Tải bản đầy đủ (.doc) (30 trang)

Tìm Hiểu Và Nghiên Cứu Bản Chất Của Chủ Nghĩa Mác – Lênin Và Thấy Được Vị Trí, Vai Trò Của Nó Như Thế Đối Với Nước Ta Hiện Nay Đang Quá Độ Lên CNXH

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (175.33 KB, 30 trang )

Lời mở đầu
Đất nớc ta có sự phát triển của CNH, HĐH và đời sống của nhân dân
ngày càng đợc nâng cao, nhân dân đợc hởng cuộc sống tự do hạnh phúc là nhờ
biết bao thế hệ ông cha đã hy sinh xơng máu, một lòng Quyết tử cho tổ quốc
quyết sinh để bảo vệ độc lập tự do cho tổ quốc.
Với hàng ngàn năm bị nô lệ, hết kẻ thù này đến kẻ thù khác sang xâm lợc
nớc ta. Biết bao phong trào đấu tranh đã bị thất bại. Nhng khi Chủ tịch Hồ Chí
Minh bắt gặp lý tởng vĩ đại của chủ nghĩa Mác Lênin Ngời sung sớng mà
thốt lên: Đây cơm áo chính là đây. Theo đờng lối t tởng của chủ nghĩa Mác
Lênin trong suốt mấy chục năm qua dới sự lãnh đạo của Đảng chúng ta đã
giành hết chiến thắng này đến chiến thắng khác.
Và ngày nay cũng lấy mục tiêu lấy t tởng triết học Mác Lênin làm
kim chỉ nam cho hành động của mình. Nhân dân ta đang quyết tâm xây dựng
đất nớc đi lên chế độ XHCN.
Là sinh viên những ngời chủ tơng lai của đất nớc, những ngời nắm
vận mệnh của đất nớc, chúng ta càng cần tìm hiểu và nghiên cứu bản chất của
chủ nghĩa Mác Lênin và thấy đợc vị trí, vai trò của nó nh thế đối với nớc ta
hiện nay đang quá độ lên CNXH. Hơn nữa khi nghiên cứu về triết học, nó còn
có ý nghĩa vô cùng to lớn đối với việc học hành: giúp cho sinh viên chúng ta
rèn luyện t duy lôgic, làm phong phú vốn trí thức cho sinh viên. Vì nh chúng
ta đã biết triết học là bộ phận không thể tách rời của văn hoá và văn minh
nhân loaị. Triết học không ra đời cùng với sự xuất hiện con ngời. Thoạt đầu
con ngời của xã hội cộng sản nguyên thủy mới chỉ hiểu biết đợc những hiện tợng riêng lẻ, đơn nhất, ít ỏi. Sự hiểu biết về thế giới mang tính tự phát, không
có hệ thống. Triết học chỉ có thể ra đời khi năng lực t duy trìu tợng của con
ngời đạt đến trình độ phát triển cho phép khái quát những hiểu biết riêng lẻ,
rời rạc thành hệ thống những quan điểm chung về thế giới nh một chỉnh thể.
- Cơ sở phơng pháp luận: Dựa trên cơ sở của chủ nghĩa duy vật biện
chứng.
- Kết cấu đề tài:
+ Bản chất khoa học cách mạng của triết học Mác
+ Vai trò:


Cơng lĩnh xây dựng đất nớc trong thời kỳ quá độ lên CNXH
Kết quả đạt đợc thông qua đại hội VII, VIII, IX
A. Bản chất khoa học cách mạng của triết học Mác:
1


1. Sự xuất hiện triết học Mác.
Triết học là hệ thống những quan niệm, quan điểm chung nhất của con
ngời về thế giới, vị trí vai trò của con ngời trong thế giới đó. Nó là cơ sở thế
giới quan và phơng pháp luận cho hoạt động cho hoạt động của một lực lợng,
một giai cấp xã hội nhất định.
Triết học Mác ra đời không phải là ngẫu nhiên, mà là một hiện tợng hợp
quy luật. Nó do những nguyên nhân kinh tế xã hội và sự phát triển của t tởng nhân loại trớc đó.
Về tiền đề kinh tế xã hội: Cuối thể kỷ 18 đầu thế kỷ 19 chế độ phong
kiến đã sụp đổ, chế độ TBCN đã thắng lợi trong nhiều nớc ở Tây âu. Chủ
nghĩa t bản đã làm cho lực lợng sản xuất phát triển cha từng thấy, tạo ra một
nền tảng công nghiệp cơ khí và cùng với nó là sự xuất hiện giai cấp vô sản
công nghiệp. Mâu thuẫn giữa lực lợng sản xuất có tính chất xã hội hoá với
quan hệ sản xuất TBCN. Xét về mặt xã hội đó là một cuộc đấu tranh không
thể điều hoà giữa giai cấp vô sản và t sản. Chính chủ nghĩa t bản đã tạo ra lực
lợng để giải quyết mâu thuẫn lực lợng đó là giai cấp vô sản cách mạng, ngày
càng phát triển có tính tự giác và tổ chức cao nh một lực lợng chính trị độc
lập. Vào những năm 30 40 của thế kỷ 19, mâu thuẫn giữa lao động và t bản
trở nên gay gắt làm xuất hiện những cuộc đấu tranh đầu tiên của giai cấp công
nhân có tính chất tự giác.
Từ những năm 1843 toàn bộ cuộc đời và hoạt động của Mác và Ang
ghen đã gắn liền với số phận của giai cấp công nhân. Hai ông đã hiến dâng
sức lực và tài năng trong cuộc đấu tranh vì chủ nghĩa cộng sản.
Sự xuất hiện triết học Mác là sự kết tinh những di sản lý luận quý báu
trong kho tàng tiến bộ của loài ngời. Đặc biệt là những thành tựu to lớn của

nền triết học cổ điển Đức ở đầu thế kỷ 19 với những đại biểu: Cantơ, Phơ
bach, Hêghen... Hai ông đã kế thừa trực tiếp t tởng quý báu của chủ nghĩa duy
vật Phơbach và những hạt nhân hợp lý của phép biện chứng Hêghen để xây
dựng nên thế giới quan mới thế giới quan duy vật biện chứng.
Sự xuất hiện triết học Mác cũng đợc chuẩn bị bởi những thành tựu của
khoa học tự nhiên. Từ những năm 30, 50 của thế kỷ 19 khoa học tự nhiên phát
triển mạnh mẽ đem lại nhiều thành tựu mới quan trọng với những phát minh
vợt thời đại. Do vậy đòi hỏi phải có sự khái quát về mặt triết học vạch ra mối
liên hệ lẫn nhau giữa các quá trình xảy ra trong tự nhiên, chứng minh một
cách biện chứng về sự phát triển của tự nhiên.

2


Sự xuất hiện triết học Mác nói chung, triết học Mác nói riêng không chỉ
là kết quả của sự vận động phát triển của các nhân tố khách quan mà nó còn
đợc hình thành trong sự thống nhất giữa điều kiện khách quan và nhân tố chủ
quan. Đó là tài năng của Mác và Ang ghen đã thực hiện đợc bớc ngoặt
cách mạng vĩ đại trong lịch sử triết học. Sở dĩ Mác và Ang ghen đã tạo nên
bớc ngoặt cách mạng trong lý luận và xây dựng một khoa học triết học mới là
bởi vì hai ông có sự kết hợp nhuần nhuyễn và sâu sắc những phẩm chất tinh
túy và uyên bác nhất của các nhà khoa học và cách mạng trớc đó.
Nh vậy triết học Mác cũng nh toàn bộ chủ nghĩa Mác ra đời là một tất
yếu lịch sử không những bơỉ vì nó là sự phản ánh thực tiễn xã hội nhất là thực
tiễn cách mạng của giai cấp công nhân mà nó còn là sự phát triển hợp logic
của lịch sử t tởng nhân loại.
2. Bản chất khoa học cách mạng của triết học Mác:
Trọng lịch sử đã có không ít những bớc nhảy vọt, những bớc ngoặt cách
mạng, tạo ra những thành tựu vĩ đạo trong khoa học nghệ thuật, trong triết
học. Sự xuất hiện chủ nghĩa Mác là bớc ngoặt quan trọng trong lịch sử t tởng

xã hội.
Cơ sở triết học của chủ nghĩa Mác là chủ nghĩa duy vật biện chứng và
chủ nghĩa duy vật lịch sử, lần đầu tiên đã chỉ cho giai cấp vô sản và nhân dân
lao động nối thoát khỏi sự nô lệ về tinh thần, đem lại cho loài ngời, đặc biệt là
giai cấp công nhân những công cụ nhận thức và cải tạo thế giới. Nh Mác nói,
nếu trái tim của sh giải phóng nhân loại là giai cấp vô sản, thì khối óc của sự
giải phóng đó là triết học của g iai cấp vô sản, là thế giới quan của nó.
Giống nh triết học tìm thấy ở giai cấp vô sản một vũ khí vật chất, giai
cấp vô sản tìm thấy ở triết học một vũ khí tinh thần.
Trung tâm chú ý của triết học Mác không chỉ là giải thích mà còn là vạch
ra những con đờng, những phơng tiện cải tạo thế giới bằng cách mạng.
Đứng trên lập trờng của giai cấp vô sản Mác và Ang ghen đã vạch ra
những thiếu sót căn bản của triết học trớc và thực hiện sự biến đổi tận gốc vai
trò xã hội của triết học. Theo các Mác nhiệm vụ của triết học là cải tạo thế
giới. Không một đại biểu nào của triết học trớc mác hiểu đợc vai trò quyết
định của thực tiễn trong sự phát triển của xã hội của khoa học. Thập chí cả
những nhà triết học đã đóng vai trò to lớn trong cuộc đấu tranh chống các
quan hệ xã hội cũ và đòi thay bằng các quan hệ mới, cũng không hiểu đợc
rằng lý luận phải phụ vào thực tiễn, rằng lý luận mà thiếu hoạt động thực tiễn
3


quần chúng thì sẽ không còn sức mạnh. Ngay cả các nhà duy vật Pháp thế kỷ
18 trong nhiều năm đã tiến hành đấu tranh chống tôn giáo và chủ nghĩa phong
kiến, nhng vẫn không hiểu đợc rằng việc cải biến xã hội sẽ không thể thực
hiện đợc nếu thiếu thực tiễn đấu tranh cách mạng của quần chúng nhân dân.
Vũ khí chủ yếu để cải tạo xã hội theo họ là mở mang trí tuệ và giáo dục con
ngời. Phơ - Bách và các nhà xã hội chủ nghĩa không tởng Pháp cũng mang
quan điểm đó.
Khi chỉ ra vai trò quyết định của hoạt động thực tiễn trong sự phát triển

của xã hội, các nhà kinh điển của chủ nghĩa duy vật biện chứng đã không phủ
nhận, mà nhấn mạnh vai trò to lớn của hoạt động tinh thần.
Trong tác phẩm góp phần phê phán triết học pháp quyền của Hê - ghen.
Lời nói đầu, Các Mác viết Cố nhiên vũ khí của sự phê phán không thể thay
thế đợc sự phê phán của vũ khí, lực lợng vật chất chỉ có thể bị đánh đổi bằng
lực lợng vật chất; nhng lý luận cũng sẽ trở thành lực lợng vật chất, một khi nó
thâm nhập vào quần chúng.
Lịch sử đấu tranh giai cấp đã chứng minh tính chất đúng đắn của kết luận
trên đây của Mác. Các giai cấp thống trị về kinh tế và chính trị không khi nào
tự nguyện rút lui khỏi vũ đài lịch sử. Quyền thống trị của chúng không thể thủ
tiêu bằng sự phê phán trên lời nói, mà phải bằng một cuộc đấu tranh cách
mạng. Cuộc đấu tranh t tởng không thể dẫn đến thay đổi chế độ xã hội, nó
không thể vợt ra ngoài khuôn khổ của các quan hệ xã hội cũ, nhng nó có vai
trò to lớn trong đời sống xã hội. Lý luận khoa học khi thâm nhập vào quần
chúng sẽ đem lại cho họ khả năng hiểu biết những quy luật phát triển của đời
sống xã hội và thực hiện một cách tự giác những nhiệm vụ của cuộc đấu tranh
thực tiễn. Lý luận cách mạng sẽ thống nhất và tổ chức quần chúng đấu tranh
chống các quan hệ xã hội cũ hay bằng các quan hệ xã hội mơi. Lý luận sẽ trở
thành lực lợng vật chất hùng mạnh trong mối liên hệ với cuộc đấu tranh thực
tiễn của quần chúng.
Mác và Ang ghen đã sáng tạo ra thứ triết học, nh chính hai ông nhận
xét không hề biết sợ truớc bất kỳ một cái gì và về bản chất nó có tính phê
phán và cách mạng.
Sức mạn vô địch của lý luận Mác còn ở chỗ đó là sự thống nhất của tính
khoa học với tính cách mạng. Lý luận đó nh Lênin nói: Công khai tự đề ra cho
mình nhiệm vụ phải vạch trần hết thảy mọi hình thức đối kháng và hình thức
bóc lột trong xã hội hiện đại, phải theo dõi sự diễn biễn của các hình thức đó,
phải chứng minh tính tạm thời của các hình thức đó, sự chuyển biến không thể
4



tránh khỏi của các hình thức ấy thành các hình thức khác và do đó rút cho giai
cấp vô sản kết liễu một cách hết sức nhanh chóng và dễ dàng mọi sự bóc lột.
Mác và Ang ghen đặt cho triết học của mình nhiệm vụ phục vụ giai
cấp vô sản, phục vụ cuộc đấu tranh cho chủ nghĩa cộng sản. Hai ông tự gọi
mình là những nhà duy vật thực tiễn, có nghĩa là những ngời cộng sản. Trong
hệ t tởng Đức Mác và Ang ghen đã viết: thật ra là đối với nhà duy vật thực
tiễn tức là đối với ngời cộng sản thì tất cảvấn đề là ỏ chỗ cách mạng hoá thế
giới hiện có, tấn công và thay đổi một cách thực tiễn trạng thái sự vật mà mình
thấy.
Nh vậy sự khách nhau căn bản giữa triết học Mác với tất cả các triết học
trớc đó là ở chỗ triết học Mác gắn chặt với phong trào cách mạng giải phóng
của giai cấp vô sản và quần chúng lao động, nó là vũ khí khoa học trong cuộc
đấu tranh cho chủ nghĩa cộng sản.Triết học Mác thể hiện là lợi ích của giai
cấp công nhân và quần chúng nhân dân lao động. Chính ở đây thể hiện tính
Đảng tính giai cấp của triết học Mác.
Các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác không che dấu mà công khai công
bố tính Đảng của triết học của mình. Các ông vạch trần tính chất sai lầm của
các lý thuyết về tính phi giai cấp của triết học trong xã hội có đối kháng giai
cấp và chỉ ra rằng, triết học cũng nh các hình thái ý thức xã hội khác bị quyết
định bởi những điều kiện vật chất của đời sống xã hội, bởi tồn tại xã hội.
Trong xã hội có giai cấp không có và không thể có một thế giới quan duy
nhất, một triết học duy nhất.
Tính Đảng của triết học Mác không đối lập với tính khách quan tính
khoa học.
Lợi ích của giai cấp vô sản không đối lập mà phù hợp với tiến trình
khách quan của sự phát triển. Giai cấp vô sản luôn luôn quan tâm đến sự nhận
thức đúng đăn, khoa học hiện thực khách quan, không xuyên tạc chúng. Chính
vì vậy mà tính Đảng của triết học Mác phản ảnh lợi ích căn bản của giai cấp
vô sản, đã dựa trên sự nghiên cứu khách quan giới tự nhiên và xã hội.

Một chiến công vĩ đại nữa của Mác và Ang ghen là ở chỗ hai ông đã
tạo ra hình thức cao của chủ nghĩa duy vật là chủ nghĩa duy vật biện chứng và
hình thức cao của phép biện chứng là phép biện chứng duy vật. Trong triết học
của hai ông thì chủ nghĩa duy vật và phép biện chứng gắn liền với nhau.
Chủ nghĩa duy vật trớc Mác đã đóng vai trò hết sức to lớn trong sự phát
triển của khoa học trong cuộc đấu tranh với tôn giáo và chủ nghĩa duy tâm,
5


nhng trong thời kỳ cổ đại thì chỉ là chủ nghĩa duy vật biện chứng ngây thơ,
còn ở thời cận đại thì là chủ nghĩa duy vật siêu hình máy móc. Nó không thể
khắc phục triệt để chủ nghĩa duy tâm và vạch ra đợc những nguyên nhân phát
triển của tự nhiên và xã hội, không vạch ra đợc phép biện chứng của quá trình
nhận thức và con đờng cải tạo thế giới. Chủ nghĩa duy tâm đã lợi dụng tính
chất yếu kém của chủ nghĩa duy vật tự phát, siêu hình và đã tiến hành cuộc
đấu tranh quyết liệt chống lại nó. Các nhà duy tâm cổ điển Đức đặc biệt là Hê
- ghen đã ra sức nhấn mạnh mặt hiệu quả của ý thức, đối lập quan điểm biện
chứng về sự phát triển với quan điểm siêu hình. Nhng từ lập trờng chủ chủ
nghĩa duy tâm họ không thể tạo ra đợc phép biện chứng khoa học.
Mác và Ang ghen đã nghiên cứu có phê phán những thành tựu xuất
sắc của triết học trớc, tạo ra triết học duy vật biện chứng. Hai ông nh Lênin
nói, đã làm phong phú chủ nghĩa duy vật bằng phép biện chứng, còn phép biện
chứng thì đợc hai ông đặt trên cơ sở hiện thực và biến thành khoa học. Đồng
thời cả chủ nghĩa duy vật và phép biện chứng đều đợc nâng cao lên giai đoạn
phát triển cao, mới về chất lợng.
Chủ nghĩa duy vạt trớc Mác là không triệt để. Nó đã gắn liền với chủ
nghĩa duy tâm trong những quan niệm về xã hội, Mác và Ang ghen đã giải
thích duy vật không những giới tự nhiên mà cả xã hội, do đó đã đuổi cổ chủ n
nghĩa duy tâm ra khỏi hầm trú ẩn cuối cùng của nó là lĩnh vực xã hội học.
Việc tạo ra chủ nghĩa duy vật lịch sử là biểu hiện vĩ đại nhất của bớc

ngoặt cách mạng trong triết học do Mác và Ang ghen thực hiện.
Khi vạch ra mối quan hệ tác động g iữa kinh tế, chính trị và t tởng, Mác
và Ang ghen đã xác định tính thứ nhất của tồn tại xã hội, của điều kiện vật
chất của đời sống xã hội và tính thứ hai của ý thức xã hội.
Mác và Ang ghen đã bóc bỏ những học thuyết duy tâm gắn lịch sử với
hoạt động của bọn vua chúa, tớng lĩnh, những cá nhân phi thờng và chứng
minh một cách khoa học rằng hoạt động của quần chúng nhân dân là lực lợng
quyết định trong việc tạo ra những giá trị vật chất và tinh thần, trong những
cải bbiến cách mạng đời sống xã hội. Hai ông cũng chhỉ rõ sự chuyển biến từ
một hình thái kinh tế xã hội này sang một hình thái kinh tế xã hội khác
diễn ra không phải tự động mà là trong quá trình đấu tranh giai cấp quyết liệt.
Với việc vạch ra các quy luật của cuộc đấu tranh giai cấp và cách mạng xã
hội, Mác và Ang ghen đã đem lại một cơ sở khoa học cho hoạt động tự giác
của giai cấp công nhân và đội tiên phong của nó là các Đảng cộng sản.

6


Sáng tạo ra chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử,
Mác và Ang ghen đã biến đổi căn bản tính chất của triết học, đối tợng của
nó và mối quan hệ với các khoa học khác.
Trớc khi xuất hiện chủ nghĩa Mác thì triết học hoặc là hoà lẫn với các tri
thức cụ thể về tự nhiên và xã hội, hoặc là tách rời rất rõ rệt với các khoa học
cụ thể. Khác với triết học trớc, triết học Mác không hoà vào các khoa học cụ
thể và cũng không tách rời chúng.
Triết học Mác không có tham vọng giải quyết mọi vấn đề không có tham
vọng đóng vai trò của một hệ thống đã xong xuôi, vai trò của kinh thánh. Nó
thay các hệ thống triết học chết cứng bằng sự nhận thức sinh động giới tự
nhiên và xã hội.
Triết học Mác, nh trên nói, không chỉ khái quát thực tiễn phát triển xã

hội, mà cả những thành tựu của các khoa học cụ thể về tự nhiên và xã hội.
Mẫu mực của sự khais quát có tính chất duy vật biện chứng sâu sắc các
thành tựu cuả khoa học cụ thể là các tác phẩm t bản của Mác, chống
Đuy- rinh và Biện chứng của tự nhiên của Ăng ghen . Chủ nghĩa duy
vật và chủ nghĩa kinh nghiệm phê pháncủa Lê Nin.
Ttiết học Mác có ý nghĩâ thế giới quan và phơng pháp to lớn đối với các
khoa học cụ thể. Hiểu biết các quy luật phát triển nhất của hiện thực khách
quan sẽ giúp nghiên cứu có kết quả các quy luật đặc thù. Lê nin đã viết:
... Nếu không có một cơ sở triết học vững vàng thì tuyệt nhiên không có
khoa học tự nhiên nào hay chủ nghĩa duy vật nào có thể tiến hành đấu tranh
chống đợc sự lấn bớc của những t tởng t sản và sự phục hồi của thế giới quan
t sản. Muốn tiến hành đợc cuộc đấu tranh ấy và đa nó lên đến thành công hoàn
toàn, các nhà khoa học tự nhiên phải là một nhà duy vật hiện đại, một đồ đệ tự
giác của nghĩa duy vật mà Mác là ngời đại diện, nghĩa là nhà khoa học tự
nhiên ấy phải là một nhà duy vật biện chứng.
Luận điểm đó của Lênin cũng đúng cho cả khoa học xã hội. Nếu không
có quan điểm duy vật biện chứng về các hiện tợng của đời sống xã hội thì
không thể tạo ra đợc kinh tế học chính trị nh một khoa học, không thể biến
chủ nghĩa xã hội từ không tởng thành khoa học. Không có chủ nghĩa duy vật
biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử thì không thể hiểu đợc sự phát triển
của nghệ thuật của văn học và những mặt khác của đời sống xã hội. Sự thống
nhất biện chứng giữa triết học Mác và các khoa học cụ thể là một bảo đảm cho
sự phát triển đi lên trong việc nghiên cứu và cải tạo tự nhiên và xã hội.

7


Triết học của chủ nghĩa Mác Lênin là triết học sáng tạo. Những luận
điểm cơ bản của triết học đợc Mác và Ang ghen xây dựng vào những năm
40 của thế kỷ 19. Sau đó vào thời kỳ tiếp theo trong hoạt động của mình,

khoảng 40 năm hai ông đã nghiên cứu toàn diện các vấn đề của chủ nghĩa duy
vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, khoa học tự nhiên, lịch sử triết
học. Ngoài ra những luận điểm của triết học Mác đợc phát triển bởi các nhà
Mác xít nh Ph. Mê -rinh... trong việc nghiên cứu triết học Mác thì Lênin đóng
vai trò hết sức to lớn. Ông đã nâng triết học Mác lên một giai đoạn cao mới.
Cuối cùng triết học Mác Lêninh đợc Đảng cộng sản và công nhân quốc tế và
các nhà trớc học trên thế giới tiếp tục phát triển.
B. Vai trò của triết học Mác Lênin:
I. Cơng lĩnh xây dựng đất nớc trong thời kỳ hiện nay (quá độ lên chủ
nghĩa xã hội).
Hầu hết các nớc đi theo con đờng XHCN trên toàn thế giới đều lấy t tởng
triết học Mác Lênin làm kim chỉ nam cho hành động của mình. Và nớc ta
cũng vậy, sau khi dành thắng lợi lịch sử mùa Xuân năm 1975 nhân dân ta tiếp
tục nêu cao chủ nghĩa yêu nớc, khôi phục kinh tế khắc phục hậu quả nặng nề
của chiến tranh từng bớc xây dựng quan hệ sản xuất mới và cơ sở vật chất kỹ
thuật của chủ nghĩa xã hội.
Trong cách mạng xã hội chủ nghĩa, Đảng ta đã có nhiều cố gắng nghiên
cứu tìm tòi xây dựng đờng lối xác định đúng mục tiêu và phơng hớng xã hội
chủ nghĩa. Tại đại hội lần VI Đảng ta đã tự phê bình và đề ra đờng lối đổi mới.
Công cuộc đổi mới qua hơn 4 năm đã đạt những thành tựu bớc đầu rất quan
trọng. Tình hình kinh tế xã hội có chuyển biến tích cực tạo thế đi lên và khẳng
định con đờngchúng ta đi là hoàn toàn đúng. Tuy nhiên khó khăn còn nhiều,
đất nớc cha ra khỏi khủng khoảng kinh tế xã hội. Với mục tiêu lấy t tởng triết
học Mác Lênin làm kim chỉ nam cho hành động của mình Đảng ta đã đề ra
phơng hớng hành động:
Một là: Xây dựng Nhà nớc XHCN Nhà nớc của dân, do dân và vì dân,
lấy liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức làm
nền tảng, do Đảng lãnh đạo. Thực hiện đầy đủ quyền dân chủ của nhân dân,
giữ nghiêm kỷ cơng của xã hội, chuyên chính với mọi hành động xâm phạm
lợi ích của tổ quốc và của nhân dân.

Hai là: Phát triển lực lợng sản xuất, công nghiệp hoá đất nớc theo hớng
hiện đại gắn liền với phát triển một nền nông nghiệp toàn diện là nhiệm vụ

8


trung tâm nhằm từng bớc xây dựng cơ sở vật chất và kỹ thuật của chủ nghĩa xã
hội, không ngừng nâng cao năng suất lao động xã hội và cải thiện đời sống
nhân dân.
Ba là: Phù hợp với sự phát triển của lực lợng sản xuất, thiết lập từng bớc
quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa từ thấp đến cao với sự đa dạng và hình thức
sở hữu. Phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định hớng
XHCN, vận hành theo cơ chế thị trờng có sự quản lý của Nhà nớc. Kinh tế
quốc doanh và kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng của nền kinh tế
quốc dân. Thực hiện nhiều hình thức phân phối, lấy phân phối theo kết quả lao
động và có hiệu quả kinh tế là chủ yếu.
- Bốn là: tiến hành CMXH trên lĩnh vực t tởng và văn hoá làm cho thế
giới quan Mác Lê nin và t tởng, đạo đức Hồ Chí Minh giữ vị trí chủ đạo
trong đời sống tinh thần xã hội. Kế thừa và phát huy những truyền thống văn
hoá tốt đẹp của tất cả các dân tộc trong nớc, tiếp thu những tinh hoa văn hoá
nhân loại, xây dựng một xã hội dân chủ, văn minh vì lợi ích chân chính và
phẩm giá con ngời, với trình độ tri thức, đạo đức, thể lực và thẩm mỹ ngày
càng cao. Chống t tởng, văn hoá phản tiến bộ, trái với những truyền thống tốt
đẹp của dân tộc và những giá trị cao quý của loài ngời, trái với phơng pháp đi
lên CNXH.
- Năm là: Thực hiện chính sách đại đoàn kết dân tộc, củng cố và mở
rộng mặt trận dân tộc thống nhất, tập hợp mọi lực lợng phấn đấu vì sự nghiệp
dân giàu, nớc mạnh. Thực hiện chính sách đối ngoại hoà bình hợp tác và hữu
nghị với tất cả các nớc, trung tháng với chủ nghĩa quốc tế của giai cấp công
nhân, đoàn kết với các nớc XHCN, với tất cả các lực lợng đấu tranh vì hoà

bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội trên thế giới.
- Sáu là: xây dựng CNXH và bảo vệ tổ quốc là hai nhiệm vụ chiến lợc
của cách mạng Việt Nam. Trong khi đặt lên hàng đầu nhiệm vụ xây dựng đất
nớc, nhân dân ta luôn nâng cao cảnh giác, củng cố quốc phòng, bảo vệ an ninh
chính trị, trật tự an toàn xã hội, bảo vệ tổ quốc và các thành quả cách mạng.
- Bảy là, xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh và chính trị, t tởng và tổ
chức ngang tầm nhiệm vụ, đảm bảo cho Đảng làm tròn trách nhiệm lãnh đạo
sự nghiệp cách mạng cách mạng XHCN của nớc ta.
II. Những thành tựu đã đạt đợc thông qua đại hội 7, 8, 9
1. Trong đại hội 7, đồng chí Đào Duy Tùng đã báo cáo.

9


- Sau hơn 4 năm thực hiện nghị quyết đại hội Đảng VI, công cuộc đổi
mới đã đạt đợc nhiều thành tựu đáng kể và bớc đầu rất quan trọng. Về chính
trị: Tình hình chính trị không có những biến động lớn, mặc dù bối cảnh quốc
tế rất phức tạp và các thế lực phản động luôn tìm mọi thủ đoạn để chống phá
ta. Tuy vậy chúng ta phải đề cao cảnh giác, không thể xem thờng những nhân
tố có thể gây mất ổn định. Thành phần kinh tế chủ yếu của nớc ta trong thời
kỳ quá độ: kinh tế quốc doanh, kinh tế tập thể, kinh tế cá thể, kinh tế t bản t
nhân, kinh tế t bản nhà nớc.
2. Trong Đại hội 8, nghe báo cáo của Ban chấp hành TW Đảng
khoá VII những mặt đã đạt đợc.
a. Nền kinh tế đã khắc phục đợc tình trạng trì trệ, suy thoái, đạt mức
tăng trởng khá cao.
Tổng sản phẩm trong nớc (GDP) tăng bình quân hàng năm 8,2% (kế
hoạch là 5,5 6,5%)
Công nghiệp tăng bình quân hàng năm 13,3% (kế hoạch là 7,5 8,5%).
Một số ngành có mức tăng cao: năm 1995 so với năm 1990, công nghiệp

nhiên liệu (kể cả dầu khí)gấp 3,2 lần, điện gấp 1,6 lần, vật liệu xây dựng gấp
2,7 lần, chế biến thực phẩm gấp 1,9 lần...
Nông nghiệp tăng bình quân hàng năm 4,5% (mức đề ra 3,7 4,5%).
Sản lợng lơng thực 5 năm qua tăng 26% so với 5 năm trớc đó, tạo điều kiện cơ
bản để ổn định đời sống nhân dân, phát triển ngành nghề, chuyển dịch cơ cấu
nông nghiệp và kinh tế nông thôn. Nuôi trồng và đánh bắt thủy sản, hải sản
tăng khá; kim ngạch xuất khẩu thuỷ, hải sản năm 1995 gấp 3 lần năm 1990. Tỉ
lệ đất có rừng che phủ bắt đầu tăng nhờ đẩy mạnh trồng, khoanh nuôi và bảo
vệ rừng, hạn chế khai thác gỗ.
Các ngành dịch vụ năm 1995 tăng 80% so với năm 1990(bình quân hàng
năm tăng 12%). Giao thông vận tải có chuyển biến tiến bộ, vận tải hàng hoá
tăng 62%; viễn thông phát triển nhanh, doanh thu bu điện và doanh thu du lịch
đều gấp 10 lần; thị trờng hàng hoá trong nớc phát triển, đáp ứng nhu cầu ngày
càng tăng của xã hội về số lợng, chất lợng, chủng loại.
Lĩnh vực tài chính, tiền tệ đạt tiến bộ đáng kể, nổi bật nhất là đã chặn đợc
nạn lạm phát cao, từng bớc đẩy lùi lạm phát. chỉ số giá hàng tiêu dùng và dịch
vụ giảm từ 67,4% năm 1991 xuống còn 17,5% năm 1992; 5,2% năm 1993;
14,4% năm 1994 và 12,7% năm 1995.

10


Đã hình thành đợc hệ thống thuế áp dụng thống nhất cho các thành phần
kinh tế, nâng dần tỉ lệ động viên thuế và phí trong GDP, tạo thành nguồn thu
chính của ngân sách nhà nớc, bảo đảm toàn bộ chi thờng xuyên và tăng dần
phần dành cho đầu t phát triển. Tỉ lệ thiếu hụt ngân sách đã đợc kiềm chế;
chấm dứt việc phát hành tiền để bù đắp bội chi, thay bằng vay của dân, của nớc ngoài.
Trong lĩnh vực tiền tệ, tín dụng đã phân định chức năng quản lý nhà nớc
của ngân hàng nhà nớc và chức năng kinh doanh của ngân hàng thơng mại.
Việc điều hoà lu thông tiền tệ, ổn định giá trị đồng tiền Việt Nam, quản lý

ngoại hối, xây dựng thị trờng hối đoái hợp pháp và các hoạt động tín dụng,
thanh toán đều có bớc tiến.
Quy mô đầu t phát triển toàn xã hội tăng khá. Trong 5 năm, ớc tính vốn
đầu t phát triển toàn xã hội khoảng 18 tỉ USD (theo mặt bằng giá 1995), trong
đó phần của Nhà nớc chiếm 43% (bao gồm cả đầu t qua ngân sách, tín dụng
nhà nớc và doanh nghiệp nhà nớc tự đầu t), đầu t của nhân dân chiếm trên
30%, đầu t trực tiếp của nớc ngoài chiếm 27%. Đối với các doanh nghiệp nhà
nớc, đã chuyển mạnh từ hình thức ngân sách cấp phát có tính chất bao cấp
sang hình thức tín dụng đầu t, mở rộng liên doanh liên kết, vay vốn trong nớc
và ngoài nớc... Đã tập trung nhiều hơn vốn đầu t của ngân sách nhà nớc cho hạ
tầng kinh tế, xã hội. Vốn đầu t của dân phát triển ở cả nông thôn và thành thị.
Tốc độ thu hút vốn đầu t trực tiếp của nớc ngoài trong 5 năm qua tăng bình
quân hàng năm 50%; phần vốn đợc thực hiện đạt khoảng 1/3 tổng số vốn đăng
ký theo dự án.
Những kết quả về đầu t phát triển làm tăng năng lực sản xuất trong nông,
lâm ng nghiệp, công nghiệp và dịch vụ, đa vào hoạt động một số công trình
quan trọng của nền kinh tế, nhất là giao thông, thủy lợi, dầu khí, thép, xi măng
và các cơ sở du lịch, dịch vụ.
b. Cơ cấu kinh tế theo ngành và vùng đã bắt đầu chuyển dịch theo hớng
công nghiệp hoá; hình thành nền kinh tế nhiều thành phần.
Cơ cấu ngành:
Trong GDP, nông, lâm, ng nghiệp tăng khá về số tuyệt đối, nhng tỉ trọng
giảm từ 38,7% năm 1990 xuống 29% năm 1995; công nghiệp và xây dựng từ
22,6% tăng lên 29,1%, dịch vụ từ 38,6% tăng lên 41,9%. Cơ cấu sản xuất của
nông nghiệp, công nghiệp cũng có những thay đổi theo hớng có hiệu quả hơn;
các ngành dịch vụ phát triển đa dạng.

11



Cơ cấu vùng kinh tế:
Cơ cấu vùng kinh tế đang hình thành từng bớc theo quy hoạch kinh tế
xã hội của các địa phơng, các đô thị, các địa bàn lãnh thổ, đặc biệt là các vùng
kinh tế trọng điểm. Các khu công nghiệp, khu chế xuất đang đợc xây dựng.
Một số địa bàn kinh tế, đặc biệt là một số thành phố lớn, phát huy lợi thế của
mình đã đẩy mạnh đầu t, đạt nhịp độ tăng trởng cao. Một số vùng nông thôn
đã có bớc phát triển nhanh nhờ chuyển dịch cơ cấu sản xuất theo hớng khai
thác lợi thế so sánh, gắn với thị trờng.

12


Cơ cấu thành phần kinh tế:
Khu vực kinh tế nhà nớc chiếm vị trí quan trọng trong nền kinh tế, đảm
nhận các khâu then chốt và các lĩnh vực trọng yếu, nhất là trong công nghiệp,
cơ sở hạ tầng và tài chính, tín dụng. Nhiều doanh nghiệp nhà nớc đã tiếp cận
thị trờng, đầu t chiều sâu, đổi mới công nghệ, hoạt động có hiệu quả hơn trớc.
Các hợp tác xã trong các lĩnh vực nông nghiệp, tiểu thủ công nghiệp,
mua bán, tín dụng trong thời kỳ đầu chuyển sang cơ chế mới, do nhiều nguyên
nhân, bị suy giảm mạnh. Đến nay một số ít đã đổi mới tổ chức, quy mô và phơng thức hoạt động, khôi phục và phát triển sản xuất, kinh doanh. Đã xuất
hiện các hình thức kinh tế hợp tác kiểu mới, tuy cha phổ biến.
Kinh tế cá thể, tiểu chủ phát triển nhanh chóng trong nông, lâm, ng
nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và thơng mại, dịch vụ đã góp phần quan trọng
vào các thành tựu kinh tế xã hội.
Kinh tế t bản t nhân trong nớc bớc đầu phát triển, tập trung phần lớn vào
lĩnh vực thơng mại, dịch vụ và kinh doanh bất động sản, đầu t vào sản xuất
còn ít. Các doanh nghiệp có quy mô nhỏ và vừa là chủ yếu, có một số doanh
nghiệp quy mô tơng đối lớn, sử dụng nhiều lao động.
Kinh tế t bản nhà nớc bao gồm các hình thức liên doanh giữa kinh tế nhà
nớc với t bản t nhân trong nớc và với t bản nớc ngoài đang phát triển. Các

doanh nghiệp có vốn đầu t nớc ngoài đã bắt đầu đóng góp vào sự tăng trởng
kinh tế, tăng thêm kim ngạch xuất khẩu, tạo nhiều việc làm trực tiếp và gián
tiếp.
c. Kinh tế đối ngoại phát triển trên nhiều mặt; thị trờng xuất, nhập khẩu
đợc củng cố và mở rộng; nguồn vốn đầu t của nớc ngoài tăng nhanh.
Trong 5 năm (1991 1995) tổng kim ngạch xuất khẩu đạt trên 17 tỉ
USD (kế hoạch là 12 15 tỉ USD), bảo đảm nhập các loại vật t, thiết bị và
hàng hoá đáp ứng nhu cầu của sản xuất và đời sống, góp phần cỉa thiện cán
cân thanh toán thơng mại. Trong cơ cấu hàng xuất khẩu đã có thêm một số
mặt hàng chế biến và tăng số mặt hàng có khối lợng xuất khẩu lớn nh dầu thô,
gạo, cà phê, hải sản, may mặc...
Tổng kim ngạch nhập khẩu trên 21 tỉ USD, kể cả phần nhập khẩu của các
doanh nghiệp có vốn đầu t nớc ngoài; tỉ trọng nhập khẩu vật t, thiết bị tăng
lên, đáp ứng đợc nhu cầu phát triển. Quan hệ mậu dịch đã mở rộng với trên
100 nớc và tiếp cận nhiều thị trờng mới.

13


Nhà nớc đã mở rộng quyền xuất, nhập khẩu cho các doanh nghiệp thuộc
các thành phần kinh tế, ban hành một số chính sách khuyến khích xuất khẩu...
Vốn đầu t trực tiếp của nớc ngoài (FDI) tăng nhanh, đến cuối năm 1995,
các dự án đợc cấp giấy phép đạt trên 19 tỉ USD vốn đăng ký. Tỉ trọng đầu t
vào công nghiệp chiếm 40% tổng số vốn theo dự án (nếu kể cả dầu, khí thì
chiếm trên 60%), trong đó hơn 60% là đầu t chiều sâu. Địa bàn đầu t phân bố
rộng hơn trên các vùng lãnh thổ. Hình thức đầu t chủ yếu là xí nghiệp liên
doanh, chiếm trên 65% tổng số vốn; xí nghiệp 100% vốn nớc ngoài chiếm gần
18%; hợp đồng hợp tác kinh doanh chiếm gần 17%. Nhà nớc đã bổ sung, hoàn
thiện từng bớc khuôn khổ pháp lý cho đầu t nớc ngoài.
Mối quan hệ hợp tác phát triển đã đợc khôi phục, khai thông và mở rộng

với nhiều nớc và các tổ chức tài chính quốc tế; cơ chế thu hút nguồn tài trợ
phát triển song phơng và đa phơng đã đợc thiết lập. Nguồn tài trợ phát triển
chính thức (ODA) tăng dần lên trong những năm gần đây và đợc tập trung chủ
yếu cho việc xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế, xã hội.
d. Khoa học và công nghệ có bớc phát triển mới.
Đã tập trung nghiên cứu những vấn lý luận và thực tiễn trong sự nghiệp
đổi mới và phát triển nớc ta, phục vụ cho việc xây dựng đờng lối, chính sách
của Đảng và Nhà nớc. Về khoa học tự nhiên và công nghệ, đã chú trọng hơn
việc nghiên cứu ứng dụng, tập trung vào những lĩnh vực công nghệ u tiên nh
vật liệu mới, công nghệ sinh học, công nghệ thông tin... Việc ứng dụng các
kết quả nghiên cứu và chuyển giao công nghệ tiến bộ vào sản xuất, kinh
doanh đợc đẩy mạnh hơn trớc.
e. Lĩnh vực văn hoá - xã hội có chuyển biến tích cực, đời sống nhân dân
đợc cải thiện một bớc.
Công tác giáo dục và đào tạo có bớc phát triển mới, sau một số năm giảm
sút. Tỉ lệ ngời biết chữ trong dân đã nâng lên đạt mức 90%; tỉ lệ trẻ em đi học
trong độ tuổi phổ cập tiểu học và số học sinh phổ thông các cấp học đều tăng;
tỉ lệ lu ban, bỏ học giảm. Mạng lới trờng phổ thông mở rộng đến khắp các xã,
phờng; cơ sở vật chất đợc cải thiện. Các tỉnh và nhiều huyện miền núi có trờng
nội trú cho con em ngời dân tộc. Hình thức trờng chuyên, lớp chọn phát triển
ở nhiều địa phơng. Nhiều trờng bán công và dân lập ra đời, hoạt động có hiệu
quả.
Các trờng, lớp dạy nghề phát triển dới nhiều hình thức. Hệ thống giáo
dục đại học, trung học chuyên nghiệp mở rộng hơn trớc cả về quy mô, ngành
14


nghề và loại hình đào tạo. Các trờng đại học và cao đẳng đang đợc sắp xếp lại;
các trung tâm đại học quốc gia ở Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh và ba trung
tâm đại học khu vực đang hình thành.

Công tác thông tin đại chúng, các hoạt động văn hoá, nghệ thuật phát
triển phong phú cả về thể loại, hình thức và nội dung, đáp ứng tốt hơn nhu cầu
thông tin và hởng thụ văn hoá của các tầng lớp nhân dân, góp phần tích cực
trong công tác tuyên truyền, giáo dục, đặc biệt là giáo dục truyền thống cách
mạng, đấu tranh chống những hiện tợng tiêu cực, đẩy lùi ảnh hởng văn hoá
độc hại. Diện phủ sóng truyền thanh, truyền hình đợc mở rộng, chất lợng thu
phát tốt hơn.
Trong lĩnh vực bảo vệ sức khoẻ, đã có những cố gắng và tiến bộ về vệ
sinh phòng bệnh. thực hiện có kết quả các chơng trình chăm sóc và bảo vệ trẻ
em, chơng trình phòng chống sốt rét, bớu cổ, phòng chống suy dinh dỡng;
tăng tỉ lệ số dân đợc dùng nớc sạch, đợc cung cấp dịch vụ y tế tại xã, phờng.
Một số trung tâm y tế đợc đầu t nâng cấp và trang bị lại. Chế độ bảo hiểm y tế
đợc mở rộng. Thể dục thể thao có bớc phát triển. Công tác bảo vệ môi trờng,
môi sinh đợc triển khai.
Giải quyết việc làm mỗi năm từ 1 đến 1,2 triệu ngời.
Công tác dân số, kế hoạch hoá gia đình phát triển sâu rộng, đạt đợc một
số kết quả rõ nét. Tỉ lệ sinh mấy năm nay giảm mỗi năm gần 1 phần nghìn.
Các cuộc vận động xoá đói, giảm nghèo, đền ơn đáp nghĩa, các hoạt
động từ thiện, chăm sóc trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn ngày càng đợc
đông đảo nhân dân hởng ứng.
Thu nhập và đời sống của các tầng lớp nhân dân ở các vùng đều đợc cải
thiện với mức độ khác nhau; số hộ nghèo giảm đi. Nhiều địa phơng đã thanh
toán đợc nạn đói.
f. Quốc phòng, an ninh đợc giữ vững.
Việc điều chỉnh chiến lợc về quốc phòng, củng cố thế trận quốc phòng
toàn dân đợc thực hiện có kết quả. Các khu vực phòng thủ đợc tăng cờng một
bớc. Sự kết hợp giữa kinh tế và quốc phòng đợc tiến hành dới nhiều hình thức
và đã bớc đầu mang lại kết quả.
An ninh, quốc gia đợc giữ vững, thế trận an ninh nhân dân đợc củng cố.
Việc xử lý kiên quyết các vụ vi phạm pháp luật trong một số lĩnh vực mở ra


15


khả năng thiết lập và củng cố trật tự, an toàn xã hội, xây dựng nếp sống và làm
việc theo pháp luật.
3. Trong đại hội 9, nghe báo cáo của Ban chấp hành TW Đảng khoá
VIII, nớc ta đã giành đợc những kết quả:
a. Nền kinh tế vẫn giữ đợc nhịp độ tăng trởng khá; cơ cấu kinh tế có sự
chuyển dịch tích cực.
+ Nổi bật là nông nghiệp phát triển liên tục, góp phần quan trọng vào
mức tăng trởng chung và giữ vững ổn định kinh tế xã hội.
Giá trị sản xuất nông lâm, ng nghiệp tăng bình quân hàng năm 5,7% so
với mục tiêu đề ra 4,5 5%, trong đó nông nghiệp tăng 5,6%, lâm nghiệp
0,4%, ng nghiệp 8,4%.
Cơ cấu mùa vụ đã chuyển dịch theo hớng tăng diện tích lúa đông xuân và
lúa hè thu có năng suất cao, ổn định. Các loại giống lúa mới đã đợc sử dụng
trên 87% diện tích gieo trồng. Sản lợng lơng thực có hạt tăng bình quân hàng
năm trên 1,6 triệu tấn, lơng thực bình quân đầu ngời đã tăng từ 360 kg năm
1995 lên trên 444 kg năm 2000.
Nhiều vùng sản xuất nông sản hàng hoá tập trung gắn với công nghiệp
chế biến bớc đầu đợc hình thành, sản phẩm nông nghiệp đa dạng hơn. So với
năm 1995, diện tích một số cây công nghiệp tăng khá: cà phê gấp hơn 2,7 lần,
cao su tăng 46%, mía tăng khoảng 35%, bông tăng 8%, thuốc lá tăng trên
18%, rừng nguyên liệu giấy tăng 66%... Một số loại giống cây công nghiệp có
năng suất cao đã đợc đa vào sản xuất đại trà.
Giá trị sản xuất nông nghiệp trên một đơn vị đất nông nghiệp tăng từ
13,5 triệu đồng/ha năm 1995 lên 17,5 triệu đồng/ha năm 2000.
Chăn nuôi tiếp tục phát triển. Sản lợng thịt lợn hơi năm 2000 ớc trên
1,4triệu tấn, bằng 1,4 lần so với năm 1995.

Nghề nuôi, trồng và đánh bắt thủy sản phát triển khá. Sản lợng thủy sản
năm 2000 đạt trên 2 triệu tấn so với mục tiêu kế hoạch 1,6 1,7 triệu tấn,
xuất khẩu đạt 1.475 triệu USD.
Công tác trồng rừng, chăm sóc, bảo vệ rừng có tiến bộ. Trong 5 năm đã
trồng 1,1 triệu ha rừng tập trung, bảo vệ 9,3 triệu ha rừng hiện có, khoanh nuôi
tái sinh 700 nghìn ha. Độ che phủ tăng từ 28,2% năm 1995 lên 33% năm
2000.

16


Xuất khẩu nông, lâm, thủy sản năm 2000 đạt 4,3 tỷ USD, gấp hơn 1,7 lần
so với năm 1995, bình quân hàng năm chiếm khoảng 30% kim ngạch xuất
khẩu của cả nớc; đã tạo đợc 3 mặt hàng xuất khẩu chủ lực là gạo (đứng thứ 2
thế giới), cà phê (đứng thứ 3) và hàng thủy sản chiếm 34% trị giá kim ngạch
xuất khẩu toàn ngành.
Những thành tựu đạt đợc nêu trên là kết quả thực hiện các chính sách đổi
mói về phát triển nông nghiệp và nông thôn, đẩy mạnh đầu t, ứng dụng những
tiến bộ về khoa học kỹ thuật vào sản xuất, đa dạng hoá sản phẩm, gắn sản xuất
với thị trờng.
+ Công nghiệp và xây dựng vợt qua những khó khăn, thách thức, đạt đợc
nhiều tiến bộ.
Nhịp độ tăng giá trị sản xuất công nghiệp bình quân hàng năm 13,5%;
trong đó công nghiệp quốc doanh tăng 9,5%, công nghiệp ngoài quốc doanh
tăng 11,5% khu vực có vốn đầu t nớc ngoài tăng 21,8%.
Một số ngành công nghiệp tiếp tục tổ chức và sắp xếp lại sản xuất, lựa
chọn các sản phẩm u tiên và có lợi thê,s có nhu cầu của thị trờng để đầu t
chiều sâu, đổi mới công nghệ, đạt chất lợngcao hơn, đáp ứng nhu cầu trong nớc và xuất khẩu.
Năng lực sản xuất các sản phẩm công nghiệp chủ yếu tăng khá: năm
2000 so với năm 1995, công suất điện gấp 1,5 lần (tăng 2.715 MW); xi măng

gấp 2,1 lần (tăng 8,7, triệu tấn); phân bón gấp trên 3,0 lần (tăng 1,5 triệu tấn);
théo gấp 1,7 lần (tăng 1,0 triệu tấn); míađờng gấp hơn 5 lần (tăng hơn 60.000
tấn mía/ngày).
Sản lợng một số sản phẩm quan trọng tăng nhanh. Năm 2000 so với năm
1995, sản lợng dầu thô gấp 2,1 lần; điện gấp 1,8 lần; than sạch vợt ngỡng 10
triệu tấn, trong đó xuất khẩu trên 3,0 triệu tấn; thép cán gấp hơn 3 lần; xi
măng gấp hơn 2lần; vải các loại gấp 1,5 lần; giấy các loại gấp 1,7 lần...
Xuất khẩu sản phẩm công nghiệp (kể cả tiểu, thủ công nghiệp) tăng
nhanh, năm 2000 đạt 10,0 tỷ USD, gấp hơn 3,4 lần năm 1995, chiếm khoảng
70% tổng kim ngạch xuất khẩu cả nớc.
Cơ cấu các ngành công nghiệp đã có chuyển dịch đáng kể, hình thành
một số sản phẩm mũi nhọn, một số khu công nghiệp, khu chế xuất với nhiều
cơ sở sản xuất có công nghệ hiện đại. Đến năm 2000, công nghiệp khai thác
dầu thô, khí tự nhiên và dịch vụ khai thác dầu khí chiếm khoảng 11,2% tổng
giá trị sản xuất toàn ngành, công nghiệp sản xuất thực phẩm và đồ uống chiếm
17


khoảng 20,0%, công nghiệp sản xuất và phân phối điện, khí đốt, hơi nớc
chiếm khoảng 5,4%.
Ngành xây dựng đã tiếp nhận công nghệ xây dựng mới, trang bị thêm
nhiều thiết bị hiện đại, đáp ứng đợc nhu cầu phát triển trong lĩnh vực xây dựng
dân dụng và công nghiệp, có thể đảm đơng việc thi công những công trình quy
mô lớn, hiện đại về công nghệ; năng lực đấu thầu các công trình xây dựng cả
trong và ngoài nớc đợc tăng cờng.
Đáp ứng đủ nhu cầu xi măng, tấm lợp; cơ bản đáp ứng đợc nhu cầu về
thép xây dựng thông thờng. Một số loại vật liệu xây dựng chất lợng cao (gạch
lát nền, gạch ốp lát) sản xuất trong nớc đạt tiêu chuẩn châu Âu và khu vực.
+ Các ngành dịch vụ tiếp tục phát triển trong điều kiện khó khăn hơn trớc, góp phần tích cực tăng trởng kinh tế và phục vụ đời sống.
Giá trị các ngành dịch vụ tăng 6,8%/năm.

Thơng mại phát triển khá, bảo đảm lu chuyển, cung ứng vật t, hàng hoá
trong cả nớc và trên từng vùng. Thơng mại quốc doanh đợc sắp xếp lại theo hớng nắm bán buôn, tham gia kinh doanh bán lẻ đối với một số mặt hàng thiết
yếu; mạng lới trao đổi hàng hoá với nông thôn, miền núi bớc đầu đợc tổ chức
lại. Tổng mức hàng hoá bán lẻ tăng bình quân 6,2%/năm (đã loại trừ yếu tố
biến động giá).
Du lịch phát triển đa dạng, phong phú, chất lợng dịch vụ đợc nâng lên.
Tổng doanh thu du lịch tăng 9,7%/năm.
Dịch vụ vận tải về cơ bản đã đáp ứng đợc nhu cầu giao lu hàng hoá và đi
lại của nhân dân. Khối lợng luân chuyển hàng hoá tăng 12%/năm và luân
chuyển hành khách tăng 5,5%/năm.
Dịch vụ bu chính viễn thông có bớc phát triển và hiện đại hóa nhanh.
Giá trị doanh thu bu điện tăng bình quân hàng năm 11,3%.
Các dịch vụ tài chính, kiểm toán, ngân hàng, bảo hiểm... đợc mở rộng.
Thị trờng dịch vụ bảo hiểm đã đợc hình thành với sự tham gia của các thành
phần kinh tế trong và ngoài nớc; dịch vụ tài chính, ngân hàng đã có những đổi
mới quan trọng, tăng bình quân hàng năm 7,0%.
Các loại dịch vụ khác nh t vấn pháp luật, khoa học và công nghệ... bắt
đầu phát triển.
+ Cơ cấu kinh tế đã có bớc chuyển dịch tích cực.

18


Cơ cấu các ngành kinh tế đã từng bớc chuyển dịch theo hớng công
nghiệp hoá, hiện đại hoá. Tỷ trọng nông, lâm ng nghiệp trong GDP đã giảm từ
27,2% năm 1995 xuống còn 24,3% năm 2000; công nghiệp và xây dựng từ
28,7% tăng lên 36,6% và dịch vụ từ 44,1% năm 1995 còn 39,1%. Mặc dù vậy
vẫn cha đạt đợc mục tiêu đề ra trong Nghị quyết Đại hội VIII (cơ cấu vào năm
2000 tơng ứng là 19 20%, 34 35% và 45- 46%).
Cơ cấu thành phần kinh tế đã có sự dịch chuyển theo hớng sắp xếp lại và

đổi mới khu vực kinh tế nhà nớc, phát huy tiềm năng khu vực kinh tế ngoài
quốc doanh.
Đến năm 2000, tỷ trọng khu vực kinh tế nhà nớc trong GDP vào khoảng
39%; khu vực kinh tế tập thể 8,5%; khu vực kinh tế t nhân 3,3%; khu vực kinh
tế cá thể 32%; khu vực kinh tế hỗn hợp 3,9% và khu vực kinh tế có vốn đầu t
nớc ngoài 13,3%.
Các vùng kinh tế gắn với quy hoạch phát triển kinh tế xã hội của các
địa phơng, các đô thị, các địa bàn, lãnh thổ, đặc biệt là các vùng kinh tế trọng
điểm ở 3 miền đang đợc xây dựng và hình thành từng bớc.
Đến năm 2000, các tỉnh vùng núi phía Bắc đóng góp khoảng trên 9%
GDP của cả nớc; vùng đồng bằng sông Hồng khoảng 19%; Bắc Trung Bộ và
Duyên hải miền Trung khoảng gần 15%; vùng Tây nguyên gần 3%; vùng
Đông Nam Bộ khoảng 35% và đồng bằng sông Cửu Long khoảng 19%.
Các vùng kinh tế trọng điểm đóng góp khoảng 50% giá trị GDP cả nớc;
75 80% giá trị gia tăng công nghiệp và 60 65% giá trị gia tăng khu vực
dịch vụ. Nhịp độ tăng trởng của các vùng trọng điểm đều đạt trên mức trung
bình cả nớc, đóng vai trò tích cực lôi cuốn và kích thích các vùng khác cùng
phát triển.
b. Các cân đối chủ yếu trong nền kinh tế đã đợc điều chỉnh thích hợp để
duy trì khả năng tăng trởng kinh tế và ổn định đời sống nhân dân.
- Đã cải thiện một bớc quan hệ tích lũy và tiêu dùng theo hớng tăng tích
lũy cho phát triển.
Tỷ lệ tiết kiệm trong nớc so với GDP từ 18,2% năm 1995 tăng lên 27%
năm 2000. Tổng quỹ tích luỹ tăng bình quân hàng năm trên 9,5%; toàn bộ tích
lũy tài sản so với GDP từ 27,2% năm 1995 đợc nâng lên 29,5%năm 2000(bình
quân 5 năm 1996 2000 là 28,5%).

19



Tổng quỹ tiêu dùng tăng bình quân hàng năm hơn 5%, tiêu dùng bình
quân đầu ngời tăng hàng năm gần 3,5%.
Tỷ lệ tích lũy trong tổng tích lũy tiêu dùng bình quân 5 năm là 26,8%;
riêng năm 2000 khoảng 28,7% tỷ lệ tiêu dùng tơng ứng khoảng 71,3%.
Các cân đối tài chính tiền tệ có tiến bộ, góp phần ổn định kinh tế vĩ
mô và khai thác tốt các nguồn lực.
Ngân sách nhà nớc bớc đầu đợc cơ cấu lại theo hớng tích cực và hiệu quả
hơn.
Việc cải cách thuế giai đoạn 2 và triển khai thực hiện Luật Ngân sách đã
góp phần thúc đẩy sản xuất kinh doanh phát triển, tăng nguồn thu cho ngân
sách. Tổng thu ngân sách nhà nớc tăng bình quân hàng năm trên 8,7%, cao
hơn mức tăng bình quân GDP; trong đó thu từ thuế và phí chiếm 94,2%; mức
động viên bình quân hàng năm bằng 20,3% GDP.
Chi tiêu ngân sách nhà nớc đợc cơ cấu lại theo hớng tiếp tục xoá bao cấp
trong chi ngân sách, tăng chi đầu t phát triển, xoá đói, giảm nghèo, giáo dục
và đào tạo, nghiên cứu khoa học, y tế...; thu hút thêm nguồn lực của dân c
thông qua việc xã hội hoá một số mặt hoạt động kinh tế, xã hội, nhờ đó nhiều
nhu cầu chi đợc đáp ứng tốt hơn. Tổng chi ngân sách nhà nớc bình quân hàng
năm bằng khoảng 24,2% GDP; trong đó chi cho đầu t phát triển tăng bình
quân khoảng 14,6% chiếm khoảng 27% tổng chi ngân sách; chi thờng xuyên
tăng bình quân hàng năm là 6%, chiếm 59%; chi trả nợ, viện trợ hàng năm
chiếm khoảng 14%.
Mức bội chi ngân sách bình quân hàng năm khoảng 4% GDP.
Các chính sách tiền tệ, tín dụng tiếp tục đợc đổi mới; việc điều hành các
cân đối tiền tệ theo tín hiệu thị trờng bớc đầu đạt đợc kết quả tích cực. Cơ chế
quản lý điều hành lãi suất ngoại hỗi, tỷ giá từng bớc đợc đổi mới theo các
nguyên tắc của thị trờng. Hệ thống ngân hàng bớc đầu đợc chấn chỉnh và đổi
mới; các tổ chức tín dụng phát triển, chất lợng và hiệu quả tín dụng đợc nâng
lên. Đã hình thành thị trờng tiền tệ liên ngân hàng, bắt đầu áp dụng công cụ
thị trờng mở và thành lập trung tâm chứng khoán.

Cân đối ngoại tệ đợc cải thiện, từ chỗ thâm hụt lớn, đến nay, cán cân
vãng lai và cán cân thanh toán quốc tế đều có kết d; tuy nhiên cha thật ổn
định, vững chắc.

20


Đã có nhiều cố gắng trong việc huy động các nguồn vốn đầu t phát triển,
nhất là nguồn vốn trong nớc. Số công trình đợc đa vào sử dụng nhiều hơn bất
kỳ thời kỳ nào trớc đây; năng lực của hầu hết các ngành sản xuất, dịch vụ và
kết cấu hạ tầng kinh tế, xã hội đợc nâng lên rõ rệt.
Tổng nguồn vốn đầu t xã hội thực hiện trong 5 năm qua khoảng 440
nghìn tỷ đồng, tơng đơng gần 40 tỷ USD (theo mặt bằng giá 1995), tốc độ
tăng bình quân 8,6%/ năm; trong đó: vốn đầu t thuộc ngân sách Nhà nớc
chiếm 22,7%; vốn tín dụng đầu t chiếm 14,2%; vốn đầu t của doanh nghiệp
Nhà nớc chiếm 17,8%; vốn đầu t trực tiếp nớc ngoài chiếm 24%.
Nguồn vốn trong nớc đã đợc khai thác khá hơn, chiếm trên 60% tổng số
vốn đầu t, tạo điều kiện tốt hơn để tập trung vào những mục tiêu phát triển
nông nghiệp và nông thôn, xoá đói, giảm nghèo, nâng cao chất lợng nguồn
nhân lực, phát triển khoa học và công nghệ, đặt biệt là xây dựng kết cấu hạ
tầng.
Nguồn vốn đầu t toàn xã hội đợc tập trung cho nông nghiệp khoàng
11,4% so tổng nguồn; các ngành công nghiệp khoảng 43,7%, trong đó đầu t
cho các ngành công nghiệp chế biến và công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng
chiếm khoảng 30,0% tổng vốn đầu t ngành công nghiệp; giao thông vận tải và
bu chính viễn thông khoảng 15,7%; lĩnh vực khoa học và công nghệ, giáo
dục và đào tạo, y tế, văn hoá khoảng 6,7%; các ngành khác (công cộng, cấp
thoát nớc, quản lý Nhà nớc, thơng mại, du lịch, xây dựng....) khoảng 22,5%.
Do điều chỉnh chính sách và cơ cấu đầu t, nên quy mô đầu t ở các vùng
miền núi phía Bắc gấp trên 1,8 lần, vùng đồng bằng sông Hồng gấp 1,3 lần;

vùng Bắc Trung Bộ gấp 1,5 lần; vùng Duyên hải miền Trung gấp 1,7 lần, vùng
Tây Nguyên gấp 1,9 lần; vùng Đông Nam Bộ gấp 1,7 lần và vùng đồng bằng
sông Cửu Long g ấp 2 lần.
Riêng nguồn vốn đầu t từ ngân sách Nhà nớc, ớc thực hiện trong 5 năm
( 1996 2000) khoảng 100 nghìn tỷ đồng (theo giá 1995), đã tập trung hơn
cho lĩnh vực xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội; trong đó đầu t cho
lĩnh vực nông nghiệp khoảng 22,5%; cho công nghiệp 9,5%; cho giao thông
vận tải và bu chính viễn thông 29,8%; cho khoa học và công nghệ, giáo
dục và đào tạo, y tế, văn hoá, thể dục thể thao 18,7%, cho các ngành khác
19,5%.

21


Nhờ tăng đầu t, số công trình đợc đa vào sử dụng và năng lực của hầu hết
các ngành tăng nhiều, kết cấu hạ tầng có bớc phát triển khá, đáp ứng yêu cầu
trớc mắt và tạo đợc những năng lực gối đầu cho thời kỳ sau nm 2000.
Các công trình và các tuyến trục giao thông quan trọng, các tuyến từ Hà
Nội, thành phố Hồ Chí Minh đi các khu công nghiệp,các vùng kinh tế, các
tuyến lên Tây Nguyên, miền núi... đợc tập trung đầu t nâng cấp, bảo đảm giao
thông thông suốt trên cả nớc.
Trong 5 năm đã xây dựng mới 1.200 km và nâng cấp 3.790km đờng quốc
lộ; sửa chữa phần lớn các cầu yếu trên các tuyến trục giao thông, làm mới
11,5km cầu; sửa chữa và nâng cấp 200 km đờng sắt, khôi phục 8 cầu, với
tổng chiều dài là 2.600m trên tuyến đờng sắt Thống nhất; mở rộng và hiện đại
hoá một số cảng biển quan trọng nh Hải Phòng, Sài Gòn, Cửu Long, Đà Nẵng,
Quy Nhơn,... nâng tổng năng lực thông qua hệ thống cảng biển lên 45 triệu
tấn/ năm; nâng cấp các sân bay quốc tế Nội Bài, Tây Sơn Nhất, Đà Nẵng và
một số sân bay nội địa khác, nâng tổng năng lực thông qua hệ thống sân bay
lên tới 6,5 triệu hành khách /năm.

Hệ thống bu chính viễn thông có bớc phát triển khá, đợc hiện đại hoá
về cơ bản. Tất cả các tỉnh và huyện đợc trang bị tổng đài điện tử, đợc nối với
nhau qua các tuyến cáp quang và viba số. Mật độ điện thoại đạt trên 4
máy/100dân, gấp 22 lần so với năm 1991. Các thành phố lớn nh Hà Nội,
thành phố Hồ Chí Minh đạt xấp xỉ 20 máy/100dân, trên 85% số xã trong toàn
quốc đã có điện thoại; trên 82% số xã có báo đến trong ngày; 61,5% số xã có
điểm bu điện, văn hoá xã. Mạng viễn thông quốc tế và công nghiệp viễn thông
có bớc phát triển nhanh, hiện đại hơn.
Hệ thống thủy lợi đợc nâng cấp và phát triển trên các vùng, đặc biệt là
vùng đồng bằng sông Cửu Long, đồng bằng sông Hồng. Diện tích đợc tới nớc
và tạo nguồn nớc tăng tăng thêm 82 vạn ha, tiêu úng tăng 43,4 vạn ha, không
những góp phần tăng diện tích và nâng cao năng suất cây trồng, mà còn tạo
điều kiện và khả năng hạn chế, phòng tránh thiên tai, ổn định sản xuất lâu dài.
Kết cấu hạ tầng ở nhiều thành phố, đô thị và nông thôn đợc đầu t cải tạo
nâng cấp. Đến năm 2000 đạt đợc mục tiêu 100% số huyện và 80% số xã, phờng trên toàn quốc có điện. Tỷ lệ số dân ở nông thôn đợc cung cấp nớc sạch
mới đạt 40%, thấp xa so với mục tiêu; trên 95% số xã đã có đờng ô tô vào đến
trung tâm.

22


Cơ sở vật chất của các ngành giáo dục và đào tạo, khoa học và công
nghệ, y tế, văn hoá, du lịch, thể dục thể thao và các ngành khác đều đợc tăng
cờng đáng kể.
Kinh tế đối ngoại tiếp tục phát triển
Hoạt động xuất nhập khẩu tiếp tục phát triển khá.
Tổng kim ngạch xuất khẩu 5 năm đạt trên 51,6 tỷ USD, tăng bình quân
hàng năm trên 21%, gấp 3 lần mức tăng GDP. Khối lợng các mặt hàng xuất
khẩu chủ lực đều tăng khá. Cơ cấu hàng xuất khẩu đã có sự thay đổi một bớc.
Tỷ trọng kim ngạch xuất khẩu của nhóm hàng nông, lâm, thuỷ sản tuy vẫn

chiếm vị trí quan trọng nh có xu hớng giảm dần, từ 42,3% năm 1996 xuống
còn 30% năm 2000; tỷ trọng của nhóm hàng công nghiệp nhẹ và tiểu công
nghiệp, thủ công nghiệp tăng tơng ứng từ 29% lên 34,3%; nhóm hàng công
nghiệp nặng và khoáng sản từ 28,7% lên 35,7%.
Năm 2000, kim ngạch xuất khẩu đạt trên 186 USD/ ngời, tuy còn ở mức
thấp, nhng đã thuộc loại các nớc có nền ngoại thơng phát triển.
Thị trờng xuất, nhập khẩu đợc củng cố và mở rộng thêm. Thị trờng Châu
á chiếm 58% tổng kim ngạch xuất khẩu và trên 80% tổng kim ngạch nhập
khẩu của Việt Nam; riêng thị trờng các nớc ASEAN tơng ứng chiếm trên 18%
và 29%. Trên một số thị trờng khác nh RU, Châu Mỹ, Trung Đông, hàng xuất
khẩu của ta đã có mặt và đang tăng dần.
Tuy cha tính vào cân đối xuất nhập khẩu hàng năm, nhng các dịch vụ thu
ngoại tệ nh kiều hối, xây dựng các công trình ở nớc ngoài (trúng thầu), xuất
khẩu lao động, dịch vụ, trao đổi chuyên gia... đã tăng lên nhanh chóng trong
thời gian qua.
Tổng kim ngạch nhập khẩu 5 năm khoảng 61 tỷ USD, tăng bình quân
hàng năm khoảng 13,3%; tỷ trọng hàng tiêu dùng trong tổng kim ngạch nhập
khẩu giảm đáng kể, từ 13% năm 1996 còn 5,2% năm 2000.
Mức chênh lệch xuất nhập khẩu so với kim ngạch xuất khẩu đã từ 49,6%
năm 1995 giảm xuống còn 6,3% vào năm 2000.
+ Đầu t trực tiếp nớc ngoài (FDI) tiếp tục gia tăng, đóng góp tích cực vào
phát triển kinh tế xã hội.
Trong 5 năm 1996 2000, tổng vốn đầu t trực tiếp nớc ngoài đa vào
thực hiện (không kể phần góp vốn trong nớc) đạt khoảng 10 tỷ USD (theo giá

23


1995), gấp 1,5 lần so với 5 năm trớc. Tổng vốn đầu t trực tiếp nớc ngoài cấp
mới và bổ sung đạt 24,6 tỷ USD, tăng so với thời kỳ trớc 34%.

Cơ cấu thu hút vốn đầu t trực tiếp nớc ngoài ngày càng phù hợp với yêu
cầu chuyển dịch cơ cấu kinh tế của nớc ta; tỷ lệ vốn FDI thu hút vàolĩnh vực
sản xuất vật chất, kết cấu hạ tầng kinh tế tăng từ 62% năm 1995 lên 85%vào
năm 2000.
Đầu t trực tiếp nớc ngoài từ các nớc thuộc Liên minh Châu Âu(EU),
ASEAN có chiều hớng tăng hơn 5 năm trớc (tỷ lệ vốn đăng ký của các dự án
từ EU bình quân chiếm 23,2% thời kỳ 1991 1995, tăng lên 25,8% thời kỳ
1996 2000; ty lệ vốn đăng ký các dự án từ các nớc ASEAN đã tăng tơng
ứng từ 17,3% lên 29%). Riêng các nớc thuộc EU, Mỹ, Nhật Bản chiếm 44%
tổng vốn đăng ký tại Việt Nam.
Các doanh nghiệp có vốn đầu t nớc ngoài tạo ra 34% giá trị sản xuất toàn
ngành công nghiệp, khoảng 23% kim ngạch xuất khẩu (cha kể dầu khí) và
đóng góp trên 12GDP của cả nớc. Khu vực kinh tế có vốn đầu t nớc ngoài đã
thu hút trên 35 vạn lao động trực tiếp và hàng chục vạn lao động gián tiếp làm
việc trong các ngành xây dựng, thơng mại, dịch vụ liên quan; góp phần quan
trọng vào chuyển dịch cơ cấu kinh tế, nâng cao trình độ công nghệ, trình độ
quản lý và mở rộng thị trờng.
Ngoài ra, các doanh nghiệp Việt Nam cũng đã từng bớc mở rộng đầu t ra
nớc ngoài. Đến nay, đã có trên 40 dự án đầu t vào 12 nớc và vùng lãnh thổ,
chủ yếu trong các ngành xây dựng, chế biến thực phẩm, thơng mại, dịch vụ...
Tuy quy mô còn nhỏ, nhng qua hoạt động đầu t ra nớc ngoài, các doanh
nghiệp Việt Nam có điều kiện nâng cao hiệu quả, đẩy mạnh đợc xuất khẩu
hàng hoá, dịch vụvà lao động ra nớc ngoài.
Vốn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA) tiếp tục tăng, góp phần quan
trọng phát triển kết cấu hạ tầng.
Hàng năm, nguồn vốn ODA cam kết tăng đáng kể, việc giải ngân ngày
càng đợc cải thiện. Tính chung trong 5 năm, nguồn vốn ODA đa vào thức hiện
khoảng 6,1 tỷ USD, tập trung hỗ trợ xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế nh điện,
giao thôn, thuỷ lợi, cấp thoát nớc; phát triển nông nghiệp và nông thôn, xoá
đói, giảm nghèo; phát triển tế, giáo dục và đào tạo; tăng cờng năng lực và thể

trong các lĩnh vực cải cách hành chính, luật pháp, quản lý kinh tế; hỗ trợ một
số lĩnh vực sản xuất nh chế biến thuỷ sản, nông sản,...

24


Nhiều dự án đầu t bằng vốn ODA đã đợc đa vào sử dụng, góp phần tăng
trởng kinh tế và cải thiện đời sống đời sống nhân dân.
d.Sự nghiệp giáo dục và đào tạoh có bớc phát triển cả về quy mô, chất lợng, hình thức đào tạo và cơ sở vật chất.
Quy mô giáo dục và đạot tạo tiếp tục tăng ở tất cả các bậc học, ngành
học, đáp ứng nhu cầu học tập ngày lớn của nhân dân.
Năm học 1999 2000 so với năm 1994 1995, quy mô học sinh mẫu
giáo gấp 1,2 lần, học sinh trung học sở sở gấp 1,6 lần, học sinh trung học phổ
thông gấp 2,3, lần, đào tạo đại học gấp 3 lần, đào tạo nghề gấp 1,8 lần.
Đến hết năm 2000 có 100% tỉnh, thành phố đạt tiêu chuẩn phổ cập giáo
dục tiểu học và xoá mù chữ, một số tỉnh, thành phố đã bắt đầu thực hiện chơng trình phổ cập trung học cơ sở.
Phong trào học tập văn hoá, khoa học kỹ thuật, nghiệp vụ quản lý, ngoại
ngữ... phát triển nhanh. Số sinh viên trên 1 vạn dân là năm 2000 đạt 117 ngời,
số năm đi học trung bình của dân c là 7,3 năm
Cơ sở vật chất kỹ thuật các trờng đợc nâng cấp cải thiện. Mạng lới trờng phổ thông đã đợc sắp xếp tơng đối ổn định. Hầu hết các xã đã có trờng
tiểu học; phần lớn các xã ở vùng đồng bằng có trờng trung học cơ sở. Các trờng ngoài công lập đã hình thành và bắt đầu phát triển mạnh. Hệ thống các trờng dân tộc nội trú tỉnh, huyện đợc củng cố và mở rộng.
Mạng lới các trờng đại học, cao đẳng, các trờng chuyên nghiệp đang từng
bớc đợc tổ chức, sắp xếp lại. Hệ thống các trờng đạo tạo nghề phát triển rộng
khắp.
Chất lợng giáo dục và đào tạo có chuyển biến bớc đầu. Số đông học sinh,
sinh viên có năng lực tiếp thu nhanh các kiến thức, nhất là về khoa học tự
nhiên, kỹ thuật, ngoại ngữ và tin học. Tỷ lệ giáo viên phổ thông đạt tiêu chuẩn
tăng lên. Hệ thống đào tạo, bồi dỡng giáo viên đợc cải tiến, hàng năm trên
80% đợc đào tạo nâng cao và chuẩnhoá. Việc xã hội hoá trong lĩnh vực này bớc đầu đợc triển khai.
Khoa học và công nghệ có bớc chuyển biến tích cực.

Khoa học xã hội và nhân văn đã bớc đầu cung cấp đợc các luận cứ khoa
học phục vụ yêu cầu hoạch định chiến lợc, quy hoạch và kế hoạch phát triển
kinh tế, xã hội và đổi mới cá cơ chế chính sách.

25


×