Tải bản đầy đủ (.doc) (18 trang)

Phân tích thực trạng nuôi trồng thủy sản ở Cà Mau.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (160.36 KB, 18 trang )

MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU....................................................................................2
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ NUÔI TRỒNG THỦY SẢN
I.KHÁI NIỆM VÀ ĐẶC ĐIỂM NUÔI TRỒNG THỦY SẢN
1. Khái niệm nuôi trồng thủy sản( NTTS)......................................................3
2. Đặc điểm của nuôi trồng thủy sản..............................................................4
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG NUÔI TRỒNG THỦY SẢN Ở TỈNH CÀ MAU
I.KHÁI QUÁT ĐẶC ĐIỂM TỰNHIÊN, KINH TẾ, XÃ HỘI
CỦA TỈNH CÀ MAU
1. Đặc điểm về tự nhiên...............................................................................5
2. Đặc điểm về xã hội..................................................................................7
3. Đặc điểm về Kinh tế- Tài chính và đời sống dân cư...............................7
II. THỰC TRẠNG NUÔI TRỒNG THỦY SẢN Ở TỈNH CÀ MAU.
1.Những thành quả đạt được
1.1. Phát triển sản xuất NTTS....................................................................8
1.2. Xuất khẩu thủy sản.............................................................................10
1.3. Phát triển kinh tế thuỷ sản tác động tới giải quyết việc làm...............10
1.4. Phát triển kinh tế thủy sản trong quá trình CNH-HĐH nông nghiệp,
nông thôn........................................................................................................11
1.5. NTTS góp phần tích cực trong việc phát triển, tăng trưởng kinh tế của
tỉnh..................................................................................................................12
1.6. NTTS góp phần tăng thu nhập, cải thiện đời sống nhân dân, xoá đói
giảm nghèo ở địa phương...............................................................................12
2. Những hạn chế , tồn tại, yếu kém.........................................................13
CHƯƠNG 3: BIỆN PHÁP KHẮC PHỤC HẠN CHẾ CỦA NUÔI TRỒNG
THỦY SẢN Ở CÀ MAU...............................................................................15
KẾT LUẬN CHUNG ...............................................................................17
TÀI LIỆU THAM KHẢO.........................................................................18

1



LỜI MỞ ĐẦU
Trong cơ cấu các ngành kinh tế của tỉnh Cà Mau, thủy sản nói chung
đã được xác định là một ngành kinh tế mũi nhọn của tỉnh. Trong thời gian qua,
hiện nay và cũng như trong tương lai kinh tế thủy sản sẽ đóng một vai trò rất
quan trọng trong việc phát triển kinh tế của tỉnh nhà. Tiềm năng về phát triển
kinh tế thủy sản của Cà Mau rất phong phú: có bờ biển dài 254 km trong đó
ngành thuỷ sản tỉnh Cà Mau hiện nay có vị trí quan trọng trong ngành
thuỷ sản của cả nước. Sự phát triển của ngành thuỷ sản Cà Mau đồng đều
ở cả 3 lĩnh vực: khai thác, nuôi trồng và chế biến thuỷ sản xuất khẩu. Số
lượng tàu bè của tỉnh đứng hàng thứ 2 cả nước (sau Kiên Giang), sản
lượng nuôi trồng chiếm ½ và chế biến chiếm 16% tổng sản lượng thuỷ sản
cả nước. Tổng giá trị sản phẩm (GDP) ngư - nông - lâm nghiệp năm 2014
đạt 8.819 tỷ đồng (theo giá so sánh năm 2010), tăng 6,9% so năm 2013. Với
gần 296.000 ha, Cà Mau là tỉnh có diện tích nuôi trồng thủy sản chiếm gần 28%
diện tích nuôi trồng thủy sản của cả nước và chiếm 39% diện tích nuôi trồng
thủy sản của vùng đồng bằng sông Cửu Long ngoài những thuận lợi nói trên
song song đó còn có những khó khăn cho nuôi trồng thủy sản Cà Mau

2


CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ NUÔI TRỒNG THỦY SẢN
I.KHÁI NIỆM VÀ ĐẶC ĐIỂM NUÔI TRỒNG THỦY SẢN
1. Khái niệm nuôi trồng thủy sản( NTTS)
NTTS là hoạt động sản xuất dựa trên cơ sở kết hợp giữa tài nguyên thiên
nhiên sẵn có (mặt nước biển, nước sông ngòi, ao hồ, ruộng trũng, sông cụt,
đầm phá, khí hậu..) với hệ sinh vật sống dưới nước (chủ yếu là cá, tôm, và thủy
sản khác..) có sự tham gia trực tiếp của con người.
Hoạt động này ở Việt Nam bao gồm nuôi, trồng các loại thủy sản nước

ngọt, nước lợ và nước mặn. Các loại thủy sản nuôi trồng chủ yếu hiện nay là:
tôm sú, tôm càng xanh, cá biển (cá song, cá hồng, cá cam, cá vược, cá bớp, cá
chẽm, cá măng…), cá nước ngọt (cá tra, cá ba sa, cá chép, cá mè, rô phi, trê phi,
trắm cỏ, cá trôi, bống tượng, tai tượng, cá quả, sặc rằn, cá lóc…) các hình thức
nuôi chủ yếu là:
- Nuôi tôm sú theo phương pháp công nghiệp và bán công nghiệp, quảng
canh, quảng canh cải tiến.
- Nuôi cá biển trong lồng bè trên mặt nước biển, sông, đầm phá, ven biển,
sông cụt, chủ yếu là cá chẽm, cá mú, cá tra, cá ba sa, cá bống tượng, cá trôi, cá
cá chép, cá mè, ba ba, lươn, ếch...
- Nuôi tôm càng xanh.
- Nuôi nhuyễn thể: ngao, nghêu, sò huyết, ốc..
- Nuôi thủy sản ao hồ, đìa, hầm.
- Nuôi thủy sản trên ruộng trũng, ruộng lúa.
- Trồng rong biển, các đối tượng chủ yếu là rong câu chỉ vàng, rong mơ,
rong kỳ lân, rong cước và rong sụn.
*Chủ thể nuôi: các tổ chức (DN, HTX, tổ hợp tác), hộ gia đình, cá
3


nhân.
Như vây, hoạt động NTTS rất đa dạng cả về phương thức nuôi, đối
tượng nuôi, mặt nước nuôi trên cơ sở tận dụng các loại diện tích đất,
mặt nước bỏ hoang, mặt nước biển, nước sông suối, dòng chảy, hồ thủy
lợi, thủy điện... hoặc diện tích đất có mặt nước đang sử dụng kém hiệu
quả trong nông nghiệp, lâm nghiệp.
2. Đặc điểm của nuôi trồng thủy sản.
NTTS có các đặc điểm như sau:
- NTTS là một ngành phát triển trên phạm vi cả nước và có đối tượng
phức tạp so với các ngành sản xuất khác. Tính chất rộng khắp của ngành thủy

sản thể hiện nghề NTTS phát triển ở khắp các vùng trong nước từ đồng bằng,
trung du, miền núi cho đến các vùng ven biển, ở đâu có diện tích mặt nước là ở
đó có thể phát triển nghề NTTS. Song, mỗi vùng có điều kiện địa hình, khí hậu,
thời tiết khác nhau nên có sự khác nhau về đối tượng sản xuất, về quy trình kỹ
thuật, về mùa vụ sản xuất ... Do đó, trong công tác quản lý và chỉ đạo sản xuất
của ngành thủy sản cần lưu ý đến các vấn đề như: xây dựng cơ sở vật chất kỹ
thuật, xây dựng các chỉ tiêu kế hoạch, chính sách giá cả, vốn đầu tư cho phù
hợp đối với từng khu vực, từng vùng lãnh thổ.
- Trong NTTS đất đai, diện tích mặt nước vừa là tư liệu sản xuất chủ yếu
vừa là tư liệu sản xuất đặt biệt không thể thay thế được.
- NTTS có tính thời vụ cao. Trong NTTS ngoài sự tác động trực tiếp của
con người, các đối tượng nuôi còn chịu sự tác động của môi trường tự nhiên.
Nhân tố cơ bản quyết định tính thời vụ là quy luật sinh trưởng và phát triển của
các đối tượng nuôi trồng
- Đối tượng sản xuất của ngành NTTS là những cơ thể sống. Chúng sinh
trưởng, phát sinh, phát triển và phát dục theo các quy luật sinh học. Do đó,
trong quá trình sản xuất chúng luôn luôn đòi hỏi sự tác động thích hợp của con
người và tự nhiên để sinh trưởng và phát triển.

4


- Một số sản phẩm thủy sản sản xuất ra được giữ lại làm giống để tham gia
vào quá trình tái sản xuất vụ sau. Trong NTTS một số sản phẩm như: đàn cá
thịt, tôm thịt được tuyển chọn làm cá bố mẹ hoặc tôm bố mẹ để cho đẻ trong
quy trình sản xuất tiếp theo.

CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG NUÔI TRỒNG THỦY SẢN Ở
TỈNH CÀ MAU
I.KHÁI QUÁT ĐẶC ĐIỂM TỰ NHIÊN, KINH TẾ, XÃ HỘI

CỦA TỈNH CÀ MAU
1. Đặc điểm về tự nhiên:
Cà Mau là tỉnh cuối cùng của tổ quốc, thuộc ĐBSCL, được tách ra từ tỉnh
Minh Hải vào ngày 01/01/1997, cách Tp Hồ Chí Minh gần 350 Km và cách thủ
đô Hà Nội 2085 Km; phía Bắc giáp tỉnh Kiên Giang, phía Đông Bắc giáp tỉnh
Bạc Liêu, phía Đông giáp biển Đông và phía Tây giáp vịnh Thái Lan Có thể nói
Cà Mau có vị trí địa lý tự nhiên khá đặc biệt: là bán đảo nối liền với đất liền, có
hình dáng một mũi con tàu đang rẽ sóng ra khơi, có 3 mặt tiếp giáp biển, là nơi
duy nhất trên đất liền của Việt Nam có thể ngắm mặt trời mọc từ mặt biển Đông
vào buổi sáng và lặn xuống mặt biển Tây vào buổi chiều.
Cà Mau được hình thành cùng với đặc điểm lịch sử vùng đất mới, do ông cha
ta khai phá muộn màng vào những năm cuối thế kỷ XVII đầu thếkỷXVIII, từ đó
đến nay Cà Mau đã trải qua nhiều lần thay đổi địa giới hành .Theo kết quảkiểm
kê đất đai ngày 01/01/2005 tỉnh Cà Mau có diện tích tựnhiên là 532.916 ha,
bằng 1,62% diện tích cả nước và đứng thứ 02 trong 13 tỉnh ĐBSCL, sau Kiên
Giang. Trong tổng số: đất nông nghiệp 477.703 ha, chiếm 89,64%; đất phi nông
nghiệp 44.397 ha, chiếm 8,33% và đất chưa sử dụng là 10.816 ha, chiếm
2,03%.
Trong đất nông nghiệp: đất sản xuất nông nghiệp 142.446 ha, chiếm
29,82% (trong đó đất trồng cây hàng năm là 87.820 ha, chiếm 61,16%; đất
trồng cây lâu năm là 54.625 ha, chiếm 38,34%); đất lâm nghiệp 106.089 ha,

5


chiếm 22,21%; đất có mặt nước NTTS 227.908 ha, chiếm 47,71%; đất làm
muối 121 ha, chiếm 0,03% và đất nông nghiệp khác 1.139 ha, chiếm 0,24%.
Trong đất phi nông nghiệp: đất ở6.632 ha, chiếm 14,94%; đất chuyên dùng
19.689 ha, chiếm 44,35%; đất tôn giáo tính ngưỡng 76 ha, chiếm 0,17%; đất
nghĩa trang nghĩa địa 226 ha, chiếm 0,51%; đất sông, suối và mặt nước chuyên

dùng 17.636 ha, chiếm 39,72% và đất phi nông nghiệp khác 13 ha, chiếm
0,31%. Thời tiết Cà Mau có hai mùa mưa nắng rõ rệt: mùa mưa kéo dài từ
tháng 05 đến tháng 10, mùa nắng kéo dài từ tháng 11 đến tháng 04 năm sau; khí
hậu ôn hoà, nhiệt .
Vùng biển Cà Mau có ngư trường rộng lớn (diện tích mặt biển thăm dò và
khai thác rộng khoảng trên 70.000 km là một trong bốn ngư trường trọng điểm
của cả nước, có trữ lượng thủy sản lớn và đa dạng về loài, có nhiều loài có giá
trị kinh tế cao như tôm biển, mực, cá thu, cá đường, cá mú, cá chim, cá bốp, …
Ngoài khai thác hải sản, lợi thế vùng biển đã tạo cho tỉnh Cà Mau là tỉnh
có diện tích NTTS nước lợ lớn nhất nước. Vùng biển Cà Mau có thể giải quyết
việc làm cho hàng chục nghìn lao động làm nghề khai thác hải sản, là cơ sở để
phát triển các ngành công nghiệp cơ khí đóng mới, sữa chữa tàu thuyền, công
nghiệp chế biến thuỷ sản xuất khẩu, các dịch vụ khai thác hải sản.
Hệ thống sông ngòi, kinh rạch của Cà Mau đan xen chằng chịt, chiếm diện
tích khá lớn (17.636 ha trong diện tích tự nhiên). Trong đó có nhiều sông lớn,
nước sâu dẫn phù sa bồi đắp mọi vùng và tạo nên mạng lưới giao thông thủy
như các sông Tam Giang, Đầm Cùng, Bảy Háp, sông Đốc, Cái Tàu, Biên Nhị,
Trèm Trèm, ... Với tổng chiều dài khoảng 7.000 km. Hầu hết các sông lớn, tiếp
giáp với biển nên rất thuận lợi cho giao thông đường thủy, có điều kiện cho vận
tải biển và tàu đánh cá có thểvào sâu trong nội địa ... Từ đó mức độ nhiễm mặn
của đất cũng khá cao, có 80% diện tích đất bịnhiễm mặn vào mùa khô và hơn
40% nhiễm mặn quanh năm, đây là điều kiện rất thuận lợi cho NTTS.
Cà Mau có quỹ đất rừng lớn nhất ĐBSCL, góp phần bảo vệ sinh thái
không chỉ cho Cà Mau mà cho cả ĐBSCL. Theo kết quả rà soát, quy hoạch lại 3
6


loại rừng năm 2006, tỉnh Cà Mau có 96.350ha, diện tích có rừng gồm 12.681 ha
rừng đặc dụng, rừng phòng hộ 9.523 ha và 74.146 ha rừng sản xuất. Rừng ở Cà
Mau có 2 loại: Rừng ngập mặn ven biển tập trung ở các huyện Phú Tân, Đầm

Dơi, Năm Căn, Ngọc Hiển và rừng tràm ngập úng phèn tập trung ởhuyện Thới
Bình, U Minh, Trần Văn Thời. Đây là 2 hệ sinh thái rừng đặc thù ở ĐBSCL, có
tính đa dạng sinh học cao; đặc biệt rừng ngập mặn ven biển và rừng tràm U
Minh hạ có vai trò cân bằng sinh thái vùng ven biển, điều hòa khí hậu và phòng
hộ ven biển. Ngoài ra, trên cụm đảo Hòn Khoai và Hòn Chuối có trên 500 ha
rừng cây gỗ quí.
2. Đặc điểm về xã hội:
Dân số trung bình năm 2006 của tỉnh Cà Mau là 1.234.896 người, trong 10
năm 1996 - 2006 dân sốcủa tỉnh tăng thêm 176.617 người, tương đương với dân
sốcủa một huyện, bình quân mỗi năm dân số tăng thêm bằng quy mô dân sốcủa
một xã. Tỷlệtăng dân sốtrong 10 năm (1996 - 2006) là 16,68%, trung bình hàng
năm tăng 1,55% ; trong đó giai đọan 2001 - 2005 tăng 1,39%, cao hơn mức
tăng dân sốcủa vùng ĐBSCL và cảnước (ĐBSCL giai đoạn 2001 - 2005 tăng
1,11%, cả nước tăng 1,33%). Mật độ dân số trung bình năm 2006 là 232
người/km2, thấp hơn mật độ dân sốcủa ĐBSCL và cả nước ( ĐBSCL
435người/km2, cảnước 256 người/km2). Như vậy, mật độ dân số của tỉnh Cà
Mau chỉ bằng 53,33% so với mật độ dân số của vùng và bằng 90,62% mật độ
dân số của cả nước.
3. Đặc điểm về Kinh tế- Tài chính và đời sống dân cư
Đặc điểm kinh tế nổi bật của tỉnh Cà Mau từ khi tách tỉnh (1997) đến nay là
cùng cảnước thực hiện ba Đại hội VIII, IX, X của Đảng về đẩy mạnh công
nghiệp hóa, hiện đại hóa theo mục tiêu Dân giàu, Nước mạnh, Xã hội Công
bằng, Dân chủ, Văn minh. Đại hội tỉnh Đảng bộ Cà Mau lần thứXI, XII và XIII
đã cụ thể hoá các mục tiêu và chỉ tiêu phát triển kinh tế- xã hội của Đảng trong
từng kế hoạch 5 năm (1996 - 2000; 2001 - 2005 và 2006 - 2010). Sau 10 năm
phấn đấu không mệt mỏi, vượt qua nhiều khó khăn, thách thức nhất là sự tàn
7


phá nặng nề của cơn bão số5 (tháng 11/1997) và sựbiến động thất thường của

thị trường thế giới, nhất là thị trường xuất khẩu thuỷ sản, tình hình kinh tế của
tỉnh Cà Mau có nhiều chuyển biến tích cực.
Kinh tế tăng trưởng với nhịp độ khá cao, thời kỳ sau cao hơn thời kỳ
trước. Tốc độ tăng trưởng kinh tế tính theo GDP của tỉnh tuy chưa đạt mục tiêu
đề ra (mục tiêu Đại hội XI của tỉnh Đảng bộ tỉnh là tăng 9 - 9,5%, Đại hội XII
là 12,5%), nhưng tốc độ tăng trưởng bình quân thời kỳsau cao hơn nhiều so với
thời kỳ trước. Kết quả đó còn được chứng minh qua sự tiến bộ của tăng trưởng
kinh tế trong từng lĩnh vực, từng kế hoạch hàng năm và 5 năm.
Cà Mau là tỉnh thuần nông có tốc độ chuyển dịch cơ cấu kinh tế10 năm
qua như nêu trên là có sự cố gắng lớn đáng ghi nhận. Cơ cấu kinh tế theo thành
phần cũng có tiến bộ. Kinh tế Nhà nước (Doanh nghiệp có vốn Nhà nước) tiếp
tục được sắp sếp, đổi mới theo đề án được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt,
năm 2006 (theo giá hiện hành) tỷ trọng kinh tế Nhà nước chiếm 14,06% GDP
(của cả nước chiếm 37,32%). Kinh tế ngoài Nhà Nước (kinh tế tư nhân, cá thể,
tiểu chủ) nhất là kinh tế tư nhân tiếp tục phát triển nhanh với nhiều hình thức đa
dạng, góp phần quan trọng vào sự phát triển kinh tế- xã hội của tỉnh, năm 2006
kinh tếngoài Nhà nước chiếm 85,36% GDP. Số doanh nghiệp ngoài Nhà nước
thành lập ngày càng nhiều, nhiều doanh nghiệp mở rộng quy mô sản xuất, phát
triển ngành nghề, giải quyết nhiều việc làm, một số doanh nghiệp chế biến thủy
sản ngoài Nhà nước đã đứng đầu cả nước về kim ngạch xuất khẩu thuỷ sản
II. THỰC TRẠNG NUÔI TRỒNG THỦY SẢN Ở TỈNH CÀ MAU.
1.Những thành quả đạt được
1.1. Phát triển sản xuất NTTS:
Sản xuất thủy sản tăng trưởng nhanh, phát huy được vai trò của ngành
kinh tế chủ lực của tỉnh. Sau 10 năm (1996 - 2006) giá trị sản
xuất thủy sản (giá cố định 1994) tăng gấp 2,8 lần, tốc độ tăng bình quân hàng
năm đạt 10,9%. Cả hai ngành nuôi trồng và khai thác thủy sản đều tăng trưởng

8



khá, trong đó nuôi trồng thuỷ sản tăng gấp 4,7 lần, bình quân mỗi tăng 16,8%,
khai thác thủy sản tăng 11,2%, bình quân mỗi năm tăng 1%.
Nét nổi bật của nông - lâm - thủy sản Cà Mau trong 10 năm qua là sự
chuyển dịch cơ cấu sản xuất từ nông nghiệp sang thủy sản rất rõ nét. Tỷ trọng
giá trị sản xuất thuỷ sản trong tổng giá trị sản xuất nông - lâm nghiệp - thủy sản
tăng từ 60,58% năm 1995; lên 65,59% năm 2000; lên 84,41% năm 2005. Điều
đó khẳng định thủy sản là thế mạnh của Cà Mau, là ngành kinh tế mũi nhọn,
trong 10 năm qua liên tục tăng trưởng với tốc độ cao, trong đó tăng nhanh nhất
là thủy sản nuôi trồng bình quân tăng 13,4%/năm; khai thác tăng bình quân
2,51%; Cơ cấu sản xuất thủy sản chuyển dịch theo hướng tích cực tăng tỷ trọng
thủy sản nuôi trồng từ43,33% năm 1996, lên 55,02% năm 2000, lên 71,13%
năm 2005 và lên 72,89% năm 2006
Tổng sản lượng thủy sản Cà Mau từ năm 2001 - 2005 đạt 1.143,2 nghìn
tấn, gấp 1,51 lần giai đoạn năm 1996 – 2000.
Diện tích nuôi tôm của tỉnh Cà Mau được phân bổ ở tất cả 9 huyện, thành
phố, nhiều nhất là huyện Đầm Dơi (61.968 ha), thấp nhất là thành phố Cà Mau
(11.264 ha). Tỉnh đã hình thành hai vùng nuôi tôm khá rõ rệt: vùng phía Nam
Cà Mau chủ yếu là nuôi tôm chuyên canh và nuôi tôm kết hợp trồng rừng; vùng
phía Bắc Cà Mau chủ yếu là nuôi tôm chuyên canh và kết hợp luân canh một vụ
lúa. Ngoài nuôi tôm các hộ nông dân đã từng bước thực hiện kết hợp nuôi đa
con kết hợp với nuôi tôm như nuôi cua, cá chẽm; một số giống cá có hiệu quả
cao như cá chình, bóng tượng, bóng mú, ... đang được nuôi nhân rộng. Cá đồng
là nguồn lợi của tỉnh Cà Mau, nhưng từ sau chuyển đổi sản xuất, diện tích nuôi
cá đồng đã giảm nhiều (từ 55.224 ha năm 1995 giảm còn 30.794 ha năm 2005),
những năm gần đây diện tích nuôi cá đồng đang được phục hồi; tập trung nuôi
trong rừng tràm U Minh và huyện Trần Văn Thời. Vùng nước ven biển hiện
đang nuôi thí điểm một số loài nhuyễn thể như: nghêu, sò. Cơ cấu diện tích nuôi
tôm của tỉnh Cà Mau chuyển từ nuôi quảng canh, năng suất thấp sang nuôi


9


quảng canh cải tiến, hoặc thâm canh theo phương pháp công nghiệp, nuôi theo
mô hình một vụ lúa - một vụ tôm, rừng - tôm, tôm - vườn, với sự hỗ trợ của
công tác khuyến ngư, đạt năng suất cao.
1.2. Xuất khẩu thủy sản:
Nhờ tăng trưởng nhanh và cơ cấu NTTS chuyển từ cá sang tôm nên sản
lượng và giá trị kim ngạch xuất khẩu thủy sản Cà Mau liên tục tăng nhanh và
trở thành mặt hàng xuất khẩu chủ lực của tỉnh trong suốt 10 năm gần đây. So
với các tỉnh ĐBSCL và cả nước, Cà Mau là một trong những tỉnh dẫn đầu vềsản
lượng và kim ngạch xuất khẩu thủy sản của cả nước và ĐBSCL. Hoạt động xuất
khẩu tăng nhanh, mặt hàng xuất khẩu chủ yếu là thủy sản, thị trường xuất khẩu
ngày càng được mở rộng, đến nay tỉnh Cà Mau đã xuất khẩu sang 40 nước cho
trên 200 bạn hàng.
1.3. Phát triển kinh tế thuỷ sản tác động tới giải quyết việc làm:
Cà Mau là tỉnh có tiềm năng lớn về NTTS, nhất là nuôi tôm. Các điều
kiện về diện tích mặt nước, đất đai, nguồn nước mặn, thời tiết tương đối thuận
lợi cho NTTS. Cho nên, trong quá trình thực hiện chủ trương chuyển dịch cơ
cấu kinh tế từ nông - lâm – ngư nghiệp sang ngư- nông - lâm nghiệp, toàn tỉnh
đã chuyển đổi trên 150 nghìn ha đất trồng lúa năng suất thấp và đất vườn tạp
sang NTTS (chủyếu là nuôi tôm nước lợ) nâng diện tích NTTS toàn tỉnh đến
năm 2006 lên 275,2 nghìn ha, chiếm gần 52% diện tích tự nhiên của tỉnh. Việc
chuyển dịch Cơ cấu sản xuất đã làm thay đổi cơ bản cơ cấu sản xuất nông
nghiệp, kinh tế thuỷ sản chiếm tỷ trọng ngày càng lớn và khẳng định vai trò
kinh tế mũi nhọn trong toàn nền kinh tế tỉnh . sản xuất thủy sản phát triển đã
làm cho các cơ sở chế biến phát triển nhanh chóng, hiện nay toàn tỉnh có 26 nhà
máy chế biến thủy sản với tổng công suất hơn 130 nghìn tấn sản phẩm/năm.
Hầu hết các nhà máy đã được đầu tư đổi mới công nghệ, nâng cấp trang thiết
bị, đa dạng hóa mặt hàng, ... các nhà máy chế biến này đã tạo việc làm

thường xuyên cho hơn 25 nghìn lao động cả thành thị và nông thôn.

10


1.4. Phát triển kinh tế thủy sản trong quá trình CNH-HĐH nông nghiệp,
nông thôn:
Kinh tế thủy sản phát triển các năm gần đây đã tác động tích cực tới quá
trình CNH - HĐH nông nghiệp, nông thôn, thể hiện qua một số lĩnh vực kinh tế
đời sống như sau:
Tốc độ tăng giá trị sản xuất công nghiệp tăng dần theo thời gian, năm sau
cao hơn năm trước, thời kỳ sau cao hơn thời kỳ trước, Không chỉ tăng trưởng
cao, công nghiệp Cà Mau trong 10 năm gần đây còn có khởi sắc và chuyển dịch
cơ cấu sản xuất theo hướng đa ngành, đa sản phẩm và đa thành phần kinh tế.
Bên cạnh các ngành công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp truyền thống như: chế
biến thuỷ sản, lương thực, làm đồ gỗ, đóng mới và sửa chữa tàu thuyền, may
mặc, ... những năm gần đây còn có thêm một số ngành mới nhưsữa chữa thiết
bị văn phòng, máy tính, radio, thu hình và thiết bị truyền thông, sản xuất thiết bị
điện, sản xuất phân phối điện… Năm 2005, toàn tỉnh có 21 sản phẩm công
nghiệp chủ yếu do 2.727 cơ sở sản xuất tạo ra, thu hút trên 25.000 lao động.
Lưới điện nông thôn phát triển nhanh, Hệ thống đường giao thông đã
được cải thiện đáng kể. Giao thông nông thôn phát triển khá , đáp ứng được nhu
cầu cần đi lại, giao thương giữa các vùng trong tỉnh, góp phần thúc đẩy quá
trình phát triển kinh tế- xã hội và chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động
nông thôn Cà Mau theo hướng CNH - HĐH.
Trình độ dân trí vùng nông thôn được nâng lên, có các cấp học phù hợp ,
có lớp học xóa mù chữ, phổ cập các lớp học tại vùng xa.
Hạ tầng thương mại - du lịch đã có bước phát triển đáng kể, đảm bảo
phục vụ cho lưu thông hàng hoá từ sản xuất đến tiêu dùng được thuận lợi. Toàn
tỉnh hiện có 3 trung tâm thương mại lớn (Cà Mau, Năm Căn, Sông Đốc); có 15

cụm thương nghiệp.
Công tác xoá đói giảm nghèo có tiến bộ, điều kiện nhà ở của dân cư nhất là
vùng nông thôn đã được cải thiện, một số công trình văn hoá, điểm du lịch được

11


đầu tư xây dựng tạo thành những điểm giáo dục truyền thống, sinh hoạt văn hoá
và tham quan du lịch.
1.5. NTTS góp phần tích cực trong việc phát triển, tăng trưởng kinh tế của
tỉnh.
Từ sau khi có chủ trương chuyển dịch cơ cấu sản xuất của tỉnh, đất trồng
lúa năng suất thấp chuyển sang NTTS ngày một nhiều và NTTS đạt hiệu quả
cao hơn so với trồng lúa nên nghề NTTS đã có những đóng góp tích cực trong
việc đáp ứng nhu cầu thực phẩm cho nhân dân trong tỉnh, phục vụ cho xuất
khẩu, tăng thu ngân sách, tạo việc làm cho lao động, nâng cao mức sống dân cư,
giảm áp lực cho nghề khai thác thủy sản (nhất là khai thác ven bờ), ... đã góp
phần tích cực trong việc thúc đẩy phát triển, tăng trưởng kinh tế của tỉnh. 1.5.
NTTS góp phần tích cực trong việc phát triển, tăng trưởng kinh tế của tỉnh. Từ
sau khi có chủ trương chuyển dịch cơ cấu sản xuất của tỉnh, đất trồng lúa năng
suất thấp chuyển sang NTTS ngày một nhiều và NTTS đạt hiệu quả cao hơn so
với trồng lúa nên nghềNTTS đã có những đóng góp tích cực trong việc đáp ứng
nhu cầu thực phẩm cho nhân dân trong tỉnh, phục vụ cho xuất khẩu, tăng thu
ngân sách, tạo việc làm cho lao động, nâng cao mức sống dân cư, giảm áp lực
cho nghề khai thác thủy sản (nhất là khai thác ven bờ), ... đã góp phần tích cực
trong việc thúc đẩy phát triển, tăng trưởng kinh tế của tỉnh
1.6. NTTS góp phần tăng thu nhập, cải thiện đời sống nhân dân, xoá
đói giảm nghèo ở địa phương.
Sau quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế từ nông - ngư- lâm nghiệp
sang ngư- nông - lâm nghiệp, kinh tế Cà Mau có bước phát triển nhanh, trong

đó có sự đóng góp rất lớn của ngành thủy sản nhất là NTTS, đã góp phần tăng
thu nhập, cải thiện đời sống dân cư trên địa bàn toàn tỉnh. Thu nhập bình quân
đầu người của năm 2006 đạt 667 nghìn đồng/tháng, tăng 63,08% so với năm
2002, tăng 29,76% so với năm 2004, cao hơn mức trung bình cả nước và
ĐBSCL. Năm 2004 thu nhập bình quân đầu người của Cà Mau đạt mức cao thứ
3 của vùng ĐBSCL sau Cần Thơ và An Giang. Đó là thành tựu đáng tự hào của
12


tỉnh và cải thiện đời sống nhân dân.
2. Những hạn chế , tồn tại, yếu kém
Tuy đạt được một số thành tựu nhất định, nhưng ngành nuôi trồng thủy
sản ở tỉnh Cà Mau vẫn còn tồn tại một số hạn chế yếu kém sau đây:
- Kinh tế thủy sản vẫn chưa phát triển tương xứng với tiềm năng vốn có
của nó, tính bền vững chưa cao, nguồn lợi thủy sản tự nhiên có dấu hiệu cạn
kiệt, sản lượng khai thác thủy sản đang có xu hướng giảm. Nuôi trồng thủy sản
chi phí cao, khiến tình hình chế biến xuất khẩu luôn đối mặt với những khó
khăn và thách thức lớn trong điều kiện phải đáp ứng sự đòi hỏi ngày càng cao
của thị trường toàn cầu hiện nay.
- Tốc độ tăng trưởng kinh tế thủy sản toàn Vùng những năm gần đây có
xu hướng chậm lại dần. Sản lượng thuỷ sản sản xuất không ổn định.
- Công nghệ và cơ sở vật chất - kỹ thuật trong ngành kinh tế thủy sản của
Vùng còn lạc hậu so với thế giới. Cảng cá, khu neo đậu tránh trú bảo chưa đáp
ứng yêu cầu sản xuất của ngư dân. Tỷ lệ thất thoát sau thu hoạch trong khai
thác hải sản còn cao, khoảng 30% (Sở NN&PTNT Kiên Giang, 2014). Phương
pháp nuôi chủ yếu là nuôi quảng canh và quảng canh cải tiến chiếm đến 73,51%
chủ yếu dựa vào thiên nhiên, chưa có công nghệ kiểm soát môi trường nước,
kiểm soát dịch bệnh... Công nghệ chế biến thủy sản xuất khẩu còn chưa đồng
bộ, chủ yếu là sơ chế, tiêu chuẩn về vệ sinh an toàn thực phẩm còn nhiều hạn
chế, yếu kém. Công nghệ chế biến thức ăn chăn nuôi thủy sản chưa phát triển.

- Ô nhiễm môi trường nặng nề ở các khu vực nuôi trồng và chế biến thủy
sản, gây ra nhiều bức xúc về sức khỏe cho con người và môi trường thiên nhiên,
đặc biệt là dịch bệnh tôm lây lan làm tôm chết hàng loạt chưa có cách khắc
phục đang gây ra thiệt hại nặng nề cho ngư dân.
- Công tác quản lý trong ngành kinh tế thủy sản của Vùng còn nhiều bất
cập, hạn chế cần sớm khắc phục như: vấn đề quản lý bảo vệ nguồn lợi thủy sản,
quản lý ngư trường,... dẫn đến suy giảm trữ lượng thủy sản. Bất cập quản lý
vùng nuôi thủy sản, quản lý kiểm soát dịch bệnh,...gây ra nhiều thiệt hại cho
13


ngành nuôi trồng thủy sản. Nhiều yếu kém trong quản lý các yếu tố đầu vào và
đầu ra của ngành kinh tế thủy sản dẫn đến vệ sinh, an toàn thực phẩm thủy sản
không đảm bảo, giá thủy sản xuất khẩu và tỷ giá hối đoái thường xuyên biến
động gây bất lợi cho kinh tế thủy sản chưa có cách khắc phục.
- Nuôi tôm công nghiệp ở Cà Mau chưa nhiều, chưa thật ổn định và bền
vững, tiềm ẩn nhiều rủi ro nên đa số hộ nuôi tôm công nghiệp chỉ sau vài vụ đạt
kết quả thì lâm vào cảnh mất mùa, hiệu quả kinh tế thấp, lâm vào cảnh nợ nần.
Nguyên nhân do vốn đầu tư lớn, người nuôi tận dụng ao đầm còn màu mỡ trong
thời gian đầu thả giống liên tục, không theo mùa vụ nên ao đầm không phục hồi
kịp về mặt sinh học, cân bằng sinh thái tự nhiên, nguồn nước lại ô nhiễm hoặc
bị ảnh hưởng từ diễn biến bất thường của thời tiết, gây tác động bất lợi đến
nuôi tôm, vốn là loài thủy sản rất nhạy cảm với môi trường. Hầu hết hộ nuôi
tôm công nghiệp thiếu kỹ thuật, kinh nghiệm nhưng chưa mạnh dạn thuê mướn
kỹ sư, kỹ thuật viên chuyên ngành và tự ý sử dụng bừa bãi các hóa chất, kháng
sinh, chế phẩm sinh học trong cải tạo ao đầm, xử lý nước, phòng trị bệnh cho
tôm vừa tốn kém, phản tác dụng, vừa gây ra những bất lợi cho tôm và môi
trường. Các điều kiện, yếu tốcần thiết như: thủy lợi, tôm giống, thức ăn, thú y
thủy sản, chế phẩm sinh học, … chưa đáp ứng nhu cầu, chưa kiểm tra, kiểm
soát chặt chẽ làm phát sinh nhiều nguy cơ trong phát triển nuôi tôm công

nghiệp.
- Do việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế từ nông - lâm – ngư nghiệp sang ngưnông - lâm nghiệp quá nhanh trên diện tích lớn, trong khi công tác quy hoạch và
quản lý theo quy hoạch còn hạn chế, việc chuyển đổi cơcấu sản xuất không
đồng bộ, các yếu tố về thủy lợi, vốn đầu tư, kỹ thuật nuôi, con giống, việc
chuyển đổi tự phát còn diễn ra, sản xuất phát triển chưa theo chiều sâu, theo
chiều rộng là chủ yếu, phụ thuộc vào thiên nhiên, ... Nên kết quả sản suất không
bền vững còn tiềm ẩn nhiều rủi ro, thiếu ổn định, tình trạng tôm chết thường
xuyên xảy ra trên một phần diện tích nuôi tôm của tỉnh dẫn đến chất lượng và

14


hiệu quả NTTS chưa cao, làm cho một bộ phận hộ NTTS gặp nhiều khó khăn,
nhiều hộ nông dân vay tiền NH để sản xuất nhưng không khả năng thanh toán.

CHƯƠNG 3: BIỆN PHÁP KHẮC PHỤC HẠN CHẾ CỦA NUÔI
TRỒNG THỦY SẢN Ở CÀ MAU
Để kinh tế thủy sản phát triển bền vững, đáp ứng yêu cầu đòi hỏi ngày
càng cao của thị trường toàn cầu hiện nay, cần thực hiện khắc phục những hạn
chế, yếu kém của NTTS có thể đưa ra một số giải pháp sau:
- Một là, tiến hành nghiên cứu, khảo sát, điều tra, thăm dò kỹ hơn về đặc
điểm tự nhiên, và hiện trạng ngành kinh tế thủy sản của Vùng để thu thập đầy
đủ hơn cơ sở dữ liệu về nguồn tài nguyên thủy sản, mức độ ô nhiễm môi
trường, tình hình khai thác, nuôi trồng, chế biến và tiêu thụ sản phẩm thủy sản
của Vùng. Rà soát, điều chỉnh quy hoạch khai thác, nuôi trồng và chế biến thủy
sản ở trình độ cao hơn, hiện đại hơn, đáp ứng yêu cầu tiêu thụ thủy sản trên thị
trường toàn cầu. Đồng thời, phải tăng cường hợp tác với các nước quanh Vịnh
Thái Lan nghiên cứu ngư trường; khai thác, quản lý, bảo vệ và tái tạo nguồn lợi
hải sản, nhất là nguồn lợi ở các vùng biển khơi và phát triển nuôi trồng thủy đặc
sản trên biển và ven biển của Vùng.

- Hai là, tích cực huy động các nguồn vốn đầu tư xây dựng hệ thống kết
cấu hạ tầng, cơ sở vật chất - kỹ thuật phục vụ cho phát triển bền vững ngành
khai thác và nuôi trồng thủy sản của Vùng. Xây dựng các cảng cá, khu neo đậu
tránh bão cho tàu cá ở tuyến ven bờ và tuyến đảo. Chuyển đổi mạnh cơ cấu sản
xuất từ nghề cá ven bờ sang nghề cá xa bờ gắn với bảo vệ và phát triển nguồn
lợi thủy sản, kết hợp khai thác hải sản với quốc phòng, an ninh và bảo vệ chủ
quyền quốc gia trên biển. Xây dựng hệ thống thủy lợi đáp ứng yêu cầu nuôi
trồng thủy sản ở trình độ cao hơn của Vùng. Ưu tiên phát triển nuôi thâm canh
và bán thâm canh ở những nơi có điều kiện. Phát triển nuôi nhuyễn thể vùng
triều và nuôi cá, đặc sản trên biển kết hợp với du lịch.

15


- Ba là, tiếp tục đầu tư hiện đại hóa các cơ sở chế biến thủy sản hiện có,
xây dựng một số cơ sở chế biến hiện đại tại các khu vực thuận tiện về kết cấu
hạ tầng, về tiếp thị, thương mại và xử lý chất thải ở các khu công nghiệp, tạo
các sản phẩm chất lượng cao phục vụ xuất khẩu. Hình thành trung tâm chế biến
thủy sản quy mô cấp Vùng tại thành phố Cà Mau. Phải quan tâm cải thiện điều
kiện vệ sinh tại các nhà máy chế biến thủy sản. Phát triển các sản phẩm thủy
sản chế biến đảm bảo các tiêu chuẩn quốc tế và xây dựng hệ thống marketing
chuyên ngành kinh tế thủy sản của Vùng.
- Bốn là, tăng cường ứng dụng các công nghệ mới vào sản xuất thủy sản,
nhất là các công nghệ về nuôi trồng thủy sản, công nghệ bảo quản sản phẩm sau
thu hoạch và công nghệ chế biến thủy sản. Có cơ chế vừa khuyến khích, vừa bắt
buộc các doanh nghiệp ngành thủy sản đầu tư nghiên cứu cải tiến kỹ thuật và áp
dụng công nghệ mới, công nghệ thích hợp vào sản xuất thủy sản. Đẩy mạnh
công tác điều tra cơ bản và nghiên cứu khoa học - công nghệ chuyên ngành
kinh tế thủy sản để có đủ căn cứ khoa học cho việc xây dựng các kế hoạch phát
triển kinh tế thủy sản lâu dài, hiệu quả và bền vững. Có chính sách ưu đãi để

thu hút các cán bộ khoa học có trình độ về làm việc tại Vùng.
- Năm là, có chính sách tích cực để thu hút và đào tạo nguồn nhân lực cho
kinh tế thủy sản của Vùng. Từng bước xây dựng lực lượng lao động chất lượng
cao để đáp ứng yêu cầu phát triển nhanh và bền vững kinh tế thủy sản đáp ứng
nhu cầu thị trường toàn cầu trong giai đoạn tới. Nghiên cứu ban hành các chính
sách, chế độ ưu đãi cụ thể để thu hút nhiều lao động có kỹ thuật, các chuyên
gia, các nhà doanh nghiệp giỏi... từ các vùng khác đến làm việc lâu dài tại vùng.
Mở rộng đào tạo, dạy nghề trong kinh tế thủy sản bằng nhiều hình thức, đào tạo
và đào tạo lại đội ngũ cán bộ, công chức các cấp phục vụ quản lý ngành kinh tế
thủy sản.
- Sáu là, tăng cường quản lý Nhà nước đối với ngành kinh tế thủy sản, đặc
biệt là phải quản lý chặt hoạt động khai thác hải sản, nhất là ở vùng triều và ven
bờ. Quy định cụ thể về số lượng tàu thuyền, loại nghề và sản lượng khai thác tối
16


đa cho từng khu vực, từng mùa vụ để bảo vệ và phát triển nguồn lợi. Tăng
cường quản lý kiểm soát bệnh dịch, kiểm định giống và bảo vệ tốt môi trường
nuôi trồng thủy sản. Quản lý chặt các yếu tố đầu vào và đầu ra của ngành kinh
tế thủy sản để đảm bảo vệ sinh, an toàn thực phẩm thủy sản xuất khẩu. Cung
cấp thông tin đầy đủ về giá thủy sản xuất khẩu và tỷ giá hối đoái cho các doanh
nghiệp kinh doanh của Vùng.

KẾT LUẬN CHUNG
NTTS là hoạt động đầu tư nhằm khai thác thế mạnh về đất đai, mặt nước
tự nhiên, khí hậu và nguồn lao động sẵn có để phát triển sản xuất, tăng trưởng
kinh tế và nâng cao thu nhập, cải thiện đời sống nhân dân, nhất là nông dân,
ngư dân. Nó có vị trí rất quan trọng trong phát triển kinh tế- xã hội ở tỉnh Cà
Mau.
Trong những năm qua thực hiện chủ trương chuyển dịch cơ cấu sản xuất từ

nông - lâm - ngưnghiệp sang ngư- nông - lâm nghiệp, tỉnh Cà Mau có trên 150
ngàn ha đất trồng lúa năng suất thấp, đất vườn, đất hoang hóa chuyển sang
NTTS, bước đầu đã đạt được kết khảquan. NTTS đã trởthành ngành kinh tế mũi
ngọn của tỉnh, tạo tiền đề cho tăng kim ngạch xuất khẩu, giải quyết việc làm,
tăng thu nhập, ổn định đời sống nông dân, ... Song, trong phát triển NTTS do
chuyển đổi nhanh trên phạm vi toàn tỉnh nên còn nhiều bất cập như: quy họach
NTTS chưa theo kịp yêu cầu phát triển; ô nhiễm môi trường; thiếu vốn, kỹ
thuật, kinh nghiệm,…

17


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Phát triển Thủy sản Việt Nam những luận cứvà thực tiển, PGS.TS Hoàng Thị
Chỉnh, NXB Nông nghiệp, 2001.
2. Quản lý kinh tếdùng cho ngành nuôi trồng thủy sản, Thạc sỹPhạm Xuân
Thủy, Trường Đại học Thủy sản Nha Trang, 2001.
3. Chương trình phát triển nuôi trồng thủy sản thời kỳ1999 - 2010 của BộThủy
sản.
4. Báo cáo điều chỉnh quy hoạch ngư- nông - lâm nghiệp tỉnh Cà Mau giai đoạn
2001 - 2010 của UBND tỉnh Cà Mau.
5. Chương trình phát triển thủy sản tỉnh Cà Mau đến năm 2010 của UBND tỉnh
Cà Mau.
6. Cà Mau 30 năm xây dựng và phát triển (1976 - 2005) của Cục Thống kê tỉnh
Cà Mau.
7. Niên giám Thống kê Việt Nam từ 1996 - 2006 của Tổng cục Thống kê.
8. Kết quả kiểm kê đất đai 2005 của Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Cà Mau.
9. Kết quả khảo sát chuyển đổi cơ cấu nông - lâm nghiệp - thủy sản giai đoạn
1995 - 2005 của Cục Thống kê Cà Mau.
10. Báo cáo thực trạng các dự án đầu tư giai đoạn 2000 - 2006 của Ban quản lý

dự án ngành Thủy sản tỉnh Cà Mau.

18



×