo
chức năng hoặc mục đích sử dụng, kênh hình được chia làm 5 loại: minh họa; cung
cấp thông tin; Vừa minh họa vừa cung cấp thông tin; rèn kĩ năng thực hành, kiểm
tra kiến thức.
Cách phân chia cấu tạo SGK theo loại “kênh hình” và “kênh chữ” mới nhấn
mạnh ý nghĩa về mặt thông tin để HS nhận thức nội dung bài học chứ chưa làm rõ
chức năng, nhiệm vụ của mỗi phần trong SGK lịch sử.
Quan niệm thứ hai: Quan niệm này được các nhà giáo dục lịch sử tán thành,

SGK phải có hai phần: “bài viết” và “cơ chế sư phạm”
Từ cấu tạo chung của SGK, chúng ta cần xác định cấu tạo một bài viết. “Bài
viết” là nội dung cơ bản của CT được trình bày ngắn gọn trong một số trang cho
mỗi tiết học. Đây là bộ phận chủ yếu của SGK mà HS phải nghiên cứu, nắm vững
các kiến thức cơ bản, được lựa chọn phù hợp với yêu cầu học tập. SGK chia “Bài
viết” thành các phần, chương, bài, tiết. Thông thường mỗi phần gồm một số
chương, mỗi chương gồm một số bài, mỗi bài gồm 1 đến 3 tiết. Đối với HS THPT,
trung bình bài viết cho mỗi tiết học trong SGK chỉ dài khoảng 3 đến 4 trang. Do đó,
bài viết phải thực sự cô đọng, súc tích, có lượng thông tin vừa đủ để HS nắm được
các kiến thức cơ bản. Nội dung những thông tin được trình bày trong mỗi bài học
phải thể hiện được những yêu cầu, hướng dẫn về phương pháp dạy học, nhằm tích
cực hóa hoạt động học tập của HS, tạo điều kiện để các em nắm vững kiến thức. Số
lượng và chất lượng, sự bố trí và sắp xếp các thông tin trong mỗi bài phải vừa sức
đối với HS và giúp họ có phương pháp tự học, tự nghiên cứu.
Cấu tạo một bài viết SGK có thể gồm những phần sau:
Phần trình bày các kiến thức về lịch sử theo CT, bao gồm các đơn vị kiến
thức quan trọng nhất, cần thiết nhất, như các sự kiện, hiện tượng cơ bản, các nhân
vật lịch sử kết hợp với giải thích, phân tích một cách hợp lí.

19

19


Việc trình bày nội dung các sự kiện lịch sử ở bài viết thường được gắn với
kênh hình để giảm bớt lượng chữ viết. Sự kết hợp trình bày đó cung cấp được nhiều
thông tin, gợi suy nghĩ và gây hứng thú học tập cho HS.
Phần tư liệu: Có tác dụng bổ sung kiến thức, tạo thêm điều kiện cho HS cụ
thể hóa, làm phong phú nội dung các sự kiện lịch sử. HS có điều kiện phân tích, làm
việc với các sử liệu gốc để nâng cao sự hiểu biết của mình.

Phần tóm tắt của SGK Lịch sử được đặt ở cuối mỗi bài, nhất là trong SGK
cấp THCS, đây la phần khái quát những kiến thức cơ bản HS cần phải hiểu. Đây là
lượng kiến thức tối ưu trong học tập một bài của SGK, tức là kiến thức không thể
thiếu được đối với nhận thức lịch sử trong điều kiện cụ thể của việc học tập và đạt
kết quả cao nhất.
Lời khuyên HS về sử dụng sách: Nêu ngắn gọn phương pháp tra cứu mục lục,
tìm hiểu các thuật ngữ, những vấn đề cơ bản của sách, hướng dẫn làm bài
tập….Đây là điều kiện cần thiết trước tiên để giúp GV và HS khai thác, tận dụng hết
vai trò, chức năng của SGK.
“Cơ chế sư phạm” là chỉ tất cả những thành tố trong SGK, trừ bài viết, dành
cho một tiết học, bao gồm các câu hỏi, bài tập, tư liệu tham khảo, bài đọc thêm,
phần minh họa dừng trực quan quy ước khác như (sơ đồ, biểu đồ, đồ thị…).. Nội
hàm cơ chế sư phạm rộng hơn “kênh hình”. Cơ chế sư phạm là một nội dung đặc
biệt quan trọng của SGK, không chỉ dùng để minh họa, hỗ trợ cho bài học mà còn là
nguồn kiến thức cung cấp cho HS trong học tập. Phần cơ chế sư phạm không phải là
phần phụ mà là một thành tố quan trọng của nội dung SGK Lịch sử và luôn luôn
gắn với bài viết. Do đó, khi biên soạn SGK cần chú ý đến mối quan hệ gắn bó, mật
thiết này.
Trên thực tế, cách phân chia “bài viết” và “cơ chế sư phạm” tỏ ra dễ tiếp
nhận, vì nó thể hiện mối quan hệ chặt chẽ giữa hai phần cơ bản của SGK với nhau.
“Bài viết” là bộ phận chủ yếu mà HS nắm vững, còn “cơ chế sư phạm” giúp HS
hiểu sâu sắc bài viết, kiểm tra nhận thức, kết quả học tập của mình, phát triển năng
lực tư duy độc lập, thông minh sáng tạo.
1.1.3 Vai trò, ý nghĩa của SGK trong dạy học lịch sử ở trường phổ thông
20

20


- Đối với GV

Đối với GV, SGK là chỗ dựa quan trọng, là người bạn đáng tin cậy trong quá
trình giảng dạy. Bởi vì nó là cuốn sách cung cấp khá đầy đủ về kiến thức cơ bản,
hiện đại, có hệ thống. Dựa vào SGK, GV chuẩn bị bài soạn và bài giảng trên lớp,
truyền thụ những kiến thức lịch sử phổ thông và hiện đại cho HS. Đồng thời khơi
dậy ở các em lòng say mê học tập.
Tuy nhiên, SGK thường “tĩnh” hơn sự phát triển nhanh chóng của khoa học
lịch sử. Nội dung cơ bản của SGK có tính chất ổn định trong một thời gian nhất
định, do đó nội dung SGK bao giờ cũng “lạc hậu” hơn đối với sự phát triển của
khoa học lịch sử. Vì vậy trong bài giảng của mình, GV không chỉ dừng lại ở những
nội dung SGK mà phải luôn luôn tìm tòi, nghiên cứu các tài liệu khác để phản ánh
kịp thời tính hiện đại của kiến thức lịch sử cũng như nâng cao trình độ chuyên môn
của bản thân.
- Đối với HS
SGK là tài liệu học tập cơ bản nhất của HS nên được biên soạn theo CT và
quán triệt mục tiêu đào tạo đã được xác định. SGK ở trường phổ thông có ý nghĩa
đặc biệt quan trọng đối với HS trên cả ba mặt: giáo dưỡng, giáo dục và phát triển.
Trước hết, ý nghĩa về mặt giáo dưỡng
SGK cung cấp cho HS những kiến thức lịch sử phổ thông, cơ bản, hiện đại,
thiết thực và có hệ thống về lịch sử dân tộc cũng như lịch sử thế giới trong suốt quá
trình phát triển của nó. Chính vì thế, kiến thức phản ánh trong SGK đảm bảo tính
khoa học, đó là những kiến thức ổn định, đã được khoa học lịch sử mác-xít khẳng
định. Ngày nay, sự bùng nổ thông tin toàn cầu với tốc độ nhanh chóng, HS có thể
tìm kiếm tri thức ở nhiều kênh thông tin khác nhau, tuy nhiên, những kiến thức
được trình bày trong SGK vẫn là kiến thức được tinh lọc, thẩm định, là thành quả
của khoa học giáo dục.
Thứ hai, ý nghĩa về mặt giáo dục
Ngoài ý nghĩa giáo dưỡng, SGK còn có ý nghĩa giáo dục đạo đức, thẩm mĩ
và nhân cách đối với HS. Học lịch sử giúp các em nhận thức đúng đắn đường lối

21


21


chính trị của Đảng; những tấm gương sáng trên các mặt trận chính trị, quân sự, văn
hóa xã hội… Từ các sự kiện, hiện tượng, nhân vật lịch sử chân thực, cụ thể đã khơi
dậy trong HS những tình cảm đạo đức trong sáng, cao đẹp. Giáo dục cho các em có
lòng yêu quê hương đất nước gắn liền với yêu chủ nghĩa xã hội, lòng tự hào dân tộc,
trân trọng đối với các di sản lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc; trân trọng
các di sản văn hóa, hình thành những phẩm chất cần thiết của người công dân, có
thái độ tích cực với cộng đồng và xã hội, yêu lao động, sống nhân ái…
Thứ ba, ý nghĩa về mặt phát triển kĩ năng
Trên cơ sở lĩnh hội những kiến thức cơ bản, SGK chú trọng rèn luyện cho
HS những kĩ năng cơ bản như: kĩ năng sử dụng SGK, kĩ năng phân tích, tổng hợp,
so sánh, khái quát đánh giá sự kiện, hiện tượng lịch sử và các tình huống học tập
vào cuộc sống. SGK còn là tài liệu quan trọng nhất hỗ trợ HS trong quá trình tự học,
tự nghiên cứu; củng cố những hiểu biết đã có, kiểm tra đánh giá, tra cứu, tham khảo,
ứng dụng, góp phần hình thành, phát triển các kĩ năng, phương pháp giảng dạy của
GV và học tập của HS.
Ngoài ra, sự chuẩn xác của ngôn ngữ SGK còn góp phần giúp HS phát triển
ngôn ngữ, vốn từ, khả năng trình bày lời nói và ngôn ngữ viết.
1.1.4 Nguyên tắc xây dựng CT và biên soạn SGK Lịch sử ở trường THPT
Việc xây dựng CT lịch sử của nước ta phải tuân thủ những nguyên tắc chỉ
đạo cơ bản sau:
Thứ nhất, CT phải đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ chính trị, kinh tế xã hội, được
thể hiện ở mục tiêu bộ môn.
Mỗi giai đoạn lịch sử có yêu cầu nhất định đối với giáo dục lịch sử trên cơ
sở mục tiêu, chức năng, nhiệm vụ của bộ môn. Nếu trong thời kì kháng chiến
chống Pháp và chống Mĩ cứu nước, nhiệm vụ trọng tâm của việc dạy học lịch sử là
giáo dục lòng yêu nước, căm thù giặc để góp phần vào thắng lợi của cuộc chiến đấu,

thì trong công cuộc xây dựng CNXH và bảo vệ Tổ Quốc, CT không chỉ giáo dục lòng
yêu nước trong đấu tranh bảo vệ Tổ quốc mà còn giáo dục lòng yêu nước trong lao

22

22


động, phát minh, sáng chế, phục vụ cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước.
Thứ hai, CT phải giải quyết mối quan hệ giữa sử học và giáo dục lịch sử.
Thành tựu của sử học là cơ sở, nguồn gốc kiến thức cơ bản của môn Lịch sử
ở trường phổ thông. Việc chi phối của sử học đối với môn Lịch sử ở trường phổ
thông trước hết thể hiện ở chỗ, CT phải đảm bảo nội dung cơ bản của nghiên cứu
mới nhất của khoa học lịch sử. CT phản ánh kịp thời trình độ hiện đại của sử học
nước nhà. Tuy nhiên, CT lịch sử ở phổ thông không thể đưa mọi thành tựu của sử
học đương thời mà phải lựa chọn kiến thức phù hợp với yêu cầu, điều kiện giáo dục
lịch sử. Những thành tựu sử học đang tranh luận, chưa ổn định thì chưa đưa vào
giảng dạy cho HS.
Việc giải quyết mối quan hệ giữa sử học và nội dung môn Lịch sử ở trường
phổ thông phải thỏa mãn đồng thời hai yêu cầu: cập nhật với khoa học lịch sử và
tuân thủ các quy luật của quá trình giáo dục, dạy học, quan điểm, tư tưởng của Đảng
để thực hiện tốt mục tiêu giáo dục nói chung, mục tiêu môn học nói riêng. (30; 78)
Thứ ba, CT phải xử lí mối quan hệ giữa kiến thức lịch sử thế giới và lịch sử
dân tộc trong CT học.
Trong quá trình học tập lịch sử, chúng ta không thê giới hạn ở việc tìm hiểu
lịch sử dân tộc mà không biết đến lịch sử các dân tộc khác; lịch sử của mỗi dân tộc
là một bộ phận của lịch sử thế giới, vừa thể hiện quy luật chung của lịch sử loài
người, vừa nêu lên những quy luật riêng, đặc thù của dân tộc. Cho nên, khi học lịch
sử dân tộc phải lấy cái chung và cái riêng trong sự phát triển của dân tộc mình. Do

đó, CT lịch sử ở trường phổ thông cần cung cấp cho HS những kiến thức về lịch sử
dân tộc và lịch sử thế giới. Các em sẽ nhận thức mối quan hệ, ảnh hưởng, tác động
giữa lịch sử thế giới và lịch sử dân tộc để hòa nhập vào cộng đồng quốc tế và khu
vực mà vẫn giữ được bản sắc dân tộc mình.
Thứ tư, CT quán triệt nguyên tắc “hiện đại, cơ bản, phù hợp thực tiễn Việt
Nam”

23

23


Tính hiện đại của CT nghĩa là phải đề cập được những thành tựu mới nhất,
tương đối ổn định của khoa học lịch sử, của quan điểm của đảng, của lý luận dạy
học. Nguyên tắc này về cơ bản đã phản ánh nhiều thành tựu của sử học hay những
sự kiện mới cập nhật hơn, đúng đắn hơn. Nó phản ánh được quan điểm của Đảng
trong giáo dục lịch sử, phản ánh qua đánh giá các sự kiện, nhân vật, phản ánh việc
lựa chọn các sự kiện, hiện tượng của bộ môn.
Tính cơ bản của CT nghĩa là CT phải lựa chọn được những sự kiện, hiện
tượng cơ bản nhất của xã hội loài người và của dân tộc để cung cấp, giảng dạy cho
cho HS. Kiến thức cơ bản được xác định là “chuẩn” là thước đo kết quả học tập của
HS trong đánh giá, kiểm tra chung. Kiến thức cơ bản có thể hiểu là kiến thức tối ưu
trong học tập, tức là những kiến thức quan trọng nhất mà HS cần nắm vững để đạt
được yêu cầu học tập, phù hợp với trình độ của CT (30; 81)
Từ quan niệm cơ bản trên, CT phải tập trung vào những sự kiện, nhân vật,
quá trình lịch sử tiêu biểu của các giai đoạn phát triển của xã hội loài người và dân
tộc, nhấn mạnh các khái niệm lịch sử cơ bản, những quy luật quan trọng nhất.
Tính dân tộc nghĩa là phải ưu tiên giành một thời lượng thỏa đáng để HS học
lịch sử dân tộc (Quốc sử). Lịch sử thế giới học song song với lịch sử dân tộc, đi
trước một bước làm nền cho lịch sử dân tộc, giúp HS hiểu hơn về lịch sử dân tộc.

Tính khả thi nghĩa là CT phải được xã hội, các GV, HS ở các vùng miền khác
nhau đón nhận, thực hiện tốt trong quá trình dạy học. Nước ta cho đến nay vẫn chỉ
có một CT, một bộ SGK lại phải thực hiện ở các vùng miền với các điều kiện hết
sức khác nhau cả về kinh tế, văn hóa, khả năng nhận thức của HS. Một CT, một bộ
SGK hiện nay chưa phản ánh, thể hiện được tính khả thi của CT. Tình trạng quá tải,
nặng nề khá phổ biến ở các vùng nông thôn, đặc biệt ở vùng sâu xa.
Về việc biên soạn SGK: SGK lịch sử được biên soạn hàm chứa khái quát
những tri thức phổ thông cơ bản, hiện đại về lịch sử dân tộc cũng như lịch sử thế
giới trong suốt quá trình phát triển. SGK cũng là một công trình nghiên cứu khoa
học của khoa học giáo dục. Do đó, việc biên soạn SGK cần phải tuân thủ những yêu
cầu sau:

24

24


Về nội dung, SGK phải đảm bảo tính khoa học, tính hiện đại, tức là phải cập
nhật những thành tựu khoa học mới nhất của khoa học lịch sử và khoa học trong
nước cũng như khoa học nước ngoài.
Về kiến thức, SGK cần đảm bảo tính toàn diện, tức là phải phản ánh đầy đủ
mọi mặt sinh hoạt của xã hội loài người và dân tộc trong quá khứ về mọi mặt như
chính trị, quân sự, kinh tế, văn hóa, tư tưởng…
Về giáo dục, SGK được biên soạn theo quan điểm của sử học mácxit về quy
luật phát triển của xã hội, về vai trò của quần chúng nhân dân lao động… trong lịch
sử. Người viết sách phải biểu lộ thái độ, tình cảm đúng đắn của mình với những sự
kiện, hiện tượng và nhân vật lịch sử.
Về sư phạm, nội dung SGK phải phù hợp với trình độ nhận thức và đặc điểm
tâm lý, lứa tuổi HS. Hình thức trình bày trong SGK phải rõ ràng, hấp dẫn, tránh liệt
kê sự kiện, niên đại, khái niệm phức tạp hay lý luận khô khan, rườm rà.

1.1.5 Xuất phát điểm của vấn đề
1.1.5.1 Mục tiêu bộ môn
Luật giáo dục được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
khóa X thông qua ngày 25/12/2001 đã nêu: “Mục tiêu của giáo dục là đào tạo
những con người Việt nam phát triển toàn diện, có đạo đức, trí thức, sức khỏe, thẩm
mĩ về nghề nghiệp, trung thành với lí tưởng dân tộc và chủ nghĩa xã hội, hình thành
và bồi dưỡng nhân cách, phẩm chất và năng lực của công dân, đáp ứng yêu cầu
của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ Quốc” (25; 8)
Mục tiêu bộ môn Lịch sử ở trường phổ thông được xây dựng trên cơ sở lí
luận và thực tiễn, thể hiện tập trung ở việc quán triệt mục tiêu chung của giáo dục
phổ thông, thông qua chức năng, nhiệm vụ đặc trưng, nội dung của môn học và tình
hình, nhiệm vụ cụ thể của đất nước trong những điều kiện cụ thể. Mục tiêu giáo dục
phổ thông quán triệt đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước về giáo dục, yêu
cầu của từng giai đoạn phát triển kinh tế - xã hội của đất nước đối với giáo dục.
Mục tiêu của môn Lịch sử trường phổ thông nhằm giúp cho HS có được
những kiến thức cơ bản cần thiết về lịch sử dân tộc và lịch sử thế giới; góp phần

25

25


×