Tải bản đầy đủ (.doc) (131 trang)

Biện pháp giáo dục hành vi bảo vệ môi trường cho trẻ 45 tuổi thông qua chế độ sinh hoạt hàng ngày ở trường mầm non

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (936.16 KB, 131 trang )

Lêi c¶m ¬n
Em xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới PGS.TS Hoàng Thị Phương đã tận tình hướng dẫn em trong quá trình thực hiện luận văn.
Em xin chân thành cảm ơn các Thầy, Cô giáo trong khoa Giáo dục
mầm non, phòng Sau Đại học - Trường Đại học Sư phạm Hà Nội đã tạo điều
kiện thuận lợi cho em trong thời gian học tập và nghiên cứu.
Tôi xin chân thành cảm ơn gia đình, bạn bè đã động viên, giúp đỡ tôi
trong quá trình học tập và hoàn thành công trình nghiên cứu này.
Hà Nội, ngày 20 tháng 10 năm 2014
Tác giả

Đinh Thị Lương


DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
GDMT

: Giáo dục môi trường

GDBVMT

: Giáo dục bảo vệ môi trường

GDHVBVMT

: Giáo dục hành vi bảo vệ môi trường

CĐSHHN

: Chế độ sinh hoạt hàng ngày

ĐC



: Đối chứng

TN

: Thực nghiệm


MỤC LỤC


DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng 1.1. Thực trạng sử dụng các biện pháp trong quá trình giáo dục
hành vi bảo vệ môi trường cho trẻ 4-5 tuổi...................................................42
Bảng 1.2. Những khó khăn của giáo viên trong quá trình giáo dục . 45
hành vi bảo vệ môi trường của trẻ 4-5 tuổi.........................................45
Bảng 1.3.Thực trạng mức độ hình thành hành vi BVMT cho trẻ 4-5
tuổi ở trường mầm non....................................................................................48
Bảng 1.4 Thực trạng mức độ hình thành hành vi BVMT của tr ẻ 4-5
tuổi......................................................................................................................49
Bảng 3.1: Kết quả khảo sát hành vi BVMT của trẻ nhóm ĐC và ...84
nhóm TN trước TN (tính theo %)..........................................................84
Bảng 3.2. Kết quả khảo sát hành vi BVMT của trẻ nhóm ĐC..........87
và nhóm TN trước TN (tính theo TC)...................................................87
Bảng 3.3: Kết quả khảo sát hành vi BVMT của trẻ nhóm ĐC..........90
và nhóm TN trường mầm non Trung Môn trước TN...........................90
Bảng 3.4: Kết quả khảo sát hành vi BVMT của trẻ nhóm ĐC và
nhóm TN trường mầm non Thắng Quân trước TN........................................91
Bảng 3.5: Kết quả khảo sát hành vi BVMT của trẻ nhóm ĐC..........93
và nhóm TN sau TN (tính theo %).........................................................93

Bảng 3.6: Kết quả khảo sát hành vi BVMT của trẻ nhóm ĐC..........95
và nhóm TN sau TN (tính theo TC).......................................................95
Bảng 3.7. Hiệu quả GDHVBVMT của nhóm ĐC và nhóm TN .........98
trường mầm non Trung Môn (Sau TN)..................................................98
Bảng 3.8. Hiệu quả GDHVBVMT của nhóm ĐC và nhóm TN .........99
trường mầm non Thắng Quân (Sau TN)...............................................99
Bảng 3.9. So sánh hiệu quả giáo dục hành vi bảo vệ môi tr ường c ủa
trẻ nhóm ĐC và nhóm TN giữa trước và sau thực nghiệm..........................99


Bảng 3.8. Kiểm định hiệu quả thực nghiệm giữa nhóm ĐC...........102
và nhóm TN (Sau TN)...........................................................................102
Bảng 3.9. Kiểm định hiệu quả thực nghiệm.....................................103
của nhóm TN giữa trước TN và sau TN..............................................103


PHẦN 1: MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Thực trạng môi trường hiện nay đang trở thành vấn đề nóng bỏng
trên toàn cầu. Môi trường đang bị hủy hoại từng ngày, từng giờ ở khắp mọi
nơi trên thế giới. Loài người đang đứng trước những thách thức vô cùng to
lớn của tự nhiên như nạn lạm phát tài nguyên, cạn kiệt môi trường, ô nhiễm
môi trường. Có thể nói, môi trường đang thực sự lâm vào cuộc khủng hoảng
với quy mô toàn cầu và trở thành nguy cơ trực tiếp đối với cuộc sống hiện tại
và sự tồn vong của toàn xã hội trong tương lai. Nhận thức như thế nào và làm
gì để bảo vệ môi trường đó là vấn đề được tất cả các quốc gia trên thế giới
quan tâm.
Con người là nhân tố chính ảnh hưởng trực tiếp đến tình trạng suy
thoái môi trường nhưng chính con người cũng là nhân tố tích cực nhằm bảo
vệ môi trường và cải thiện môi trường sống. Nhằm khắc phục hậu quả do con

người gây ra đối với môi trường,ngày nay, các quốc gia đã đưa ra các chương
trình hành động cụ thể nhằm cải thiện những vấn đề về môi trường.
Trên thế giới, nhiều hội thảo đã được tổ chức, nhiều đạo luật, quyết
định đã được ban hành nhằm cứu vãn, ngăn chặn nguy cơ suy thoái môi
trường. Để thực hiện được việc này, các nước đã tiến hành hàng loạt các biện
pháp, trong đó giáo dục môi trường được coi là biện pháp hữu hiệu nhất.
Ở Việt Nam, Luật Bảo vệ môi trường đã được Quốc hội thông qua
ngày 27/12/1993 và có hiệu lực từ ngày 10/01/1994 coi giáo dục môi trường
là một trong những nhiệm vụ hàng đầu.
Vấn đề giáo dục bảo vệ môi trường đã được đưa vào giảng dạy tại rất
nhiều trường ở tất cả các cấp học từ mầm non, tiểu học, trung học cơ sở, trung
học phổ thông đến đại học và sau đại học. Giáo dục bảo vệ môi trường cho
học sinh, sinh viên là điều hết sức cần thiết, đặc biệt là đối với bậc học mầm
non vì đây là bậc học nền móng, là cơ sở, là mắt xích quan trọng cho các bậc
1


học tiếp theo. Vì vậy việc giáo dục ý thức, thái độ, hành vi đúng đắn trong
việc bảo vệ môi trường phải bắt đầu ngay từ tuổi mầm non.
Môi trường là nguồn tri thức thực tế mà trẻ có thể lĩnh hội được một
cách có ý thức dựa trên nhận thức cảm tính và giáo dục thái độ đúng đối với nó.
Sự thiếu hụt tri thức, biểu tượng không đúng sẽ là nguyên nhân gây nên thái độ
thiếu nhân hậu của trẻ đối với động vật, dẫn đến hành vi tàn sát chúng. Điều này
không chỉ làm hại môi trường mà còn ảnh hưởng xấu đến tâm lý của trẻ. Hơn
nữa việc sửa đổi những biểu tượng không đúng ở trẻ thường khó hơn là hình
thành biểu tượng mới. Chính vì vậy, điều quan trọng là ngay từ lứa tuổi mầm
non cần hình thành những tri thức, hành vi đúng về vấn đề bảo vệ môi trường.
Thực tiễn dạy học mầm non hiện nay, vấn đề giáo dục bảo vệ dục môi
trường cho trẻ cũng đã được các nhà quản lý cũng như các giáo viên quan
tâm. Có rất nhiều công trình nghiên cứu về nội dung giáo dục bảo vệ môi

trường cho trẻ mầm non nhằm đưa vào chương trình chăm sóc giáo dục trẻ.
Tuy nhiên, việc thực hiện giáo dục bảo vệ môi trường vẫn còn nhiều hạn chế:
Quá trình giáo dục chưa thường xuyên, liên tục; nhiều giáo viên chưa biết
cách sử dụng các biện pháp giáo dục môi trường một cách phù hợp, chưa biết
phát huy thế mạnh của từng biện pháp; việc giáo dục cũng mới chỉ dừng lại ở
mức độ cung cấp những kiến thức thông thường mà chưa khai thác sâu ở mức
độ hình thành hành vi. Vì vậy mục tiêu giáo dục bảo vệ môi trường cho trẻ
mầm non chỉ có thể tốt khi có sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa những tri thức
mà trẻ tiếp thu được với những biện pháp tích cực của giáo viên nhằm hình
thành hành vi bảo vệ môi trường cho trẻ.
Chế độ sinh hoạt hàng ngày của trẻ ở trường mầm non là sự phân phối
thời gian, trình tự các hình thức hoạt động và nghỉ ngơi luân phiên trong ngày
một cách hợp lý, nhằm tiến hành nội dung công tác giáo dục đạt hiệu quả cao
nhất. Chế độ sinh hoạt hàng ngày có nhiều ưu thế trong việc giáo dục hành vi
bảo vệ môi trường của trẻ mầm non. Cuộc sống hàng ngày là phương tiện tốt

2


nhất để giáo dục hành vi bảo vệ môi trường cho trẻ. Tổ chức chế độ sinh hoạt
cũng chính là tổ chức cuộc sống hàng ngày của trẻ. Vì vậy, nếu chúng ta biết
tổ chức tốt chế độ sinh hoạt hàng ngày thì mục tiêu giáo dục môi trường sẽ dễ
dàng được thực hiện. Chế độ sinh hoạt hàng ngày là nơi cung cấp cho trẻ
những tình huống thực tế để trẻ trải nghiệm, từ đó làm thay đổi thái độ, hành
vi của trẻ đối với môi trường một cách tích cực.
Xuất phát từ những lí do trên, căn cứ vào ưu thế của việc tổ chức chế
độ sinh hoạt hàng ngày đối với giáo dục bảo vệ môi trường cho trẻ mầm non,
tôi chọn đề tài: “Biện pháp giáo dục hành vi bảo vệ môi trường cho trẻ 4-5
tuổi thông qua chế độ sinh hoạt hàng ngày ở trường mầm non”.
2. Mục đích nghiên cứu

Trên cơ sở nghiên cứu lí luận và tìm hiểu thực trạng giáo dục hành vi
bảo vệ môi trường cho trẻ 4-5 tuổi ở trường mầm non, chúng tôi đã đề xuất
các biện pháp giáo dục hành vi bảo vệ môi trường cho trẻ 4- 5 tuổi thông qua
chế độ sinh hoạt hàng ngày nhằm góp phần nâng cao hiệu quả giáo dục môi
trường cho trẻ ở trường mầm non.
3. Khách thể và đối tượng nghiên cứu
3.2. Khách thể nghiên cứu
Quá trình giáo dục hành vi bảo vệ môi trường cho trẻ 4-5 tuổi ở trường
mầm non.
3.3. Đối tượng nghiên cứu
Một số biện pháp giáo dục hành vi bảo vệ môi trường cho trẻ 4-5 tuổi
thông qua chế độ sinh hoạt hàng ngày ở trường mầm non.
4. Giả thuyết khoa học
Nếu sử dụng một số biện pháp giáo dục hành vi bảo vệ môi trường cho
trẻ 4-5 tuổi theo hướng tận dụng cơ hội để trẻ trải nghiệm hành vi bảo vệ môi
trường trong các hoạt động và sinh hoạt hàng ngày của trẻ ở trường mầm non
thì hành vi bảo vệ môi trường của trẻ sẽ được nâng cao.
5. Nhiệm vụ nghiên cứu
5.1 . Nghiên cứu những vấn đề lí luận và thực tiễn của việc giáo dục
hành vi bảo vệ môi trường cho trẻ 4-5 tuổi thông qua chế độ sinh hoạt hàng
ngày của trẻ ở trường mầm non.
3


5.2. Đề xuất các biện pháp giáo dục hành vi bảo vệ môi trường cho trẻ
4-5 tuổi thông qua chế độ sinh hoạt hàng ngày ở trường mầm non.
5.3. Thực nghiệm sư phạm để xác định hiệu quả của các biện pháp đã đề
xuất và khẳng định tính khả thi của đề tài nghiên cứu.
6. Phương pháp nghiên cứu
6.2. Phương pháp nghiên cứu lý luận

Sử dụng phương pháp phân tích, tổng hợp, khái quát hóa, hệ thống hóa
những tài liệu có liên quan đến đề tài nghiên cứu để làm rõ vấn đề nghiên cứu.
6.3. Phương pháp nghiên cứu thực tiễn
a/ Phương pháp điều tra bằng phiếu (Anket)
Thu thập ý kiến của giáo viên bằng phiếu nhằm tìm hiểu thực trạng
giáo dục hành vi bảo vệ môi trường cho trẻ 4-5 tuổi ở một số trường mầm non
trên địa bàn tỉnh Tuyên Quang.
b/ Phương pháp quan sát
Dự giờ, quan sát quá trình giáo viên tổ chức hướng dẫn giáo dục hành
vi bảo vệ môi trường cho trẻ 4-5 tuổi thông qua chế độ sinh hoạt hàng ngày.
Quan sát hiệu quả của giáo dục hành vi bảo vệ môi trường của trẻ 4-5
tuổi thông qua các hoạt động trong chế độ sinh hoạt hàng ngày.
c/ Phương pháp đàm thoại
Sử dụng hệ thống câu hỏi, trao đổi, trò chuyện với giáo viên và trẻ về
những vấn đề liên quan đến biện pháp mà giáo viên đã sử dụng trong quá
trình giáo dục HVBVMT cho trẻ 4- 5 tuổi ở trường mầm non.
d/ Phương pháp thực nghiệm sư phạm
Sử dụng phương pháp thực nghiệm sư phạm nhằm kiểm nghiệm hiệu
quả của các biện pháp giáo dục hành vi bảo vệ môi trường cho trẻ 4-5 tuổi
thông qua chế độ sinh hoạt hàng ngày ở trường mầm non.
6.4. Phương pháp thống kê toán học
Thu thập và phân tích số liệu nghiên cứu thông qua các tham số thống
kê: Tỉ lệ %, trung bình (X), độ lệch chuẩn (S), đại lượng kiểm định (T).
7. Phạm vi nghiên cứu
- Nghiên cứu vấn đề giáo dục HVBVMT cho trẻ 4-5 tuổi thông qua
chế độ sinh hoạt hàng ngày ở một số trường mầm non trên địa bàn huyện
Yên Sơn- Tuyên Quang.

4



- Thời gian nghiên cứu thực tiễn và thực nghiệm: Từ tháng 2/20145/2014.
8. Đóng góp mới của đề tài
- Xác định và hệ thống hóa lý luận của việc giáo dục hành vi bảo vệ môi
trường cho trẻ 4-5 tuổi thông qua chế độ sinh hoạt hàng ngày ở trường mầm non.
- Làm rõ thực trạng của việc giáo dục hành vi bảo vệ môi trường cho trẻ 4-5
tuổi ở trường mầm non và chỉ ra nguyên nhân của thực trạng.
- Đề xuất một số biện pháp giáo dục hành vi bảo vệ môi trường cho
trẻ 4-5 tuổi thông qua chế độ sinh hoạt hàng ngày ở trường mầm non.
9. Cấu trúc của luận văn
Luận văn gồm 3 phần: Mở đầu, nội dung, kết luận và kiến nghị.
Phần nội dung có 3 chương :
Chương 1 : Cơ sở lý luận và thực tiễn của việc giáo dục hành vi bảo vệ môi
trường cho trẻ 4-5 tuổi thông qua chế độ sinh hoạt hàng ngày ở trường mầm non.
Chương 2 : Đề xuất một số biện pháp giáo dục hành vi bảo vệ môi trường
cho trẻ 4-5 tuổi thông qua chế độ sinh hoạt hàng ngày ở trường mầm non.
Chương 3: Thực nghiệm một số biện pháp giáo dục hành vi bảo vệ môi
trường cho trẻ 4-5 tuổi thông qua chế độ sinh hoạt hàng ngày ở trường mầm non.

PHẦN 2: NỘI DUNG
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA VIỆC GIÁO DỤC HÀNH VI
BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG CHO TRẺ 4-5 TUỔI THÔNG QUA CHẾ ĐỘ
SINH HOẠT HÀNG NGÀY Ở TRƯỜNG MẦM NON
1.1. Cơ sở lý luận của việc giáo dục hành vi bảo vệ môi trường cho
trẻ 4-5 tuổi thông qua chế độ sinh hoạt hàng ngày ở trường mầm non.
1.1.1. Vài nét về lịch sử nghiên cứu vấn đề.
1.1.1.1. Các công trình nghiên cứu của nước ngoài
a. Những nghiên cứu, chiến lược mang tính quốc tế
5



Năm 1948, tại cuộc họp Liên hợp Quốc về Bảo vệ môi trường và tài
nguyên thiên nhiên ở Pari, thuật ngữ “Giáo dục môi trường” đã được sử dụng.
Tuy nhiên việc giáo dục môi trường thực sự được quan tâm khi những hiểm
họa về sự tồn vong của con người đã trở nên báo động. Trái đất – Ngôi nhà
chung của nhân loại bị ô nhiễm và suy thoái nghiêm trọng do chính những
hành động mà con người gây ra. Sau đó, các quốc gia trên thế giới đã lần lượt
tổ chức các hội nghị, hội thảo và đề ra được nhiều chiến lược, sách lược quan
trọng về vấn đề bảo vệ môi trường theo những hướng cơ bản sau:
Thứ nhất, nghiên cứu về mục tiêu, nguyên tắc giáo dục môi trường.
Vào tháng 5 năm 1958, Hội đồng cộng đồng châu âu đã họp và thống nhất
đưa ra nghị quyết về giáo dục môi trường với những mục tiêu và nguyên tắc sau:
- Mục tiêu của giáo dục môi trường là nâng cao nhận thức của nhân dân
đối với các vấn đề về môi trường cũng như các giải pháp có thể, đặt nền móng
cho sự tham gia tích cực với đầy đủ kiến thức của từng cá nhân trong việc bảo
vệ môi trường và sử dụng một cách hợp lý, sáng suốt các tài nguyên thiên
nhiên.
Để đạt được những mục tiêu trên, giáo dục môi trường cần phải tính
đến các nguyên tắc mang tính chỉ dẫn sau:
- Môi trường phải được coi là tài sản của nhân loại.
- Nhiệm vụ chung đó là sự đóng góp cho việc bảo vệ sức khỏe con
người và giữ gìn cân bằng sinh thái, duy trì và bảo vệ môi trường.
- Sự cần thiết đối với việc sử dụng hợp lí, sáng suốt các nguồn tài
nguyên thiên nhiên.
- Đường lối mà mỗi cá nhân với tư cách là người tiêu dùng có thể đóng
góp cho việc bảo vệ môi trường bằng hành vi, thái độ của mình.
Năm 1975, tại Belyrade (Nam Tư) Chương trình giáo dục môi trường
quốc tế (IEEP) ra đời. Tại Hội thảo Quốc tế lần thứ nhất về giáo dục môi
6



trường, chương trình IEEP đã đưa ra được Nghị định khung và tuyên bố về
những mục tiêu, nguyên tắc hướng dẫn giáo dục môi trường. Hội thảo đã
công bố Hiến chương Balyrade – Một hệ thống nguyên tắc toàn cầu cho giáo
dục môi trường được tóm tắt ở những điểm cơ bản sau:
- Nâng cao nhận thức và quan tâm tới mối quan hệ tương tác về kinh tế,
chính trị, xã hội, sinh thái giữa nông thôn và thành thị.
- Cung cấp cho mỗi cá nhân những cơ hội tiếp thu kiến thức, những giá
trị, quan niệm, trách nhiệm và các kỹ năng cần thiết nhằm bảo vệ và cải tạo
môi trường.
- Tạo ra những mô hình ứng xử với môi trường cho các cá nhân, các tổ
chức cũng như toàn xã hội.
Thứ hai, nghiên cứu tầm quan trọng của giáo dục đối với các vấn đề
về môi trường.
Năm 1977, tại Tbilisi (Liên Xô) UNESCO đã tổ chức Hội nghị Liên
chính phủ đầu tiên về giáo dục môi trường bao gồm 66 nước tham dự. Hội
nghị đưa ra các ý kiến đóng góp cho việc áp dụng rộng rãi nội dung giáo dục
môi trường trong chương trình giáo dục chính thức và không chính thức. Nội
dung về giáo dục môi trường trong văn kiện của Hội nghị có thể tóm tắt như
sau: “ Nếu như muốn đạt được các mục tiêu bảo tồn thì hành vi cư xử của một
xã hội đối với sinh quyển bắt buộc phải thay đổi... Nhiệm vụ lâu dài của giáo
dục môi trường là khuyến khích hoặc củng cố các hành vi, thái độ mang tính
đạo đức mới”
Sau đó vào năm 1987, nhân kỷ niệm 10 năm Hội nghị Tbilisi đầu tiên,
một loạt các vấn đề cơ bản về môi trường được đưa ra thảo luận, trong đó
nhấn mạnh đặc biệt tới tầm quan trọng của giáo dục môi trường, và khẳng
định sẽ không thể giảm được mối đe dọa mang tính khu vực và quốc tế đối
với môi trường trừ phi ý thức của đại đa số quần chúng được thức tỉnh.


7


Trong năm 1987, Ủy ban thế giới về môi trường và sự phát triển đã có
báo cáo “ Tương lai chung của chúng ta” (WCED 1987). Bản báo cáo đã đưa ra
công bố “Chương trình nghị sự toàn cầu” Giáo dục được coi là trọng tâm của
chương trình này :“Sự thay đổi thái độ mà chúng ta cố gắng phụ thuộc vào các
chiến dịch giáo dục lớn, các cuộc thảo luận và sự tham gia của quần chúng”
Môi trường và sự phát triển có mối quan hệ với nhau. Chính sự suy
thoái về môi trường là vật cản chủ yếu đối với sự phát triển. Bảo vệ môi
trường là mục tiêu quan trọng nhất để đạt được tốc độ phát triển bền vững.
Hội nghị Thượng đỉnh (UNCED) diễn ra tại Rio de Janeco (Brazil) vào
năm 1992 có 170 nước tham dự. Hội nghị thảo luận vấn đề mấu chốt là “Chương
trình Nghị sự 21”. Chương trình nhằm chỉ ra cho các quốc gia biết cần phải làm
những gì để đạt được sự phát triển mang tính chất duy trì trong thế kỷ XXI. Hội
nghị nhất trí cao phát triển và giáo dục môi trường phải là một bộ phận thống
nhất của quá trình học tập ở cả hai dạng chính thức và không chính thức. Hội
nghị cũng đưa ra dự kiến là mọi chính phủ phải nỗ lực phấn đấu để cập nhật hóa
hoặc chuẩn bị các chiến lược nhằm mục đích kết hợp môi trường và phát triển
thành vấn đề trọng tâm để đưa vào các cấp giáo dục.
Thứ ba, nghiên cứu về trách nhiệm của con người đối với việc phát
triển môi trường một cách bền vững.
Nghị định thư Kyoto năm 1997 đưa ra chỉ tiêu cắt giảm lượng khí thải
gây hiệu ứng nhà kính có tính ràng buộc pháp lý đối với các nước phát triển
và cơ chế đối với các nước đang phát triển nhằm đạt được sự phát triển kinh
tế xã hội một cách bền vững thông qua thực hiện “cơ chế phát triển sạch”.
Hội nghị quốc tế về môi trường với chủ đề: “Các công dân trên trái đất”
diễn ra tại Pari (Pháp) năm 2007 với mục đích đưa ra các giải pháp hiệu quả để
bảo vệ an toàn trái đất trước nguy cơ biến đổi bất lợi do con người gây ra. “ Lời
kêu gọi Pari” đã khuyến khích kêu gọi tất cả các nước, tất cả mọi người chung

tay bảo vệ môi trường, việc làm này góp phần bảo vệ tương lai của nhân loại.
8


Hội nghị cũng kêu gọi thế giới thông qua “Tuyên bố toàn cầu” về các quyền hạn,
trách nhiệm đối với môi trường nhằm đánh giá một quyền mới cho con người,
đó là quyền được sống trong một môi trường an toàn được bảo vệ.
Như vậy, thông qua diễn biến của các hội nghị, hội thảo về vấn đề môi
trường trên thế giới trong nhiều năm qua cho thấy các quốc gia trên thế giới
đều xem giáo dục là công cụ quan trọng nhất để giáo dục môi trường, là tác
nhân có ảnh hưởng mạnh mẽ đến việc thay đổi nhận thức của con người đối
với các vấn đề môi trường. Tất cả các hội nghị, hội thảo đều hướng tới việc
làm cho môi trường toàn cầu được cải thiện tốt đẹp hơn.
Ngày môi trường thế giới (WED) đặt ra thông điệp cụ thể trong mỗi
giai đoạn nhất định. Chủ đề ngày môi trường thế giới năm 2013 là “Hãy nghĩ
về môi trường trước khi tiêu thụ thực phẩm” nhằm khuyến khích mọi người
có ý thức hơn về các tác động tới môi trường từ việc lựa chọn thực phẩm của
mình, từ đó đưa ra được những quyết định sáng suốt. Chủ đề ngày môi trường
thế giới năm 2014 là “Hãy hành động để ngăn chặn nước biển dâng”
b. Những nghiên cứu, chiến lược cấp quốc gia
Mỗi quốc gia trên thế giới đều có cách thức bảo vệ môi trường riêng
biệt phù hợp với thực trạng môi trường, con người và điều kiện kinh tế xã hội
ở nước đó. Giáo dục môi trường được tiến hành song song giữa giáo dục gia
đình, nhà trường và xã hội bằng các biện pháp, phương pháp đa dạng nhằm
tác động đến ý thức của mỗi công dân.
Nhìn chung giáo dục môi trường thường được tiến hành dựa trên những
điểm cơ bản sau đây:
+ Tiếp cận và trải nghiệm các vấn đề môi trường trong thực tế.
+ Tăng cường những hiểu biết về môi trường.
+ Khuyến khích tham gia các hoạt động vì môi trường.

9


+ Hình thành và phát triển kỹ năng bảo vệ môi trường.
+Hình thành thái độ và trách nhiệm đối với môi trường.
Ở nhiều quốc gia, giáo dục môi trường được đưa vào giảng dạy như
một môn học chính khóa nhưng cũng có nhiều nước lại đưa vào giảng dạy
như một môn học tự chọn. Các quốc gia này đều thấy được nếu chỉ học trên
lớp vẫn chưa đủ mà cần phải có kinh nghiệm của cuộc sống thực tế, giáo dục
nhận thức và hành động phải được tiến hành đồng thời, có hiệu quả.
Sau khi nghiên cứu vấn đề giáo dục ở một số quốc gia trên thế giới,
chúng tôi thấy có 2 xu hướng cơ bản: Thứ nhất, giáo dục môi trường bằng
cách tiếp cận như những môn học, những chuyên đề nhỏ, một khóa học với
những nội dung rất gần gũi, địa điểm học thú vị; Thứ hai, giáo dục môi trường
được lồng ghép, tích hợp vào các lĩnh vực, các hoạt động giáo dục khác nhau.
* Giáo dục môi trường bằng cách tiếp cận như những môn học, những
chuyên đề nhỏ, một khóa học với những nội dung rất gần gũi, địa điểm học thú vị.
Ở Mỹ: Liên đoàn quốc gia bảo vệ cuộc sống hoang dã (NWF) đã giảng
dạy tại các trường 33 bài học về môi trường. Tùy vào tình hình cụ thể mà có
thể áp dụng các bài học vào trong cuộc sống. Vào các kì nghỉ hè, nhiều khóa
học về môi trường kéo dài vài tuần với những nội dung rất gần gũi nhằm bổ
trợ kiến thức và xây dựng kỹ năng cho học sinh. Các khóa học này có thể diễn
ra ở viện bảo tàng, một trang trại hoặc công viên.
Philippines đã thực nghiệm một chương trình giáo dục môi trường trong
nhà trường và trong cộng đồng xã hội. Trong chương trình phổ thông có một
số bài chuyên về giáo dục môi trường, kèm theo những tài liệu đọc thêm về
tình hình môi trường của đất nước, của địa phương và có một chương trình
giáo dục môi trường cụ thể tại các trường đào tạo giáo viên và hiệu trưởng.
Indonesia thực hiện giáo dục môi trường với 8 chuyên đề: Bảo vệ rừng,
chống hoang hóa, chống xói mòn, hiện tượng bồi tụ lòng sông, bảo vệ nguồn


10


nước, chống ô nhiễm đại dương, bảo vệ và phát triển sinh giới, bảo vệ sức
khỏe con người.
* Giáo dục môi trường được lồng ghép, tích hợp vào các lĩnh vực, các
hoạt động giáo dục khác nhau.
Ở Liên Xô (cũ) những chủ đề bảo vệ môi trường không chỉ được lồng
ghép vào những môn học có liên quan đến môi trường như sinh học, địa lí,
hóa học...mà còn lòn ghép vào trong các môn học khác như: Giáo dục công
dân, đạo đức, thẩm mĩ. Khối kiến thức giáo dục môi trường được đưa vào bao
gồm: Mối quan hệ của con người với tự nhiên, vẻ đẹp thiên nhiên, phong tục,
luật pháp bảo vệ môi trường, bảo vệ các tài nguyên thiên nhiên.
Ở Tiệp Khắc, sự lồng ghép và tích hợp giáo dục môi trường được thể
hiện ở cả chiều dọc và chiều ngang. Tích hợp theo chiều dọc là sự liên thông
logic các kiến thức giáo dục môi trường và các kỹ năng qua các bậc học và
năm học. Tích hợp theo chiều ngang là sự lồng ghép giáo dục môi trường vào
các môn học ở bậc học đó.
Ở Nhật Bản, giáo dục môi trường được gắn liền với nhiệm vụ giáo dục
đạo đức, phát triển các kỹ năng xã hội, cụ thể là “Ý thức nhóm”. Khuynh
hướng giáo dục này đã đạt được những thành tựu đáng kể trong giáo dục sinh
thái và môi trường cho thế hệ trẻ.
Qua các công trình nghiên cứu về giáo dục môi trường ở các quốc gia
trên thế giới thì giáo dục môi trường trong gia đình, nhà trường và cộng đồng
là 3 phạm vi cơ bản. Các quốc gia cũng đã nhận ra vai trò quan trọng của giáo
viên trong việc giáo dục bảo vệ môi trường ở tất cả các bậc học. Vì vậy việc
trang bị kiến thức về môi trường cho giáo viên là điều mà nhiều quốc gia
quan tâm đặc biệt.
1.1.1.2. Các công trình nghiên cứu trong nước.

a. Những nghiên cứu ở tầm vĩ mô

11


Ở Việt Nam, vấn đề giáo dục môi trường được coi là một bộ phận không
thể tách rời của sự nghiệp giáo dục và là nhiệm vụ của toàn dân. Công tác giáo
dục môi trường đã được đặt ra trong các văn bản của Nhà nước, Bộ giáo dục và
đào tạo, là cơ sở triển khai công tác giáo dục môi trường trong thực tiễn.
Từ năm 1991, Đảng và Nhà nước ta đã quan tâm và chú trọng nhiều
đến việc tổ chức quản lí, đưa công tác bảo vệ môi trường vào cuộc sống, xây
dựng hệ thống luật pháp, nâng cao nhận thức của nhân dân, tăng cường đầu tư
cho công tác bảo vệ môi trường.
Năm 1993, Quốc hội đã thông qua Luật bảo vệ môi trường. Trong điều 4
của Luật đã xác định rõ giáo dục và đào tạo là một trong những nhiệm vụ bảo vệ
môi trường: “Nhà nước có trách nhiệm tổ chức việc thực hiện giáo dục và đào
tạo, nghiên cứu khoa học và công nghệ, phổ biến kiến thức về khoa học và pháp
luật bảo vệ môi trường. Các tổ chức và các cá nhân có trách nhiệm tham gia vào
các hoạt động bảo vệ môi trường và giáo dục bảo vệ môi trường. ”
Đảng và Nhà nước ta đã thể hiện sự nỗ lực cải thiện và bảo vệ môi
trường thông qua việc tích cực tham gia các chương trình quốc tế về môi
trường cùng với việc hoạch định và thực hiện các chương trình hành động
quốc gia về môi trường.
Chỉ thị số 36-CT/TW ngày 25-06-1998 của Bộ Chính trị về “Tăng
cường công tác bảo vệ môi trường trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại
hóa đất nước” đã coi vấn đề GDBVMT là giải pháp đầu tiên. Chỉ thị đề ra 8
giải pháp lớn về BVMT, phát triển bền vững trong thời gian tới ở nước ta,
trong đó có nhiều giải pháp liên quan đến giáo dục.
Quyết định số 1363/ QĐ-TTg ngày 17-10-2001 của Thủ tướng Chính
phủ về việc phê duyệt đề án “Đưa nội dung giáo dục môi trường vào hệ thống

giáo dục quốc dân” Mục tiêu của đề án nhằm giáo dục học sinh, sinh viên các
cấp học, bậc học, trình độ đào tạo trong hệ thống giáo dục quốc dân có hiểu
biết về pháp luật và chủ chương chính sách của Đảng, Nhà nước về BVMT,

12


có kiến thức về môi trường để tự giác thự hiện bảo vệ môi trường. Bên cạnh
đó, đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ giảng dạy, giáo viên, cán bộ nghiên
cứu khoa học công nghệ và cán bộ quản lý về BVMT.
Quyết định số 256/2003/QĐ-TTg ngày 2/12/2003 của Thủ tướng Chính
phủ phê duyệt Chiến lược Bảo vệ môi trường quốc gia đến năm 2010 và định
hướng đến năm 2020. Bốn quan điểm của chiến lược như sau:
- Chiến lược bảo vệ môi trường là bộ phận cấu thành không thể tách rời
của chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, là cơ sở quan trọng để phát triển bền
vững đất nước. Đầu tư bảo vệ môi trường là đầu tư cho phát triển bền vững.
- Bảo vệ môi trường là nhiệm vụ của toàn xã hội, của các cấp, các
ngành, các tổ chức, cộng đồng và mọi người dân, bảo vệ môi trường mang
tính quốc gia, khu vực và toàn cầu cho nên phải kết hợp giữa phát huy nội lực
với tăng cường hợp tác quốc tế.
- Bảo vệ môi trường phải trên cơ sở tăng cường quản lý nhà nước, thể
chế và pháp luật đi đôi với việc nâng cao nhận thức và ý thức trách nhiệm của
mọi người dân, của toàn xã hội về bảo vệ môi trường.
- Bảo vệ môi trường là việc làm thường xuyên, lâu dài, coi phòng ngừa
là chính, kết hợp với xử lý và kiểm soát ô nhiễm, khắc phục suy thoái, cải
thiện chất lượng môi trường, tiến hành có trọng tâm, trọng điểm, coi khoa học
và công ngệ là công cụ hữu hiệu trong bảo vệ môi trường.
Ngày 15-11-2004, Bộ Chính trị đã ra Nghị quyết 41/NQ/TW về “Bảo
vệ môi trường trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước” với phương châm “Lấy phòng ngừa và hạn chế tác động xấu đối với

môi trường là chính”, Nghị quyết tuyên truyền, giáo dục nâng cao nhận thức
và trách nhiệm BVMT là giải pháp số 1 trong 7 giải pháp bảo vệ môi trường
và xác định “Đưa nội dung giáo dục BVMT vào hệ thống giáo dục quốc dân,
tăng cường thời lượng và tiến tới hình thành môn học chính khóa đối với các
lớp học phổ thông”
13


Xuất phát từ những chủ chương, chính sách của Đảng và Nhà nước
trong các văn bản vừa kể trên, Bộ giáo dục và đào tạo đã ban hành chính sách
và chiến lược giáo dục BVMT, tổ chức triển khai các nhiệm vụ về GDBVMT
và thực hiện tốt các hoạt động GDBVMT trong nhà trường, chủ trương xây
dựng các trường học xanh – sạch – đẹp, phong trào xanh hóa nhà trường.
Ngày 31-01- 2005, Bộ trưởng Bộ giáo dục và đào tạo đã ra chỉ thị số
02/2005/CT/BGD&ĐT về “Tăng cường công tác giáo dục bảo vệ môi trường
trong hệ thống giáo dục quốc dân”. Chỉ thị đã xác định rõ mục tiêu, nội dung
của công tác giáo dục bảo vệ môi trường.
Ngày 21-04-2006, Vụ giáo dục Mầm non, Bộ giáo dục và Đào tạo đã
có công văn 3200 hướng dẫn thực hiện chỉ thị của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và
Đào tạo về việc “Tăng cường công tác giáo dục bảo vệ môi trường trong
trường mầm non giai đoạn 2005-2010”. Công văn đã xác định rõ mục tiêu,
nội dung của công tác giáo dục bảo vệ môi trường và đề ra nhiệm vụ cụ thể
cho các cấp, các ngành tham gia vào công tác giáo dục bảo vệ môi trường.
b. Những nghiên cứu cụ thể về GDMT cho trẻ MN
Giáo dục mầm non là bậc học đầu tiên trong hệ thống giáo dục quốc
dân. Trong chương trình chăm sóc trẻ hiện nay, nội dung giáo dục BVMT
được lồng ghép vào các hoạt động trong chế độ sinh hoạt hàng ngày của trẻ
như: Vui chơi, học tập, lao động, ăn, ngủ, vệ sinh...
Trong những năm qua, có rất nhiều công trình nghiên cứu về giáo dục
môi trường cho trẻ mầm non ra đời như:

- Dự án thiết kế và thử nghiệm nội dung giáo dục môi trường ở mẫu
giáo và tiểu học (Viện khoa học giáo dục – 1996)
- Dự án thử nghiệm đưa giáo dục môi trường vào trường mầm non –
Nội dung: Thời tiết và cuộc sống của chúng ta (Trường CĐSP NT-MGTW 1)

14


- Dự án thiết kế thử nghiệm chương trình bồi dưỡng nâng cao kiến thức
cho cán bộ giáo viên ngành học mầm non về môi trường (Trường CĐSP NTMGTW 1, 1998-1999)
- Đề tài “Xây dựng nội dung bảo vệ môi trường cho trẻ mẫu giáo 5 tuổi
trong trường mầm non” (Trung tâm nghiên cứu GDMN – Viện khoa học giáo
dục, 1998-2000)
- Đề tài “Giáo dục bảo vệ môi trường cho trẻ từ 3-6 tuổi trong trường
mầm non theo quan điểm tích hợp” (Đề tài nghiên cứu cấp Bộ - Tiến sĩ Lê
Thanh Vân – Khoa GDMN – Trường ĐHSP Hà Nội, 2003-2004)
- Giáo trình giáo dục môi trường cho trẻ mầm non (Hoàng Thị Phương,
NXB ĐHSP, 2013)
- Tài liệu hướng dẫn về GDMT ở mẫu giáo (Hoàng Đức Nhuận – Chủ
biên, Trung tâm nghiên cứu giáo dục dân số và môi trường, 1998)
- Biên soạn tài liệu nâng cao nhận thức cho giáo viên mầm non về bảo
vệ môi trường (Trường CĐSP NT-MGTW 1, 2001-2002)
- Nâng cao năng lực giáo dục môi trường của sinh viên trường CĐSP
mầm non (Trường CĐSP NT-MGTW 2, 2001-2003)
- Hướng dẫn thực hiện nội dung giáo dục bảo vệ môi trường trong
trường mầm non (Nhà xuất bản GDVN, 2011)
- Nghiên cứu về giáo dục hành vi BVMT cho trẻ mẫu giáo có tác giả
Lê Thị Kim Anh với đề tài: Giáo dục hành vi bảo vệ môi trường cho trẻ mẫu
giáo 5 – 6 tuổi thông qua các sự kiện xã hội (luận văn thạc sĩ khoa học giáo
dục mầm non, trường Đại học Sư phạm Hà Nội)

Ngoài ra, có rất nhiều đề tài luận văn liên quan đến vấn đề giáo dục môi
trường và giáo dục bảo vệ môi trường cho trẻ mầm non của các tác giả Lê Thị
Thanh Hà, Phạm Thị Thanh Vân, Nguyễn Thị Thanh Đào (Khoa Giáo dục
Mầm non - Trường ĐHSP Hà Nội).
15


1.1.2. Khái niệm “Biện pháp giáo dục hành vi bảo vệ môi trường cho trẻ
mầm non”
1.1.2.1. Khái niệm “Môi trường”
Môi trường có vai trò quan trọng đối với con người và động, thực vật trên
trái đất: Là không gian sinh sống của con người và các sinh vật khác: Là nơi
chứa đựng các nguồn tài nguyên cần thiết cho đời sống, sản xuất của con người.
Đã có rất nhiều định nghĩa khác nhau về môi trường. Vậy môi trường là gì?
Theo Từ điển môi trường (Dictionary of Environment) của Gurdey Rej
(1981) định nghĩa môi trường như sau: “Môi trường là hoàn cảnh vật lý, hóa
học, sinh học bao quanh sinh vật, đó gọi là môi trường bên ngoài. Còn các
điều kiện, hoàn cảnh vật lý, hóa học, sinh học trong cơ thể được gọi là môi
trường bên trong”
Theo Từ điển bách khoa Larouse thì định nghĩa môi trường được mở
rộng hơn: “Môi trường là tất cả những gì bao quanh chúng ta hoặc sinh vật.
Nói cụ thể hơn, đó là các yếu tố tự nhiên và nhân tạo diễn ra trong không gian
cụ thể, nơi đó có thể có sự sống hoặc không có sự sống. Các yếu tố đều chịu
ảnh hưởng sâu sắc của những định luật vật lý mang tính tổng quát hoặc chi
tiết như luật hấp dẫn vũ trụ, bảo tồn vật chất...Trong đó hiện tượng hóa học và
sinh học là những đặc thù cục bộ. Môi trường bao gồm tất cả những nhân tố
tác động qua lại trực tiếp hoặc gián tiếp với sinh vật và quần xã sinh vật. ”
Theo định nghĩa của UNESCO: “Môi trường bao gồm toàn bộ các hệ
thống tự nhiên và các hệ thống do con người tạo ra, những cái hữu hình (đô
thị, hồ chứa,...) và những cái vô hình (tập quán, nghệ thuật,...), trong đó con

người sống và bằng lao động của mình, họ khai thác tài nguyên thiên nhiên và
nhân tạo nhằm thỏa mãn những nhu cầu của mình. Như vậy, môi trường sống
đối với con người không chỉ tồn tại, sinh trưởng và phát triển cho một thực
thể sinh vật là con người mà còn là khung cảnh của cuộc sống và sự nghỉ ngơi
của con người”
16


Chương trình Môi trường của UNEP định nghĩa:“ Môi trường là tập
hợp các yếu tố vật lý, hóa học, sinh học, kinh tế xã hội, tác động lên từng cá
thể hay cả cộng đồng”
Ở Việt Nam, khái niệm môi trường được thể hiện trong Luật môi
trường và đã được Quốc hội khóa IX kỳ họp thứ 4 (ngày 27 tháng 12 năm
1993) thông qua: “Môi trường bao gồm các yếu tố tự nhiên và yếu tố vật chất
nhân tạo quan hệ mật thiết với nhau bao quanh con người, có ảnh hưởng tới
đời sống sản xuất, sự tồn tại, phát triển của con người và thiên nhiên” (Điều
1, Luật bảo vệ môi trường của Việt Nam)
Các định nghĩa về môi trường mặc dù có khác nhau nhưng cũng có
những điểm chung về sự thống nhất bản chất hệ thống của môi trường và mối
quan hệ của con người với môi trường.
Từ các định nghĩa trên, chúng tôi hiểu môi trường một cách khái quát
như sau:
Môi trường là tập hợp tất cả các yếu tố vô sinh và hữu sinh bao
quanh sinh vật có tác động trực tiếp hoặc gián tiếp tới sự sống, phát triển
và sinh sản của sinh vật
1.1.2.2. Khái niệm “Bảo vệ môi trường’’
Dù ở bất kỳ thời đại nào, môi trường đều rất quan trọng đối với con
người. Giữa con người và sự phát triển có mối quan hệ chặt chẽ. Môi trường
là địa bàn và đối tượng của sự phát triển, phát triển là nguyên nhân tạo nên
các biến đổi môi trường. Môi trường hiện nay đang là vấn đề nóng bỏng của

toàn nhân loại. Khí hậu ngày càng khắc nghiệt và khó dự báo hơn, mưa, bão,
lũ quét thất thường, suy thoái đất, nước, suy giảm nguồn tài nguyên rừng. Ô
nhiễm môi trường gây ra trên diện rộng. Đó là các vấn đề môi trường mà toàn
nhân loại đã và đang phải đối mặt. Con người đã tác động quá nhiều đến môi
trường, khai thác đến mức cạn kiệt các nguồn tài nguyên, thải nhiều chất độc
hại làm cho môi trường bị ô nhiễm nặng nề.

17


Bảo vệ môi trường là vấn đề sống còn của đất nước, của nhân loại. Bảo
vệ môi trường nói chung và giáo dục, đào tạo về bảo vệ môi trường nói riêng
đã được Đảng, Nhà nước quan tâm từ nhiều năm nay và đã có một số chủ
trương, biện pháp giải quyết các vấn đề môi trường.
Trong Luật Bảo vệ môi trường của nước ta ban hành ngày 12/12/2005,
khái niệm Bảo vệ môi trường được hiểu như sau: “Bảo vệ môi trường là hoạt
động giữ cho môi trường trong lành, sạch đẹp, phòng ngừa, hạn chế tác động
xấu đối với môi trường, ứng phó sự cố môi trường, khắc phục ô nhiễm, suy
thoái, phục hồi và cải thiện môi trường, khai thác và sử dụng hợp lý nguồn tài
nguyên thiên nhiên, bảo vệ đa dạng sinh học” (Điều 3, chương I, Luật Bảo vệ
môi trường năm 2005)
Theo các tác giả: Hoàng Thị Thu Hương, Trần Thị Thu Hòa, Trần Thị
Thanh [19;9] đã đưa ra khái niệm bảo vệ môi trường như sau: “Bảo vệ môi trường
là những hoạt động giữ cho môi trường trong lành, sạch đẹp, đảm bảo cân bằng
sinh thái, ngăn chặn, khắc phục các hậu quả xấu do con người và thiên nhiên gây
ra cho môi trường, khai thác và sử dụng hợp lý các tài nguyên thiên nhiên”
Từ những quan điểm khác nhau về bảo vệ môi trường, chúng tôi khái
quát khái niệm bảo vệ môi trường như sau:
Bảo vệ môi trường là những hoạt động tích cực của con người tác
động đến môi trường giúp ngăn chặn và hạn chế những tác động xấu đối

với môi trường làm cho môi trường thêm trong sạch, sử dụng hợp lí và tiết
kiệm nguồn tài nguyên thiên nhiên, đồng thời tái tạo môi trường.
Như vậy, thực chất của việc bảo vệ môi trường chính là thực hiện
những việc làm của con người giúp ngăn chặn và hạn chế những tác động xấu
đối với môi trường.
Bảo vệ môi trường chỉ thực sự có hiệu quả khi chúng ta có những biện
pháp, giải pháp kịp thời và phù hợp. Vì vậy vấn đề đặt ra với mỗi quốc gia là cần

18


có sự quan tâm thích đáng, tới môi trường, có những luật lệ, chính sách cụ thể về
bảo vệ môi trường góp phần vì nhiệm vụ bảo vệ môi trường chung của toàn cầu.
Trong việc bảo vệ môi trường, giáo dục môi trường được coi là biện
pháp có hiệu quả cao vì nó giúp con người có được nhận thức đúng đắn về
việc khai thác, sử dụng hợp lí các nguồn tài nguyên và có ý thức trong việc
bảo vệ môi trường.
1.1.2.3. Khái niệm “Hành vi bảo vệ môi trường’’
Thuật ngữ “Hành vi” được xem xét ở nhiều khía cạnh khác nhau.
Theo quan điểm của các nhà sinh học (Đại diện là E.L. Toocđai): Hành
vi được xem xét là cách sống và hoạt động trong một môi trường nhất định
dựa trên sự thích nghi của cơ thể với môi trường. Hành vi của con người bó
hẹp trong các hoạt động thích nghi với môi trường để đảm bảo sự tồn tại của
cá thể trong môi trường đó.
Quan điểm của chủ nghĩa hành vi: Bao gồm chủ nghĩa hành vi cổ điển
(G. Oat- xơn (1878-1958)), chủ nghĩa hành vi mới (Tôn – men (1886-1958)),
chủ nghĩa hành vi bảo thủ (B. Ph. Skin- nơ) cho rằng: Hành vi được thực hiện
không có sự tham gia cơ bản của chủ thể, của nhân cách. Mọi hành vi đều
được biểu thị bằng công thức nổi tiếng S-R (kích thích- phản ứng)
Cả hai trường phái này đều cho rằng hành vi là tất cả những phản ứng hay

những cách thức để con người thích nghi với môi trường. Các quan điểm trên
chưa đánh giá đúng bản chất của hành vi, hạ thấp vai trò tích cực của con người.
Tâm lý học Macxit quan niệm hành vi con người là cuộc sống, lao
động, thực tiễn tức là hoạt động. Hành vi của con người là biểu hiện bên
ngoài của hoạt động được điều chỉnh bởi cấu trúc tâm lý bên trong của chủ
thể, của nhân cách.
Theo L. X. Vưgotxki, hành vi con người được hiểu là quá trình nắm lấy
các chức năng tâm lý xã hội của bản thân, tức là hành vi được hiểu là hoạt động

19


nhằm vào bản thân để tổ chức hành vi của mình, đồng thời tham gia vào hoạt
động bên ngoài, tác động lên các đối tượng bên ngoài hoặc những người khác.
Hành vi của con người có sự khác biệt so với hành vi của con vật. Nét
đặc trưng của hành vi con người chính là có sự tham gia điều khiển của tâm
lý, ý thức. Hành vi là những biểu hiện bên ngoài của hoạt động được điều
chỉnh bởi cấu trúc tâm lý bên trong của chủ thể.
Như vậy có thể hiểu hành vi là những hành động và cách cư xử được
điều chỉnh bởi chủ thể có ý thức. Nghĩa là khi chủ thể hành động nắm được
cái nghĩa (lôgic của hành vi) và thực hiện hành vi đó theo một cái ý nhất định
(nhu cầu, tình cảm..) của cá nhân mình, đồng thời có khả năng thực hiện được
hành vi đó.
Từ những phân tích trên, chúng tôi đưa ra khái niệm “Hành vi bảo vệ
môi trường” như sau:
Hành vi bảo vệ môi trường là những hành động có ý thức của con
người tác động đến môi trường giúp ngăn chặn và hạn chế những tác động
xấu đối với môi trường làm cho môi trường thêm trong sạch, sử dụng hợp lí
và tiết kiệm nguồn tài nguyên thiên nhiên, đồng thời tái tạo môi trường.
1.1.2.4. Khái niệm “Biện pháp giáo dục hành vi bảo vệ môi trường cho

trẻ mầm non’’
Giáo dục với tư cách là một hiện tượng xã hội, là hoạt động riêng chỉ
con người mới có, nó thể hiện ở chỗ con người truyền thụ cho nhau tri thức để
tồn tại và phát triển. Đây chính là phương thức tồn tại của loài người. Giáo
dục được xem như quá trình hình thành và phát triển nhân cách con người.
Theo nghĩa rộng, giáo dục là một quá trình toàn vẹn hình thành nhân
cách được tổ chức một cách có mục đích, có kế hoạch thông qua các hoạt
động và các quan hệ giữa người giáo dục và người được giáo dục nhằm
truyền đạt và chiếm lĩnh những kinh nghiệm xã hội của loài người.

20


×