Tải bản đầy đủ (.doc) (76 trang)

Rèn kỹ năng trả lời câu hỏi cho học sinh trong dạy học phần “Sinh học Vi sinh vật” – sinh học 10 THPT

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.79 MB, 76 trang )

Kiều Thị Hợp –K21

1

PHẦN I: MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài:
1.1. Xuất phát từ mục tiêu phát triển đất nước và hội nhập quốc tế.
Đất nước ta đang bước vào giai đoạn công nghiệp hoá, hiện đại hoá với mục
tiêu đến năm 2020 Việt Nam sẽ trở thành một nước công nghiệp, hội nhập với cộng
đồng quốc tế. Để thực hiện được mục tiêu này Đảng ta đã xác định con người - nguồn
nhân lực được phát triển về số lượng và chất lượng trên cơ sở mặt bằng dân trí được
nâng cao là nhân tố quyết định tới sự thắng lợi của mục tiêu. Để phát triển được nhân
tố con người thì trước hết cần được bắt đầu từ GD đặc biệt là GD phổ thông. Vì vậy,
tháng 06 - 2012, Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt "Chiến lược phát triển giáo dục
2011 - 2020" với mục tiêu tổng quát đến năm 2020, nền giáo dục nước ta được đổi mới
căn bản và toàn diện theo hướng chuẩn hóa, hiện đại hóa, xã hội hóa, dân chủ hóa và
hội nhập quốc tế, chất lượng giáo dục được nâng cao một cách toàn diện. [ 1 ].
1.2. Xuất phát từ những yêu cầu đổi mới phương pháp dạy học hiện nay.
Muốn thực hiện được chiến lược phát triển GD trên thì phải đổi mới PPDH, mà
đổi mới PPDH lại được coi là mục tiêu trọng tâm của đổi mới GD phổ thông. Chỉ có
đổi mới căn bản PPDH mới có thể tạo được sự đổi mới thật sự trong GD nhằm đào tạo
được lớp người năng động, sáng tạo, có tiềm năng cạnh tranh trí tuệ trong bối cảnh
nhiều nước trên thế giới đang hướng tới nền kinh tế tri thức. Tri thức là vô tận, kiến
thức của từng người thì có hạn. Với tốc độ gia tăng tri thức như hiện nay: “Tri thức cứ
7 năm lại tăng gấp 2 lần…” [ 2 ] thậm chí gần đây có ý kiến cho rằng, cứ trong vòng 2
- 3 năm, lượng tri thức của nhân loại lại tăng gấp đôi.
Vì vậy nội dung DH ở nhà trường phổ thông sẽ không thể trang bị được mọi tri
thức cần thiết cho mỗi người ở các lĩnh vực hoạt động khác nhau sau này, mà phải coi
trọng việc dạy phương pháp, dạy cách đi tới tri thức mà loài người đã tích luỹ được,
cách vận dụng và vận dụng sáng tạo tri thức vào giải quyết các tình huống xảy ra trong
thực tiễn cuộc sống. Khi đứng trước một vấn đề, một câu hỏi, một tình huống người


học cần phải có kỹ năng để giải quyết vấn đề, câu hỏi hay tình huống đó một cách chủ
động, sáng tạo thì mới có thể thích ứng với sự phát triển của xã hội hiện nay.
1.3. Xuất phát từ vai trò của việc trả lời câu hỏi trong giai đoạn hiện nay.
Trong đổi mới phương pháp dạy học, GV không đứng trên bục giảng mà “rót”
tri thức vào đầu HS, và HS không chỉ “lĩnh hội” tri thức, mà GV cần phải hướng dẫn
HS cách chiếm lĩnh tri thức và HS tự lĩnh hội tri thức, có nghĩa là: GV chỉ trang bị cho


Kiều Thị Hợp –K21

2

HS chiếc “cần câu” tri thức để từ đó HS tự “câu” tri thức. Muốn vậy GV cần phải đưa
ra các câu hỏi “mở” để tạo “môi trường” cho HS được “cọ xát” ngay trong tiết dạy.
Loại câu hỏi “mở” này sẽ tạo được sự “bùng nổ” ở HS, đòi hỏi HS phải động não, phải
tìm tòi, trao đổi và tìm ra phương án trả lời cụ thể. Và từ những câu hỏi, câu trả lời cụ
thể trong tiết học, bài học mà từ đó HS hình thành nên “cách” chiếm lĩnh tri thức và
hình thành nên kỹ năng để trả lời câu hỏi, để giải quyết các tình huống trong thực tiễn
cuộc sống, đáp ứng được sự phát triển và không ngừng biến đổi của xã hội.
Tuy nhiên theo nghiên cứu của nhiều nhà tâm sinh lí, lứa tuổi HS THPT hiện
nay có hiểu biết nhiều hơn, linh hoạt và thực tế hơn so với các thế hệ cùng lứa tuổi
trước đây mấy chục năm. Ở lứa tuổi này nảy sinh yêu cầu: Lĩnh hội độc lập các tri thức
và phát triển kĩ năng. Nhưng các kĩ năng học tập, đặc biệt là kĩ năng trả lời câu hỏi ở
HS nếu muốn được hình thành và phát triển một cách có chủ động thì cần thiết phải có
hướng dẫn của GV.
Như vậy việc hướng dẫn HS trả lời câu hỏi là phù hợp với tâm sinh lí, lứa tuổi
HS THPT hiện nay và không chỉ có vai trò giúp HS tự lĩnh hội được tri thức ngay trong
bài học, tiết học mà còn định hướng để HS tự học ở những bài tiếp theo, tự học suốt
đời. Và đặc biệt là hình thành kỹ năng để người học giải quyết các tình huống xảy ra
trong thực tiễn cuộc sống.

1.4. Xuất phát từ thực trạng dạy học sinh học và vấn đề về kỹ năng trả lời câu hỏi
của học sinh ở trường THPT hiện nay.
Hiện nay ở hầu hết các trường phổ thông, trong quá trình DH, mà cụ thể là dạy
học môn sinh học, nhiều GV không có phương pháp hướng dẫn HS trả lời câu hỏi đúng
cách nên vừa không hình thành được các kĩ năng cần có cho HS khi trả lời câu hỏi, vừa
tạo nên thói quen trả lời câu hỏi một cách “tuỳ tiện”. Một số GV lại coi SGK là cuốn
“Bách khoa toàn thư”, coi đó là chuẩn mực nên khi DH chỉ sử dụng các CH, BT là các
câu lệnh có sẵn trong SGK, và HS chỉ cần nhìn vào SGK để đọc lại y nguyên một nội
dung nào đó là có thể trả lời được. Một số rất ít GV có hướng dẫn HS kỹ năng trả lời
câu hỏi, nhưng các CH đưa ra chưa đạt yêu cầu hoặc chưa được sử dụng đúng cách nên
chưa hình thành được ở HS kỹ năng trả lời câu hỏi, do vậy kết quả đạt được còn rất hạn
chế.
Với HS các em được tiếp xúc với câu hỏi và tự mình trả lời các câu hỏi từ rất
sớm, nhưng đa phần các em đều không quan tâm tới việc hình thành cho mình một kỹ
năng trả lời câu hỏi, mà chỉ quan tâm tới kết quả của câu trả lời mà các em đưa ra, dẫn
đến khi gặp câu hỏi “tương tự” hoặc có “biến dạng” một chút là các em sử lí không


Kiều Thị Hợp –K21

3

nhanh nhậy và lúng túng khó khăn trong việc đi tới câu trả lời hoặc diễn đạt câu trả lời
của mình. Từ đó khi ra ngoài thực tế cuộc sống các em sẽ kém linh hoạt hơn trong việc
qiải quyết các tình huống và đặc biệt là gặp khó khăn trong vấn đề tự học suốt đời của
mình.
Từ các lí do trên, chúng tôi đã chọn đề tài:
“Rèn kỹ năng trả lời câu hỏi cho học sinh trong dạy học phần “Sinh học Vi
sinh vật” – sinh học 10 THPT”.
2. Mục đích nghiên cứu của đề tài:

Xác định năng lực cần có để trả lời câu hỏi và biện pháp sử dụng câu hỏi để rèn
kỹ năng đó cho học sinh qua dạy học phần “sinh học vi sinh vật” góp phần đổi mới
phương pháp dạy học hiện nay.
3. Đối tượng và khách thể nghiên cứu:
3.1. Đối tượng nghiên cứu.
Các biện pháp rèn cho học sinh kỹ năng trả lời câu hỏi thông qua day học phần
“sinh học vi sinh vật” – Sinh học 10 – THPT.
3.2. Khách thể nghiên cứu.
Học sinh lớp 10 - THPT ở một số trường THPT - Vĩnh Yên - Vĩnh Phúc.
4. Gỉa thuyết khoa học:
Xác định tốt cấu trúc kỹ năng trả lời câu hỏi thì sẽ rèn được cho học sinh kỹ
năng trả lời câu hỏi thông qua dạy học phần sinh học vi sinh vật – sinh học 10 – THPT.
5. Nhiệm vụ nghiên cứu
5.1. Nghiên cứu cơ sở lí luận của việc rèn cho học sinh kỹ năng trả lời câu hỏi.
5.2. Nghiên cứu cơ sở lí luận của việc xây dựng câu hỏi và rèn cho học sinh kỹ năng
trả lời câu hỏi.
5.3. Xác định thực trạng của vấn đề trả lời câu hỏi của học sinh hiện nay trong dạy
học sinh học 10 – THPT.
5.4. Xác định cấu trúc kỹ năng trả lời câu hỏi cần có và các tiêu chí đánh giá kỹ
năng đó ở HS THPT.
5.5. Phân tích mục tiêu, cấu trúc, nội dung phần sinh học vi sinh vật
5.6. Xác định các biện pháp rèn cho học sinh kỹ năng trả lời câu hỏi qua dạy học
phần “sinh học vi sinh vật”- sinh học 10– THPT
5.7. Thực nghiệm sư phạm để kiểm tra hiệu quả của các biện pháp sử dụng câu hỏi
đã đề xuất.


Kiều Thị Hợp –K21

4


6. Phạm vi nghiên cứu.
6.1. Nội dung.
Xác định được các biện pháp sử dụng câu hỏi để rèn cho học sinh kỹ năng trả
lời câu hỏi khi dạy học phần “sinh học vi sinh vật”- sinh học 10– THPT
6.2. Thời gian.
Từ tháng 10/2012 đến tháng 08/2013
6.3. Địa điểm.
Điều tra và thực nghiệm tại trường THPT Trần Phú - Vĩnh Yên - Vĩnh Phúc.
7. Phương pháp nghiên cứu.
Sử dụng phối hợp các phương phát nghiên cứu sau:
7.1. Phương pháp nghiên cứu lí thuyết.
- Nghiên cứu các chỉ thị, nghị quyết của Đảng, Nhà nước, Bộ Giáo dục và Đào tạo
về đổi mới PPDH.
- Nghiên cứu các tài liệu về PPDH theo hướng tích cực hóa hoạt động người học,
đặc biệt là hình thành và phát triển kỹ năng trả lời câu hỏi cho HS.
- Nghiên cứu các tài liệu lí luận về xây dựng và sử dụng CH để rèn cho HS kỹ năng
trả lời câu hỏi.
- Nghiên cứu cấu trúc và nội dung chương trình Sinh học 10- THPT, đặc biệt là
phần “Sinh học vi sinh vật”, kết hợp nghiên cứu các tài liệu chuyên môn khác về VSV
để xác định năng lực cần có và các biện pháp sử dụng CH rèn cho HS kỹ năng trả lời
câu hỏi có hiệu quả.
7.2. Phương pháp điều tra, quan sát sư phạm
- Sử dụng phiếu điều tra để tìm hiểu tình hình và phương pháp rèn kỹ năng trả lời
câu hỏi cho HS trong DH sinh học nói chung và phần VSV nói riêng của GV THPT.
- Sử dụng phiếu điều tra để tìm hiểu kỹ năng trả lời câu hỏi của HS trong học tập
môn sinh học 10 của HS THPT.
- Trực tiếp dự giờ, thăm lớp, kiểm tra kết quả việc rèn kỹ năng trả lời câu hỏi cho
HS.
- Quan sát sư phạm để kiểm tra hứng thú, mức độ tích cực học tập của HS.

7.3. Phương pháp thực nghiệm sư phạm.
- Mục đích thực nghiệm:
Xác định tính khả thi và kiểm tra hiệu quả của các biện pháp sử dụng CH để rèn
kỹ năng trả lời câu hỏi cho HS qua dạy học phần “ Sinh học Vi sinh vật ” - Sinh học 10
THPT.


5

Kiều Thị Hợp –K21

- Phương pháp thực nghiệm:
+ Phối hợp với một số GV THPT có kinh nghiệm, thống nhất nội dung, phương
pháp, hệ thống CH, BT đưa vào quá trình DH thực nghiệm ở một số trường THPT.
+ Các lớp TN và ĐC được chọn có trình độ tương đương dựa trên kết quả học
tập trước đó. Các lớp TN và ĐC được bố trí như sau:
Chọn trường THPT Trần Phú - Vĩnh Yên - tỉnh Vĩnh Phúc.
Chọn 6 lớp: 3 lớp ĐC, 3 lớp TN.
+ Các lớp ĐC không tổ chức dạy học theo quy trình rèn luyện cho HS kỹ năng
trả lời CH. .
+ Các lớp TN được tổ chức dạy học theo quy trình rèn luyện cho HS kỹ năng trả
lời CH.
7.4. Phương pháp xử lí số liệu:
* Phân tích, đánh giá định lượng các bài kiểm tra
Chúng tôi đã sử dụng thống kê toán học để xử lí kết quả chấm các bài kiểm tra
nhằm giúp cho việc đánh giá hiệu quả dạy học của các phương pháp, biện pháp mà
luận văn đã đề xuất đảm bảo tính khách quan và chính xác.
Trình tự được tiến hành như sau:
- Lập bảng thống kê cho cả 2 nhóm lớp ĐC và TN theo mẫu:
Lớp Số

bài
làm
(n)
TN

Kết quả (số bài kiểm tra có điểm số là xi)
1

2

3

4

5

6

7

8

ĐC
Trong đó: n: Số HS (hay số bài kiểm tra) của các lớp ĐC hoặc TN
xi: Điểm số theo thang điểm 10
ni: Số HS (hay số bài kiểm tra) có điểm số là xi
- Tính các tham số đặc trưng:
1

10


+ Tham số trung bình cộng ( X ): X = ∑ ni Xi
n i =1


+ Độ lệch chuẩn (S):



S=

∑n ( X
i

i

n

−X)

2

9

10


Kiều Thị Hợp –K21

6


+ Phương sai (S2):
1 n
S = ∑ ni ( X i − X ) 2
n i =1
2

+ Sai số trung bình cộng (m):
+ Hệ số biến thiên (Cv%): Cv%=

m=

S
n

S
.100%
X

Trong đó :
- Cv% từ 0-10%: dao động nhỏ, độ tin cậy cao.
- Cv% từ 10-30%: dao động trung bình, độ tin cậy trung bình
- Cv% từ 30-100%: dao động lớn, độ tin cậy nhỏ.
+ Độ tin cậy (td):
X1 − X 2

Td=

S12 S22
+

n1 n2

Giá trị tới hạn của td là tα tra bảng phân phối Student với α = 0,05 bậc tự do f =
n1 + n2 - 2. Nếu ‫׀‬td‫ ≥׀‬tα thì sự sai khác của các giá trị trung bình TN < ĐC là có ý nghĩa.
Trong đó:
- S12, S22: Phương sai thực nghiệm của lớp ĐC và TN.
- X 1 , X 2 : Điểm trung bình của lớp ĐC và TN
* Phân tích, đánh giá định tính
Phân tích chất lượng bài kiểm tra của HS để thấy rõ:
+ Về kỹ năng trả lời câu hỏi của HS.
+ Về khả năng lưu giữ thông tin (độ bền kiến thức) và mức độ linh hoạt, nhanh
nhậy của HS.
8. Đóng góp mới của đề tài
- Xác định được cấu trúc kỹ năng trả lời câu hỏi.
- Đưa ra các biện pháp để rèn kỹ năng trả lời câu hỏi của học sinh thông qua dạy
học phần sinh học vi sinh vật – sinh học 10 – THPT.


Kiều Thị Hợp –K21

7

PHẦN II: NỘI DUNG NGHIÊN CỨU
CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI
1.1. Tổng quan các vấn đề nghiên cứu.
1.1.1. Trên thế giới
Từ thế kỉ 17 – 18, ở các nước châu Âu, các nhà GD nổi tiếng như Comenski, J.J.
Rousseau cũng đã có những quan điểm phải đưa ra những biện pháp DH hướng HS tìm
tòi suy nghĩ, khám phá, sáng tạo, tích cực tự đánh giá kiến thức. Những quan điểm này
chỉ rõ: không nên cho HS kiến thức có sẵn mà cần phải cho HS tự phát minh ra, tự bồi

dưỡng tinh thần độc lập trong quan sát, đàm thoại và trong việc ứng dụng vào thực
tiễn. [13].
Cuối thế kỉ 19, đầu thế kỉ 20, do nhu cầu đòi hỏi nguồn nhân lực ngày càng cao
để đáp ứng sự phát triển kinh tế, xã hội, nên GD ở các nước châu Âu và Mỹ đã đi đầu
trong việc DH phải kích thích được hứng thú, sự độc lập tìm tòi, phát huy sáng tạo của
HS, thầy giáo chỉ là người thiết kế, người cố vấn, HS tự khám phá tri thức.dạy học phát
huy tình tích cực, sáng tạo của người học. Ở Hoa Kì, ý tưởng DH cá nhân hoá ra đời
trong những năm 1970 đã được thử nghịêm tại gần 200 trường. GV xác định mục tiêu,
cung cấp các phiếu hướng dẫn để HS tiến hành công việc độc lập theo nhịp độ phù hợp
với năng lực. [36].
Theo tác giả T.A.llina đã xem việ thực hành các kỹ năng như một PPDH tích cực
giúp HS hiểu sâu bài học và phát huy được tính độc lập sáng tạo của mình. Trong tác
phẩm này ông đề cập tời nhiều kỹ năng thực hành của HS như: Kỹ năng làm việc với
SGK, kỹ năng học tập ở phòng thí nghiệm, kỹ năng luyện tập, ôn tập…Và ông nhấn mạnh
việc luyện tập, ôn tập, làm bài bằng sử dụng ngôn ngữ để diễn đạt chính là một dạng thực
hành. Đậy cũng là một phần trong kỹ năng trả lời câu hỏi của HS, tuy vậy ông không đi
sâu vào việc rèn kỹ năng trả lời câu hỏi cho HS. [47] Cũng như tác giả T.A. llina thì tác
giả H.V.Sanvin đã khẳng định rõ mục đích, ý nghĩa của các hoạt động thực hành trong dạy
học, nhưng ông không đi sâu vào việc phân loại các dạng thực hành và làm thế nào để rèn
luyện kỹ năng thực hành cho HS, đặc biệt là kỹ năng trả lời câu hỏi cho HS. [46].
Như vậy các nhà GD nước ngoài khi nghiên cứu về vấn đề rèn kỹ năng trả lời câu
hỏi cho HS hầu hết họ quan tâm tới hoạt động thực hành nói chung mà chưa chú trọng đi
sâu vào vai trò, sự cần thiết cũng như các bước để rèn kỹ năng này cho HS.


Kiều Thị Hợp –K21

8

1.1.2. Trong nước.

Từ lâu nay chắc ít nhiều chúng ta cũng nghe nói tới việc rèn kỹ năng giao tiếp,
rèn kỹ năng trả lời phỏng vấn, kỹ năng nói, kỹ năng viết, kỹ năng thực hành … tất cả
đó chỉ là một khía cạnh của kỹ năng trả lời câu hỏi. Về vấn đề này, trong nước có:
Luận án PTS của tác giả Đinh Quang Báo (1981): “Sử dụng câu hỏi, bài tập
trong dạy học sinh học” đã nghiên cứu, xây dựng một cách có hệ thống những cơ sở lí
thuyết về việc sử dụng CH, BT trong DHSH. [3]
Luận án tiến sỹ của tác giả Lê Thanh Oai (2003): “Sử dụng câu hỏi, bài tập để
tích cực hoá hoạt động của HS trong dạy học sinh thái học 11- THPT” là công trình
nghiên cứu có hệ thống từ cơ sở lí luận đến việc thực hiện đề xuất các nguyên tắc về
qui trình xây dựng và sử dụng CH, BT, từ đó định hướng cho GV về phương pháp, kĩ
năng thiết kế CH, BT trong tất cả các khâu của quá trình lên lớp.[33]
PGS. TS Lê Đình Trung: chuyên đề: “Câu hỏi, bài tập trong dạy học sinh học”
(Tài liệu dành cho học viên sau đại học). [39]
Ngoài ra còn nhiều tài liệu, luận văn thạc sỹ của nhiều tác giả cũng nghiên cứu
về xây dựng và sử dụng CH, BT để dạy các phần khác nhau của Sinh học phổ thông
hoặc nghiên cứu về vấn đề CH, BT nhưng chưa đi sâu vào việc hướng dẫn, rèn luyện
HS kỹ năng trả lời câu hỏi.
Gần đây có một số luận văn thạc sĩ nghiên cứu về một khía cạnh của kỹ năng trả
lời câu hỏi cho HS như:
+ Luận văn thạc sĩ của Nguyễn Thị Thu Vân (2008): “Rèn luyện kỹ năng diễn
đạt kiến thức cho HS trong dạy học – Sinh học 11”. [40 ]
+ Luận văn thạc sĩ của Ngô Thị Hồng Thuý (2012): “Xây dựng và sử dụng các
bài tập rèn luyện kỹ năng diễn đạt nội dung cho HS trong dạy học sinh học vi sinh vật
– Sinh học 10 THPT”. [42 ]
+ Nguyễn Thị Ngọc Bích, 2012. Luận văn thạc sĩ khoa học giáo dục: Rèn kỹ
năng diễn đạt viết cho học sinh Thanh Liêm tỉnh Hà Nam trong dạy học lịch sư thế
giới cổ đại và trung đại lớp 10 THPT chương trình chuẩn. Đại Học Giáo Dục Hà Nội.
[5]
Trong tất cả các kết quả nghiên cứu của mình, các tác giả đều khẳng định: cần
phải rèn luyện cho HS kỹ năng diễn đạt, đây chỉ là bước cuối trong việc rèn kỹ năng trả

lời câu hỏi cho HS. Từ các thành công này của các tác giả sẽ được chúng tôi nghiên
cứu, kế thừa.


Kiều Thị Hợp –K21

9

1.2. Cơ sở lý luận của đề tài.
1.2.1. Khái niệm về kỹ năng trả lời câu hỏi
1.2.1.1. Khái niệm về kỹ năng
Kỹ năng là một vấn đề được nhiều tác giả quan tâm nghiên cứu và đưa ra các
quan niệm khác nhau tuỳ thuộc vào mục đích nghiên cứu.
Theo từ điển tiếng Việt của Hoàng Phê chủ biên, kỹ năng được khái niệm là:
“Khả năng vận dụng những kiến thức thu nhận được trong một lĩnh vực nào đó vào
thực tế ”. [35]
Theo GS. Trần Bá Hoành phân tích kỹ năng theo gốc Hán - Việt: “kỹ” là sự
khéo léo, “năng” là khả năng vận dụng những tri thức thu nhận được trong một lĩnh
vực nào đó vào thực tiễn. Kỹ năng đạt tới mức hết sức thành thạo , khéo léo thì trở
thành kỹ xảo. [21, tr18]
Theo luận án thầy Nguyễn Văn Hiền: “Kỹ năng là khả năng của chủ thể có
được qua đào tạo, rèn luyện để thực hiện một cách linh hoạt các hoạt động với kết quả
tốt”. [20].
Theo các tài liệu tâm lí học, giáo dục học có nhiều ý kiến khác nhau về kỹ năng
nữa, xong có thể hiểu: “Kỹ năng là khả năng chuyên biệt của một cá nhân về khía
cạnh nào đó, được sử dụng để qiải quyết tình huống hay công việc phát sinh trong
thực tiễn cuộc sống”
* Các bước để rèn luyện kỹ năng:
Việc hình thành và rèn luyện kỹ năng nói chung và kỹ năng trong dạy học sinh
học nói riêng đều phải trải qua các bước nhất định tuỳ thuộc và nhóm kỹ năng và đối

tượng nghiên cứu. Theo tác giả Trần Quốc Thành thì có 3 giai đoạn hình thành kỹ
năng, một số tác giả khác lại cho rằng có 5 hoặc 6 giai đoạn hình thành kỹ năng. Theo
K.K.Platonov, G.G.Golubev có 5 giai đoạn hình thành kỹ năng:
Giai đoạn 1: ý thức được mục đích hành động, biết được cách thức thực hiện hành
động dựa trên vốn hiểu biết đã có.
Giai đoạn 2: Biết cách làm nhưng chưa thành thạo, có thể hiểu biết phương thức hành
động, sử dụng được những kỹ năng đã có.
Giai đoạn 3: Có hàng loạt kỹ năng nhưng còn mang tính riêng lẻ, chưa kết hợp được
với nhau.
Giai đoạn 4: Có kỹ năng phát triển, có sự phối hợp và sử dụng vốn hiểu biết về các kỹ
năng đó. Biết lựa chọn kỹ năng phù hợp với mục đích.


Kiều Thị Hợp –K21

10

Giai đoạn 5: Tay nghề cao, sử dụng thành thạo, sáng tạo, kết hợp nhuần nhuyễn các
kỹ năng hình thành kỹ xảo.
Trong dạy học để hình thành kỹ năng trả lời CH cho HS, chúng tôi thống nhất
các bước sau:
Bước 1: Giới thiệu cho HS hiểu biết về các bước thực hiện kỹ năng .
Bước 2: GV làm mẫu theo các bước như đã nêu ở bước 1.
Bước 3: Cho HS tự trả lời CH dưới sự kèm cặp, giám sát của GV.
Bước 4: Ra các câu hỏi, bài tập nâng dần độ phức tạp của các kỹ năng đó, trong
đó ứng dụng cho HS ở các tình huống khác nhau và nâng cao dần mức độ khó của các
tình huống (đại lượng tăng dần độ khó mhư: Tăng số lượng đối tượng so sánh, hoặc
GV làm hộ một phần rồi đến gợi ý, đến HS tự làm…) để HS thực hành và luyện tập.
Bước 5: GV có sự chỉnh lí, đánh giá.
Bước 6: HS tự thực hiện toàn bộ các bước của kỹ năng dưới dạng vận dụng và

vận dụng sáng tạo.
Với kỹ năng trả lời câu hỏi của HS cũng phải trải qua các giai đoạn hình thành,
để HS sử dụng thành thạo thành kỹ năng thì cần phải rèn luyện ở các mức độ khác
nhau phù hợp với trình độ nhận thức của HS. Vấn đề này sẽ được đề cập trong chương
2: Rèn kỹ năng trả lời câu hỏi cho HS.
1.2.1.2. Khái niệm về câu hỏi và trả lời câu hỏi
* Khái niệm câu hỏi.
Hỏi: Là nêu ra điều mình muốn người khác trả lời về một vấn đề nào đó.
CH: Theo Aristotle – người đầu tiên phân tích CH dưới góc độ logic: “CH là một mệnh
đề trong đó chứa đựng cả cái đã biết và cái chưa biết. CH đó là những bài làm mà khi
hoàn thành chúng, HS phải tiến hành hoạt động tái hiện, bất luận là trả lời miệng, trả
lời viết hoặc có kèm theo thực hành hoặc xác minh bằng thực nghiệm”. [39] [37].
Theo GS Trần Bá Hoành: CH kích thích tư duy tích cực là CH đặt ra trước HS một
nhiệm vụ nhận thức, khích lệ và đòi hỏi họ cố gắng trí tuệ cao nhất, tự lực tìm ra câu
trả lời bằng cách vận dụng các thao tác tư duy so sánh, phân tích, tổng hợp, khái quát
hoá qua đó lĩnh hội kiến thức mới và được tập dượt phương pháp nghiên cứu, phương
pháp giải quyết vấn đề có được niềm vui của sự khám phá.[26].
Ngoài ra còn có một vài cách định nghĩa khác:
CH là một dạng cấu trúc ngôn ngữ để diễn đạt một yêu cầu, một mệnh lệnh, một
đòi hỏi cần giải quyết.


Kiều Thị Hợp –K21

11

CH là một hình thức của tư duy, là một sản phẩm của tư duy (tương ứng với một
khái niệm, một quy luật, một định lí).
Nhìn chung, các định nghĩa CH nổi bật mấy dấu hiệu chính sau:
+ Dấu hiệu bản chất của CH là đều có hai vế: vế đã cho và vế cần tìm.

+ Hạt nhân của câu hỏi là sự xung đột.
+ Hình thức ngôn ngữ của CH là một mệnh đề nghi vấn hay được diễn đạt bằng một
ngữ điệu đặc trưng phân biệt nó với những hình thức ngôn ngữ khác.
* Câu hỏi rèn kỹ năng trả lời câu hỏi:
Câu hỏi rèn kỹ năng trả lời câu hỏi: Là một dạng câu hỏi, mà nó định hướng
phương pháp dạy học cho người dạy nhằm đạt tới kết quả là rèn được kỹ năng trả lời
câu hỏi cho HS.
Theo John Dewey: “Biết đặt câu hỏi tốt là điều kiện rất cốt lõi để dạy tốt” vì vậy để
rèn cho HS kỹ năng trả lời câu hỏi thì cần phải xây dựng hệ thống các câu hỏi rèn kỹ
năng trả lời câu hỏi cho HS có chất lượng.
Để đạt được mục tiêu rèn kỹ năng trả lời câu hỏi cho HS, khi xây dựng câu hỏi phải
tuân theo các yêu cầu sau:
**Về cấu trúc:
Gồm hai vế: Vế đã biết (đã cho) và vế chưa biết (vế cần tìm).
+ Vế đã cho bao gồm:
- Những thông tin, kiến thức có trong SGK ngay ở bài học hiện tại hoặc bài cũ,
- Các ví dụ, hình vẽ, thí nghiệm, cụm từ cho trước (đều quen thuộc với HS)
+ Vế cần tìm bao gồm:
- Những từ, cụm từ thích hợp điền vào bẳng, chỗ trống, hình vẽ.
- Xác định bản chất, dấu hiệu của khái niệm.
- Mô tả, ghi chú, phân tích hình vẽ.
- Phát biểu quy luật, hiện tượng.
- Lập bảng so sánh, lập sơ đồ hoá.
- Giải thích hiện tượng, thí nghiệm, mối quan hệ giữa các sự vật, hiện tượng.
- tóm tắt nội dụng.
** Về nguyên tắc khi xây dựng:
Khi xây dựng câu hỏi rèn kỹ năng trả lời câu hỏi cho HS phải quán triệt các nguyên
tắc sau:



Kiều Thị Hợp –K21

12

- Quán triệt mục tiêu dạy học: Để có câu hỏi tốt GV luôn phải bám sát mục tiêu
tổng quát và mục tiêu cụ thể cho vấn đề mà HS phải đạt được, từ mục tiêu ấy GV biết
HS cần học cái gì và ra câu hỏi phù hợp.
- Phát huy tính tích cực: Câu hỏi phải vừa sức, phù hợp với tâm sinh lí HS, có tính
kế thừa nhưng phải phát huy được tính tự giác, tích cực, chủ động, sáng tạo của HS.
-Tính chính xác, khoa học: Nội dung hỏi, cách diễn đạt câu hỏi phải chính xác, xúc
tích, khoa học, hỏi đúng cái cần hỏi, giúp HS tìm tòi và phát hiện được nội dung học
tập.
- Đảm bảo nguyên tắc hệ thống: Các câu hỏi khi đưa vào sử dụng phải được sắp
xếp lôgic, hệ thống theo nội dung học tập và theo hoạt động tư duy của HS.
- Đảm bảo tính thực tiễn: “học đi đôi với hành”, câu hỏi phải gắn lý thuyêý với thực
tiễn để rèn luyện khả năng vận dụng kiến thức của HS.
- Đảm bảo các yêu cầu sư phạm như: Câu hỏi phải chứa đựng mâu thuẫn, phù hợp
nội dung bài học, đi từ dễ đến khó, mang tính hệ thống, vừa sức với HS, phát huy tính
tích cực, sáng tạo…
- Chứa đựng cách thức tổ chức họat động tự lực của HS mà khi làm việc trả lời câu
hỏi HS hình thành và phát triển kỹ năng trả lời câu hỏi.
**Quy trình thiết kế:
Bước 1: Xác định rõ và đúng cái cần hỏi.
Bước 2: Liệt kê những cái cần hỏi và những cái cần biết có thể có
để qiải quyết những cái cần hỏi, theo trình tự phù hợp với các hoạt động học tập.
Bước 3: Diễn đạt câu hỏi.
Bước 4: Thử trả lời câu hỏi.
Bước 5: Chỉnh sủa lại nội dung, hình thức câu hỏi để đưa vào sử dụng.
** ý nghĩa của câu hỏi rèn kỹ năng trả lời câu hỏi.
Ngoài ý nghĩa chung của câu hỏi trong dạy học thì câu hỏi rèn kỹ năng trả lời câu

hỏi còn có ý nghĩa như:
- Là phương tiện, cách thức “mã hoá” nội dung dạy học, biến hoạt động học thành
hoạt động “giải mã” qua đó hình thành và phát triển kỹ năng đặc biệt là kỹ năng trả lơì
câu hỏi.
- Giúp HS phát triển tư duy, tích cực, chủ động trong việc lĩnh hội tri thức mới, là
cơ sở để HS tự học và học tập suôt đời.


Kiều Thị Hợp –K21

13

- Giúp GV có phương tiện, phương pháp, biện pháp tổ chức dạy học, kiểm tra đánh
giá kết quả đạt được của mục tiêu dạy học, từ đó điều chỉnh quá trình học nhằm đạt kết
quả tốt nhất.
* Khái niệm về trả lời câu hỏi:
CH là một khái niệm rộng, vì nó đòi hỏi câu trả lời với lượng thông tin khác nhau,
tính chất thông tin, thái độ, trạng thái tâm lí của người trả lời đối với thông tin đó cũng
khác nhau: Nó có thể mới, có thể không mới đối với người trả lời nên hoạt động tìm
câu trả lời sẽ khác nhau: Từ hoạt động nhớ lại đến hoạt động tìm tòi sáng tạo. Trong
giới hạn đề tài chung tôi đưa ra khái niệm:
Trả lời câu hỏi là: Sử dụng cái đã biết (có thể sử dụng trực tiếp vế đã cho trong câu
hỏi hay phải qua cầu nối trung gian để tìm cái đã cho một cách gián tiếp) để tìm ra điều
cần tìm thông qua các thao tác tư duy trong hoạt động tìm tòi.
Hay đơn giản hơn, trả lời câu hỏi là: Sự giải quyết các xung đột trong câu hỏi, tìm
và đạt được cái mới, cái cần tìm để thoả mãn nhu cầu hiểu biết về đối tượng, tức là chủ
thể trả lời có được tri thức về đối tượng đó.
1.2.1.3. Kỹ năng trả lời câu hỏi.
* Khái niệm về kỹ năng trả lời câu hỏi.
Nói về kỹ năng hay câu hỏi thì có rất nhiều tác giả quan tâm nghiên cứu và đưa

ra quan điểm của mình, nhưng kỹ năng trả lời câu hỏi lại có rất ít tác giả quan tâm
nghiên cứu hoặc không đi sâu nghiên cứu. Vì vậy trong giới hạn của đề tài chúng ta có
thể hiểu kỹ năng trả lời câu hỏi là: “ Khả năng chuyên biệt của mỗi cá nhân bằng cách
vận dụng những tri thức, những hiểu biết, những kinh nghiệm của mình vào việc tìm
giải đáp cho câu hỏi trong đó chứa đựng tri thức mới đối với người trả lời về một đối
tượng nhận thức”.
Trả lời CH thực chất là hoạt động tìm tòi, khám phá cái mới đối với người trả
lời ở các mức độ sáng tạo khác nhau. Vì vậy trả lời CH ở mức độ nhất định cũng phải
cần những hoạt động tương tự hoạt động nhiên cứu khám phá. Vì vậy để trả lời được
CH HS cần có các kỹ năng chính:
+ Kỹ năng đọc hiểu CH để nhận ra vấn đề cần tìm.
+ Kỹ năng huy động vốn kiến thức cá nhân.
+ Kỹ năng vận dụng kiến thức
+ Kỹ năng diễn đạt câu trả lời.


Kiều Thị Hợp –K21

14

* Các kỹ năng cần có của HS để thực hiện được kỹ năng trả lời câu hỏi.
+ Kỹ năng đọc hiểu câu hỏi:
Kỹ năng đọc hiểu câu hỏi là khả năng vận dụng bản chất của câu hỏi để tách ra
được 2 vế trong câu hỏi (vế đã cho và vế cần tìm), hoặc tìm ra “xung đột” trong câu hỏi
từ đó định hướng ra biện pháp giải quyết “xung đột” hoặc vế cần tìm.
Việc tìm ra 2 vế của câu hỏi là rất quan trọng trong việc tìm ra phương án trả lời
câu hỏi, điều này đòi hỏi HS không chỉ đọc câu chữ mà phải hiểu từng câu từng chữ
trong câu hỏi, tìm ra những câu, những từ “bản chất”, “cốt lõi” của câu hỏi, phân tách
câu hỏi thành hai vế, vế đã cho và vế cần tìm. Tuy nhiên vế đã cho có thể thể hiện ngay
trong câu hỏi nhưng cũng có thể không thể hiện trực tiếp trong câu hỏi mà phải qua cầu

lối trung gian nào đó. Với mỗi cá nhân tại mỗi thời điểm khác nhau thì vế đã cho sẽ
không giống nhau, nó phụ thuộc vào vốn kiến thức của mỗi cá nhân HS tại từng thời
điểm. Tương tự như vậy vế cần tìm cũng khác nhau tuỳ từng câu hỏi, tuỳ từng thời
điểm và tuỳ từng cá nhân mỗi HS. Điều này đòi hỏi GV phải ra câu hỏi phù hợp với
HS, hướng dẫn HS hình thành kỹ năng đọc hiểu câu hỏi.
Để có kỹ năng đọc hiểu câu hỏi cho HS, GV cần hướng dẫn HS theo các bước sau:
+ Bước 1: Đọc lướt nhanh toàn bộ câu hỏi, dùng bút ghạch chân hoặc đánh dấu vào
những từ, câu “cốt lõi”.
+ Bước 2: Phân tách câu hỏi thành 2 vế, vế đã cho (đã biết) và vế cần tìm.
+ Bước 3: Tìm mối quan hệ giữa vế đã cho và vế cần tìm, huy động vốn kiến thức của
cá nhân, định ra các hướng tìm vế cần tìm.
+ Kỹ năng huy động vốn kiến thức cá nhân:
Tức là bước thu thập, xử lí nguồn thông tin, dữ liệu cần cho việc giải đáp CH,
nguồn thông tin đó có thể lấy từ nhiều nguồn khác nhau như SGK, mạng iternet và
nhiều tài liệu khác. Đối với HS THPT thì nguồn thông tin chủ yếu từ SGK. Và kỹ năng
nghiên cứu SGK cũng là chung cho việc khai thác các nguồn tài liệu khác.
Kỹ năng nghiên cứu SGK.
Hiện nay HS có nhiều cơ hội để tiếp thu tri thức của nhân loại không chỉ qua
SGK mà HS có thể tiếp thu tri thức thông qua nhiều nguồn như: qua báo chí, qua
internet… Mặc dù vậy SGK vẫn là nguồn tri thức chính thống, có tính chính xác cao,
được cô đọng, đúc kết. SGK không còn là quấn “bách khoa toàn thư” nữa nhưng nó
vẫn có vai trò định hướng cả quá trình dạy và quá trình học. Vì vậy việc hình thành kỹ
năng nghiên cứu SGK là rất cần thiết, nó không chỉ giúp HS tự lĩnh hội tri thức của
SGK mà còn giúp các em có năng lực để tự học suốt đời.


Kiều Thị Hợp –K21

15


Kỹ năng nghiên cứu SGK là khả năng HS biết định hướng, xử lý và chọn lọc ra
được những thông tin chính, bản chất từ nội dung kiến thức trình bày trong SGK để
giải quyết mục tiêu học tập.
Các hoạt động cấu thành kỹ năng nghiên cứu SGK:
- Xác định mục tiêu nghiên cứu SGK:
Hiện tại SGK không trình bày mục tiêu, vì vậy để HS tiết kiệm được thời gian
thì trước khi cho HS nghiên cứu SGK, GV cần giúp HS xác định được mục tiêu chung
của bài và gợi ý để HS tiếp tục xác định các mục tiêu cụ thể thông qua các câu hỏi, các
lệnh trong phiếu học tập, bài tập… không chỉ khi dạy bài mới mà ngay trong phần
chuẩn bị bài mới, từ việc biết được mục tiêu HS sẽ định hướng được mình đọc để làm
gì?, để qiải quyết vấn đề gì?....
- Đọc, thu nhận và xử lí thông tin:
Khi đã nắm vững mục tiêu bài học, HS tiến hành làm việc với sách bằng việc
đọc lướt sau đó đọc kĩ. Để chuẩn bị cho bài học mới, GV thường yêu cầu HS đọc trước
bài trong SGK, nhưng rất ít GV quan tâm hướng dẫn khâu này. Khi GV yêu cầu HS
đọc lướt qua để nắm bắt nội dung chính, tổng quát của bài sau đó mới yêu cầu đọc chi
tiết thì HS mới hiểu sâu xắc vấn đề và nhìn vấn để toàn diện hơn.
Đọc SGK xong HS phải biết ghi nhớ những điểm quan trọng trong thì kiến thức
thu nhận mới có giá trị. Muốn làm được điều đó, HS phải có cách thu nhận thông tin
đọc được bằng các cách khác nhau như: Đánh dấu vào những chỗ quan trọng trong
sách, trích ghi, ghi tóm tắt, lập dàn ý, đề cương…..Kĩ năng ghi chép thông tin khi làm
việc với SGK rất quan trọng vì nó giúp người đọc tiết kiệm được rất nhiều thời gian,
nâng cao chất lượng và hiệu quả công việc. Kĩ năng ghi chép thông tin thể hiện ở một
số mặt sau: Đánh dấu vào SGK => Lập dàn ý => Đề cương => Trích ghi và ghi tóm
tắt. Trích và ghi tóm tắt là những cách ghi chép thông tin phổ biến và cũng rất quan
trọng. Ghi tóm tắt và ghi đại ý là một cách ghi tổng hợp mang tính khoa học cao nhất,
đòi hỏi các thao tác tư duy của người học như: phân tích, tổng hợp, khái quát hoá, hệ
thống hoá…..
Sau khi thu nhận nguồn thông tin từ SGK HS cần phải xử lí thông tin ấy. Kỹ
năng xử lí thông tin qua kênh hình, kênh chữ từ SGK là: “Khả năng sử dụng các thông

tin thu nhận được vào việc giải quyết các mục tiêu học tập”. Căn cứ vào mục tiêu học
tập, HS nghiên cứu kĩ lại những chỗ đánh dấu hoặc đã ghi chép được trong những lần
đọc trước. Khi nghiên cứu, HS cần phối hợp thu nhận thông tin từ 3 kênh: chữ, số, và
hình và phân loại chúng. Đó là sự phân tích thông tin để xác định được các ý chính,


Kiều Thị Hợp –K21

16

phụ, ý trọng tâm, loại bỏ các ý rườm rà ít có giá trị thông tin, xác định mối liên hệ giữa
các ý để khu biệt các nhóm ý rồi tổng hợp và khái quát chúng thành các khái niệm, qui
luật hay học thuyết, hoặc nội dung cơ bản của phần tài liệu và ghi nhớ chúng trên nền
thông hiểu.
Tất cả các thao tác nói trên đều được diễn ra bằng các thao tác tư duy, ngôn ngữ.
Sau khi các tri thức quan trọng nhất đã được chọn lọc nhằm giải quyết mục tiêu bài
học, các tri thức này cần được sắp xếp theo một logic chặt chẽ nhằm trả lời các CH,
BT…. Mà GV yêu cầu thông qua cách hiểu của mình, ngôn ngữ của mình chứ không
phải đọc lại nội dung một phần nào đó trong SGK.
- Đưa kiến thức vào hệ thống kiến thức
Đưa kiến thức mới học được vào hệ thống kiến thức cũ sẽ giúp HS hiểu vấn để
một cách đầy đủ, toàn vẹn, và logic qua đó HS có cơ hội ôn lại kiến thức cũ, làm tiền
đề để tiếp thu các kiến thức tiếp theo.
Để thực hiện được kỹ năng nghiên cứu SGK HS cần có các thao tác tư duy như:
Phân tích - Tổng hợp, đối chiếu – so sánh, khái quát hoá - trừu tượng hoá,...
Mỗi cá nhân HS đều có khả năng tiếp thu tri thức từ rất nhiều nguồn khác nhau,
không chỉ qua SGK để tạo cho mình một “kho tàng” tri thức riêng và thay đổi tuỳ
thuộc vào từng thời điểm, từng giai đoạn. Từ “kho tàng” tri thức riêng ấy mỗi HS sẽ
được đưa ra để sử dụng, để vận dụng vào qiải quyết các tình huống xảy ra trong cuộc
sống. Tuỳ từng tình huống, từng câu hỏi đặt ra mà lượng tri thức ra sẽ khác nhau nhưng

đều nằm trong “kho tàng” tri thức của mình và đều có liên quan mật thiết tới tình
huống, tới câu hỏi cần giải quyết. Đây gần như là bước liệt kê các tri thức liên quan tới
vấn đề cần giải quyết. Để làm được điều này HS cần phải có các thao tác tư duy như:
Tái hiện, phân tích, tổng hợp, so sánh....
Vậy kỹ năng huy động vốn kiến thức cá nhân là: “Khả năng người học đưa ra
những tri thức trong kho tàng tri thức cá nhân của mình liên quan trực tiếp tới tình
huống cần giải quyết nhằm qiải quyết tình huống ấy”
+ Kỹ năng vận dụng kiến thức
Sau khi huy động được nguồn kiến thức liên quan tới vấn đề hay câu hỏi cần
giải quyết thì người học phải biết chọn lọc, móc lối, các kiến thức ấy để đưa ra các
cách thức, các con đường, rồi lựa chọn con đường hay cách thức giải quyết vấn đề hợp
lý nhất, tối ưu nhất từ đó tiếp thu tri thức mới.
Có thể hiểu: Kỹ năng vận dụng kiến thức là khả năng sử dụng các kiến thức thu nhận
được để đưa ra lời giải đáp câu hỏi và thường có giá trị nhận thức, thực tiễn.


Kiều Thị Hợp –K21

17

+ Kỹ năng diễn đạt câu trả lời.
Tất cả các vấn đề đặt ra trong học tập cũng như trong hoạt động thực tiễn sau
khi qiải quyết xong đều cần được thể hiện hay diễn đạt thành câu trả lời. HS có thể
diễn đạt câu trả lời bằng nhiều hình thức khác nhau như: bằng văn nói, văn viết, lập
bảng, biểu so sánh và sơ đồ hoá…. nhưng cốt yếu phải là ngôn ngữ chính của HS, diễn
đạt theo cách hiểu của HS chứ không phải là chép lại SGK hay của bạn, của nguyên
bản các nguồn tin khác.
Kỹ năng diễn đạt câu trả lời: Là khả năng thể hiện đúng nội dung theo đúng chủ
đề bằng sơ đồ, hình vẽ, lời mô tả…
Khi hình thành và phát triển diễn đạt câu trả lời sẽ có tác dụng rèn luyện và phát

triển các kĩ năng tư duy, đặc biệt là kĩ năng tự học: biết thu thập, xử lí thông tin, tổng
hợp, khái quát hoá, hệ thống hoá. lập bảng biểu, vẽ đồ thị, làm việc cá nhân hay làm
việc theo nhóm, làm báo cáo, kĩ năng ngôn ngữ ở mức độ cao, giúp HS lưu giữ thông
tin một cách vững chắc, tạo thuận lợi cho việc trình bày bằng lời trong thảo luận hay
khi ôn tập để kiểm tra, thi cử.
* Các bước rèn luyện kỹ năng trả lời câu hỏi.
Dựa vào cơ sở là các bước hình thành kỹ năng nói chung chúng tôi đưa ra các
bước mà HS phải thực hiện để trả lời CH và rèn luyện kỹ năng trả lời câu hỏi như sau:
Giai đoạn 1: Giai đoạn lý thuyết.
Bước 1: GV giới thiệu cho HS hiểu biết chung về các bước thực hiện kỹ năng
trả lời câu hỏi cho HS.
+ Đọc hiểu câu hỏi
+ Huy động vốn kiến thức cá nhân liên quan tới câu hỏi.
+ Vận dụng kiến thức để trả lời câu hỏi.
+ Diễn đạt câu trả lời.
Bước 2: GV làm mẫu theo các bước như đã nêu ở bước 1.
Giai đoạn 2: Thực hành, rèn luyện kỹ năng.
Bước 1: GV cho HS thực hiện kỹ năng trả lời câu hỏi dưới sự kèm cặp, giám sát
của GV với các câu hỏi, tình huống khó dần và mức độ kèm cặp, giám sát của GV
giảm dần.
Bước 2: GV đánh giá, chỉnh lý.
Bước 3: HS tự thực hiện kỹ năng trả lời câu hỏi, tự đánh giá.
Giai đoạn 3: Vận dụng và vận dụng sáng tạo kỹ năng trả lời câu hỏi.


Kiều Thị Hợp –K21

18

1.2.1.4. Vai trò của kỹ năng trả lời câu hỏi của HS trong dạy học

Trong GDPT, kỹ năng vừa là một trong ba mục tiêu của giáo dục, vừa là tiêu chí
để đánh giá kết quả của quá trình giáo dục nói chung và quá trình dạy học nói riêng.
Để trả lời câu hỏi đòi hỏi HS phải nắm chắc kỹ năng trả lời câu hỏi, thậm chí
phát triển kỹ năng này tới kỹ xảo. Đó cũng là mục tiêu của việc rèn kỹ năng trả lời câu
hỏi cho HS để HS tự tin trong cuộc sống, trong thi cử với kết quả cao.
Có thể hiểu, tự trả lời câu hỏi là một phương pháp tự học, tự mình hoạt động
lĩnh hội tri thức khoa học và rèn luyện kĩ năng thực hành không có sự hướng dẫn của
GV. Việc rèn luyện kỹ năng trả lời câu hỏi cho HS vừa là mục tiêu, nội dung và cũng
là phương pháp dạy học để giáo dục, rèn luyện, phát triển các kỹ năng nhận thức của
HS.
Sống trong thời đại hiện nay, người học phải liên tục trả lời những câu hỏi,
những thắc mắc từ những người xung quanh hay từ chính bản thân họ, để kịp thích ứng
với sự biến đổi không ngừng của cuộc sống, vì vậy việc trang bị cho họ những kỹ
năng, đặc biệt là kỹ năng trả lời câi hỏi là rất cần thiết, từ đó người học khi ra cuộc
sống mới có thể thích ứng được. Gía trị sư phạm lớn nhất đạt được khi HS biết tự trả
lời CH do chính mình đặt ra, vì tự vấn hàm chứa trong đó nhiều kỹ năng nhận thức.
Từ năm 2006 tới nay môn Sinh thi đại học và cao đẳng đều thi theo hình thức
trắc nghiệm khách quan, đây cũng là một nguyên nhân khiến cho các em HS yếu dần đi
một số kỹ năng trả lời câu hỏi mà vốn chỉ có được khi trả lời CH tự luận, các em chỉ
quan tâm tới kết quả mà ít hoặc không quan tâm tới việc trình bày vì sao ra kết quả đó,
tức là bỏ qua bước diễn đạt câu trả lời, dẫn tới khi ra ngoài cuộc sống rất nhiều em trả
lời “cụt ngủn”, không có “đầu”, “đuôi” và kết quả là giao tiếp không tốt. Việc rèn kỹ
năng trả lời câu hỏi cho HS giúp các em linh hoạt trong xử lý tình huống, linh hoạt
trong giao tiếp, từ đó các em tự tin hơn và thành công hơn trong cuộc sống.
=> Như vậy việc rèn cho HS kỹ năng trả lời câu hỏi là rất cần thiết.
1.3. Cơ sở thực tiễn của đề tài.
1.3.1. Phương pháp xác định thực trạng
Để xác định thực trạng rèn kỹ năng trả lời câu hỏi cho HS trong dạy học sinh
học nói chung và trong dạy học phần sinh học VSV nói riêng chúng tôi đã sử dụng các
phương pháp sau:

+ Sử dụng phiếu điều tra: Chúng tôi đã sử dụng phiếu điều tra để khảo sát với
50 GV sinh học đã và đang trực tiếp giảng dạy sinh học THPT thuộc 20 trường THPT
của tỉnh Vĩnh Phúc năm học 2012- 2013.


Kiều Thị Hợp –K21

19

Chúng tôi đã sử dụng phiếu điều tra để khảo sát với đối tượng là HS khối 10 của
trường THPT Trần Phú ở TP Vĩnh Yên tỉnh Vĩnh Phúc năm học 2012- 2013
Chúng tôi đã thiết kế và sử dụng 2 phiếu điều tra (Phụ lục 1):
Phiếu số 1: Điều tra về phương pháp rèn kỹ năng trả lời câu hỏi cho HS và tình
hình sử dụng phương pháp rèn kỹ năng trả lời câu hỏi cho HS trong dạy học sinh học
của GV THPT (Phiếu dành cho GV)
Phiếu số 2: Điều tra về phương pháp học và kỹ năng trả lời câu hỏi của HS với
môn sinh học THPT (Phiếu dành cho HS).
+ Dự giờ dạy và dạy thực nghiệm: Chúng tôi đã dự giờ của GV dạy sinh học ở
3 trường thực nghiệm nói trên và dạy thực nghiệm trên các lớp nghiên cứu.
Ngoài ra chúng tôi còn tiến hành trao đổi, tham khảo bài soạn với GV bộ môn ở cả 3
trường thực nghiệm.
Kết quả điều tra được tóm tắt như sau:
1.3.2. Thực trạng của việc rèn kỳ năng trả lời câu hỏi cho HS ở trường
THPT hiện nay và nguyên nhân của thực trạng.
Qua điều tra việc sử dụng phương pháp dạy theo hướng rèn kỹ năng trả lời câu
hỏi cho HS với 50 GV sinh học đã và đang trực tiếp giảng dạy sinh học THPT thuộc 20
trường THPT của tỉnh Vĩnh Phúc năm học 2012- 2013, kết quả thu được như sau:


Kiều Thị Hợp –K21


20

Bảng 1.1: Kết quả điều tra về việc sử dụng biện pháp rèn kỹ năng trả lời câu
hỏi cho HS và tình hình sử dụng các biện pháp rèn kỹ năng trả lời câu hỏi cho HS
trong dạy học sinh học của GV THPT:
STT

1

2

3

4

Các nội dung điều tra

Thường
xuyên

SL
Khi soạn bài, các thầy cô có chú ý đến mục 37
tiêu rèn luyện kỹ năng trả lời câu hỏi cho
HS ở mức độ nào?
Nếu có thì khi xây dựng các câu hỏi để
hướng dẫn HS rèn kỹ năng trả lời câu hỏi,
thì thầy cô xây dựng loại câu hỏi nào sau
đây?
+ Tái hiện

35
+ Hiểu
26
+ Vận dụng
28
+ Sáng tạo
8
Các câu hỏi về những loại kiến thức nào mà
HS thường chưa có kỹ năng trả lời?

%
74

Không
thường
xuyên
SL
%
13
36

Không
sử dụng

70
52
56
16

15

24
22
31

30
48
44
62

0
0
0
11

0
0
0
22

+ Khái niệm
+ Cơ chế của quá trình
+ Giải thích hiện tượng
+ Vận dụng
Khi HS gặp khó khăn trong việc trả lời câu
hỏi thì các thầy cô hướng dẫn bằng cách
nào?
+ Đưa ra các câu hỏi phụ để gợi ý ra từng
vấn đề nhỏ
+ Giải thích, gợi mở, cung cấp thêm thông
tin liên quan đến CH.

+ Dừng lại và trả lời toàn bộ đáp án

5
31
33
29

10
62
66
58

39
18
16
21

78
36
32
42

6
1
1
0

12
2
2

0

39

78

11

22

0

0

17

34

33

66

0

0

5

10


35

70

10

20

SL %
0
0

Qua kết quả bảng 1.1 cho thấy:
+ Mặc dù vẫn còn một số GV chưa chú trọng đến việc rèn kĩ năng kỹ năng trả
lời câu hỏi cho HS nhưng hầu hết các GV khi soạn bài cũng đã thường xuyên chú ý
đến mục tiêu rèn kỹ năng trả lời câu hỏi cho HS. Điều này chứng tỏ đa số các GV đã


Kiều Thị Hợp –K21

21

nhận thức được việc phải đổi mới phương pháp và đang có những chuyển biến mới
trong cách dạy, hướng tới việc dạy cho học sinh “cách” học, trang bị cho HS các kỹ
năng đặc biệt là kỹ năng trả lời câu hỏi.
+ Tuy nhiên khi xây dựng CH để rèn kỹ năng trả lời câu hỏi thì các GV thường
xuyên sử dụng các BT dạng tái hiện, trình bày lại dạng nội dung kiến thức, CH hiểu và
vận dụng không được sử dụng thường xuyên, rất nhiều GV chưa chú ý đến việc xây
dựng CH sáng tạo thậm chí có GV chưa bao giờ sử dụng loại CH dạng đó. đó chưa
phát huy được khả năng tư duy sáng tạo, năng lực tự học của HS.

+ Khi giảng dạy trên lớp, các CH, được sử dụng ở tất cả các khâu của quá trình
dạy học những loại CH về các loại kiến thức cơ chế của quá trình, giải thích hiện
tượng, vận dụng thì HS thường khó trả lời còn các kiến thức về khái niệm thì thường là
không khó đối với HS. Điều này dễ giải thích là do các khái niệm thường được in sẵn
trong SGK. Do đó, các GV thường hướng dẫn HS tự học loại kiến thức về khái niệm
nhiều hơn là các kiến thức về cơ chế, hiện tượng, quá trình…
+ Việc hướng dẫn HS trả lời các CH khi học sinh gặp khó khăn thì nhiều GV
cũng đã đưa ra các CH phụ để gợi ý ra từng vấn đề nhỏ. Tuy nhiên vẫn còn tình trạng
các GV giải thích một phần, thậm chí giải thích toàn bộ luôn đáp án CH, không để HS
tiếp tục động não, đều này cũng dễ hiểu vì HS chưa có kỹ năng trả lời câu hỏi nên để
“chờ” HS tìm ra câu trả lời sẽ mất nhiều thời gian gây “cháy” giáo án của GV.
Thông qua việc trao đổi, dự giờ, rút kinh nghiệm với GV chúng tôi nhận thấy đa
số GV đều đánh giá cao vai trò của việc rèn kỹ năng trả lời câu hỏi cho HS. Song do
ảnh hưởng của lối dạy truyền thống, các GV còn gặp khó khăn trong việc thiết kế các
CH, đặc biệt là loại CH, phát triển tư duy, bồi dưỡng kỹ năng trả lời câu hỏi cho HS.
Họ cũng còn lúng túng khi sử dụng CH vào các khâu của quá trình DH. Mặt khác do
áp lực về thời lượng của một tiết dạy trên lớp 45 phút, và do phương thức thi cử hiện
nay là thi trắc nghiệm nên thường GV quan niệm rằng: Với thi trắc nghiệm khách quan
chỉ cần hướng dẫn thủ thuật, “mẹo” tìm câu đúng, mà không cần quan tâm đến việc
hướng dẫn HS suy nghĩ, so sánh các phương án để lập luận cho phương án được lựa
chọn trả lời.
Do đó, yêu cầu đặt ra hiện nay là các GV cần nắm vững cơ sở lí luận, các
nguyên tắc và qui trình xây dựng, sử dụng các CH để rèn luyện kỹ năng trả lời câu hỏi
cho HS.
1.3.3. Thực trạng về kỹ năng trả lời câu hỏi của HS ở trường THPT và nguyên
nhân của thực trạng.


Kiều Thị Hợp –K21


22

Qua điều tra HS khối 10 tại trường THPT Trần Phú – Vĩnh Phúc, với 11 lớp trên 445
HS, thu được kết quả thể hiện ở bảng 1.2.
Bảng 1.2: Kết quả điều tra về phương pháp học và kỹ năng trả lời câu hỏi của học
sinh lớp 10 - THPT Trần Phú với môn Sinh học
STT

1

Các nội dung điều tra

Thường
xuyên
SL
%
Ở nhà chuẩn bị bài, em 35
7.9
làm những việc sau ở mức
độ nào?
- Học bài cũ:
+ Xem lại vở ghi và SGK,
trả lời các CH- BT trong
SGK và thầy cô giao cho
theo đúng các bước hướng
dẫn trả lời của thầy cô.
+ Xem lại vở ghi và SGK, 248 55.7
trả lời các CH, BT SGK và
thầy cô giao một cách qua
loa gọi là có làm bài.

+ Tìm các CH, BT ngoài 34
7.6
SGK để tự làm nhằm rèn
luyện kỹ năng làm bài và
trả lời CH.
+ Chỉ học thuộc lòng vở 219 49.2
ghi, không trả lời các CH,
BT SGK và thầy cô giao.
+ Không học gì cả, chỉ xem 81
18.2
lướt qua khi thầy cô kiểm
tra bài cũ
- Đọc trước bài mới trong
SGK
+ Nghiên cứu bài mới theo 185 41.6
nội dung hướng dẫn của
thầy cô

Không thường
xuyên
SL
%
37
8.3

Rất hiếm Chưa bao
khi
giờ
SL
% SL %

315 70.8 58 13

126

28.3

38

8.5

33

68

15.3

128

28.
8

215 48.3

124

27.9

72

16.

2

30

6.7

149

33.5

124

27.
9

91

20.4

168

37.8

46

10.
3

46


10.3

7.5


23

Kiều Thị Hợp –K21

2

3

4

+ Đọc và tự trả lời các CHBT ở các lệnh và cuối bài
mới trong SGK
+ Tự đặt câu hỏi và ghi lại
các ý chưa hiểu trong bài
mới
+ Tìm đọc thông tin ngoài
SGK để bổ sung kiến thức
Trong giờ học, khi thầy cô
đặt câu hỏi, em làm
những việc sau ở mức độ
nào?
+ Tập trung để tìm lời giải
và xung phong trả lời
+ Viết sơ lược những ý cần
trả lời và tham khảo ý của

bạn
+ Thụ động chờ câu trả lời
của bạn và phần giải đáp
của thầy cô
Khi thầy cô đặt câu hỏi,
em thấy những khó khăn
sau ở mức độ nào?
+ Không hiểu câu hỏi

105

23.6

125

28.1

181

40.7 34

7.6

56

12.6

60

13.5


124

27.
9

205 46

52

11.7

65

14.6

122

27.
4

206 46.3

190

42.7

142

31.9


47

66

14.8

157

35.3

174

39.1

55

10.
6
12.
4

59

13.2

188

42.2


138

31

63

14.
2

56

12.6

163

36.6

133

29.9

83

66

14.8

+ Hiểu câu hỏi nhưng
không làm được
+Làm được nhưng không

diễn đạt được theo ý hiểu
của mình
Khi thầy cô yêu cầu trả
lời câu hỏi, em thường
làm những việc sau ở mức
độ nào?
+ Trả lời câu hỏi bột phát
theo ý hiểu của mình
+ Đọc lại ý liên quan tới

169

38.0

121

27.2

88

67

15

213

47.9

123


27.6

56

18.
7
19.
8
12.
6

53

11.9

214

48.1

114

25.6

64

53

11.9

119


26.7

99

22.2

195

14.
4
43.

32

7.2


Kiều Thị Hợp –K21
câu hỏi trong SGK
+ Tham khảo và trả lời theo 174
câu trả lời của bạn.
+ Trả lời câu hỏi theo các 57
bước hướng dẫn về kỹ năng
trả lời câu hỏi mà thầy cô
đã dạy.

24

39.1


127

28.6

98

12.8

88

19.8

143

9
22
32.
1

46

10.3

157 35.3

Từ bảng 1.2 cho thấy:
* Vấn đề tự học của HS:
- Đa phần các em chưa có ý thức tự học, các em thường trả lời các CH SGK một
cách qua loa cho xong mà không chú ý tới việc rèn kỹ năng trả lời câu hỏi, rất ít HS tự

tìm tòi CH ngoài SGK và thầy cô giao cho, cá biệt còn có những HS không học bài cũ
không làm BT hay CH nào hết. Số lượng các em đọc trước bài mới trong SGK, và ghi
lại các thắc mắc không nhiều. Các em chỉ nghiên cứu bài mới khi GV yêu cầu và theo
sự hướng dẫn của GV chứ chưa tự mình đặt CH, tìm đọc thêm thông tin ngoài SGK để
bổ sung…. theo nhu cầu, hứng thú của mình. Lý do là:
+ Các em đa phần đều là HS học lớp khối A, C, D nên theo chủ quan của các
em môn sinh chỉ học để “chống đối”, không thi đại học, 1 số ít em có ý thức rèn luyện
kỹ năng trả lời câu hỏi là những em định thi đại học khối B.
+ Theo chủ quan của GV khi dạy các em HS ở các lớp trái khối, nên không
thường xuyên quan tâm nhiều tới việc rèn kỹ năng trả lời câu hỏi cho các em.
* Vấn đề học tập và rèn kỹ năng trên lớp.
+ Trong giờ học khi GV đưa ra CH, có tới gần một nửa số HS tập trung tìm câu
trả lời, gần 1 nửa số HS còn lại thì thụ động chờ câu trả lời của bạn hoặc thầy cô, số ít
còn lại thì thờ ơ với các CH thầy cô đưa ra.
+ Khi đứng trước CH GV đưa ra CH nhiều HS gặp khó khăn như: Không hiểu
yêu cầu của CH, hoặc nếu có hiểu thì lại không diễn đạt được theo ý hiểu của mình.
Điều này cho thấy, một mặt do các em chưa có ý thức tìm hiểu kiến thức, chưa có các
kỹ năng để trả lời CH, nhưng mặt khác cũng do chất lượng CH mà GV đưa ra chưa
cao, do phương pháp sử dụng CH của GV chưa tốt và do phương pháp rèn kỹ năng trả
lời CH cho HS cũng chưa đạt yêu cầu. Do đó, kỹ năng trả lời CH của các em chưa có
hoặc còn rất thấp.


Kiều Thị Hợp –K21

25

+ Khi thầy cô yêu cầu HS trả lời CH thì đa phần các em trả lời bột phát theo ý
hiểu của mình mà ít em thực hiện theo logic các bước tìm câu trả lời CH, dẫn đến khi
gặp những CH tương tự hoặc biến dạng các em sẽ lúng túng, khó khăn.

1.4. Kết luận.
Tóm lại, HS khối 10 – THPT Trần Phú – Vĩnh Phúc hiện nay còn học lệch, chưa
coi trọng học môn học mà các em không thi đại học, cao đẳng, các em học một cách
thực dụng. Một số em có ý thức học thì chưa biết cách học, chỉ quen học thuộc lòng,
thụ động, chưa tích cực sáng tạo trong việc tìm kiến thức mới. Điều này do các em ít
đầu tư công sức, thời gian vào việc học, học tập chỉ mang tính “đối phó”. Với các em
có ý thức tự giác, yêu thích môn Sinh học thì lại không có phương pháp học đúng cách
nên đứng trước những câu hỏi đặt ra trong bài học hoặc trong thực tiễn cuộc sống là các
em lúng túng, có khi không hiểu câu hỏi hoặc hiểu câu hỏi nhưng không biết trả lời thế
nào, thậm chí biết câu trả lời nhưng lại không biết diễn đạt => kỹ năng trả lời câu hỏi còn
bị hạn chế => năng lực tự học cũng giảm sút.
Cuộc sống của con người là một hành trình đi tìm và trả lời các CH cho bản thân
mình, vì vậy việc bồi dưỡng, rèn luyện cho các em các kỹ năng trả lời câu hỏi là rất cần
thiết. Để làm được điều này trước hết phải đi từ người Thầy, người Thầy cần tạo hứng thú
cho các em bằng việc đổi mới phương pháp dạy học, đổi mới cách dạy, cách học của các
em, cụ thể là không chỉ dạy các em tri thức mà cần dạy các em các kỹ năng để chiếm lĩnh
tri thức, không chỉ dạy các em trả lời 1 câu hỏi cụ thể nào đó mà dạy các em cách để đi
đến được câu trả lời ấy, từ đó các em sẽ biết cách học không chỉ riêng trong môn sinh học
mà với tất cả các môn học khác, các em thấy được các môn học tính chất liên môn, các em
không chỉ chăm chăm vào học môn mình thi đại học, cao đẳng mà “bỏ rơi” các môn khác,
như vậy các em sẽ phát triển lệch lạc. Để giải quyết được các khó khăn trên chỉ khi các
em được rèn luyện kỹ năng, đặc biệt là kỹ năng trả lời CH.
Xuất phát từ những lý do trên chúng tôi nhận thấy sự cần thiết phải rèn kỹ năng trả
lời câu hỏi cho HS để các em phát triển toàn diện, trở thành nguồn nhân lực thúc đẩy
sự phát triển đất nước.


×