Tải bản đầy đủ (.doc) (20 trang)

Tóm tắt cái tôi trữ tình trong thơ xuân quỳnh, phan thị thanh nhàn, lâm thị mỹ dạ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (185.38 KB, 20 trang )

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài.
Dân tộc ta đã trải qua cuộc kháng chiến chống đế quốc Mỹ vĩ đại suốt gần 30 năm.
Bên cạnh những khó khăn, gian khổ, hi sinh nhưng vẻ vang mà đất nước phải trải qua thì
nền văn học nước nhà cũng đón nhận nhiều nhà thơ nữ trưởng thành trong đó phải kể đến
những cái tên như Xuân Quỳnh, Phan Thị Thanh Nhàn, Lâm Thị Mỹ Dạ. Ba tác giả này
được coi là ba trụ cột của thơ nữ thời kỳ chống Mỹ. Lựa chọn đề tài “Cái tơi trữ tình trong
thơ thơ Xuân Quỳnh, Lâm Thị Mỹ Dạ, Phan Thị Thanh Nhàn” cho luận văn của mình,
chúng tơi xuất phát từ những lý do sau:
Một là, tâm hồn là một thế giới rất phức tạp, nói đến tâm hồn là nói đến thế giới bên
trong, thế giới nội tâm không dễ gì nắm bắt được. Nó khơng như hình thức bên ngoài mà ta
dễ nhận ra và đánh giá nhưng tâm hồn chính là kim chỉ nam cho mọi hành động của con người.
Hai là, khi tìm hiểu về thơ nữ thời kỳ kháng chiến chống Mỹ chúng tôi thấy ba tác
giả Xuân Quỳnh, Phan Thị Thanh Nhàn, Lâm Thị Mỹ Dạ có nhiều điểm chung. Trong thơ
của các chị chúng tôi thấy những khát vọng, những hi sinh, cả những lo âu trăn trở. Và trong
hoàn cảnh nào các chị cũng luôn bộc lộ một tâm hồn rất cao đẹp. Vẻ đẹp đó phần nào được
các chị thể hiện qua hình tượng cái tơi trữ tình trong những bài thơ.
Ba là, cái tơi trữ tình được thể hiện qua những vần thơ, những trang thơ là tiếng nói
của cõi lịng, của cảm xúc nhạy cảm của thi sĩ.
Vì vậy để có cái nhìn tổng thể, tồn diện về thơ Xn Quỳnh - Lâm Thị Mỹ Dạ Phan Thị Thanh Nhàn, chúng tơi đã chọn đề tài: “Cái tơi trữ tình trong thơ Xuân Quỳnh Lâm Thị Mỹ Dạ - Phan Thị Thanh Nhàn”. Chúng tơi hy vọng sẽ góp thêm tiếng nói làm
rõ hơn nét độc đáo về cái tơi trữ tình của ba nhà thơ này.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Thơ Việt Nam hiện đại nói chung và thơ ca kháng chiến chống Mỹ nói riêng đã tự
khẳng định mình bằng phẩm chất mới, khẳng định một bước tiến mạnh mẽ trong hành trình
lịch sử của văn học dân tộc. Đặc biệt một số gương mặt thơ nữ thuộc thế hệ này đã trở thành
đối tượng nghiên cứu của giới phê bình văn học. Trong số những nhà thơ nữ thời kỳ chống
Mỹ thì Xuân Quỳnh - Lâm Thị Mỹ Dạ - Phan Thị Thanh Nhàn là ba gương mặt tiêu biểu,
thu hút được sự quan tâm của giới nghiên cứu và phê bình văn học.

1



Về Xuân Quỳnh, có thể khẳng định cho đến nay chị đã có một vị trí chắc chắn trong
làng thơ. Các cơng trình nghiên cứu về thơ chị gồm có: “Xuân Quỳnh - Lưu Quang Vũ, tình
yêu và sự nghiệp” của tuyển tập nhiều tác giả; “Xuân Quỳnh thơ với lời bình” của Vũ Thị
Kim Xuyến; “Thơ Xuân Quỳnh” của Chu Văn Sơn; “Cảm nhận về thơ Xuân Quỳnh” của
Lưu Khánh Thơ... Ngồi ra tác giả Đơng Mai cịn có một cuốn sách tưởng nhớ về thi sĩ khi
chị qua đời: “Xuân Quỳnh một nửa cuộc đời tôi”. GS. Hà Minh Đức nhận định: “Nghĩ đến
ưu điểm của lực lượng thơ thẻ, tơi muốn nói đến Phạm Tiến Duật, Bằng Việt, Xuân Quỳnh...
Xuân Quỳnh đã đến với thơ bằng tình u tha thiết của tuổi trẻ, lịng gắn bó với nghề
nghiệp (...) từ cái riêng đi vào cái chung thơ Xuân Quỳnh dần trở nên phong phú và có bản
sắc hơn. Xuân Quỳnh luôn chân thật và mềm mại trong cảm xúc, chị nhìn cuộc sống khơng
đơn giản một chiều”.
Vương Trí Nhàn, Phạm Tiến Duật lấy hình thức đối thoại bàn về thơ Xuân Quỳnh
trong bài viết “Ý thức về thời gian, cảm giác về hạnh phúc”. Hai tác giả thấu suốt được sự
mẫn cảm trong trái tim đàn bà của chị nên có những nhận xét khá tinh tế: “Những cảm giác
hiện tại mà Xuân Quỳnh giỏi lọc ra và sống hết mình với nó (...) đặt những giây lát hiện tại
cạnh nhau ta sẽ thấy ở tác giả một cảm giác khác nữa - cảm giác về sự thay đổi”.
Bên cạnh những cơng trình nghiên cứu, những bài viết về nữ thi sĩ Xuân Quỳnh ta
cũng bắt gặp khơng ít những lời nhận xét, đánh giá trân trọng của các thế hệ độc giả giành
cho Lâm Thị Mỹ Dạ và Phan Thị Thanh Nhàn.
Từ những năm 80 của thế kỷ trước, căn cứ vào hai tập thơ đầu tay của nữ sĩ Lâm Thị
Mỹ Dạ, Hồng Diệu đã chỉ ra những đặc điểm thành công cơ bản của thơ chị: từ sự độc đáo
trong tứ thơ, nét duyên dáng trong cách viết, sự mới mẻ của hình ảnh đến âm hưởng chính
trong thơ nữ sĩ “xuất phát từ những giai điệu trầm, nhẹ, đằm thắm không ồn ào nhưng có
lúc lại khơng kém phần khỏe khoắn” [17,4]. Cây bút phê bình Hồ Thế Hà đã đặc biệt quan
tâm đến hiện tượng thơ Mỹ Dạ, đã chỉ ra hướng đi mới của nữ sĩ. Vũ Quần Phương từng
khẳng định nét riêng trong thơ Lâm Thị Mỹ Dạ với “tính phụ nữ, nét dịu dàng của cảm xúc,
cách khai thác, cách lọc tìm chất thơ trong đời sống” tạo nên “một phẩm chất trữ tình khá
thuần khiết”.
Phan Thị Thanh Nhàn là cây bút cùng thời với Xuân Quỳnh, Lâm Thị Mỹ Dạ, Ý Nhi,

Dư Thị Hồn... Có rất nhiều bài đánh giá, nghiên cứu, phê bình về thơ chủa chị. Tác giả
Thiếu Mai với “Một nét thơ đáng yêu” đã nêu bật đặc điểm thơ của Phan Thị Thanh Nhàn:
2


“Dịu nhẹ, dun dáng mà kín đáo, khơng chỉ khác so với các nhà thơ nam giới mà ngay cả
với các nhà thơ nữ cũng không thể lẫn. Đọc là mến ngay. Và nhớ ngay”. Lời mở đầu của
tập thơ Thơ với tuổi thơ, Vũ Quần Phương đã viết “Thanh Nhàn viết bằng những kỷ niệm
ấu thơ và bằng chính những chất liệu của cuộc sống thường nhật. Bà không tìm thơ xa xơi,
cũng khơng kiễng lên với những chủ đề lớn. Thơ bà giản dị, cảm xúc, chân thực...”. Nguyễn
Thị Minh Thái nhận định: “Thơ của Nhàn không phải là thư thơ tình thuận bằng trắc để dễ
thuộc lịng, nhưng một khi đã đi vào hồn người, nó sẽ mắc lại ở đó và trở thành cái mà
người ta vẫn gọi là “những câu thơ thuộc nằm lịng”.Đó là những nét cốt cách nhất, đặc
điểm riêng nhất của thơ Phan Thị Thanh Nhàn.
Ngồi những bài viết trên cịn có rất nhiều luận văn của sinh viên, thạc sĩ viết về ba
gương mặt tiêu biểu này.
3. Mục đích nghiên cứu.
Chúng tơi chọn đề tài “Cái tơi trữ tình trong thơ Xuân Quỳnh, Lâm Thị Mỹ Dạ,
Phan Thị Thanh Nhàn” nghiên cứu nhằm mục đích:
Một là, thấy được những điểm tương đồng trong cuộc đời của các nữ sĩ trưởng thành
từ trong cuộc kháng chiến chống Mỹ rồi bước ra thời bình. Từ đó chúng ta cũng thấy được
sự tương đồng trong cái tơi trữ tình được gửi gắm trong những bài thơ.
Hai là, thấy được vẻ đẹp tâm hồn đầy nữ tính, thùy mị, đằm thắm và duyên dáng, rất
nhạy cảm nhưng cũng đầy mạnh mẽ và bạo trong tình yêu. Họ cũng là những phụ nữ đầy
nghị lực vượt lên những khó khăn của cuộc sống, thể hiện một tâm hồn cao đẹp đó là vẻ đẹp
của người phụ nữ Việt Nam .
Luận văn mong muốn mang lại hiệu quả giáo dục cho người đọc. Góp phần tìm hiểu
một cách chủ động, khách quan hệ thống cái tôi trữ tình trong thơ của ba gương mặt nữ sĩ
tiêu biểu thời chống Mỹ.
4. Nhiệm vụ nghiên cứu

4.1. Từ đề tài trên, chúng tôi đặt ra nhiệm vụ nghiên cứu, khám phá vẻ đẹp tâm hồn người
phụ nữ qua hình tượng cái tơi trữ tình trong thơ nữ thời chống Mỹ (Xuân Quỳnh, Phan Thị
Thanh Nhàn, Lâm Thị Mỹ Dạ)

3


4.2. Hình tượng cái tơi trữ tình tất yếu phải được thể hiện bằng văn bản ngôn từ. Vậy nhiệm
vụ thứ hai của luận văn đặt ra để giải quyết là: nghiên cứu những phương thức, phương tiện
biểu đạt, đặc sắc trong thơ của ba nhà thơ nữ tiêu biểu cho các nhà thơ nữ thời kỳ chống Mỹ.
5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu.
- Thơ Xuân Quỳnh
- Thơ Lâm Thị Mỹ Dạ
- Thơ Phan Thị Thanh Nhàn
6. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp tiếp cận thi pháp học;
- Phương pháp lịch sử - xã hội;
- Phương pháp so sánh;
- Phương pháp loại hình;
- Phương pháp phân tích tổng hợp.
7. Cấu trúc luận văn
Ngoài phần mở đầu, mục lục và kết luận, tài liệu tham khảo, luận văn được trình bày
trong 3 chương :
Chương 1: Khái niệm “Cái tơi trữ tình” và quá trình sáng tạo của Xuân Quỳnh,
Phan Thị Thanh Nhàn, Lâm Thị Mỹ Dạ.
Chương 2: Những đặc điểm nổi bật của cái tơi trữ tình trong thơ Xuân Quỳnh,
Phan Thị Thanh Nhàn, Lâm Thị Mỹ Dạ.
Chương 3 : Những hình thức thể hiện cái tơi trữ tình trong thơ Xuân Quỳnh,
Phan Thị Thanh Nhàn, Lâm Thị Mỹ Dạ.


4


PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: KHÁI NIỆM CÁI TƠI TRỮ TÌNH VÀ QUÁ TRÌNH SÁNG
TẠO CỦA XUÂN QUỲNH, LÂM THỊ MỸ DẠ,
PHAN THỊ THANH NHÀN
1.1. Lý thuyết về cái tôi trữ tình trong thơ
1.1.1. Khái niệm cái tơi
Về thực chất, cái tôi là một khái niệm triết học. Các nhà triết học duy tâm là những
người đầu tiên chú ý đến cái tơi khi đề cao ý thức, lý tính trong mối quan hệ vật chất, ý
thức, chủ quan, khách quan, cá nhân và xã hội.
Trong Triết học, cái tôi được hiểu là cái tôi ý thức hay đơn giản là tơi, bao hàm trong
đó những đặc tính để phân biệt tôi với những cá nhân khác. Các quan điểm duy tâm về cái
tôi đã khẳng định cái tôi là phương diện trung tâm của tinh thần con người, là cốt lõi của ý
thức có khả năng chi phối hoạt động và là sự khẳng định nhân cách con người trong thế
giới. Các nhà triết học: Đêcactơ, Phichtê, Cantơ, Hêghen, Becxông, Phơrơt.. đã “ giải thích
cái tơi như là căn ngun có tính chất quan niệm” và từ những quan niệm mà xây dựng
thành hệ thống triết học duy tâm của mình.
Trong phân tâm học, cái tơi là phần cốt lõi của tính cách liên quan tới thực tại và chịu
ảnh hưởng của tác động xã hội. Theo Phơ - rớt, cái tơi cùng với nó và cái siêu tơi là ba miền
của tâm thức.
Trong triết lý Phật giáo, cái tôi chính là ngã, là cái tơi được thiết thuyết với một thể
tính trường tồn, khơng bị ảnh hưởng của tụ tán, sinh tử. Quan niệm của Phật giáo cũng như
các tôn giáo khác như Nho giáo, Cơ đốc giáo... đều hướng con người đến đấng tối cao, quên
đi cái tôi của mình.
Triết học Mác - Lê Nin xác định: “Cái tôi là trung tâm tinh thần của con người, của
cá tính con người có quan hệ tích cực đối với thế giới và với chính bản thân mình. Chỉ có
con người độc lập, kiểm sốt những hành vi của mình và có khả năng thể hiện tính chủ
động tồn diện mới có cái tơi của mình” (Dẫn theo Lê Lưu Oanh, thơ trữ tình Việt Nam

1975-1990, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội).
Như vậy cái tôi thực chất là khái niệm về cấu trúc nhân cách mang tính phổ quát.
Hiện tượng cái tơi vừa mang tính xã hội - lịch sử vừa phân biệt cái độc đáo và khẳng định
tính tích cực của nhân cách cá nhân.
1.1.2. Khái niệm cái tơi trữ tình
5


Xuất phát từ quan điểm cái tôi trong triết học Mác - Lê Nin chúng ta sẽ nghiên cứu
về cái tơi trữ tình với tư cách là một khái niệm vừa mang tính phổ quát vừa mang tính cụ thể.
Cái tơi cá nhân chính là hình tượng của chủ thể trữ tình trong tác phẩm thơ. Thơng
qua cái tơi, nhà thơ giãi bày tâm tư, tình cảm, thế giới quan, tư tưởng của mình. Nhìn từ góc
độ phản ánh luận thì cái tơi chính là đối tượng phản ánh của nhà thơ, là kết quả của sự miêu
tả, tự đánh giá, tự ý thức của chính nhà thơ. Cái tơi trong thơ thời nào cũng có nhưng khái
niệm, nội hàm và sắc thái biểu hiện của cái tôi qua các giai đoạn văn học là khác nhau.
Có thể hiểu cái tơi trữ tình là một thuật ngữ thuộc Lý luận Văn học. Đó chính là tâm
trạng, cảm xúc, cảm nhận, là thế giới nội tâm (tâm hồn) của riêng nhà thơ trước hiện thực
khách quan (cuộc sống). Qua cái tôi trữ tình, ta có thể thấy được những suy nghĩ, thái độ, tư
tưởng,... của nhà thơ trước cuộc đời. Và cái tơi trữ tình cũng góp phần hình thành phong
cách nghệ thuật của riêng tác giả.
Cái tơi trữ tình là nội dung của thơ ca, vì thế nó địi hỏi một hình thức tương ứng.
Quan hệ giữa nội dung và hình thức là mối quan hệ phụ thuộc; nội dung quyết định hình
thức, nội dung nào hình thức ấy. Cái tơi trữ tình trong thơ là thế giới cảm xúc có khi cụ thể
hữu hình, có khi vơ hình vơ ảnh, trừu tượng dưới những cảm nhận trực giác, ảo giác. Thế
nhưng dù cổ kim đông tây, dù phát triển theo khuynh hướng nào thì cái tơi trong thơ, cái tơi
nội cảm đều tồn tại dưới một hình thức nào đó. Hình thức đầu tiên của nó là ngơn ngữ.
Trong luận văn này, chúng tôi xem xét, nghiên cứu cái tơi trữ tình trong thơ Xn
Quỳnh, Lâm Thị Mỹ Dạ, Phan Thị Thanh Nhàn với tư cách là ba tác giả nữ tiêu biểu của
nền thơ kháng chiến chống Mỹ với những nét độc đáo về phong cách thơ ca.
1.2. Hành trình sáng tạo của Xuân Quỳnh, Lâm Thị Mỹ Dạ, Phan Thị Thanh Nhàn

Xuân Quỳnh là nhà thơ nữ tiêu biểu trưởng thành trong thời kỳ chống Mỹ cứu nước.
Đời thơ Xuân Quỳnh không dài, chỉ hơn hai mươi năm. Chị viết bảy tập thơ, mỗi tập chỉ
trên dưới một trăm trang: Chồi biếc, Hoa dọc chiến hào, Gió lào cát trắng, Lời ru trên mặt
đất, Tự hát, Sân ga chiều em đi, Hoa cỏ may. Ra mắt tập thơ đầu tay Chồi biếc năm 1963
(in chung với Cẩm Lai) có thể nói cái tơi trữ tình trong thơ Xuân Quỳnh gắn với sự vận
động chung của cái tôi trữ tình trong thơ Việt Nam kể từ giai đoạn này. Chặng đường của
chị bắc cầu giữa hai giai đoạn: kháng chiến chống Mỹ và những năm sau chiến tranh.
Cũng giống như Xuân Quỳnh, với Lâm Thị Mỹ Dạ thơ ca là tiếng nói riêng tư nhất
của tâm hồn con người. Tập thơ đầu tay của Mỹ Dạ được viết ở Quảng Bình trong những
năm kháng chiến chống Mỹ. Có thể khẳng định rằng Khoảng trời hố bom là bài thơ đánh
6


dấu sự thành công của nhà thơ. Trở về với cuộc sống hiện tại theo luật tăng tốc của cuộc
sống, thơ Mỹ Dạ không chạy theo sự xô bồ của cuộc sống mà mang những nét riêng đậm
dấu ấn cá tính. Với tập Đề tặng một giấc mơ, Hái tuổi em đầy tay chị đã thể hiện một phong
cách thơ rất riêng. Tập thơ Hồn đầy hoa cúc dại là tập thơ mới được viết trong thời kì khó
khăn vất vả nhất của một người vợ, người mẹ như Lâm Thị Mỹ Dạ vì thế mà tập thơ này
chính là những trải nghiệm cuộc sống, trải nghiệm qua những khó khăn của đời sống chật hẹp.
Cùng với Xuân Quỳnh, Lâm Thị Mỹ Dạ, chặng đường thơ của Phan Thị Thanh Nhàn
chia làm hai giai đoạn: trong chiến tranh và sau chiến tranh. Lần đầu tiên bạn đọc biết đến
chị qua tập thơ Những búp bàng in chung với Thúy Bắc, Hoàng Thị Minh Khanh trong tập
thơ Tháng giêng hai. Tiếp đó, tập thơ Hương thầm đã đánh dấu một bước trưởng thành lớn
trong chặng đường sáng tác của chị. Sau Hương thầm là Chân dung người chiến thắng. Đây
là tập thơ bao gồm các bài sáng tác trong thời gian từ 1972 - 1976, phần lớn nói về cuộc
kháng chiến chống Mỹ cứu nước của nhân dân, đặc biệt là người dân Hà Nội. Sau chiến
tranh, hòa nhập với cuộc sống thời bình và dựng xây đất nước, hồn thơ Thanh Nhàn thể hiện
sự vui tươi nhưng không mất đi nét dịu dàng vốn có của người phụ nữ. Các tập thơ Bông
hoa không tặng (1990), Nghiêng về anh (1992), Bài thơ cuộc đời (1999), Thơ với tuổi thơ
(2002) ra đời. Điểm nổi bật trong sáng tác của Phan Thị Thanh Nhàn thời kỳ này khơng cịn

là khí thế của cc chiến đấu chống đế quốc, cũng khơng cịn là khói lửa đạn bom mà bây
giờ là cuộc sống, cuộc sống thường nhật với bao bộn bề lo toan, bao phức tạp.
Nhìn chung thơ Xuân Quỳnh, Lâm Thị Mỹ Dạ, Phan Thị Thanh Nhàn là sự kế thừa
và phát triển thơ của lớp người đi trước đồng thời cũng là tiền đề, tạo điều kiện mở đường
cho sự khởi sắc của rất nhiều cây bút nữ sau này.
CHƯƠNG 2: NHỮNG ĐẶC ĐIỂM NỔI BẬT CỦA CÁI TƠI TRỮ TÌNH TRONG
THƠ XUÂN QUỲNH,LÂM THỊ MỸ DẠ, PHAN THỊ THANH NHÀN
2.1. Cái tơi trữ tình trong những cảm xúc cơng dân
2.1.1. Với Tổ quốc và nhân dân
Trong tâm thức, tình cảm của mỗi con người, Tổ quốc, quê hương luôn là cội nguồn
thiêng liêng nhất. Hai tiếng “Tổ quốc” thiêng liêng và tự hào biết bao. Trong lịch sử văn học
dân tộc, có rất nhiều tác phẩm biểu hiện thành cơng phương diện cảm xúc này. Đến Xuân
Quỳnh, Lâm Thị Mỹ Dạ, Phan Thị Thanh Nhàn, một lần nữa ta bắt gặp những dịng thơ
ngập tràn tình u Tổ quốc.
7


Các chị khơng viết về Tổ quốc mang tầm vóc lịch sử với những chiến cơng vang dội,
những dáng hình ngang thế núi non mà Tổ quốc với những điều giản dị mà cũng rất sâu sắc,
thiêng liêng. Trong thơ các chị, Tổ quốc là tất cả những gì đơn sơ nhưng gắn bó như máu
thịt như tiếng đàn bầu thánh thót của ơng trong thơ Mỹ Dạ; những cảnh vật bình yên đồng
hành cùng những con người một đời lam lũ, chân lấm tay bùn trong thơ Xuân Quỳnh hay đó
là nhịp sống rộn ràng, khỏe khoắn của quê hương trong thơ Phan Thị Thanh Nhàn.
Tổ quốc còn là giọt mồ hôi đổ xuống trong lao lực. Thiêng liêng hơn Tổ quốc là một
phần xương thịt của những người con đã anh dũng ngã xuống. Tổ quốc hiện hữu trong bóng
hình người mẹ tảo tần, chịu nhiều vất vả, nhọc nhằn lúc sinh con.
Khơng chỉ khắc họa hình ảnh Tổ quốc với những sự vật giản dị, thân thuộc, các chị,
mỗi người cịn đi theo hướng riêng của mình để vẽ nên hình hài Tổ quốc từ cái nhìn hướng
nội, giàu chất suy tưởng. Hình tượng Tổ quốc trong thơ Xuân Quỳnh gắn liền với hiện thực
chiến đấu đầy hào hùng của dân tộc. Sâu sắc hơn, hình tượng Tổ quốc được nhìn từ việc xây

dựng mối quan hệ bền lâu, vững chắc giữa quá khứ với hiện tại…
Theo quy luật thông thường, một quê hương quật cường, bất diệt; một Tổ quốc giàu
truyền thống văn hóa ngàn đời thì tất yếu sẽ sản sinh ra những con người anh hùng, bất
khuất, kiên trung giàu lòng nhân ái. Làm nên hình hài Tổ quốc là những người dân vơ danh,
hữu danh. Có thể thấy rằng hình tượng nhân dân trong thơ Xuân Quỳnh, Lâm Thị Mỹ Dạ,
Phan Thị Thanh Nhàn không phải là những con người chung chung mà mang tính cụ thể.
Đó là những người lính, người mẹ, người chị, người con của quê hương…
Đậm sâu trong tâm hồn các chị là hình ảnh người mẹ thương yêu. Một người mẹ tảo
tần, lam lũ sớm hôm. Mẹ mang nặng trên lưng bao nỗi vất vả nhọc nhằn. Dù phải chịu nhiều
đau thương, bất hạnh nhưng người mẹ vẫn dành trọn cho con tình yêu tận sâu trái tim mình.
Hình tượng người mẹ được khắc họa từ sự biết ơn trân trọng, từ sự kính yêu, tin yêu mãnh
liệt của người con. Vẻ đẹp của mẹ là vẻ đẹp của sự bao dung, nhân hậu. Vẻ đẹp của tình yêu
thương bao la và sự hi sinh thầm lặng cao cả mẹ dành cho con.
Cùng với hình tượng người mẹ, ngòi bút thơ Xuân Quỳnh, Lâm Thị Mỹ Dạ, Phan
Thị Thanh Nhàn cũng khắc họa thành cơng hình tượng những người lính, những cơ thanh
niên xung phong. Họ là những đại diện tiêu biểu cho con người Việt Nam gan dạ, anh hùng
trong chiến đấu; cần cù, năng động, nhân ái trong cuộc sống đời thường.
Các chị viết về những cô gái thanh niên xung phong mang vẻ đẹp trẻ trung, trong
sáng mà gan dạ, kiên trung. Song song với hình tượng những cơ thanh niên xung phong là
8


hình tượng người lính - hình tượng khá đặc sắc trong thơ Xuân Quỳnh, Lâm Thị Mỹ Dạ,
Phan Thị Thanh Nhàn.
Tựu chung lại, hình tượng Tổ quốc, nhân dân trong thơ Xuân Quỳnh, Lâm Thị Mỹ
Dạ, Phan Thị Thanh Nhàn là những con người tiêu biểu cho nhân dân Việt Nam đầy kiên
trung, bản lĩnh, tự tin vào bản thân và tin tưởng vào cuộc kháng chiến gian khổ nhưng vĩ đại
của dân tộc. Trong mạch cảm hứng chung về Tổ quốc và nhân dân với niềm tự hào cất cao
tiếng hát ngợi ca, mỗi nhà thơ nữ đã tìm cho mình một tiếng nói riêng, một cách thể hiện
độc đáo. Chính điều này đã tạo nên diện mạo, đặc trưng riêng cho cái tơi trữ tình của Xn

Quỳnh, Lâm Thị Mỹ Dạ, Phan Thị Thanh Nhàn.
2.1.2. Với chiến tranh và kẻ thù
Thơ Xuân Quỳnh, Lâm Thị Mỹ Dạ, Phan Thị Thanh Nhàn là minh chứng tiêu biểu
cho hiện thực cuộc chiến tranh ác liệt chống đế quốc Mỹ. Trong những tháng ngày ác liệt
của cuộc kháng chiến, các chị đã bám sát và phản ánh một cách trung thực, chân thành hiện
thực đó.
Trước hết, bom đạn chiến tranh tàn phá cảnh vật yên bình của quê hương. Chiến
tranh đã len vào từng bữa ăn, giấc ngủ. Chiến tranh cướp đi những giây phút bình yên cùng
những nếp sinh hoạt đời thường của người dân vô tội. Sự hủy diệt tàn khốc của chiến tranh
luôn đi cùng với bom đạn.
Chiến tranh đã cướp đi bao mạng người vô tội. Trong khói lửa chiến tranh, hình ảnh
những đứa trẻ thơ mất cha, mất mẹ mới thực sự có sức ám ảnh day dứt. Các em trở thành
những đứa trẻ mồ côi hết sức đáng thương.
Trong chiến tranh có tổn thất, mất mát đau thương nhưng đó khơng phải là nguồn
cảm hứng chính trong thơ Xuân Quỳnh, Lâm Thị Mỹ Dạ, Phan Thị Thanh Nhàn. Nguồn
cảm hứng lớn nhất, xuyên suốt qua các bài thơ về hiện thực chiến tranh bắt nguồn từ chính
sự hào hùng của cuộc kháng chiến ái quốc vĩ đại. Càng khốc liệt, dữ dội bao nhiêu thì hiện
thực cuộc chiến tranh vệ quốc càng anh dũng bấy nhiêu. Các chị đã khắc họa được khơng
khí sục sơi, nóng bỏng trào dâng trong những ngày kháng chiến. Khơng chỉ viết về những
chiến sĩ quả cảm trực tiếp cầm súng chiến đấu mà các chị còn viết về những con người lao
động mới, bởi hăng hái tham gia sản xuất, chi viện cho tiền tuyến cũng là đánh giặc.
Có thể khẳng định Xuân Quỳnh, Lâm Thị Mỹ Dạ,Phan Thị Thanh Nhàn đã viết về
chiến tranh và kẻ thù bằng chính những điều mắt thấy, tai nghe. Hơn thế, các chị còn viết
bằng cảm quan, sự nhạy cảm của người nghệ sĩ. Qua những vần thơ của các chị, tính chất
9


khốc liệt của chiến tranh, sự tàn ác của kẻ thù với đạn lửa bom rơi, máu đổ dường như bị
mờ nhạt bởi nhịp sống hối hả, khẩn trương, bởi tâm hồn lạc quan với những khát vọng được
cống hiến hết mình cho Tổ quốc. Những vần thơ của các chị đã chắp cánh cho các thế hệ

thanh niên Việt Nam sức mạnh, niềm tin, sự bền bỉ, lòng dũng cảm vượt qua gian khổ và cái
chết. Những vần thơ của các chị viết về chiến tranh tựa như những nốt nhạc hòa cùng vào
bản nhạc thơ ca của dân tộc góp phần thể hiện cái hào khí chiến đấu của cả một thời đại.
2.2. Cái tơi trữ tình trong những cảm xúc đời thường
2.2.1. Cái tơi trong tình u đôi lứa
2.2.1.1. Một trái tim táo bạo, mạnh mẽ, nồng nàn đắm say. Khao khát yêu thương,
hạnh phúc và luôn sẵn sàng hy sinh dâng hiến cho tình yêu
Thơ Xuân Quỳnh, Lâm Thị Mỹ Dạ, Phan Thị Thanh Nhàn luôn ngập tràn niềm khao
khát yêu thương mãnh liệt. Các chị không ngần ngại bộc bạch, giãi bày mọi cung bậc cảm
xúc tình yêu trong thơ. Trong tình yêu, trái tim người phụ nữ có lúc bé nhỏ vơ cùng nhưng
vẫn ôm trùm hết thảy, vì trái tim ấy luôn cố gắng vượt lên trên những giới hạn nhỏ hẹp để
tìm đến một tình u bao la khơng giới hạn.
Trước hết, đó là tình u của người phụ nữ mang màu sắc đa diện.Tình yêu cháy
bỏng mạnh mẽ được thể hiện ở nhiều phương diện.Trước hết là nỗi nhớ. Nỗi nhớ tha thiết là
một trong những cung bậc thể hiện tình yêu. Nỗi nhớ tràn ngập không gian và thời gian. Nỗi
nhớ khơng chỉ ẩn chứa khi con người cịn thức mà nó len lỏi cả vào trong giấc mơ. Tình u
có mn cung bậc nên nỗi nhớ cũng đa dạng, nhiều chiều. Cùng với nỗi nhớ là ước vọng tha
thiết được hịa mình vào tận cùng những cung bậc đa diện của tình u. Tình u cịn là sự
hiến dâng, yêu là sống hết mình cho người mình yêu, đồng thời tình u cũng rất cần sự
cảm thơng, chia sẻ và hịa hợp.
Có thể thấy mặc dù trải qua hai miền sáng tối của tình yêu, mặc dù đã nếm trải mọi
cung bậc đắng cay, hạnh phúc nhưng ba hồn thơ Xuân Quỳnh, Lâm Thị Mỹ Dạ, Phan Thị
Thanh Nhàn ln khao khát được sống hết mình, chân thành hết mình, mãnh liệt hết mình
với tình yêu.
2.2.1.2. Tâm hồn phụ nữ đầy khắc khoải lo âu và trăn trở
Tình yêu là thứ mật ngọt men say làm ngây ngất lòng người nhưng tình u cũng
mong manh khó nắm bắt. Khơng đứng ngồi quy luật đó, thơ Xn Quỳnh, Lâm Thị Mỹ
Dạ, Phan Thị Thanh Nhàn chan chứa những nỗi buôn, những khắc khoải, lo âu và dự cảm
về tình yêu đôi lứa.
10



Dù sơi nổi, đam mê, cái tơi trữ tình trong thơ các chị vẫn ẩn chứa nhiều thảng thốt.
Các chị lo âu về sự hữu hạn của thời gian, về sự ngắn ngủi của đời người. Cảm quan thời
gian trong thơ có nhiều đứt gãy. Thời gian hiện hữu ln gắn liền với thời gian quá khứ và
thời gian tương lại. Thời gian ba chiều thường ẩn chứa nhiều dự cảm buồn.
Nỗi lo âu, bất ổn trong tình yêu khiến thơ các chị nhiều khi xoay vần trong những
câu hỏi, những trăn trở, những hồi nghi về một tình u bất diệt.
Tự tin, mãnh mẽ, quyết liệt trong tình yêu nhưng có đơi khi Xn Quỳnh, Lâm Thị
Mỹ Dạ, Phan Thị Thanh Nhàn hoảng hốt bất an với những gì khơng thuộc về sự nhận thức
của mình, những gì mình chưa đạt tới, đặc biệt ý nghĩ về tương lai thường gây cho các chị
cảm giác đổ vỡ tàn phai.
Cái tơi trữ tình ln có dự cảm buồn. Dường như ở trong các chị mọi thứ sẽ luôn
luôn thay đổi. Hạnh phúc, tình u vơ cùng mong manh khó nắm bắt. Tuy vậy các chị vẫn
luôn chờ đợi, đặt hết niềm tin, hi vọng vào người mình u.
Có thể nói, Thanh Nhàn, Xuân Quỳnh, Lâm Thị Mỹ Dạ hay bất cứ một người phụ nữ
khác, trong tình u ln khao khát được yêu chân thành, được chở che bởi người mình u.
Khổ đau có thể dày vị nhưng khơng thể làm chai lỳ những tâm hồn nhạy cảm. Sự sống luôn
vươn dậy sau những mất mát đau thương. Đọc thơ các chị, chúng ta có thể cảm nhận phải
có tâm hồn rất say mê cuộc đời, phải có trái tim ln tràn đầy nhiệt huyết sống thì mới có
thể sau bao nhiêu đứt đoạn, đắng cay các chị vẫn vẹn ngun tấm lịng u người, u đời đến
thế.
2.2.2. Cái tơi mang vẻ đẹp mẫu tính
Đọc thơ các chị chúng ta thấy nổi bật tính mẫu trong rất nhiều bài thơ. Có khi là sự
kính u, biết ơn các chị dành cho người mẹ vĩ đại của mình; có khi trong thiên chức làm
mẹ các chị lại bày tỏ lòng yêu thương con vô bờ bến.
Thơ Xuân Quỳnh, Lâm Thị Mỹ Dạ, Phan Thị Thanh Nhàn có nhiều bài viết về tình
mẹ con. Đó là tình cảm thiêng liêng, ấm áp, trìu mến, nhân hậu và bao dung.
Những vần thơ các chị viết về mẹ thật cảm động biết nhường nào. Hình ảnh người
mẹ trong thơ các chị mang những vẻ đẹp mẫu tính truyền thống của người phụ nữ Việt Nam

từ ngàn đời. Những người mẹ dù cuộc đời gặp nhiều cơ cực, vất vả, bất hạnh nhưng luôn
đong đầy tình u con vơ bờ bến, sẵn sàng hi sinh tất cả vì con.
Viết về mẹ, cái tơi trữ tình Xuân Quỳnh, Lâm Thị Mỹ Dạ, Phan Thị Thanh Nhàn đã
dồn nén cảm xúc, bày tỏ sự kính trọng, lịng biết ơn sâu sắc nhất đối với những người mẹ vĩ đại.
11


Với vai trị là người mẹ, cái tơi trữ tình đã thể hiện cảm xúc chân thành, tha thiết nhất
dành cho những đứa con thơ. Những biến chuyển tinh vi của tâm trạng khi được làm mẹ
được các chị diễn tả thật xúc động.
Tình cảm của mẹ dành cho con bao la đến vô cùng, vô tận, đã truyền sang cả đất trời,
dịng sơng, hồ cùng nhịp đập với trời đất mênh mơng. Tình u của mẹ hiện hữu trong lời
ru, trong bầu sữa trong lành, trong ánh mắt yêu thương, trong sự chăm sóc nâng niu ân cần,
trong nỗi nhớ khi phải xa con, trong lời căn dặn con trên mỗi bước đường đời…
Tựu chung lại, dù ở phương diện nào, là một người con hay một người mẹ thì Xuân
Quỳnh, Phan Thị Thanh Nhàn, Lâm Thị Mỹ Dạ cũng làm trịn bổn phận của mình, trước hết
là làm trịn bổn phận của mình trong đời rồi mới đến trong thơ. Mảng thơ viết về tình mẫu
tử đã góp phần làm cho thơ các chị sâu sắc hơn, nồng nàn hơn, nữ tính hơn, phong phú hơn
và in đậm cá tính của mỗi người.
CHƯƠNG 3: NHỮNG HÌNH THỨC NGHỆ THUẬT THỂ HIỆN CÁI TƠI TRỮ TÌNH
TRONG THƠ XN QUỲNH, LÂM THỊ MỸ DẠ, PHAN THỊ THANH NHÀN

3.1. Hệ thống hình ảnh và biểu tượng của nghệ thuật trong thơ
3.1.1. Hình ảnh thơ gần gũi với thiên nhiên, khống đạt, giàu cảm xúc
Đến với những bài thơ của Lâm Thị Mỹ Dạ, Xuân Quỳnh, Phan Thị Thanh Nhàn độc
giả bắt gặp hệ thống những hình ảnh phong phú, đa dạng trong đó nổi bật là hình ảnh gần
gũi với thiên nhiên, khống đạt, vận động khơng ngừng để bày tỏ cảm xúc.
Trước hết là những hình ảnh hết sức quen thuộc với cuộc sống hiện tại. Đó là những
hình ảnh như: ánh trăng, ngơi sao, hạt thóc, chiếc nón, chiếc lá, bơng hoa...
Hình ảnh thơ mang nhiều nỗi ám ảnh khơng gian. Đó là hình ảnh được lấy từ chính

cuộc sống thường nhật như Xóm đê nghèo nàn với những con người khơng có tên. Đó là
một Đám cưới ngày mùa đằm thắm ấm áp tình làng, nghĩa xóm; là một Hội cấy mùa xuân
rộn ràng vui tươi. Có khi đó lại là một Phiên chợ tết vùng cao rực rỡ và cuốn hút đến mức
say mê...
Hình ảnh thơ mang tính biểu tượng như hình ảnh sóng, thuyền, biển, hương thầm hay
mùi thơm của quê hương…
Các hình ảnh thơ này được cảm nhận chân thực, mộc mạc đồng thời cùng với việc sử
dụng các thủ pháp nghệ thuật như ẩn dụ, so sánh, nhân hóa, chuyển đổi cảm giác… làm
tăng hiệu quả thẩm mỹ của các hình ảnh đó.
3.1.2. Biểu tượng trái tim và bàn tay
12


Trái tim là biểu tượng đặc biệt của tình yêu. Trong thơ các chị đó là một trái tim yêu
tha thiết, thổn thức, một trái tim ln đập vì một tình u ngầm sâu dữ dội và khơng bao giờ
muốn nghỉ ngơi khi đã lặng im.
Đó vừa là trái tim của cái tơi trữ tình “Hạnh phúc thì mỏng đớn đau thì dày”, vừa là
trái tim của nhiều đối tượng trữ tình khác nhau: trái tim của một người mẹ, trái tim của một
người bạn, trái tim của một người đồng chí, trái tim của những người lính Mỹ và cả trái tim
của những người mẹ Mỹ có con hi sinh trong cuộc chiến tranh ở Việt Nam, đó cịn là trái
tim của mùa xuân, trái tim của đất nước… Trái tim thấm đẫm nỗi đau nhân tình
Trái tim yêu dung dị, bình thường, mang cảm xuc đời thường với một tình u đằm
thắm ln khao khát được hiến dâng cho người mình u.
Trái tim trong thơ các chị cịn mang màu sắc đa cảm, nhạy cảm, thông minh và tinh tế.
Cái tơi trữ tình Xn Quỳnh, Lâm Thị Mỹ Dạ, Phan Thị Thanh Nhàn cịn sử dụng
hình tượng trái tim như là một phương tiện đắc lực để giãi bày bao tâm tư tình cảm của
mình, đó là nơi các chị cất giấu một tình yêu đằm thắm, cuồng si của cả một đời đánh đổi.
Một biểu tượng quan trọng xuất hiện trong thơ các chị là biểu tượng bàn tay. Hình
ảnh đơi bàn tay cứ trở đi trở lại trong thơ các chị, đặc biệt là trong thơ Xuân Quỳnh như một
ám ảnh nghệ thuật.

Biểu tượng bàn tay cũng đồng nghĩa với cuộc đời của người con gái. Là hiện thân
của cái tơi trữ tình. Đó là đơi bàn tay trần trụi trước cát bụi, phong ba bão táp của mưa nắng
đời người.
Xuân Quỳnh đã tự họa đôi bàn tay của mình một cách rất chân thật và xúc động.
Hình ảnh bàn tay vừa là kí ức về người mẹ tảo tần, vừa là hiện hữu của cái tơi ngập tràn cảm
xúc, suy tư.
Cái tơi trữ tình giàu cảm xúc đã thổi vào bàn tay ấy linh hồn của con người, để biết
nhớ, biết yêu và biết đau khi có sự xa cách. Biết hi vọng, chờ đợi và u thương.
Đơi bàn tay của những người thơ đó đã trở thành biểu tượng của sự vững chãi, nâng
đỡ, dắt dìu người thân qua gian khó, đưa tình u trở thành điều thiêng liêng nhất của con
người, khẳng định niềm tin bất diệt vào cuộc đời.
Tựu chung lại biểu tượng trái tim và bàn tay là thành công to lớn của Xuân Quỳnh,
Lâm Thị Mỹ Dạ, Phan Thị Thanh Nhàn trong việc vận dụng những hình ảnh, biểu tượng thơ
để bày tỏ cảm xúc.
3.2. Ngôn ngữ thơ ca
13


Theo GS. Hà Minh Đức, ngôn ngữ giữ một vị trí đặc biệt trong thơ ca. Một điều dễ
nhận thấy là ngôn ngữ thơ ca của Xuân Quỳnh, Lâm Thị Mỹ Dạ, Phan Thị Thanh Nhàn rất
giản dị, mộc mạc, chân thành, tự nhiên.
Trước hết đó ngơn ngữ của làng quê, của lời ăn tiếng nói hàng ngày, chân thực
nhưng giàu cảm xúc.
Ngôn ngữ thơ giản dị, chân chất, mộc mạc, trong sáng. Đọc thơ các chị ta có cảm
giác đó là lời tâm tình thủ thỉ. Khơng chất chứa hình ảnh thơ kỳ vĩ; khơng nói những điều to
tát; không bày tỏ tư tưởng, thơ cứ chân thật, cứ hồn hậu, trong sáng và tất lẽ, cứ thế nhẹ
nhàng thấm sâu vào lòng người đọc.
Xuân Quỳnh, Lâm Thị Mỹ Dạ, Phan Thị Thanh Nhàn luôn sử dụng hệ thống ngôn
ngữ đời thường, quen thuộc nhưng độc đáo để bày tỏ cảm xúc, suy nghĩ.
Ngơn ngữ thơ mang tính gián tiếp trong biểu hiện và phản ánh, vì thế nó cần thiết

tìm đến thứ ngơn ngữ hàm ẩn, giàu cảm xúc. Điều này rất rõ nét trong thơ Xuân Quỳnh.
Các chị sử dụng nhiều ngôn ngữ biểu hiện trạng thái, miêu tả tâm trạng. Chính vì vậy
ngơn ngữ trong thơ các chị thường giàu cảm xúc, mượt mà dễ đi vào lịng người.
Có thể thấy các tác phẩm của Xn Quỳnh, Lâm Thị Mỹ Dạ, Phan Thị Thanh Nhàn
được viết tự nhiên như ý nghĩ. Thơ của các chị chân thành, giàu cảm xúc, gần với đời sống,
tự nhiên mà không thô kệch, suồng sã. Cùng với giọng điệu tâm tình, nồng nàn da diết,
ngơn ngữ đã đóng một vai trị quan trọng làm nên thành cơng của thơ các chị.
3.3. Thể thơ
Qua khảo sát các tập thơ của Xuân Quỳnh, Lâm Thị Mỹ Dạ, Phan Thị Thanh Nhàn
chúng tôi nhận thấy những thể thơ nhằm biểu đạt hình thức của ngôn ngữ thơ được các chị
sử dụng nhiều là thể thơ tự do, thể thơ lục bát và thể thơ năm chữ. Trong đó thể thơ tự do là
thể thơ được sử dụng nhiều nhất và chiếm tỷ lệ cao ở hầu hết các tập thơ. Tiếp đó là thể thơ
năm chữ và thể thơ lục bát; sau đó là thể thơ sáu chữ. Thể thơ tám chữ cùng với thể bảy chữ
và bốn chữ được sử dụng rất ít.
3.3.1.Thể thơ tự do
Đây là thể thơ không tuân theo một quy luật nào cả, tự do trong một số câu trong bài,
tự do về một số chữ trong một câu, tự do về nhịp điệu, cách ngắt câu, ngắt đoạn... Nhìn
chung cả 6 tập thơ, thể thơ tự do luôn được Xuân Quỳnh, Phan Thị Thanh Nhàn, Lâm Thị
Mỹ Dạ sử dụng với tần số cao.

14


Thể thơ tự do góp phần đắc địa trong việc thể hiện tâm sự, suy tư, những dòng suy
nghĩ miên man của nhân vật trữ tình.
Hình thức tự do của câu thơ đã tạo ra những khoảng lặng gieo vào lịng người đọc
cảm giác bâng khng, xao xuyến, do đó đạt hiệu quả đắc lực trong việc giãi bày tâm tư,
cảm xúc.
3.3.2 Thể thơ năm chữ
Đây là thể thơ rất gần gũi, bình dị, tự nhiên, phù hợp với hồn thơ mạnh mẽ, khỏe

khoắn có cá tính và đậm chất dân gian.
Những bài thơ làm theo thể thơ năm chữ của Xuân Quỳnh, Lâm Thị Mỹ Dạ, Phan
Thị Thanh Nhàn là những bài thơ mang âm hưởng vui tươi, thể hiện vẻ đẹp tâm hồn trẻ
trung, tươi tắn hồn hậu trong cảm xúc và sự mộc mạc, giản dị trong cách thể hiện.
Thể thơ năm chữ cịn góp phần khắc họa những tình cảm hết sức trong sáng của cái
tơi trữ tình như tình bạn, tình u đơi lứa thủa ban đầu.
Thể thơ năm chữ đem lại nết chân thành, dung dị trong tình cảm. Giản dị tự nhiên là
vậy, nhưng thể thơ năm chữ nhiều lúc vẫn tạo ra nét tinh tế, giản dị trong cách cảm nhận và
thể hiện.
Nhìn chung, thơ năm chữ khơng được sử dụng với tỷ lệ lớn, nhưng những bài thơ
này như những nốt nhạc vui tươi trong sáng trong bản nhạc thơ ca đa sắc màu của Xuân
Quỳnh, Lâm Thị Mỹ Dạ, Phan Thị Thanh Nhàn.
3.3.3. Thể thơ lục bát
Lục bát là một trong những thể thơ truyền thống của dân tộc, được sử dụng nhiều
trong ca dao, dân ca. Lục bát đem lại cho lời thơ sự êm ái, mượt mà, dễ nhớ, dễ thuộc, dễ
ngâm nga, rất gần gũi với điệu tâm hồn người Việt.
Thời gian đầu, các chị thường sáng tác thơ lục bát. Các chị dùng thể thơ lục bát để
viết nên những bài thơ về đất nước, quê hương, về mẹ. Nhất là Lâm Thị Mỹ Dạ.
Các chị thường dùng thể thơ truyền thống của dân tộc để viết về đất nước Việt Nam
từ phương diện truyền thông văn hóa, lích sử đem lại cho thơ chất dân gian mượt mà, sâu
lắng, sự giản dị mộc mac, trong sáng trong cách thể hiện, từ đó giúp các chị nói được một
cách sâu sắc và thấm thía về dịng chảy lịch sử suốt mấy ngàn năm dân tộc.
Những dòng thơ lục bát ngọt ngào, trong trẻo giúp các chị thể hiện vẻ đẹp thân
thương của quê hương xưa một cách đầy gợi cảm.

15


Thể thơ lục bát còn giúp các chị thể hiện nét trong trẻo, tinh tế, đằm thắm của cuộc
sống cho đến âm thanh sôi động, khẩn trương nhịp nhàng của cuộc sống lao động hàng ngày.

Không dừng lại ở đấy thể thơ lục bát cịn góp phần khơng nhỏ trong việc tạo nên
những bức chân dung đẹp về con người. Đó là vẻ đẹp khỏe khoắn, mạnh mẽ, tươi giịn của
những cô thôn nữ hăng say lao động. Là vẻ đẹp của những người lính Việt Nam kiên trung,
bất khuất hay vẻ đẹp của những người mẹ, người chị tảo tần sớm hôm…
Thể thơ lục bát đã giúp đỡ những nhà thơ nữ lưu giữ lại vẻ đẹp độc đáo của quê
hương, đất nước và con người trong những vần thơ.
Thể thơ lục bát giúp các chị thể hiện sự ngọt ngào và tình yêu thương dành cho người
thân như người mẹ, người chồng, các con…
Thể thơ lục bát tạo ra khoảng lặng để độc giả cùng đắm mình với những nhân vật trữ
tình trong dịng hồi niệm thiêng liêng.
Như vậy, cùng với hình ảnh, ngơn từ thì thể thơ là yếu tố nghệ thuật góp phần tạo
nên thành cơng to lớn cho các sáng tác của Xuân Quỳnh, Lâm Thị Mỹ Dạ, Phan Thị Thanh
Nhàn. Qua khảo sát tìm hiểu các thể thơ sử dụng trong thơ các chị, một lần nữa chúng ta có
cái nhìn khái qt, đầy đủ về thơ trữ tình của các chị ở mọi phương diện.
3.4. Thời gian nghệ thuật và không gian nghệ thuật
3.4.1. Thời gian nghệ thuật
Thời gian nghệ thuật là hình thức nội tại của hình tượng nghệ thuật thể hiện tính
chỉnh thể của nó. Khảo sát các tác phẩm thơ của Xuân Quỳnh, Lâm Thị Mỹ Dạ, Phan Thị
Thanh Nhàn, chúng tôi thấy nổi bật hai kiểu thời gian tiêu biểu: Thời gian hiện tại gắn với
cuộc sống đời thường và thời gian quá khứ gắn với những hoài niệm.
Xuân Quỳnh cũng như Mỹ Dạ và Thanh Nhàn luôn trở về với thực tại để chiêm
nghiệm cuộc sống đời thường. Thời gian trong thơ các chị thể hiện một cách rõ nét quan
niệm, suy ngẫm, trải nghiệm về cuộc sống.
Thời gian thực tại là thời gian diễn ra nhịp sống, hơi thở hiện thực đời thường. Trước
hết, nó được đo đếm, nhận diện qua sự vận động của cảnh vật. Các chị đã tái hiện thời gian
hiện tại gắn liền với những sinh hoạt đời thường gần gũi. Thời gian cũng in dấu trong những
công việc lao động rộn ràng, vui tươi, khỏe khoắn. Thời gian hiện tại còn là khoảng hạnh
phúc đời thường được sống trong tình yêu, trong niềm vui tổ ấm gia đình, bên những người
thân yêu.


16


Yêu thương, trân trọng thời gian thực tại bao nhiêu, các chị càng khắc khoải níu giữ,
tiếc nuối thời gian quá khứ bấy nhiêu. Thời gian quá khứ, thời gian hoài niệm là khoảng
lặng lắng xuống của tâm hồn mỗi con người. Đó là khi ở thực tại, các chị có điều kiện để
suy tư, chiêm nghiệm về những điều đã xảy ra trong cuộc đời mình.
Để níu giữ, chạy đua với thời gian các chị đã cố gắng lấp đầy những khoảng lặng của
thời gian bằng chính nguồn chất liệu là cuộc sống đời thường với vô vàn những hành động,
diễn biến, trạng thái, sinh hoạt hàng ngày. Thời gian của cuộc đời thì vơ hạn, thời gian của
con người thì hữu hạn, bởi vậy thơ các chị là tiếng lịng, là tiếng níu kéo, chạy đua với thời
gian và đến nay có thể khẳng định, với thời gian, các chị đã bất tử.
3.4.2. Không gian nghệ thuật
Cũng giống như thời gian nghệ thuật, không gian nghệ thuật là hình thức tồn tại của
thế giới nghệ thuật. Có thể thấy nổi bật trong thơ các chị là hình thức không gian hiện thực
của đời sống hàng ngày và không gian tâm tưởng - khơng gian của những hồi niệm. Đi sâu
tìm hiểu chúng ta thấy trong khơng gian hiện hữu đời thực, các chị đặc biệt chú ý đến
khoảng khơng gian của tổ ấm gia đình, khơng gian thiên nhiên và không gian địa lý gắn với
những địa danh cụ thể.
Qua khảo sát các tập thơ của Xuân Quỳnh, Lâm Thị Mỹ Dạ, Phan Thị Thanh Nhàn
chúng tôi thấy trở đi trở lại trong đó là khoảng khơng gian của đời sống, gắn với tổ ấm, tình
yêu bên gia đình. Đó là một khơng gian nhỏ bé, ấm áp ngập tràn tình yêu thương (trở đi trở
lại là hình ảnh căn phịng, ngơi nhà).
Khơng gian thiên nhiên cũng là một hình ảnh quen thuộc trong thơ các chị. Đó là
những khoảng không gian tuy giản dị nhưng tươi mát đầy sức sống. Các chị tìm thấy sức
sống, vẻ đẹp tiềm ẩn của thiên nhiên từ ngay những đối tượng thân thuộc, bình thường nhất.
Một hình tượng khơng gian quen thuộc trong thơ các chị đó là khơng gian gắn với
những địa danh cụ thể. Điều này được thể hiện khá rõ trong thơ Mỹ Dạ, Thanh Nhàn. Điều
đặc biệt khơng gian cịn được mở rộng, vượt ra ngồi biên giới bờ cõi. Đó là hình ảnh nước
Nga trong thơ Mỹ Dạ.

Có thể khẳng định, những khơng gian hiện hữu, đời thường trong thơ Xuân Quỳnh,
Lâm Thị Mỹ Dạ, Phan Thị Thanh Nhàn cịn ẩn chứa một hình ảnh khác và là phương tiện để
xây dựng không gian tâm tưởng, khơng gian của tình u và sự hồi niệm (hình ảnh con
đường, phố huyện...)

17


Như vậy, cùng với thời gian nghệ thuật, không gian nghệ thuật trong thơ Xuân
Quỳnh, Lâm Thị Mỹ Dạ, Phan Thị Thanh Nhàn luôn gắn liền với sự cảm thụ và dụng ý sáng
tác của các chị. Không - thời gian nghệ thuật trong thơ các chị có khả năng dịch chuyển, co
giãn, biến chuyển theo những cung bậc, ý niệm của cảm xúc. Có thể khẳng định yếu tố
khơng - thời gian nghệ thuật đã góp phần to lớn vào sự hồn thiện, thành cơng của thế giới
nghệ thuật trong thơ Xuân Quỳnh, Lâm Thị Mỹ Dạ, Phan Thị Thanh Nhàn.
3.5. Giọng điệu thơ
Giọng điệu là một thành tố không thể thiếu được trong việc xây dựng và triển khai tư
tưởng, xúc cảm của nhà thơ. Giọng điệu vốn là một hình thức bộc lộ tính chủ quan rõ nhất.
Giọng điệu là âm hưởng chung trong cách cảm, cách nhìn, là thái độ tình cảm, lập trường
đạo đức của nhà văn thể hiện trong lời văn để tạo nên giọng nói riêng mang tính phong
cách.
Có thể khẳng định giọng điệu mượt mà du dương là âm hưởng chủ đạo của thơ Xuân
Quỳnh, Lâm Thị Mỹ Dạ, Phan Thị Thanh Nhàn.
Bên cạnh giọng điệu mượt mà du dương là chủ yếu, thơ các chị còn mang một số giọng điệu
khác. Có khi thơ mang giọng triết lý. Giọng điệu triết lý đã phơi trải tiếng nói nội tâm sâu
lắng gắn với những trăn trở, suy tư về lẽ đời và thân phận người phụ nữ bằng sự trải nghiệm
của chính mình.
Với những câu thơ bày tỏ nỗi niềm tâm sự riêng, giọng điệu cũng trở nên trầm lắng
hơn, tỉnh táo hơn.
Với những câu thơ viết về tình yêu, giọng điệu thơ cũng có lửa hơn, nhiều đam mê
nồng nhiệt hơn.

Nhìn chung, dù triết lý hay phơi trải những nỗi xót xa, cay đắng của cuộc đời; dù
ngợi ca hay phơi bày hiện thực chiến tranh vói nhiều đau thương mất mát, thơ Xuân Quỳnh,
Lâm Thị Mỹ Dạ, Phan Thị Thanh Nhàn vẫn mang một giọng điệu thống nhất: giọng điệu
mượt mà du dương. Tựu chung lại, giọng điệu trong thơ trữ tình của Xuân Quỳnh, Lâm Thị
Mỹ Dạ, Phan Thị Thanh Nhàn là sự "tương hợp nội tại, giữa ý thức có tính độc lập và sự
lựa chọn thể loại phù hợp". Vì vậy, cũng như sự phát triển của thơ các chị nói chung, giọng
điệu trong thơ là "tự thân" và "tự nhiên". Chúng ta hy vọng hồn dân tộc, cội nguồn gốc rễ
sâu xa sẽ thổi bùng những mạch ngầm sáng tạo mới kế tiếp các chị để người đọc chúng ta có
được những vần thơ rất người, rất đời và điều quan trọng hơn hết là có ích cho cuộc đời này.

18


PHẦN KẾT LUẬN
Là lớp người lớn lên, trưởng thành trong kháng chiến chống Mỹ, Xuân Quỳnh, Lâm
Thị Mỹ Dạ, Phan Thị Thanh Nhàn đã đi qua một chặng đường dài từ chiến tranh đến hịa
bình. Những vần thơ của các chị mang đậm dấu ấn thời đại. Trong giai đoạn này, cái tơi trữ
tình trong thơ là khúc ca sơi nổi hòa nhịp cùng bản tráng ca của dân tộc. Nếu hiểu nền thơ
trữ tình dân tộc là một dịng chảy trong biển lớn của văn học nhân loại thì thơ các chị là
những nhành sông nhỏ chở nặng phù sa, hòa vào dòng chung ấy để chạy mãi, mải miết, dạt
dào. Tất yếu, nền thơ trữ tình hiện đại dân tộc khơng thể thiếu vắng dịng thơ của các chị,
bởi chẳng những nó đã góp phần thể hiện tâm hồn Việt Nam, nhân dân Việt Nam trong
kháng chiến mà nó cịn giúp ta hiểu hơn tâm hồn các chị nói riêng, tâm hồn người phụ nữ
nói chung.
Xuân Quỳnh, Lâm Thị Mỹ Dạ, Phan Thị Thanh Nhàn đã tạo cho mình một giọng
điệu riêng khác hẳn với các nhà thơ cùng thế hệ. Những điều các chị giãi bày trong thơ
khơng mới mẻ nhưng chính tâm hồn, trái tim, cá tính sáng tạo các chị gửi gắm trong đó mới
là điều giá trị. Chỉ các chị mới viết về chiến tranh, về Tổ quốc, về con người… bằng những
trực giác, trực cảm sâu sắc, tinh tế. Đặc biệt là đề tài tình yêu - tình cảm thiêng liêng của
mỗi con người được truyền tải, thể hiện dưới những ngòi bút sắc sảo, tinh tế hòa nhịp cùng

trái tim rạo rực, say đắm, nồng nàn.
Thơ Xuân Quỳnh, Lâm Thị Mỹ Dạ, Phan Thị Thanh Nhàn còn tạo nên một âm
hưởng riêng biệt không chỉ với các nhà thơ giai đoạn trước như Hồ Xuân Hương, Đoàn Thị
Điểm, Bà Huyện Thanh Quan… mà cịn cịn có sự khác biệt với cả các nhà thơ trẻ cùng thời
và sau này như Đoàn Thị Lam Luyến, Phan Thị Vàng Anh, Vi Thùy Linh, Ý Nhi… Khơng
nặng nề ở hình ảnh, ngơn từ, tứ thơ như các nhà thơ thế hệ trước hay các nhà thơ cùng thời,
đặc biệt khi viết về hình tượng Tổ quốc, về nhân dân các chị đã tạo cho mình một cách viết
dung dị, đời thường mà thấm thía. Cái tơi trữ tình trong thơ đã khắc họa hình ảnh Tổ quốc ở
vẻ đẹp của chiều sâu tư tưởng, tình cảm và hàm chứa trong đó là hình ảnh con người Việt
Nam hồn hậu, kiên cường, bao dung, bất khuất. Tình u đơi lứa trong thơ các chị vừa gắn
liền với cuộc đời chung, với thời đại, vừa mang hơi thở của dấu ấn cá nhân khơng dễ gì trộn
lẫn. Đáng chú ý nhất là Xuân Quỳnh, chị đã đi từ hạnh phúc, niềm đau riêng để thấy hạnh
phúc, niềm đau chung của cả một thời đại. Thơ của chị khơng phải là những ơ cửa chật hẹp
đóng kín trong khơng gian cá thể mà rộng mở vươn ra đón lấy trời xanh, gió mát của thời
đại và dân tộc.
19


Trong những sáng tác của mình, thơ Xuân Quỳnh, Lâm Thị Mỹ Dạ, Phan Thị Thanh
Nhàn có sự kế cận phương thức biểu hiện trong thơ của lớp người đi trước, song cũng có
những nét hiện đại mà các chị đã tiếp thu chọn lọc. Với các chị, thơ là cuộc sống thứ hai.
Không chỉ trong chiến tranh bom đạn các chị mới tìm thấy nguồn cảm hứng sáng tạo mà sau
chiến tranh, khi trở về với đời sống thường nhật các chị cũng cho ra đời nhiều tác phẩm
mang hình ảnh phản chiếu chính cuộc sống, con người các chị. Đó là những áng thơ mang
cảm hứng đời tư, thế sự, giàu chất suy ngẫm, chiêm nghiệm. Có thể khẳng định, trong nền
thơ ca đương đại, Xuân Quỳnh, Lâm Thị Mỹ Dạ, Phan Thị Thanh Nhàn đã giữ được phong
cách thơ bền vững, sắc nét, mang đậm dấu ấn cá nhân và tất yếu, những đứa con tinh thần
đó cho đến nay vẫn nhận được sự đón nhận nồng nhiệt của bao thế hệ bạn đọc. Đây cũng
chính là món q vơ giá giành cho những cống hiến, sáng tạo khơng mệt mỏi của các chị.
Tìm hiểu về thơ Xuân Quỳnh, Lâm Thị Mỹ Dạ, Phan Thị Thanh Nhàn chính là tiếp

cận với một góc diện mạo thơ ca giai đoạn chống Mỹ cứu nước và thơ ca sau chiến tranh.
Những tác phẩm của các chị đã đóng góp không nhỏ cho giá trị, ý nghĩa của nền thơ ca dân
tộc. Có thể ví von rằng những trang thơ của các chị có chức năng như những bộ lọc thanh
lọc tâm hồn mỗi con người. Đọc thơ các chị, chúng ta biết yêu hơn cuộc sống, con người
trên quê hương mình và từ đó mỗi người sẽ biết sống tốt hơn, sống có lý tưởng và niềm tin
vào tương lai phía trước.
Cho đến hơm nay, giữa những biến động của cuộc sống thì cái tơi trữ tình trong thơ
Xn Quỳnh, Lâm Thị Mỹ Dạ, Phan Thị Thanh Nhàn vẫn vững vàng, vẫn hiên ngang bất
chấp sự bào mòn của thời gian. Dòng chảy cuộc đời cứ vạn biến, cứ vơ tình trơi lặng lẽ để
trên dịng chảy đó, thơ các chị luôn bất biến, vĩnh hằng. Đây là giá trị to lớn của sáng tạo
nghệ thuật mà không phải người nghệ sĩ nào cũng có được.

20



×