Tải bản đầy đủ (.doc) (107 trang)

Nghiên cứu cấu trúc không chính thức trong tiểu đội ở Học viện Hậu cần

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (562.63 KB, 107 trang )

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Nghiên cứu về nhóm xã hội là một trong những vấn đề trung tâm, quan
trọng hàng đầu của Tâm lý học xã hội ngay từ khi mới ra đời. Trong đó, vấn
đề cấu trúc nhóm cũng được các nhà tâm lý học xã hội đặc biệt quan tâm
nghiên cứu. Cho đến nay nhóm, vấn đề cấu trúc nhóm vẫn khẳng định được vị
trí của mình trong lòng Tâm lý học xã hội. Mặt khác, hoạt động, làm việc theo
nhóm đã và đang là xu thế chung của con người trong thời đại mở cửa của
nền kinh tế tri thức. Trên thực tế, sẽ không có cá nhân nào có thể tồn tại một
cách biệt lập với các cá nhân khác. Một cách ngẫu nhiên hay chủ định, mỗi cá
nhân sẽ là thành viên của một nhóm xã hội nào đó. Khi tham gia vào các
nhóm xã hội con người dù muốn hay không cũng đều chịu sự chi phối và ảnh
hưởng của nhóm về tất cả các mặt như: nhu cầu, hứng thú, sở thích niềm
tin… Hay nói cách khác, khi cá nhân gia nhập nhóm và nhóm được hình
thành, các cá nhân sẽ tương tác qua lại để cùng thực hiện mục đích và hoạt
động cùng nhau của nhóm. Do vậy, để nhóm hoạt động có hiệu quả thì cần
phải quan tâm và giải quyết một loạt các vấn đề như: tổ chức, quản lý nhóm,
sự tương tác qua lại giữa các cá nhân…Trong đó đặc biệt cần quan tâm đến
các mối quan hệ liên nhân cách được xây dựng trên cơ sở các mối liên hệ về
mặt xúc cảm giữa các thành viên. Bởi đây là yếu tố rất quan trọng góp phần
tạo ra bầu không khí tâm lý, mang lại sự kết hợp toàn diện giữa các cá nhân
bên cạnh vị trí, chức năng, nhiệm vụ mà họ phải đảm nhiệm. Nói cách khác,
cấu trúc không chính thức của nhóm là vấn đề tiếp tục đặt ra cho Tâm lý học
xã hội do những đòi hỏi ngày càng cao của sự phát triển xã hội.
Quân đội là một môi trường mang tính đặc thù, ở đây mỗi cá nhân đều
được biên chế một cách chặt chẽ về mặt tổ chức vào các đơn vị từ cấp toàn
quân như: quân khu, quân đoàn, sư đoàn, trung đoàn…cho đến các đơn vị nhỏ
như: đại đội, trung đội, tiểu đội. Trong đó, tiểu đội là đơn vị biên chế nhỏ nhất

1



của tổ chức đơn vị quân đội. Như vậy có thể khằng định tiểu đội là một nhóm
nhỏ xã hội mang tính đặc thù. Cũng giống như chiến sĩ ở các đơn vị bộ đội
chủ lực hay bộ dội địa phương, học viên trong các nhà trường quân đội cũng
được biên chế tương tự. Ở cấp tiểu đội, mỗi học viên có những vị trí, nhiệm
vụ nhất định đã được quy định một cách rõ ràng. Tuy nhiên, những mối quan
hệ liên nhân cách về mặt cảm xúc được nảy sinh một cách tự phát giữa các cá
nhân thì không được quy định trong bất kỳ điều lệnh, điều lệ hay kỷ luật nào
của quân đội. Vấn đề này đã và đang đặt ra những câu hỏi lớn cần lời giải đáp
cho những người làm chỉ huy, lãnh đạo, các bậc thủ trưởng. Bởi yếu tố này
quyết định rất lớn đến việc thực hiện vị trí, nhiệm vụ của các thành viên cũng
như thành tích hoạt động chung của cả đơn vị. Hơn thế nữa, chưa có nhiều
công trình nhiên cứu quan tâm đến vấn đề này một cách thích đáng để góp
phần xây dựng đơn vị vững mạnh toàn diện.
Xuất phát từ những lý do trên, chúng tôi lựa chọn đề tài: “Nghiên cứu
cấu trúc không chính thức trong tiểu đội ở Học viện Hậu cần” làm đề tài
nghiên cứu luận văn.
2. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu cấu trúc không chính thức của các tiểu đội để phát hiện ra
các mối liên hệ về mặt xúc cảm giữa các thành viên. Từ đó đề xuất một số
kiến nghị nhằm xây dựng mối liên hệ xúc cảm tích cực, tạo bầu không khí
tâm lý lành mạnh trong tập thể học viên quân sự.
3. Đối tượng và khách thể nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Biểu hiện và mức độ chặt chẽ của cấu trúc không chính thức trong các
tiểu đội học viên.
3.2. Khách thể nghiên cứu
260 học viên năm thứ 2 và năm thứ 4 thuộc 4 khoa: Chỉ huy tham mưu
hậu cần; Doanh trại; Tài chính; Quân nhu.


2


4. Giới hạn phạm vi nghiên cứu
Nghiên cứu cấu trúc không chính thức trong tiểu đội ở Học viện Hậu
cần. Tiểu đội được coi là một dạng nhóm nhỏ xã hội.
5. Giả thuyết khoa học
Có sự tồn tại của cấu trúc không chính thức trong các tiểu đội học viên
ở HVHC. Mức độ chặt chẽ và biểu hiện của cấu trúc này ở các hoạt động
khác nhau của các tiểu đội là không giống nhau và ở mức độ khá cao. Có
nhiều yếu tố tác động dẫn đến thực trạng trên, trong đó các yếu tố thuộc về
đặc điểm cá nhân như: tính cách, nhu cầu, sở thích, hứng thú…giữ vai trò ảnh
hưởng lớn. Ngoài ra, các yếu tố hoạt động cùng nhau, đội ngũ chỉ huy tiểu
đội, sự quản lý của các lực lượng quản lý… cũng có ảnh hưởng nhất định đến
mức độ chặt chẽ của cấu trúc này.
6. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Nghiên cứu một số vấn đề lý luận có liên quan đến đề tài như: nhóm,
phân loại nhóm, cấu trúc nhóm, cấu trúc chính thức, cấu trúc không chính
thức của nhóm, quan hệ liên nhân cách, xúc cảm, sự gắn bó xúc cảm…
- Nghiên cứu thực trạng sự tồn tại cấu trúc không chính thức trong các
tiểu đội:
+ Thực trạng các mối liên hệ xúc cảm giữa các thành viên;
+ Mức độ chặt chẽ cấu trúc không chính thức trong tiểu đội;
+ Vai trò, ảnh hưởng cấu trúc không chính thức đến đời sống quân nhân;
- Đề xuất một số kiến nghị để xây dựng mối liên hệ xúc cảm tích cực
giữa các cá nhân, tạo bầu không khí tâm lý lành mạnh trong tập thể học viên
quân sự.
7. Phương pháp nghiên cứu
7.1. Nhóm các phương pháp thu thập thông tin
7.1.1. Phương pháp nghiên cứu lý luận


3


- Mục đích: Hệ thống hóa một số vấn đề lý luận, xây dựng khái niệm
công cụ và xây dựng cơ sở lý luận cho đề tài.
- Cách thức tiến hành: Đọc, phân tích, hệ thống hóa các sách, tài liệu
liên quan đến đề tài. Trên cở sở đó tham khảo, tiếp thu có chọn lọc những ý
kiến, quan điểm phù hợp để phục vụ cho việc làm rõ các khái niêm công cụ
và xây dựng cơ sở lý luận cho đề tài
7.1.2. Phương pháp phỏng vấn sâu
- Mục đích: Thu thập thêm thông tin hỗ trợ cho quá trình điều tra.
- Cách thức tiến hành: phỏng vấn sâu một số học viên nhằm tìm hiểu
thêm về đặc điểm tính cách, suy nghĩ, mong muốn, nhu cầu, sở thích… góp
phần cho việc phân tích kết quả điều tra.
7.1.3. Phương pháp điều tra bằng bảng hỏi
- Mục đích: sử dụng phương pháp này để thu thập thông tin về thực
trạng sự tồn tại cấu trúc không chính thức trong các tiểu đội: sự hình thành
các mối liên hệ cảm xúc; mức độ, nhu cầu gắn bó cảm xúc của các học viên;
các yếu tố tác động đến sự gắn bó cảm xúc của học viên…
- Cách thức tiến hành: Xây dựng phiếu điều tra dành cho học viên; sử
dụng phiếu điều tra để khảo sát khách thể trong địa bàn nghiên cứu.
7.1.4. Phương pháp trắc đạc xã hội (J. Moreno)
- Mục đích: đây là phương pháp cơ bản của đề tài nhằm:
+ Phát hiện cấu trúc không chính thức trong tiểu đội.
+ Giúp mô tả chiều hướng của cấu trúc không chính thức.
+ Mức độ chặt chẽ của cấu trúc không chính thức.
- Cách thức tiến hành: theo 4 bước
+ Bước 1: Sau khi đã lựa chọn các tiểu đội học viên, chúng tôi tiếp xúc
với nhóm để tạo ra sự thân thiện giữa người nghiên cứu và khách thể.

+ Bước 2: Tiến hành trưng cầu ý kiến: phát phiếu, hướng dẫn cách làm,
thu phiếu.

4


+ Bước 3: Xử lý thông tin: kiểm tra độ tin cậy của tư liệu nhận được,
lập ma trận xã hội.
+ Bước 4: Rút ra kết luận về thực trạng sự tồn tại của cấu trúc không
chính thức trong tiểu đội cũng như mức độ chặt chẽ của cấu trúc này.
7.1.5 Phương pháp nghiên cứu trường hợp (Case study)
Phương pháp này được sử dụng để nghiên cứu một số tiểu đội, cụ thể:
Tiểu đội có mức độ chặt chẽ cao và tiểu đội có mức độ chặt chẽ thấp; nhằm
chỉ rõ các biểu hiện của các mức độ chặt chẽ này, đồng thời lý giải tại sao lại
có thực trạng đó.
7.2. Phương pháp xử lý số liệu -Sử dụng phẩn mềm SPSS
- Mục đích: Lượng hóa các kết quả thu được từ quá trình điều tra viết,
quá trình quan sát, phỏng vấn.
- Cách thức tiến hành: Sử dụng công cụ phần mềm SPSS để xử lý các
kết quả điều tra (tính tỷ lệ %, trung bình, thứ bậc…)
8. Cấu trúc luận văn
Luận văn gồm:
Mở đầu
Chương 1: Cơ sở tâm lý học về cấu trúc không chính thức trong nhóm tiểu đội.
Chương 2: Tổ chức và phương pháp nghiên cứu.
Chương 3: Kết quả nghiên cứu về thực trạng cấu trúc không chính thức
trong tiểu đội ở Học viện Hậu cần.
Kết luận và kiến nghị
Tài liệu tham khảo
Phụ lục


5


CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN TÂM LÝ HỌC VỀ CẤU TRÚC KHÔNG CHÍNH
THỨC TRONG NHÓM - TIỂU ĐỘI
1.1 Sơ lược lịch sử nghiên cứu vấn đề về cấu trúc không chính thức
trong tiểu đội
1.1.1 Những nghiên cứu ở nước ngoài
Nhóm xã hội là vấn đề đã được nghiên cứu từ khá lâu trong TLHXH
nói riêng, TLH nói chung. Nhóm xã hội có vị trí vô cùng quan trọng đối với
việc hình thành, phát triển tâm lý, ý thức và nhân cách con người. Vì vậy,
nghiên cứu về nhóm đã trở thành một trong những vấn đề trọng tâm, thu hút
sự quan tâm của nhiều nhà nghiên cứu. Sau một thời gian dài, các nghiên cứu
về nhóm ngày càng được mở rộng. Các tác giả không chỉ còn tập trung vào
vấn đề ảnh hưởng của nhóm đến cá nhân mà còn tập trung vào các đặc trưng
của nhóm như: cấu trúc nhóm, các quá trình nhóm, sự thực hiện chức năng
nhóm… Có thể đưa ra một vài cách tiếp cận khác nhau về vấn đề này:
Tiếp cận Trắc đạc xã hội
Jacop Moreno, người sáng lập ra phép đo xã hội đã tìm hiểu về sự đồng
cảm giữa các thành viên trong nhóm. Với phương pháp “Trắc đạc xã hội” lần
đầu tiên, cấu trúc không chính thức của nhóm đã được nghiên cứu. Ông cho
rằng, để hiểu sâu sắc hơn các vấn đề tâm lý của các cá nhân cần phải xem xét
họ trong mối liên hệ tương hỗ nhóm, nơi họ làm việc. Có thể nói, đây là một
hướng nghiên cứu tập trung vào phân tích nhóm nhỏ để từ đó tra những quy
luật chi phối xã hội. J.Moreno khẳng định: “thay cho việc phân tích các yêu
cầu xã hội bao gồm hàng triệu con người, chúng tôi phân tích một cách thận
trọng các nhóm không lớn”…
Tư tưởng cơ bản của trắc đạc xã hội là có sự không trùng khớp giữa cấu

trúc chính thức với cấu trúc không chính thức, giữa các quan hệ xúc cảm của
các thành viên nhóm hay giữa cấu trúc vi mô và cấu trúc vĩ mô. Cụ thể hơn,
J.Moreno cho rằng: trong nhóm nhỏ tồn tại hai cấu trúc và các mối quan hệ -

6


cấu trúc vĩ mô và cấu trúc vi mô. Cấu trúc vĩ mô là các quan hệ qua lại về mặt
công việc, hoạt động sống và chức năng của các cá nhân. Cấu trúc vi mô là cấu
trúc quan hệ tâm lý của các cá nhân với những người xung quanh thể hiện chủ
yếu ở sự thiện cảm, ác cảm hay thờ ơ giữa các thành viên. Nguyên nhân của sự
không trùng khớp là ở chỗ: những người cùng hoạt động trong một không gian
có thể là những người không có được sự thân thiện về mặt tâm lý.
Do vậy, các nhà nghiên cứu theo hướng này quan tâm tới việc “làm bộc
lộ các cấu trúc ẩn dấu, những vị trí cá nhân trong nhóm” chỉ ra các tiếp xúc
xúc cảm, vị thế của cá nhân trong các quan hệ xúc cảm đến tính hiệu quả hay
đến sự hính thành các chuẩn mực nhóm, đến hiện tượng áp lực nhóm…
Phương pháp trắc đạc xã hội mà J.Moreno đưa ra đã cho phép xác định
các quan hệ xúc cảm qua lại giữa các thành viên trong nhóm, từ đó có thể xây
dựng một sơ đồ về cấu trúc vi mô, đồng thời xác định cách phân nhóm tối ưu,
làm cho cấu trúc vĩ mô phù hợp với cấu trúc vi mô, góp phần làm cho các
nhóm trở nên gắn kết và có hiệu quả hơn.
Như vậy, có thể thấy những nghiên cứu theo hướng trắc đạc xã hội đã:
Chỉ ra sự tồn tại của mối quan hệ xúc cảm giữa các thành viên nhóm.
Đây là một kiểu quan hệ hiện thực không thể phủ nhận trong nhóm nhỏ. Mặc
dù tính chất xúc cảm của các quan hệ trong nhóm đã được đặc biệt nhấn mạnh
trong các tác phẩm đầu tiên của Tâm lý học xã hội như: “Tâm lý học đám
đông” của Lebon, tiếp cận trắc đạc xã hội đã cụ thể hóa hiện tượng xúc cảm
này trong các mối quan hệ xúc cảm của nhóm nhỏ.
Khẳng định vai trò của các quan hệ xúc cảm trong đời sống nhóm, giải

thích được sự tác động của các quan hệ xúc cảm đối với hành vi của các thành
viên và đối với đời sống nhóm.
Phương pháp trắc đạc xã hội có thể sử dụng để đo đạc các mối quan hệ
liên nhân cách trong nhóm và sau này đã được thích ứng, biến đổi và được sử
dụng trong nhiều sơ đồ lý luận khác nhau cho việc nghiên cứu nhóm nhỏ.
Bên cạnh ưu điểm nêu trên, hạn chế cơ bản của trắc đạc xã hội là đơn
giản hóa hình ảnh cuộc sống của nhóm xã hội, bỏ qua nhiều mặt khác trong

7


đời sống nhóm. Đặc biệt là bỏ qua vai trò của các cấu trúc kinh tế trong việc
quy định các mối quan hệ đó. Nó cũng không đề cập đến bản chất của nhóm
với tư cách là một nhóm nhõ thực hiện những chức năng xã hội nhất định
trong hệ thống cấu trúc xã hội rộng lớn hơn. Mặc dù còn những hạn chế đó,
hướng nghiên cứu này đã tương đối phổ biến trong lĩnh vực ứng dụng.
Vấn đề đáng quan tâm nhất trong hướng nghiên cứu trắc đạc xã hội có
liên quan đến đề tài đó là sự thừa nhận sự không trùng khớp giữa hai cấu trúc
quan hệ: quan hệ xúc cảm và quan hệ công việc của nhóm. Vấn đề là phải cải
tạo hai dạng quan hệ này cho có được sự trùng khớp tốt nhất. Để giải quyết
vấn đề này, xu hướng chung của các nhà TLHXH Phương Tây là sử dụng
Trắc đạc xã hội để hình thành nhóm, tạo ra sự trùng khớp của hai cấu trúc.
Cách làm này chỉ có hiệu quả khi muốn hình thành một vài nhóm nhỏ trên
một số lớn cá nhân khác nhau. Không thể hình thành tất cả các nhóm, trong
đó các thành viên lựa chọn lẫn nhau và gạt những thành viên không được lựa
chọn ra bên ngoài. Đặc biệt khi đề cập tới các nhóm chính thức được hình
thành từ yêu cầu của xã hội, không thể có sự lựa chọn thoải mái các thành
viên để hình thành nhóm mà chỉ có sự lựa chọn trong số các cá nhân hạn chế.
Tiếp cận xã hội học được sáng lập bởi E.Mayo, với thực nghiệm
Hawthorne được tiến hành từ năm 1927 đến 1932 tại Công ty điện Miền Tây

(Mỹ). Qua thực nghiệm này, tư tưởng cơ bản của cách tiếp cận được hình
thành: các nhân tố tâm lý xã hội của nhóm nhỏ có khả năng tác động đến năng
suất lao động của nhóm.
E.Mayo nhấn mạnh những nhân tố tâm lý xã hội có thể làm tăng hiệu
quả lao động của nhóm nhỏ như: các mối liên hệ liên nhân cách, không khí
tâm lý xã hội, nhu cầu thuộc về một nhóm. Đặc biệt, qua thực nghiêm
E.Mayo chỉ ra rằng trong nhóm nhỏ chính thức tồn tại hai cấu trúc: cấu trúc
chính thức và cấu trúc không chính thức. Ông cũng đã xác nhận vai trò của
cấu trúc không chính thức trong cấu trúc chính thức. Thực nghiệm Hawthorne
đã mở ra một hướng nghiên cứu nhóm nhỏ mới. Hướng này chủ yếu phân tích

8


các cấu trúc nhóm nhỏ và chỉ ra vai trò cũng như ý nghĩa của mỗi cấu trúc đó
trong quá trình nhóm.
Một cách tất yếu, sự không trùng khớp giữa cấu trúc chính thức và cấu
trúc không chính thức được nhiều nhà nghiên cứu quan tâm. E.Mayo khẳng
định: Cấu trúc không chính thức là một mắt xích cần tác động để phát triển
nhóm chính thức. Đề tài đồng thuận với quan điểm này nhằm hướng tới việc
tìm cách phát triển cấu trúc không chính thức, giúp nhóm chính thức có được
một cấu trúc không chính thức trùng khớp ở một mức độ cao nhất thông qua
hoạt động nhóm.
Như vậy, tiếp cận xã hội học đã tập trung vào các vấn đề tâm lý xã hội
của nhóm nhỏ như:
Chỉ ra ảnh hưởng của các yếu tố tâm lý xã hội đến năng suất lao động
và các mối quan hệ trong nhóm.
Xác định cấu trúc không chính thức được tạo ra bởi sự chặt chẽ của
một số thành viên trong nhóm chính thức. Nói cách khác, cấu trúc không
chính thức trong nhóm chính thức là một nhóm (tiểu nhóm) có sự chặt chẽ

cao.
Bên cạnh những ưu điểm nêu trên, Tiếp cận xã hội học cũng còn một số
những hạn chế như: chưa chỉ ra cơ sở hình thành cấu trúc không chính thức,
chưa chỉ ra những cách thức tác động làm cho cấu trúc chính thức ngày càng
trở nên trùng khớp hơn với cấu trúc không chính thức.
Tiếp cận “Động thái nhóm” do K.Lewin sáng lập, dựa trên “Lý thuyết
trường”. Hành vi của nhóm được coi là kết quả của hệ thống lực thường
xuyên căng thẳng cơ động và các lực đó tạo ra động thái nhóm. Những nghiên
cứu của hướng này tập trung vào việc trả lời các câu hỏi về bản chất nhóm,
điều kiện hình thành nhóm, mối quan hệ giữa nhóm với các cá nhân, những
điều kiện giúp nhóm vận hành tốt, những đặc trưng, chuẩn mực nhóm, sự chặt
chẽ, mối quan hệ lẫn nhau của các động cơ cá nhân với mục đích nhóm, vấn
đề thủ lĩnh nhóm… Nhiều luận điểm của “Động thái nhóm” vẫn tiếp tục được
sử dụng trong các nghiên cứu hiện nay. Ví dụ, vấn đề thủ lĩnh nhóm hiện nay

9


được xem xét liên quan đến một loạt các vấn đề khác của TLHXH như vấn đề
tri giác xã hội, vấn đề ảnh hưởng của xúc cảm đến việc ra quyết định, vấn đề
tác động ngược lại của cá nhân đối với nhóm. Thuật ngữ “Động thái nhóm”
đã được sử dụng vượt ra ngoài khuôn khổ lý luận của trường phái này và
mang tính chất chung để chỉ các quá trình nhóm.
Các nghiên cứu “Động thái nhóm” có một số ưu điểm nổi bật:
- Đặt nền móng cho việc nghiên cứu các quá trình nhóm, coi các quá
trình đó là các quá trình động. Tư tưởng này được thừa nhận và tiếp tục phát
triển trong nghiên cứu nhóm nhỏ sau này.
- Nghiên cứu tương đối đầy đủ và toàn diện các vấn đề liên quan đến
nhóm nhỏ.
- Đưa ra hàng loạt các khái niệm cơ bản của Tâm lý học nhóm nhỏ, xây

dựng lý thuyết về phong cách thủ lĩnh của nhóm nhỏ…
Tuy vậy, “Động thái nhóm” cũng chưa chỉ ra được dấu hiệu bản chất,
cốt lõi của các quá trình nhóm, xem các quá trình nhóm như là các quá
trình rỗng mà chưa chú ý đến nội dung xã hội của hoạt động nhóm và sự
quy định của nội dung xã hội đối với các quá trình nhóm cũng như các vấn
đề của nhóm.
Tiếp cận hoạt động. Một số nhà TLHXH như A.V.Pêtrôvxki,
G.M.Anđrêeva, A.G.Côvaliôv trên cơ sở phương pháp luận duy vật biện
chứng và duy vật lịch sử đã đưa vào TLHXH nguyên tắc phương pháp luận
mới: Nguyên tắc hoạt động. Nguyên tắc này yêu cầu nghiên cứu nhóm nhỏ
trong hoạt động của nó. Hoạt động nhóm chính là cơ sở của sự hình thành và
phát triển tâm lý nhóm. Nhóm chính là chỉ thể của hoạt động nhóm [38]. Trên
cơ sở nguyên tắc này, A.V.Pêtrôvxki đưa ra lý thuyết “Xác định các mối liên
hệ liên nhân cách bằng hoạt động” [31]. G.M.Anđrêeva xây dựng “Mô hình
các quá trình nhận thức trong hoạt động cùng nhau”. Một số nhà tâm lý học
khác như: A.G.Svenhisinxki, N.N.Obozôv đi sâu nghiên cứu sự tương hợp và
tính thống nhất trong hoạt động nhóm. Xu hướng phát triển hiện nay của
TLHXH dựa trên nguyên tắc hoạt động là vận dụng và phát triển “Lý thuyết

10


văn hóa – lịch sử” của L.X.Vưgôtxki để hình thành một khoa học Tâm lý học
xã hội văn hóa – lịch sử. Nó giải thích ảnh hưởng của văn hóa đến các hành vi
xã hội. Đây cũng được coi là một hướng mới của TLHXH nói chung.
Việc xem xét một cách tổng quan các cách tiếp chính cho thấy một
cách tiếp cận cho phép đi sâu nghiên cứu một số khía cạnh của nhóm nhỏ.
Tuy nhiên vẫn còn một số vấn đề chưa được giải quyết như sau:
- Tiếp cận Trắc đạc xã hội và Xã hội học cho thấy: Một nhóm nhỏ hình
thành có thể chưa có được sự đồng nhất về tâm lý, chưa trở thành một chỉnh

thể tâm lý trọn vẹn, trong nhóm còn tồn tại những cấu trúc chưa trùng khớp:
cấu trúc vi mô và cấu trúc vĩ mô, cấu trúc chính thức và cấu trúc không chính
thức. Vấn đề được đặt ra là cần có các phương thức tác động để có được sự
trùng khớp các cấu trúc trong nhóm. Các cách tiếp cận nêu trên chưa giải
quyết được vấn đề này.
- Về bản chất, sự trùng khớp các cấu trúc nói trên chính là sự chặt chẽ
cao của nhóm, không chỉ là sự chặt chẽ trên cơ sở công việc chung hay cơ sở
các chức năng xã hội của nhóm mà còn là trên sơ sở xúc cảm. Theo quan
điểm của tiếp cận hoạt động, chỉ có hoạt động cùng nhau của nhóm mới giúp
nhóm trở thành một chỉnh thể tâm lý và tạo ra sự trùng khớp của các cấu trúc
trong nhóm.
1.1.2 Những nghiên cứu ở trong nước
Các nghiên cứu về nhóm nhỏ nói chung còn rất ít ỏi, những nghiên cứu
về cấu trúc nhóm hầu như chưa có. Có thể điểm qua các công trình nghiên
cứu về nhóm nhỏ như sau:
Hướng thứ nhất - nghiên cứu bản thân các nhóm nhỏ và một số các
hiên tượng tâm lý của nhóm như: nhóm nhỏ không chính thức trong lớp học
của học sinh phổ thông, thực trạng nhóm bạn trẻ em hư, dư luận tập thể và vai
trò của nó trong tập thể sinh viên, bầu không khí tập thể sinh viên, vai trò của
đội ngũ cán bộ lãnh đạo trong việc xây dựng bầu không khí tập thể. Các
nghiên cứu này đã khai thác các hiện tượng tâm lý nhóm như bầu không khí
nhóm, hiện tượng thủ lĩnh, lãnh đạo và xác nhận vai trò quan trọng của đội

11


ngũ lãnh đạo trong việc xây dựng bầu không khí tập thể sinh viên. Một hiện
tượng tâm lý nhóm khác cũng được nghiên cứu là các xung đột trong tập thể
như vấn đề nguyên nhân xung đột trong tập thể sinh viên. Các nghiên cứu này
chủ yếu được đặt ra trong các đề tài luận văn thạc sĩ. Coi gia đình với tư cách

là một nhóm nhỏ đặc biệt, tác giả Cao Huyền Nga nghiên cứu xung đột tâm lý
trong quan hệ vợ chồng như là một dạng xung đột đặc biệt trong nhóm nhỏ,
đã chỉ ra những nguyên nhân của xung đột và các giải pháp để giải quyết
xung đột đó [26].
Trong những nghiên cứu về nhóm nhỏ, nổi bật là nghiên cứu về ê kíp lãnh
đạo của tác giả Vũ Dũng – Ê kíp lãnh đạo nhìn từ góc độ Tâm lý học xã hội [4].
Tác giả nghiên cứu ê kíp lãnh đạo với tư cách là một nhóm nhỏ phát triển ở mức
độ cao, trong đó tương hợp tâm lý và phối hợp hành động là những yếu tố quyết
định. Trong nghiên cứu này đã đề cập đến sự tương hợp tâm lý trong đó có sự
tương hợp về mặt cảm xúc, tình cảm giữa các cá nhân. Đây cũng là một yếu tố
có mối liên hệ nhất định với vấn đề nghiên cứu của đề tài này.
Hướng thứ hai là nghiên cứu ảnh hưởng của nhóm nhỏ tới cá nhân như:
ảnh hưởng của nhóm không chính thức tới tính tự giác và kết quả học tập của
học sinh, dư luận tập thể và vai trò của nó đối với việc điều chỉnh hành vi của
sinh viên. Một số tác giả khác nghiên cứu về vị thế của cá nhân trong nhóm
như tìm hiểu vị thế trong tập thể thanh niên học sinh hay mối quan hệ giữa vị
thế và kết quả học tập của học sinh. Tác giả Nguyễn Thị Huệ trong luận án
“Mối quan hệ giữa vị thế của học sinh trong nhóm nhỏ với kết quả học tập ở
lứa tuổi học sinh trung học cơ sở” cho thấy có mối tương quan thuận giữa vị
thế của học sinh trong nhóm đối với kết quả học tập của các em [25]. Hướng
nghiên cứu này cho thấy hướng ứng dụng các kết quả nghiên cứu nhóm nhỏ
vào thực tế dạy học.
Vấn đề cấu trúc nhóm, cấu trúc không chính thức của nhóm hầu như
chưa được đề cập một cách toàn diện, cụ thể. Có chăng cũng chỉ là những

12


nghiên cứu đề cập đến vị thế của cá nhân trong nhóm, hay sự tương hợp về
mặt tâm lý giữa các cá nhân…

Cùng chung mục đích với rất nhiều các nghiên cứu đã được đề cập ở
trên, nhằm tạo ra bầu không khí tâm lý tích cực, lành mạnh, tạo điều kiện, môi
trường thuận lợi cho sự phát triển tâm lý của các thành viên nhóm, đề tài này
hướng đến vấn đề cấu trúc không chính thức của nhóm hay đó là những mối
quan hệ liên nhân cách, quan hệ xúc cảm giữa các thành viên – một góc độ ít
được quan tâm, nghiên cứu trên thực tế. Thêm vào đó, trong môi trường quân
đội nói chung, các nhà trường quân sự nói riêng, thì vấn đề cấu trúc nhóm,
cấu trúc không chính thức của các nhóm đặc thù được phiên chế theo quy
định thì hâu như chưa có nghiên cứu nào đề cập đến. Vì vậy, việc nghiên cứu
đề tài này sẽ mang lại một góc nhìn mới, góp phần thiết thực vào việc quản lý
cũng như học tập, rèn luyện của đội ngũ cán bộ, học viên trong các nhà
trường quân sự nói riêng, trong môi trường quân đội nói chung.
1.2 Khái quát về nhóm nhỏ xã hội
1.2.1 Nhóm xã hội
Hiện nay trong TLHXH vẫn tồn tại rất nhiều quan niệm khác nhau về
nhóm xã hội:
- Quan niệm thứ nhất cho rằng: nhóm là một tập hợp người có chung
một mục đích. Quan điểm này đúng nhưng chưa bao quát hết các loại nhóm.
- Quan điểm thứ hai cho rằng: nhóm là một tập hợp người có một hay
một số dấu hiệu chung nào đó.
Quan điểm của các nhà TLHXH Xô Viết, nhóm được xem như một
cộng đồng tồn tại có giới hạn của con người, thống nhất trên những cơ sở,
những dấu hiệu nhất định (như đặc điểm của hoạt động mà cộng đồng thực
hiện, thuộc tính xã hội hoặc giai cấp, kết cấu, đặc điểm tổ chức, mức độ phát
triển). Trong cuốn “Tâm lý học xã hội tập thể” (M.1998) A.B.Petrovxki

13


khẳng định “Nhóm là một cộng đồng người thống nhất với nhau trên cơ sở

một hay một số dấu hiệu chung có quan hệ với việc thực hiện hoạt động hoạt
động chung và gián tiếp của họ”.
Như vậy, quan điểm trên đã khẳng định nhóm là một tập hợp người
phải có hoạt động chung và dấu hiệu chung nào đó. Quan điểm này đã xác
định nội hàm của nhóm và mang tính khái quát cao.
Từ việc xem xét các quan điểm trên, theo chúng tôi, có thể hiểu:
“Nhóm là tập hợp ít nhất từ 3 người trở lên thống nhất với nhau trên cơ sở
những hoạt động chung nhất định và tách biệt với một số nhóm khác bởi một
số dấu hiệu nào đó”
1.2.2 Nhóm nhỏ xã hội
1.2.2.1 Khái niệm nhóm nhỏ xã hội
Trong suốt một thời gian dài nghiên cứu về nhóm nhỏ xã hội, các nhà
TLHXH đã đưa ra rất nhiều những khái niệm khác nhau về nhóm nhỏ. Có thể
nêu ra đây một số quan điểm điển hình như:
Xem xét hàng chục các khái niệm khác nhau về nhóm nhỏ M.Shaw đã
chỉ ra một loạt các giác độ, từ đó các tác giả khác nhau đưa ra các định nghĩa
nhóm nhỏ:
- Từ giác độ tri giác của thành viên nhóm đối với các thành viên khác
hay với cả nhóm.
- Từ giác độ động cơ của các thành viên nhóm.
- Từ giác độ mục đích nhóm.
- Từ giác độ các đặc trưng cấu trúc nhóm.
- Từ giác độ sự phụ thộc lẫn nhau.
- Từ giác độ tác động qua lại giữa các thành viên nhóm.
Trong hàng loạt các khái niệm được đưa ra theo các cách tiếp cận nêu
trên có một số khái niệm đáng chú ý như sau:

14



Từ giác độ tri giác lẫn nhau giữa các thành viên, M.Smith cho rằng:
“Nhóm nhỏ xã hội là một đơn vị bao gồm nhiều cá nhân có sự tri giác tập thể
về tính thống nhất của nó, có khả năng hành động với cách hành động thống
nhất với môi trường. Theo quan niệm này, đặc trưng cơ bản của nhóm nhỏ xã
hội là sự tri giác thống nhất về sự tồn tại của nhóm, từ đó nó có được hành
động thống nhất. Thực tế cho thấy các thành viên trong nhóm ở một mức độ
nhất định tri giác sự tồn tại của nhóm và sự thâu thuộc của bản thân vào
nhóm, nhưng tri giác đó chỉ có được như là kết quả của nhóm đã hình thành
định nghĩa này, do vậy không làm nổi bật dấu hiệu xã hội của nhóm.
Một số tác giả khác lại dựa trên động cơ thúc đẩy của các cá nhân tham
gia vào nhóm để định nghĩa nhóm. Họ cho rằng cá nhân tham gia vào nhóm
vì tin rằng nhu cầu của bản thân sẽ được thỏa mãn nhờ nhóm. Với quan niệm
này, trước khi tham gia vào nhóm cá nhân phải tự xác định nhu cầu nào cần
được thỏa mãn và phương thức thỏa mãn nó. Vấn đề đặt ra là cùng một nhu
cầu có thể được thỏa mãn ở nhiều nhóm khác nhau. Vậy điều gì làm cá nhân
lựa chọn nhóm này hay nhóm khác? Bên cạnh đó xét trong các điều kiện thực
tế xã hội việc cá nhân lựa chọn nhóm không phải chỉ đơn thuần dựa trên động
cơ hoàn toàn cá nhân.
Xem xét các khái niệm trên về nhóm có thể thấy rằng trong các cách
hiểu đó, có sự tham gia vào nhóm chủ yếu dựa trên ý định riêng của cá nhân.
Nhóm được hình thành do sự trùng hợp ngẫu nhiên một số khía cạnh nào đó
của các cá nhân riêng biệt, do sự tri giác hay do trùng hợp các nhu cầu. Điều
này có thể đúng với các nhóm tự phát, nhưng không phải là đặc trưng cho các
nhóm nhỏ xã hội với tư cách là một mắt xích xã hội.
Từ giác độ sự phụ thuộc lẫn nhau và sự tương tác giữa các thành viên
nhóm cũng có nhiều cách hiểu khác nhau. A.Fiedler coi nhóm là “Một tập
hợp các cá nhân chia sẻ số phận chung, do vậy phụ thuộc lẫn nhau, một sự
kiện ảnh hưởng đến một thành viên sẽ ảnh hưởng tới các thành viên khác”.

15



Có tác giả lại coi tương tác chính là bản thể nhóm: “Nhóm là tập hợp các cá
nhân tương tác qua lại lẫn nhau và quá trình tương tác đó tạo ra sự khác biệt
với tổng số các cá nhân”. Trong khi đó, M.Shaw nhấn mạnh cả sự tương tác
và cả sự phụ thuộc giữa các thành viên: Nhóm nhỏ là “Hai hoặc nhiều cá nhân
tác động qua lại với nhau, mỗi cá nhân ảnh hưởng và chịu ảnh hưởng của các
cá nhân khác”. Với định nghĩa này, M.Shaw cũng chưa thoát khỏi việc định
nghĩa theo một trong các cách nói trên. Tuy vậy, ông đã lưu ý rằng sự tương
tác qua lại là dấu hiệu bản chất của nhóm, dấu hiệu này làm nhóm nhỏ khác
biệt với các đám đông đơn thuần, nhưng bên cạnh đó cũng cần tính tới các
dấu hiệu rất quan trọng của nhóm nhỏ như: thời gian tồn tại lâu dài, có mục
đích chung hoặc các mục đích chung, sự phát triển của cấu trúc nhóm….
Rõ ràng, các khái niệm nêu trên chỉ tập trung vào một đặc trưng nào đó
của nhóm. Từ đó, mỗi tác giả sẽ đi theo hướng nghiên cứu riêng và cho kết
quả nghiên cứu về một mặt nhất định. Điều đó có thể đem tới những ứng
dụng cụ thể. Tuy vậy điểm yếu nhất của những định nghĩa nói trên là xem xét
nhóm nhỏ như là một thực thể tách biệt với xã hội, vận động theo những quy
luật riêng. Cách làm đó khó có thể chỉ ra bản chất nhóm như là một chỉnh thể
sống, một cấu tạo tâm lý hoàn chỉnh với tư cách là một nhóm xã hội, tham gia
vào các quan hệ xã hội và quan trọng hơn là một chủ thể trong hệ thống các
quan hệ xã hội.
Nghiên cứu các vấn đề của TLHXH nói chung và nhóm nhỏ nói riêng
A.V.Pêtrôvxki, G.M.Anđrêeva, P.L.Krichievxki, E. M.Đubrôvxkaia đều xuất
phát từ nguyên tắc hoạt động. Điều cần nhấn mạnh trong cách tiếp cận này
chính là việc coi nhóm nhỏ xã hội là một đơn vị trong cấu trúc xã hội, đặt
nhóm nhỏ vào đúng vị trí của nó. A.N.Lêonchiev khẳng định rằng: Cho dù
hoạt động của con người có diễn ra trong bất kỳ điều kiện nào và dưới dạng
nào, dù nó có cấu trúc nào thì cũng không thể xem xét nó tách rời khỏi lịch sử
xã hội, khỏi cuộc sống xã hội [32]. Từ cơ sở đó A.V.Pêtrôvxki cho rằng:


16


“Nhóm xã hội là một tập hợp các cá nhân được liên kết trên cơ sở một số các
dấu hiệu chung liên quan đến hoạt động cùng nhau của họ, trong đó có giao
tiếp”. Khái niệm này nhấn mạnh đến hoạt động cùng nhau của nhóm, nhưng
chưa làm nổi bật và khẳng định vị trí của nhóm trong các quan hệ xã hội.
Trong hàng loạt các khái niệm khác nhau về nhóm nhỏ do các nhà
nghiên cứu theo tiếp cận hoạt động đưa ra, khái niệm của G.M.Anđreeva về
nhóm nhỏ là khái niệm tương đối phổ biến: “Nhóm nhỏ là nhóm trong đó các
quan hệ xã hội thể hiện dưới hình thức các tiếp xúc cá nhân trực tiếp”. Cách
quan niệm này nhấn mạnh vào bản chất xã hội của nhóm: nhóm nhỏ là một
nhóm tồn tại hiện thực trong một hệ thống các quan hệ xã hội, là chủ thể của
một hoạt động xã hội, thực hiện một chức năng xã hội nhất định và do vậy các
mối quan hệ xã hội phải được phản ánh và cụ thể hóa trong nhóm. Nhóm
không phải đơn thuần là một tập hợp các cá nhân thực hiện các mục đích
riêng nào đó. Đây là cách nhìn nhận sâu sắc về mặt lý luận, có tính khái quát
cao, nó cho thấy bản chất thực sự của nhóm nhỏ mà Tâm lý học nhóm nhỏ
cần nghiên cứu. Tuy vậy, khái niệm này rất khó thao tác hóa khi cần phải
nghiên cứu sâu về một khía cạnh nào đó của nhóm, trong đó có cả việc nghiên
cứu về cấu trúc không chính thức của nhóm.
Cũng xuất phát từ nguyên tắc hoạt động, A.I.Đônxov cho rằng: nhóm
nhỏ là tổ hợp hữu hạn các cá nhân tác động qua lại một cách trực tiếp với các
dấu hiệu:
- Tồn tại trong một khoảng thời gian tương đối dài và thường xuyên
tiếp xúc trực tiếp với nhau, không có trung gian, trong khoảng cách ngắn nhất.
- Có các mục đích chung mà việc thực hiện chúng cho phép thỏa mãn
những nhu cầu cá nhân và các quyền lợi chặt chẽ.
- Tham gia vào hệ thống chung phân bổ các chức năng và vai trò trong

hoạt động sống cùng nhau…

17


- Chia sẻ các chuẩn mực và các quy định đối với các hành vi nội nhóm
và liên nhóm.
Điều quan trọng trong cách hiểu về nhóm nhỏ xã hội ở đây là sự gắn
kết các cá nhân trong nhóm bằng các giá trị, các mục đích chung. Theo
A.I.Đônxov một nhóm thực sự là tổ hợp tương đối chặt chẽ các cá nhân có
liên hệ mang tính lịch sử bởi các giá trị chung, các mục đích, các phương tiện
của đời sống xã hội. Nói cách khác, đặc trưng nổi bật của nhóm nhỏ xã hội là
sự chặt chẽ: Chặt chẽ trong thời gian, chặt chẽ dựa trên mục đích chung, giá
trị chung và chặt chẽ được thể hiện trong việc phân bố và thực hiện các chức
năng giữa các thành viên nhóm.
Từ những phân tích trên, có thể thấy những dấu hiệu cơ bản để xác
định một nhóm nhỏ bao gồm:
- Nhóm có số lượng thành viên ít.
- Các thành viên có mối quan hệ trực tiếp, có sự tương tác chặt chẽ, ảnh
hưởng qua lại lẫn nhau.
- Hoạt động cùng nhau với các lợi ích, mục đích chung, thực hiện chức
năng xã hội nhất định.
Với những dấu hiệu đặc trưng trên, tác giả Nguyễn Đức Sơn trong luận
án “Sự cố kết nhóm trong nhóm nhỏ chính thức của sinh viên” đi đến quan
niệm về nhóm nhỏ như sau: “Nhóm nhỏ là một tập hợp các cá nhân với số
lượng ít thành viên, có mối liên hệ liên nhân cách trực tiếp, có sự tương tác
chặt chẽ, hoạt động cùng nhau theo các lợi ích, các mục đích chung và thực
hiện chức năng xã hội nhất định”[35].
Cách hiểu nêu trên thể hiện sự vận dụng các nguyên tắc của Tâm lý học
hoạt động vào việc nghiên cứu nhóm nhỏ. Khái niệm này coi nhóm nhỏ là

một đơn vị xã hội, được hình thành do yêu cầu xã hội và thực hiện những
chức năng xã hội nhất định. Đồng thời nó nhấn mạnh vào sự tồn tại tự nhiên

18


và khách quan của hơn, nhóm nhỏ được đề cập đến ở đây không chỉ là một
tập hợp đơn giản các cá nhân mà là một chủ thể xã hội.
Đặc trưng về số lượng các thành viên cũng được đề cập đến trong khái
niệm. Đây không chỉ đơn thuần là đặc trưng về quy mô nhóm dù đó là đặc
trưng dễ thấy và được nêu lên ở hầu hết các định nghĩa về nhóm nhỏ. Điều
quan trọng đằng sau số lượng các thành viên chính là cơ hội tiếp xúc trực tiếp
và thường xuyên giữa các thành viên để từ đó hình thành các quan hệ liên
nhân cách trực tiếp. Các tiếp xúc cá nhân trực tiếp tạo ra sự tác động qua lại
và sự phụ thuộc lẫn nhau giữa các thành viên. Thông qua tác động qua lại trực
tiếp, các thành viên có thể xác định mục đích chung, điều hòa các lợi ích
chung, hình thành định hướng hoạt động chung. Điều này cũng dẫn tới các cơ
hội cho việc hoạt động cùng nhau của các thành viên nhằm thực hiện các mục
đích chung của nhóm. Như vậy hoạt động cùng nhau của các thành viên trong
nhóm được hiểu như là yếu tố quyết định sự tồn tại của nhóm với tư cách một
thực thể xã hội thực hiện các chức năng xã hội, giúp các cá nhân đạt được các
lợi ích, các mục đích của mình thông qua lợi ích và mục đích chung của
nhóm. Hoạt động cùng nhau ở đây cũng chính là nhân tố tạo ra sự cố kết giữa
các thành viên nhóm. Bằng hoạt động và thông qua hoạt động, nhóm mới trở
thành một chỉnh thể tâm lý, mới có được sự chặt chẽ thực sự.
Xét thấy khái niệm nhóm nhỏ mà tác giả Nguyễn Đức Sơn đưa ra hoàn
toàn phù hợp với mục đích nghiên cứu của đề tài này, do vậy chúng tôi đã lấy
khái niệm này làm khái niệm công cụ của đề tài. Hay có thể khẳng định:
“Nhóm nhỏ là một tập hợp các cá nhân với số lượng ít thành viên, có mối quan
hệ liên nhân cách trực tiếp, có sự tương tác chặt chẽ, hoạt động cùng nhau

theo các lợi ích, các mục đích chung và thực hiện chức năng xã hội nhất định”
1.2.2.2 Quy mô nhóm nhỏ
Quy mô nhóm nhỏ là một khía cạnh gắn liền với khái niệm nhóm nhỏ,
bởi lẽ tính chất “nhỏ” hay “lớn” về mặt số lượng phần nào thể hiện ở ngay

19


quy mô của nó. Đề cập tới quy mô nhóm, trong Tâm lý học nhóm nhỏ, các tác
giả thường đề cập tới giới hạn trên và giới hạn dưới về số lượng các thành
viên của nhóm.
Về giới hạn nhóm: đa số các nhà nghiên cứu cho rằng với hai thành
viên là có thể tạo ra một nhóm. Tuy nhiên cũng cũng cần lưu ý rằng: nhóm
hai người chỉ có thể coi là một dạng đặc biệt của nhóm nhỏ nói chung, chứ
không phải là một mô hình tiêu biểu của nhóm nhỏ. Nhóm hai người không
phản ánh được một cách đầy đủ sự phức tạp của các quan hệ liên nhân cách,
cũng như sự tác động qua lại đa chiều giữa các cá nhân trong nhóm. Do vậy,
tồn tại quan niệm khác khẳng định chỉ có thể nói đến một nhóm nhỏ khi có từ
ba thành viên trở lên. Đến nay, giới hạn dưới của nhóm nhỏ là bao nhiêu vẫn
là câu hỏi còn chưa có được câu trả lời hoàn toàn thống nhất. Tuy vậy, một
cách phổ biến, nhóm nhỏ vẫn được coi là bắt đầu với hai thành viên.
Cũng giống như giới hạn dưới, vấn đề giới hạn trên cũng có nhiều quan
điểm khác nhau: có quan niệm cho rằng số lượng thành viên tối đa có thể là
20 (Theo M.Shaw), hay 30-40 (Theo J.Moreno). Các tác giả khác lại đưa ra
mô hình nhóm tối ưu là 7± 2.
Cũng về vấn đề này, với quan điểm coi nhóm nhỏ là một đơn vị xã hội
các nhà TLHXH theo quan điểm hoạt động cho rằng: số lượng các thành viên
trong một nhóm được quy định bởi chức năng mà nhóm thực hiện trong các
mối quan hệ xã hội. Nói cách khác số lượng thành viên của nhóm không phải
được xác định một cách chủ quan mà phải dựa vào sự tồn tại thực tế của nó

trong đời sống hiện thực xã hội. “Nếu nhóm nhỏ được nghiên cứu, trước tiên,
cần phải là nhóm tồn tại hiện thực và nếu nó được xem xét như là chủ thể của
hoạt động thì một cách logic là không đưa ra một giới hạn trên cứng nhắc nào
đó mà chấp nhận nhóm như chính bản thân quy mô hiện thực của nó, được
quy định bởi nhu cầu hoạt động chung của nhóm… Nói cách khác, nếu nhóm
được hình thành trong một hệ thống nhất định các mối quan hệ xã hội với quy

20


mô cụ thể nào đó và nó đủ để thực hiện một hoạt động nhất định thì trong
nghiên cứu có thể thừa nhận chính giới hạn đó là giới hạn trên”. Chúng tôi
cho rằng đây là quan niệm hợp lý, nó đảm bảo tính linh hoạt khi tiếp cận với
nhóm nhỏ tồn tại hiện thực trong đời sống xã hội. Quan niệm này cũng nhấn
mạnh đến tính chỉnh thể của nhóm chứ không khai thác đơn thuần khía cạnh
số lượng các thành viên của nhóm.
Căn cứ vào các quan niệm về giới hạn trên, giới hạn dưới cũng như
những dấu hiệu mà các nhà TLHXH đã đưa ra, có thể khẳng định tiểu đội –
đơn vị phiên chế trong quân đội được có đầy đủ tư cách là một nhóm xã hội nhóm nhỏ xã hội đặc thù.
1.2.2.3 Phân loại nhóm nhỏ
Vấn đề phân loại nhóm nhỏ cũng được các nhà TLHXH quan tâm và
đưa ra nhiều luồng ý kiến khác nhau. Có thể đưa ra đưa ra đây một vài cách
phân loại như sau:
- Căn cứ vào tính chất các quan hệ của nhóm có thể phân chia thành
nhóm cơ sở và nhóm thứ cấp.
Nhóm cơ sở là nhóm trong đó các thành viên có các quan hệ trực tiếp và
mật thiết với nhau. Các quá trình giao tiếp và tác động qua lại diễn ra thường
xuyên giữa các thành viên. Do vậy, sự ảnh hưởng qua lại giữa các thành viên ở
nhóm này là rất lớn. Nhóm thứ cấp có số lượng lớn các thành viên, quan hệ
giữa các thành viên chủ yếu mang tính chất gián tiếp. Sự tác động qua lại giữa

các cá nhân phải thông qua các trung gian. Do vậy, theo các dấu hiệu cơ bản
của nhóm nhỏ thì các nhóm thứ cấp không được coi là nhóm nhỏ.
- Căn cứ vào tính chất hoạt động có thể phân chia thành nhóm chính
thức và không chính thức.
Nhóm chính thức được thành lập để thực hiện những mục tiêu cụ thể,
các hoạt động có liên quan đến hoạt động của tổ chức. Theo tiêu chí thời gian
các nhóm chính thức lại có thể được phân chia thành nhóm chính thức lâu dài

21


và nhóm chính thức tạm thời. Nhóm không chính thức được hình thành trên
cơ sở các quan hệ không chính thức như tình cảm, tâm lý. E.Shein đã phân
loại nhóm xã hội nói chung theo tiêu chí này. Sau này, khi nghiên cứu sâu về
nhóm nhỏ bằng thực nghiệm, E.Mayo đã chỉ ra sự khác biệt cơ bản của hai
loại nhóm nhỏ này. Đó là sự khác biệt về tính xác định của các vị trí và vai trò
của mỗi thành viên trong nhóm do chức năng của nhóm quy định.
- Căn cứ vào mức độ có ý nghĩa của các giá trị, các chuẩn mực nhóm
đối với các định hướng của cá nhân, nhóm nhỏ được phân chia thành nhóm
thành viên và nhóm quy chiếu.
Nhóm thành viên là nhóm mà cá nhân tham gia thực tế nhưng các giá
trị và mục đích nhóm không được cá nhân chia sẻ. Cá nhân tồn tại trong nhóm
nhưng nhóm không tạo ra được ảnh hưởng đến thái độ, đến các định hướng
giá trị của cá nhân. Trong khi đó, nhóm mà cá nhân không tham gia thực tế
nhưng các chuẩn mực, giá trị của nhóm lại được cá nhân tiếp nhận gọi là
nhóm quy chiếu.
- Căn cứ vào trình độ phát triển của nhóm nhỏ, các tác giả theo quan
điểm hoạt động phân chia thành nhóm và tập thể
Trong lý thuyết về tập thể của A.V.Petrôvxki và sau này các tác giả
khác như G.M.Anđrêeva, A.I.Đônxôv, R.L.Krichievxki đều cho rằng tập thể

là một trạng thái chất lượng đặc biệt của nhóm nhỏ, là nhóm nhỏ đạt tới “sự
trưởng thành tâm lý xã hội”. Xét về quá trình phát triển nhóm, nhóm nhỏ phải
trải qua nhiều giai đoạn, nhiều mức độ, chỉ khi đạt tới mức độ phát triển cao
nhất nhóm mới trở thành tập thể. Đặc trưng cơ bản của nhóm khi trở thành tập
thể là nhóm có mục đích phù hợp với mục đích xã hội, có sự liên kết chặt chẽ,
có thể tạo ra và đảm bảo những điều kiện thuận lợi cho sự phát triển của mỗi
nhân cách. “Tập thể là mức độ cao của một tổ chức nhóm, là một trong các
loại nhóm nhỏ”.
1.2.2.4 Sự hình thành nhóm nhỏ

22


Khi phân loại nhóm xã hội nói chung, H.Shein đã phân chia thành
nhóm chính thức và nhóm không chính thức. Theo ông, nhóm chính thức là
những nhóm được thành lập nhằm thực hiện các mục tiêu, các nhiệm vụ cụ
thể có liên quan đến hoạt động của tổ chức hay xã hội rộng hơn.
Theo cách hiểu này, sự xuất hiện của nhóm chính thức được quy định
bởi sự cần thiết phải thực hiện một chức năng xã hội nào đó. Chức năng mà
nó thực hiện là do tổ chức xã hội quy định. Đó cũng chính là đặc trưng cơ bản
của nhóm chính thức. Đặc trưng này cho thấy nhóm chính thức không phải
được hình thành hoàn toàn do ý muốn chủ quan của con người mà được hình
thành bởi nhu cầu của hệ thống xã hội. Hệ quả tất yếu của đặc trưng đó là cấu
trúc chính thức của nhóm được xác định từ trước nhằm đáp ứng các yêu cầu
của hoạt động. Các mối quan hệ trong nhóm là quan hệ theo chiều dọc do hệ
thống các vai trò và các vị trí trong nhóm quy định. Các mối quan hệ nổi trội
trong nhóm là quan hệ công việc.
Tuy vậy, trong thực tế không tồn tại nhóm nhỏ chính thức thuần túy mà
nó luôn tồn tại song hành với nhóm nhỏ không chính thức. Nhóm nhỏ không
chính thức là nhóm xuất hiện một cách tự phát, các vị trí và các vai trò trong

nhóm không được quy định trước. Nhóm này thường được hình thành dựa
trên sự liên kết các thành viên bởi các hứng thú chung, các liên hệ thân tình
hay các mối quan tâm nào đó. Nhóm nhỏ không chính thức có thể xuất hiện
bên ngoài các nhóm nhỏ chính thức hay ngay trong lòng các nhóm nhỏ chính
thức. Thông thường các nhóm nhỏ không chính thức trong lòng nhóm nhỏ
chính thức được xác định bằng Trắc đạc xã hội.
1.3 Cấu trúc không chính thức của nhóm nhỏ xã hội
1.3.1 Cấu trúc nhóm
Cấu trúc nhóm là mối quan hệ giữa các thành viên của nhóm, giữa các
tiểu nhóm trong một nhóm, giữa những người lãnh đạo và các thành viên của

23


nhóm, nó thể hiện mức độ quan hệ chặt chẽ hay sự bất hòa giữa các thành
viên trong nhóm.
Trong cấu trúc nhóm, bên cạnh cấu trúc chính thức, tức là những mối
quan hệ mang tính chất công việc còn tồn tại cấu trúc không chính thức –
những mối quan hệ liên nhân cách trên trên cơ sở của các xúc cảm cá nhân.
Hay có thể gọi cách khác là cấu trúc vĩ mô và cấu trúc vi mô.
1.3.2 Cấu trúc chính thức của nhóm
Khi các cá nhân gia nhập nhóm và nhóm được hình thành, các cá nhân
sẽ tương tác qua lại để cùng thực hiện mục đích và hoạt động cùng nhau của
nhóm. Mỗi cá nhân có những năng lực riêng, có những nhu cầu và kỳ vọng
riêng. Các quá trình này được thể hiện và ảnh hưởng đến quá trình tương tác.
Nhưng để nhóm có thể tồn thực hiện được hoạt động của nó thì các cá nhân
phải nằm trong những mối liên hệ và quan hệ nhất định. Mối quan hệ tương
đối ổn định, tương đối chặt chẽ giữa các cá nhân để tạo thành một nhóm toàn
vẹn gọi là cấu trúc nhóm.
Về nguyên tắc, các cá nhân có thể khác nhau, có thể thay đổi nhưng các

mối liên hệ trên sẽ tương đối ổn định. Một khi cấu trúc nhóm thay đổi nó sẽ
làm nhóm biến đổi về chất và hình thành một loại nhóm khác. Như vậy, các
thành phần nằm ở đầu “đầu mối” của các quan hệ đó gọi là các vị trí. Có thể
hình dung, các liên hệ giữa các vị trí trong nhóm tạo ra một cấu trúc – bộ
xương của nhóm, trên cơ sở đó “con người” nhóm có được hình dạng cụ thể
và có những hoạt động cụ thể.
Từ sự phân tích trên, có thể hiểu: cấu trúc chính thức của nhóm là
những mối quan hệ mang tính chất công việc được quy định trước, phụ thuộc
vào chức năng xã hội mà nhóm phải thực hiện, trong đó các vị trí được quy
định một cách rõ ràng. Nhóm chỉ thực hiện tốt chức năng của nó khi các vị trí
đó hoạt động một cách hiệu quả và có sự liên hệ chặt chẽ với các vị trí khác.

24


Trong Tâm lý học xã hội, vị trí trong cấu trúc nhóm bao gồm hai thành
tố: vị thế và chức năng của vị trí (cá nhân) trong nhóm. Vị thế có thể coi như
quyền tự quyết của cá nhân khi cá nhân chiếm giữ một vị trí trong các quan hệ
trong nhóm từ khi bắt đầu và trong suốt quá trình duy trì vị trí đó. Như vậy,
giữa các cá nhân trong nhóm có mối liên hệ theo thứ bậc thì vị thế của họ
cũng khác nhau. Vị thế của cá nhân chỉ có thể được xác định trong mối quan
hệ với vị thế của cá nhân khác trong toàn bộ cấu trúc nhóm. Trong thực tế, vị
thế thường được hiểu là biểu hiện các quyền lực, các quyền lợi, các đặc quyền
gắn với một vị trí.
Thành tố thứ hai của vị trí là chức năng của cá nhân khi chiếm giữ vị trí
đó đóng góp cho hoạt động của nhóm. Các vị trí có thể có các chức năng khác
nhau. Cá nhân chiếm giữ một vị trí cần thực hiện các chức năng tương ứng.
Các chức năng đó có thể là chức năng thực hiện, giám sát hay lên kế hoạch…
Như vậy, cấu trúc chính thức của nhóm được xác định chủ yếu trên cơ
sở công việc nhóm. Nó đảm bảo cho hoạt động của nhóm trong việc thực hiện

các chức năng xã hội của nhóm.
1.3.3 Cấu trúc không chính thức của nhóm
Vấn đề cấu trúc không chính thức của nhóm đã được bàn đến ở một số
quan điểm, cách tiếp cận khác nhau. Có thể kể đến:
Tiếp cận Trắc đạc xã hội (J.Moreno) cho rằng: Cấu trúc vi mô (cấu trúc
không chính thức) là cấu trúc quan hệ tâm lý của cá nhân với những người
xung quanh trong những hoàn cảnh cụ thể của sự tương tác hàng ngày, thể
hiện chủ yếu ở các quan hệ xúc cảm: thiện cảm, ác cảm hay thờ ơ giữa các
thành viên.
Do vậy, những nghiên cứu theo cách tiếp cận này tập trung vào sự trao
đổi xúc cảm, cường độ và hình thức của các quan hệ xúc cảm trong nhóm nhỏ.
Các nhà nghiên cứu quan tâm tới việc “làm bộc lộ các cấu trúc ẩn dấu, những
vị trí cá nhân trong nhóm”. Nghiên cứu nhóm nhỏ gắn liền với việc nghiên cứu

25


×