Tải bản đầy đủ (.docx) (104 trang)

Kế toán bán hàng và xác định kết quả kinh doanh tại công ty cổ phần dịch vụ viễn thông và in bưu điện

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.03 MB, 104 trang )

Học viện tài chính

Luận văn tốt nghiệp

LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan số liệu trình bày trong luận văn là trung thực, do bản
thân thu thập được trong quá trình đi thực tập tại công ty Cổ phần dịch vụ
viễn thông và In Bưu Điện.
Sinh viên thực hiện

Phạm Thị Yến

1
SV: Phạm Thị Yến

1
Lớp: CQ48/21.13


Học viện tài chính

Luận văn tốt nghiệp

MỤC LỤC

2
SV: Phạm Thị Yến

2
Lớp: CQ48/21.13



Học viện tài chính

BHXH
BHYT
CCDC
GTGT
QLDN
KPCĐ
KQKD
TNDN
TSCĐ
XHCN

3
SV: Phạm Thị Yến

Luận văn tốt nghiệp

Bảo hiểm xã hội
Bảo hiểm y tế
Công cụ dụng cụ
Giá trị gia tăng
Quản lý doanh nghiệp
Kinh phí công đoàn
Kết quả kinh doanh
Thu nhập doanh nghiệp
Tài sản cố định
Xã hội chủ nghĩa


3
Lớp: CQ48/21.13


Học viện tài chính

Luận văn tốt nghiệp

DANH MỤC BẢNG BIỂU

4
SV: Phạm Thị Yến

4
Lớp: CQ48/21.13


Học viện tài chính

5
SV: Phạm Thị Yến

Luận văn tốt nghiệp

5
Lớp: CQ48/21.13


Học viện tài chính


Luận văn tốt nghiệp

LỜI MỞ ĐẦU
1. SỰ CẦN THIẾT CỦA ĐỀ TÀI
Trong nền kinh tế thị trường hiện nay, nhất là trong xu thế hội nhập về
kinh tế, môi trường kinh doanh của doanh nghiệp ngày càng được mở rộng,
mức độ cạnh tranh ngày càng gay gắt hơn. Môi trường cạnh tranh ấy tạo ra
những điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp phát triển, nhưng đồng thời cũng
đem lại không ít thách thức, khó khăn cho các doanh nghiệp. Đòi hỏi các
doanh nghiệp cần nhạy bén, nắm bắt cơ hội, chủ động sang tạo, tìm và chọn
một hướng đi phù hợp, hiệu quả nhất. Tiêu thụ hàng hoá và xác định kết quả
kinh doanh là mối quan tâm hàng đầu của tất cả các doanh nghiệp. Thực tiễn
cho thấy thích ứng với mỗi cơ chế quản lý, công tác tiêu thụ và xác định kết
quả tiêu thụ được thực hiện bằng các hình thức khác nhau. Trong nền kinh tế
kế hoạch hoá tập trung Nhà nước quản lý kinh tế chủ yếu bằng mệnh lệnh.
Các cơ quan hành chính kinh tế can thiệp sâu vào nghiệp vụ sản xuất kinh
doanh của các doanh nghiệp nhưng lại không chịu trách nhiệm về các quyết
định của mình. Hoạt động tiêu thụ sản phẩm, hàng hoá trong thời kỳ này chủ
yếu là giao nộp sản phẩm, hàng hoá cho các đơn vị theo địa chỉ và giá cả do
Nhà nước định sẵn. Tóm lại, trong nền kinh tế tập trung khi mà ba vấn đề
trung tâm: Sản xuất cái gì ? Bằng cách nào? Cho ai ? đều do Nhà nước quyết
định thì công tác tiêu thụ hàng hoá và xác định kết quả tiêu thụ chỉ là việc tổ
chức bán sản phẩm, hàng hoá sản xuất ra theo kế hoạch và giá cả được ấn
định từ trước. Trong nền kinh tế thị trường, các doanh nghiệp phải tự mình
quyết định ba vấn đề trung tâm thì vấn đề này trở nên vô cùng quan trọng vì
nếu doanh nghiệp nào tổ chức tốt nghiệp vụ tiêu thụ sản phẩm, hàng hoá đảm
bảo thu hồi vốn, bù đắp các chi phí đã bỏ ra và xác định đúng đắn kết quả
kinh doanh sẽ có điều kiện tồn tại và phát triển. Ngược lại, doanh nghiệp nào
không tiêu thụ được hàng hoá của mình, xác định không chính xác kết quả
6

SV: Phạm Thị Yến

6
Lớp: CQ48/21.13


Học viện tài chính

Luận văn tốt nghiệp

kinh doanh sẽ dẫn đến tình trạng “ lãi giả, lỗ thật” thì sớm muộn cũng đi đến
chỗ phá sản. Để quản lý được tốt nghiệp vụ tiêu thụ hàng hoá thì kế toán với
tư cách là một công cụ quản lý kinh tế cũng phải được thay đổi và hoàn thiện
hơn cho phù hợp với tình hình mới.
Nhận thức được tầm quan trọng của kế toán bán hàng và xác định kết
quả kinh doanh, qua nghiên cứu lý luận và tìm hiểu tình hình thực tế tại Công
ty cổ phần Dịch vụ viễn thông và in bưu điện, được sự hướng dẫn tận tình của
cô giáo Nguyễn Thị Bạch Dương và sự giúp đỡ của các anh chị cán bộ kế
toán trong Công ty, em đã thực hiện luận văn với đề tài: “Kế toán bán hàng
và xác định kết quả kinh doanh tại Công ty cổ phần Dịch vụ viễn thông và
in bưu điện.
2. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU
Nghiên cứu khảo sát thực trạng công tác bán hàng và xác định kết quả
kinh tế ở doanh nghiệp sản xuất.
- Đề xuất các ý kiến và những giải pháp chủ yếu nhằm hoàn thiện, cải tiến
công tác kế toán bán hàng và xác định kết quả kinh doanh trong doanh
nghiệp.
- Cọ sát thực tế hoàn thiện kiến thức.
3. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU
Đối tượng cụ thể của kế toán bán hàng và xác định kết quả kinh doanh

trong doanh nghiệp là các hoạt động bán hàng, các loại chi phí liên quan đến
xác định kết quả kinh doanh, các nghiệp vụ xoay quanh quá trình bán hàng.
4. PHẠM VI NGHIÊN CỨU VÀ GIỚI HẠN CỦA ĐỀ TÀI
Phạm vi nghiên cứu: Hoàn thiện công tác kế toán bán hàng và xác định
kết quả kinh doanh tháng 11 năm 2013 tại Công ty cổ phần Dịch vụ viễn
thông và in bưu điện.

7
SV: Phạm Thị Yến

7
Lớp: CQ48/21.13


Học viện tài chính

Luận văn tốt nghiệp

5. BỐ CỤC LUẬN VĂN
Chương 1: Lý luận chung về kế toán bán hàng và xác định kết quả kinh doanh
tại doanh nghiệp sản xuất.
Chương 2: Thực tế kế toán bán hàng và xác định kết quả kinh doanh tại Công
ty cổ phần Dịch vụ viễn thông và in bưu điện.
Chương 3: Nhận xét, đánh giá và một số kiến nghị hoàn thiện kế toán bán
hàng và xác định kết quả kinh doanh tại công ty cổ phần Dịch vụ viễn thông
và in bưu điện.

8
SV: Phạm Thị Yến


8
Lớp: CQ48/21.13


Học viện tài chính

Luận văn tốt nghiệp

CHƯƠNG 1
LÝ LUẬN CHUNG VỀ KẾ TOÁN BÁN HÀNG VÀ XÁC ĐỊNH KẾT
QUẢ KINH DOANH TẠI DOANH NGHIỆP SẢN XUẤT
1.1 Sự cần thiết tổ chức kế toán bán hàng và xác định kết quả kinh doanh
1.1.1 Khái niệm bán hàng
Bán hàng là quá trình trao đổi thông qua các phương tiện thanh toán để
thực hiện giá trị của hàng hoá, dịch vụ. Trong quá trình đó doanh nghiệp
chuyển giao sản phẩm, hàng hoá, dịch vụ cho khách hàng, còn khách hàng
phải trả cho doanh nghiệp khoản tiền tương ứng với giá bán của sản phẩm,
hàng hoá, dịch vụ theo giá qui định hoặc giá thoả thuận. Quá trình bán hàng là
quá trình vận động của vốn kinh doanh từ vốn hàng hoá sang vốn bằng tiền và
hình thành kết quả kinh doanh. Quá trình bán hàng hoàn tất khi hàng hoá
được chuyển giao cho người mua và doanh nghiệp đã thu được tiền bán hàng
hoặc khách hàng chấp nhận thanh toán.
Qua đó, ta có thể khái quát đặc điểm chủ yếu của quá trình bán hàng
như sau:
Về mặt hành vi: Có sự thoả thuận trao đổi diễn ra giữa người mua và
người bán. Người bán đồng ý bán, người mua đồng ý mua, người bán xuất
giao hàng cho người mua, người mua trả tiền hoặc chấp nhận trả tiền.
Về bản chất kinh tế: Bán hàng là quá trình thay đổi quyền sở hữu hàng
hoá. Sau khi bán hàng quyền sở hữu hàng hoá chuyển cho người mua, người
bán không còn quyền sở hữu về số hàng đã bán.

Thực hiện quá trình bán hàng, đơn vị bán xuất giao cho khách hàng
một khối lượng hàng hoá nhất định theo thoả thuận hoặc hợp đồng đã ký kết
và sẽ nhận lại từ khách hàng một khoản tiền tương ứng với giá bán số hàng
hoá đó. Doanh thu bán hàng được hình thành đó chính là nguồn bù đắp chi
phí và hình thành kết quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp.
9
SV: Phạm Thị Yến

9
Lớp: CQ48/21.13


Học viện tài chính

Luận văn tốt nghiệp

Về nguyên tắc chỉ khi nào chuyển quyền sở hữu hàng hoá từ đơn vị bán
sang khách hàng và khách hàng thanh toán tiền hoặc chấp nhận thanh toán thì
hàng mới được coi là bán, lúc đó mới phản ánh doanh thu. Do đó tại thời
điểm xác nhận là bán hàng và ghi nhận doanh thu có thể doanh nghiệp thu
được tiền hàng hoặc cũng có thể chưa thu được vì người mua mới chấp nhận
thanh toán.
1.1.2 Ý nghĩa công tác bán hàng và kết quả kinh doanh
Công tác bán hàng phản ánh việc giải quyết đầu ra của hoạt động sản
xuất kinh doanh, đáp ứng nhu cầu thị trường. Nhu cầu xã hội về hàng hóa,
dịch vụ rất đa dạng và ngày càng tăng về cả số lượng và chất lượng. Nhưng
nhu cầu có khả năng thanh toán lại thấp, vì vậy con người cần lựa chọn từng
loại nhu cầu có lợi nhất cho xã hội, cho tiêu dùng, đây là mục tiêu và là hướng
định sẵn giúp cho phục vụ tối đa lợi ích của người tiêu dùng. Công tác bán
hàng cực kì quan trọng đối với doanh nghiệp, thể hiện ở các mặt như sau:

Đối với sản xuất: Sản xuất và tiêu thụ có mối quan hệ biện chứng với
nhau. Sản xuất là tiền đề của tiêu thụ cũng như hoạt động mua vào trong kinh
doanh thương mại và ngược lại, tiêu thụ ảnh hưởng quyết định tới sản xuất tới
việc thu mua hàng hóa. Nếu sản xuất ra không tiêu thụ được hay việc mua
hàng về không bán được sẽ dẫn đến vốn kinh doanh bị ứ đọng, ảnh hưởng tới
tình hình sản xuất kinh doanh cũng như tình hình tài chính của doanh nghiệp.
Thực hiện tốt công tác bán hàng đảm bảo cho doanh nghiệp thu hồi vốn
nhanh, tăng vòng quay của vốn kinh doanh từ đó tích luỹ để tái sản xuất và
mở rộng kinh doanh.
Nếu xét một cách toàn diện việc tiêu thụ sản phẩm hàng hóa của một
doanh nghiệp còn ảnh hưởng tới nhiều đối tượng khác. Chẳng hạn, nếu mặt
hàng kinh doanh hay sản xuất của doanh nghiệp này là nguyên vật liệu của
các doanh nghiệp khác thì việc đảm bảo công tác tiêu thụ của mình sẽ tạo điều
10
SV: Phạm Thị Yến

10
Lớp: CQ48/21.13


Học viện tài chính

Luận văn tốt nghiệp

kiện cho các doanh nghiệp này hoạt động hiệu quả hơn, đảm bảo cùng tồn tại
và phát triển trong sự phân công lao động xã hội. Đối với ngân sách Nhà
nước, doanh nghiệp có tiêu thụ được sản phẩm hàng hóa thì ngân sách mới có
được một nguồn thu thông qua việc thực hiện nghĩa vụ nộp thuế.
Bán hàng có ý nghĩa quan trọng như vậy, nhưng mối quan tâm không
chỉ dừng lại ở đây mà là kết quả của việc tổ chức thực hiện đó. Đây cũng là

quy luật tất yếu trong sản xuất kinh doanh mỗi doanh nghiệp đều biết mình đã
thu được gì và sẽ thu được gì sau hàng loạt các hành vi tác nghiệp. Kết quả
kinh doanh trong doanh nghiệp bao gồm: Kết quả hoạt động sản xuất kinh
doanh; Kết quả hoạt động tài chính; Kết quả hoạt động bất thường.
Kết quả kinh doanh của doanh nghiệp là đánh giá cuối cùng về hiệu
quả quá trình hoạt động của doanh nghiệp, có thể là lãi hoặc lỗ và sẽ được
phân phối sử dụng theo những mục đích nhất định theo quy chế tài chính.
Thông thường, lợi nhuận của doanh nghiệp được phân phối, sử dụng như sau:
Bù đắp các khoản lỗ từ năm trước theo quy định của luật thuế TNDN; Nộp
thuế TNDN cho nhà nước; Bù đắp các khoản lỗ từ năm trước đã hết hạn bù lỗ
theo quy định của luật thuế TNDN; Trích lập các quỹ của doanh nghiệp theo
quy định; Chia cổ tức, chia lãi cho các nhà đầu tư góp vốn.
Như vậy, các doanh nghiệp cần phải quản lý tốt nghiệp vụ bán hàng và
xác định kết quả kinh doanh. Trong đó một nhân tố giữ vai trò then chốt mang
lại hiệu quả cao cho hoạt động này đó là thông tin kế toán về quá trình bán
hàng và xác định kết quả kinh doanh. Kế toán cung cấp thông tin trung thực,
hợp lý, đầy đủ và kịp thời về tình hình sản xuất kinh doanh, là công cụ hỗ trợ
đắc lực cho các nhà quản lý doanh nghiệp, góp phần giúp doanh nghiệp đạt
được những mục tiêu đã đặt ra.

11
SV: Phạm Thị Yến

11
Lớp: CQ48/21.13


Học viện tài chính

Luận văn tốt nghiệp


1.2 Lý luận cơ bản về kế toán bán hàng và kết quả kinh doanh
1.2.1 Khái niệm doanh thu bán hàng và điều kiện ghi nhận doanh thu
Doanh thu là tổng giá trị các lợi ích kinh tế doanh nghiệp thu được
trong kỳ kế toán, phát sinh từ các hoạt động sản xuất kinh doanh thông
thường của doanh nghiệp góp phần tăng vốn chủ sở hữu.
Tùy theo từng loại hình sản xuất kinh doanh, doanh thu trong doanh nghiệp
bao gồm:
Doanh thu bán hàng.
Doanh thu cung cấp dịch vụ.
Doanh thu từ tiền lãi, tiền bản quyền, cổ tức và lợi tức được chia.
Doanh thu bán hàng được ghi nhận khi đồng thời thỏa mãn 5 điều kiện sau:
a. Doanh nghiệp đã chuyển giao phần lớn rủi ro và lợi ích gắn liền với quyền
sở hữu sản phẩm hoặc hàng hóa cho người mua.
b. Doanh nghiệp không còn nắm giữ quyền quản lý hàng hoá như người sở
hữu hàng hoá hoặc kiểm soát hàng hoá.
c. Doanh thu được xác định tương đối chắc chắn.
d. Doanh nghiệp đã thu được hoặc sẽ thu được lợi ích kinh tế từ giao dịch bán
hàng.
e. Xác định được chi phí liên quan đến giao dịch bán hàng.
Doanh thu bán hàng bao gồm doanh thu bán hàng ra ngoài và doanh thu bán
hàng nội bộ.
Doanh thu cung cấp dịch vụ được ghi nhận khi kết quả của giao dịch đó
được xác định một cách đáng tin cậy. Trường hợp cung cấp dịch vụ liên quan
đến nhiều kì kế toán thì doanh thu được ghi nhận trong kỳ theo kết quả phần
công việc đã hoàn thành vào ngày lập Bảng cân đối kế toán của kỳ đó.
Kết quả của cung cấp dịch vụ được xác định khi thỏa mãn cả 4 điều kiện sau:
(a)
(b)


Doanh thu được xác định tương đối chắc chắn;
Có khả năng thu được lợi ích kinh tế từ giao dịch cung cấp dịch vụ đó;

12
SV: Phạm Thị Yến

12
Lớp: CQ48/21.13


Học viện tài chính

(c)

Luận văn tốt nghiệp

Xác định được phần công việc đã hoàn thành vào ngày lập Bảng cân

đối kế toán
(d) Xác định được chi phí phát sinh cho giao dịch và chi phí để hoàn thành
giao dịch cung cấp dịch vụ đó.
Doanh thu phát sinh từ tiền lãi, tiền bản quyền, cổ tức và lợi nhuận được chia
của doanh nghiệp được ghi nhận khi thỏa mãn đồng thời hai điều kiện sau:
(a) Có khả năng thu được lợi ích kinh tế từ giao dịch đó;
(b) Doanh thu được xác định tương đối chắc chắn.
1.2.2 Khái niệm các khoản giảm trừ doanh thu
Các khoản giảm trừ doanh thu như: Chiết khấu thương mại; Giảm giá
hàng bán; Doanh thu hàng bán bị trả lại; Thuế GTGT phải nộp theo phương
pháp trực tiếp và thuế xuất nhập khẩu. Các khoản giảm trừ doanh thu là cơ sở
để tính doanh thu thuần và kết quả kinh doanh trong kỳ kế toán.

Doanh thu thuần về bán hàng và cung cấp dịch vụ = Tổng doanh thu
bán hàng và cung cấp dịch vụ - Các khoản giảm trừ doanh thu
Chiết khấu thương mại
Chiết khấu thương mại là khoản tiền chênh lệch giá bán nhỏ hơn giá
niêm yết doanh nghiệp đã giảm trừ cho người mua hàng do việc người mua
hàng đã mua sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ với khối lượng lớn theo thỏa thuận
về chiết khấu thương mại đã ghi trên hợp đồng kinh tế mua bán hoặc các cam
kết mua, bán hàng.
Giảm giá hàng bán
Giảm giá hàng bán là khoản tiền doanh nghiệp (bên bán) giảm trừ cho
bên mua hàng trong trường hợp đặc biệt vì lý do hàng bán bị kém phẩm chất,
không đúng quy cách, không đúng thời hạn,… đã ghi trong hợp đồng.
Thuế GTGT nộp theo phương pháp trực tiếp

13
SV: Phạm Thị Yến

13
Lớp: CQ48/21.13


Học viện tài chính

Luận văn tốt nghiệp

Thuế GTGT là một loại thuế gián thu, được tính trên khoản giá trị trị
tăng thêm của hàng hóa, dịch vụ phát sinh trong quá trình sản xuất, lưu thông
đến tiêu dùng.
Căn cứ tính thuế GTGT là giá tính thuế và thuế suất
Thuế GTGT phải nộp được tính dựa vào một trong hai phương pháp: Khấu

trừ thuế hoặc tính trực tiếp trên GTGT.
Phương pháp khấu trừ thuế:
Số thuế GTGT phải nộp = Thuế GTGT đầu ra – Thuế GTGT đầu vào
Trong đó:
Thuế GTGT đầu ra = Giá tính thuế của hàng hóa dịch vụ bán ra*Thuế suất
thuế GTGT
Thuế GTGT đầu vào = Tổng số thuế GTGT đã thanh toán được ghi trên hóa
đơn GTGT mua hàng hóa, dịch vụ hoặc hàng hóa dịch vụ nhập khẩu.
Phương pháp tính trực tiếp trên GTGT:
Số thuế GTGT phải nộp = Giá trị gia tăng của hàng hóa dịch vụ*Thuế
suất thuế GTGT
Phương pháp tính trực tiếp trên GTGT được áp dụng trong phạm vi rất hẹp.
Thuế tiêu thụ đặc biệt
Thuế tiêu thụ đặc biệt được đánh vào doanh thu của các doanh nghiệp
sản xuất một số mặt hàng đặc biệt mà nhà nước không khuyến khích sản xuất,
cần hạn chế mức tiêu thụ vì không phục vụ thiết thực cho nhu cầu đời sống
nhân dân như: rượu, bia, thuốc lá, vàng mã,…
Đối tượng nộp thuế tiêu thụ đặc biệt là tất cả các tổ chức, cá nhân sản
xuất, nhập khẩu hàng hóa và kinh doanh dịch vụ thuộc đối tượng chịu thuế
tiêu thụ đặc biệt.
Thuế xuất khẩu

14
SV: Phạm Thị Yến

14
Lớp: CQ48/21.13


Học viện tài chính


Luận văn tốt nghiệp

Đối tượng chịu thuế xuất khẩu: Tất cả các hàng hóa, dịch vụ mua bán,
trao đổi với nước ngoài khi xuất khẩu ra khỏi lãnh thổ Việt Nam.
Đối tượng nộp thuế xuất khẩu: Tất cả các đơn vị kinh tế trực tiếp xuất
khẩu hoặc ủy thác xuất khẩu.
1.2.3Các phương thức bán hàng
Việc sử dụng các phương thức bán hàng có ảnh hưởng trực tiếp tới quá
trình tiêu thụ sản phẩm, hàng hóa của doanh nghiệp, đồng thời có tính quyết
định tới việc xác định thời điểm bán hàng, hoàn thành doanh thu bán hàng và
tiết kiệm chi phí để tăng lợi nhuận.
Việc bán hàng trong các doanh nghiệp thường được thực hiện theo hai
phương thức: bán buôn và bán lẻ được chi tiết dưới nhiều hình thức khác nhau
(trực tiếp, chuyển hàng,…).
Cụ thể như sau:
1.2.3.1 Bán buôn
Bán buôn hàng hoá là hình thức bán hàng cho các đơn vị thương mại,
các doanh nghiệp sản xuất…. Đặc điểm của hàng hoá bán buôn là hàng hoá
vẫn nằm trong lĩnh vực lưu thông, chưa đi vào lĩnh vực tiêu •hoc, do vậy, giá
trị và giá trị sử dụng của hàng hoá chưa được thực hiện. Hàng bán buôn
thường được bán theo lô hàng hoặc bán với số lượng lớn. Giá bán biến động
tuỳ thuộc vào số lượng hàng bán và phương thức thanh toán. Trong bán buôn
thường bao gồm hai phương thức:
- Phương thức bán buôn hàng hoá qua kho: Bán buôn hàng hoá qua kho
là phương thức bán buôn hàng hoá mà trong đó, hàng bán phải được xuất từ
kho bảo quản của doanh nghiệp. Bán buôn hàng hoá qua kho có thể thực hiện
dưới hai hình thức:

15

SV: Phạm Thị Yến

15
Lớp: CQ48/21.13


Học viện tài chính

Luận văn tốt nghiệp

+ Bán buôn hàng hoá qua kho theo hình thức giao hàng trực tiếp: Theo
hình thức này, bên mua cử đại diện đến kho của doanh nghiệp thương mại để
nhận hàng. Doanh nghiệp thương mại xuất kho hàng hoá giao trực tiếp cho
đại diện bên mua. Sau khi đại diện bên mua nhận đủ hàng, thanh toán tiền
hoặc chấp nhận nợ, hàng hoá được xác định là tiêu thụ.
+ Bán buôn hàng hoá qua kho theo hình thức chuyển hàng: Theo hình
thức này, căn cứ vào hợp đồng kinh tế đã ký kết hoặc theo đơn đặt hàng,
doanh nghiệp thương mại xuất kho hàng hoá, dùng phương tiện vận tải của
mình hoặc đi thuê ngoài, chuyển hàng đến kho của bên mua hoặc một địa
điểm nào đó bên mua quy định trong hợp đồng. Hàng hoá chuyển bán vẫn
thuộc quyền sở hữu của doanh nghiệp thương mại. Chỉ khi nào được bên mua
kiểm nhận, thanh toán hoặc chấp nhận thanh toán thì số hàng chuyển giao
mới được •hoc ơ tiêu thụ, người bán mất quyền sở hữu về số hàng đã giao.
Chi phí vận chuyển do doanh nghiệp thương mại chịu hay bên mua chịu là do
sự thoả thuận từ trước giữa hai bên. Nếu doanh nghiệp thương mại chịu chi
phí vận chuyển, sẽ được ghi vào chi phí bán hàng. Nếu bên mua chịu chi phí
vận chuyển, sẽ phải thu tiền của bên mua.
- Phương thức bán buôn hàng hoá vận chuyển thẳng: Theo phương thức
này, doanh nghiệp thương mại sau khi mua hàng, nhận hàng mua, không đưa
về nhập kho mà chuyển bán thẳng cho bên mua. Phương thức này có thể thực

hiện theo hai hình thức:
+ Bán buôn hàng hoá vận chuyển thẳng theo hình thức giao hàng trực
tiếp (còn gọi là hình thức giao tay ba): Theo hình thức này, doanh nghiệp
thương mại sau khi mua hàng, giao trực tiếp cho đại diện của bên mua tại kho

16
SV: Phạm Thị Yến

16
Lớp: CQ48/21.13


Học viện tài chính

Luận văn tốt nghiệp

người bán. Sau khi đại diện bên mua ký nhận đủ hàng, bên mua đã thanh toán
tiền hàng hoặc chấp nhận nợ, hàng hoá được xác nhận là tiêu thụ.
+ Bán buôn hàng hoá vận chuyển thẳng theo hình thức chuyển hàng:
Theo hình thức này, doanh nghiệp thương mại sau khi mua hàng, nhận hàng
mua, dùng phương tiện vận tải của mình hoặc thuê ngoài vận chuyển hàng
đến giao cho bên mua ở địa điểm đã được thoả thuận. Hàng hoá chuyển bán
trong trường hợp này vẫn thuộc quyền sở hữu của doanh nghiệp thương mại.
Khi nhận được tiền của bên mua thanh toán hoặc giấy báo của bên mua đã
nhận được hàng và chấp nhận thanh toán thì hàng hoá chuyển đi mới được
xác định là tiêu thụ.
1.2.3.2

Bán lẻ


Bán lẻ hàng hoá là phương thức bán hàng trực tiếp cho người tiêu dùng
hoặc các tổ chức kinh tế hoặc các đơn vị kinh tế tập thể mua về mang tính
chất tiêu dùng nội bộ. Bán hàng theo phương thức này có đặc điểm là hàng
hoá đã ra khỏi lĩnh vực lưu thông và đi vào lĩnh vực tiêu dùng, giá trị và giá
trị sử dụng của hàng hoá đã được thực hiện. Bán lẻ thường bán đơn
chiếc hoặc bán với số lượng nhỏ, giá bán thường ổn định. Bán lẻ có thể thực
hiện dưới các hình thức sau:
- Hình thức bán lẻ thu tiền tập trung: Bán lẻ thu tiền tập trung là hình
thức bán hàng mà trong đó tách rời nghiệp vụ thu tiền của người mua và
nghiệp vụ giao hàng cho người mua. Mỗi quầy hàng có một nhân viên thu
tiền làm nhiệm vụ thu tiền của khách, viết hoá đơn hoặc tích kê cho khách để
khách đến nhận hàng ở quầy hàng do nhân viên bán hàng giao. Hết ca (hoặc
hết ngày) bán hàng, nhân viên bán hàng căn cứ vào hoá đơn và tích kê giao
hàng cho khách hoặc kiểm kê hàng hoá tồn quầy để xác định số lượng hàng
17
SV: Phạm Thị Yến

17
Lớp: CQ48/21.13


Học viện tài chính

Luận văn tốt nghiệp

đã bán trong ngày, trong ca và lập báo cáo bán hàng. Nhân viên thu tiền làm
giấy nộp tiền và nộp tiền bán hàng cho thủ quỹ.
- Hình thức bán lẻ thu tiền trực tiếp: Theo hình thức này, nhân viên bán
hàng trực tiếp thu tiền của khách và giao hàng cho khách. Hết ca, hết ngày
bán hàng, nhân viên bán hàng làm giấy nộp tiền và nộp tiền cho thủ quỹ.

Đồng thời, kiểm kê hàng hoá tồn quầy để xác định số lượng hàng đã bán
trong ca, trong ngày và lập báo cáo bán hàng.
- Hình thức bán lẻ tự phục vụ (tự chọn): Theo hình thức này, khách
hàng tự chọn lấy hàng hoá, mang đến bàn tình tiền để tính tiền và thanh toán
tiền hàng. Nhân viên thu tiền kiểm hàng, tính tiền, lập hoá đơn bán hàng và
thu tiền của khách hàng. Nhân viên bán hàng có trách nhiệm hướng dẫn khách
hàng và bảo quản hàng hoá ở quầy (kệ) do mình phụ trách. Hình thức này
được áp dụng phổ biến ở các siêu thị.
- Hình thức bán trả góp: Theo hình thức này, người mua được trả tiền
mua hàng thành nhiều lần. Doanh nghiệp thương mại, ngoài số tiền thu theo
giá bán thông thường còn thu thêm ở người mua một khoản lãi do trả chậm.
Đối với hình thức này, về thực chất, người bán chỉ mất quyền sở hữu khi
người mua thanh toán hết tiền hàng. Tuy nhiên,về mặt hạch toán, khi giao
hàng cho người mua, hàng hoá bán trả góp được coi là tiêu thụ, bên bán ghi
nhận doanh thu.
- Hình thức bán hàng tự động: Bán hàng tự động là hình thức bán lẻ
hàng hoá mà trong đó, các doanh nghiệp thương mại sử dụng các máy bán
hàng tự động chuyên dùng cho một hoặc một vài loại hàng hoá nào đó đặt ở
các nơi công cộng. Khách hàng sau khi bỏ tiền vào máy, máy sẽ tự động đẩy
hàng ra cho người mua.
18
SV: Phạm Thị Yến

18
Lớp: CQ48/21.13


Học viện tài chính

Luận văn tốt nghiệp


- Hình thức gửi đại lý bán hay ký gửi hàng hoá: Gửi đại lý bán hay ký
gửi hàng hoá là hình thức bán hàng mà trong đó doanh nghiệp thương mại
giao hàng cho cơ sở đại lý, ký gửi để các cơ sở này trực tiếp bán hàng. Bên
nhận làm đại lý, ký gửi sẽ trực tiếp bán hàng, thanh toán tiền hàng và được
hưởng hoa hồng đại lý. Số hàng chyển giao cho các cơ sở đại lý, ký gửi vẫn
thuộc quyền sở hữu của doanh nghiệp thương mại cho đến khi doanh nghiệp
thương mại được cơ sở đại lý, ký gửi thanh toán tiền hay chấp nhận thanh
toán hoặc thông báo về số hàng đã bán được doanh nghiệp mới mất quyền sở
hữu về số hàng này.
1.2.3.3Các trường hợp được coi là tiêu thụ khác
Trên thực tế ngoài các phương thức bán hàng thì tùy theo hàng hóa của
doanh nghiệp có thế được tiêu thụ theo các phương thức như: Xuất hàng hóa
để biếu tặng, trả lương công nhân viên trong doanh nghiệp…
1.2.3.4Các phương thức thanh toán
Thông thường, việc thanh toán tiền mua hàng trong nước được thực hiện bằng
các phương thức như:
- Phương thức thanh toán trực tiếp: Thanh toán ngay tiền cho người bán bằng
tiền mặt, bằng tiền cán bộ tạm ứng, bằng chuyển khoản, hoặc hàng đổi hàng.
- Phương thức thanh toán chậm trả: Tiền mua hàng chưa được thanh toán ngay.
Việc thanh toán chậm trả có thể được thực hiện theo điều kiện tín dụng đã
thỏa thuận giữa hai bên.
1.2.4 Kế toán giá vốn hàng bán
Phương pháp tính giá vốn hàng bán
Trị giá vốn hàng bán là toàn bộ chi phí liên quan đến quá trình bán hàng, bao
gồm: Trị giá vốn hàng xuất kho để bán, chi phí bán hàng, chi phí quản lý
doanh nghiệp phân bổ cho hàng bán ra trong kỳ.
Chi phí bán hàng và chi phí quản lý doanh nghiệp
Trị giá vốn của hàng xuất đã bán


Trị giá vốn của hàng đã bán

19
SV: Phạm Thị Yến

=

19

+

Lớp: CQ48/21.13


Học viện tài chính

Luận văn tốt nghiệp

Trị giá vốn hàng xuất kho để bán : Đối với doanh nghiệp sản xuất, trị
giá vốn thành phẩm xuất kho để bán hoặc thành phẩm hoàn thành không nhập
kho đưa đi bán ngay chính là giá thành sản xuất thực tế của thành phẩm xuất
kho để bán hoặc thành phẩm hoàn thành.
Trị giá vốn của hàng xuất kho được tính theo một trong các phương pháp sau:
Phương pháp tính theo giá đích danh :
Theo phương pháp này, giá vốn thực tế của thành phẩm xuất kho được
tính căn cứ vào số lượng thành phẩm xuất kho và đơn giá thành phẩm theo
nguyên tắc nhập theo giá nào thì xuất theo giá đó. Có nghĩa là thành phẩm
xuất kho thuộc đúng lô thành phẩm nhập vào đợt nào thì lấy đúng giá thành
thực tế nhập kho của nó để tính.
Phương pháp này được áp dụng cho những doanh nghiệp có ít loại mặt

hàng hoặc mặt hàng ổn định và nhận diện được, áp dụng cho các loại hàng
hóa có giá trị cao nhập theo lô và được bảo quản riêng theo từng lô của mỗi
lần nhập.
Phương pháp bình quân gia quyền :
Theo phương pháp bình quân gia quyền, giá trị của hàng hóa, thành
phẩm xuất kho trong kỳ được tính theo giá trị trung bình của hàng hóa, thành
phẩm tồn kho đầu kỳ và và giá trị hàng hóa, thành phẩm được mua hoặc sản
xuất trong kỳ. Giá trị trung bình có thể được tính theo thời kì hoặc vào mỗi
khi nhập một lô hàng về. Cụ thể như sau:
Phương pháp bình quân cả kỳ dự trữ:
Theo phương pháp này thành phẩm xuất kho chưa ghi sổ, cuối tháng
căn cứ vào số tồn đầu kỳ và số nhập trong kỳ, kế toán tính được :

20
SV: Phạm Thị Yến

20
Lớp: CQ48/21.13


Học viện tài chính

Luận văn tốt nghiệp

Ztt thành phẩm nhập kho trong kỳ
Ztt thành phẩm tồn kho đầu kì
+
Đơn giá thực tế bình quân
=


Số lượng thành phẩm tồn kho đầu kỳ

Số lượng thành phẩm nhập kho trong kỳ

+

Giá thành thực tế thành phẩm xuất kho trong
Sốkỳlượng thực tế thành phẩm xuất kho trong kỳĐơn giá thực tế bình quân
*
=

Ưu điểm là tương đối đơn giản, dễ làm nhưng nhược điểm là phải đến
cuối kỳ mới tính được đơn giá bình quân. Do đó phương pháp này thường
được sử dụng ở những doanh nghiệp có tổng số loại thành phẩm không lớn,
hạch toán đơn giản.
Phương pháp bình quân liên hoàn:
Về cơ bản phương pháp này giống phương pháp trên, nhưng đơn giá
bình quân được xác định trên cơ sở giá thành thực tế thành phẩm tồn kho đầu
kỳ và đơn giá từng lần nhập thành phẩm trong kỳ. Cứ sau mỗi lần nhập kho
thành phẩm thì lại tính giá trị thực tế bình quân sau mỗi lần nhập, xuất đó và
từ đó xác định trị giá thành phẩm xuất sau mỗi lần nhập đó.

21
SV: Phạm Thị Yến

21
Lớp: CQ48/21.13


Học viện tài chính


Luận văn tốt nghiệp

Ztt thành phẩm xuất kho trong kỳSố lượng thành phẩm xuất kho trong kỳĐơn giá thực tế bình quân liên hoàn
*
=

Ztt của thành phẩm còn lại sau lần xuất trước Ztt nhập kho sau lần xuất trước
Đơn giá thực tế bình quân sau mỗi lần nhập
(Đơn giá bình quân liên hoàn)
+

=
Số lượng thành phẩm còn lại sau lần xuất trước
Số lượng thành phẩm nhập kho sau lần xuất trước
+

Theo phương pháp này kế toán không phải chờ đến cuối kì mới xác
định được đơn giá xuất kho để hạch toán. Nhưng phương pháp này phức tạp
hơn và kế toán cần làm nhiều công việc hơn là sử dụng phương pháp đơn giá
bình quân gia quyền cả kì dự trữ.
Phương pháp nhập trước xuất trước (FIFO)
Phương pháp này được dựa trên giả định là lô thành phẩm nào nhập
trước sẽ được xuất trước và giá thành thực tế thành phẩm xuất kho được tính
theo đơn giá thực tế của số thành phẩm thuộc các lần nhập trước nhân với số
lượng thành phẩm xuất kho tương ứng.
22
SV: Phạm Thị Yến

22

Lớp: CQ48/21.13


Học viện tài chính

Luận văn tốt nghiệp

Phương pháp này thường được áp dụng trong những doanh nghiệp
quản lý cao về điều kiện, thời gian bảo quản….
Phương pháp nhập sau xuất trước (LIFO)
Phương pháp này được dựa trên giả định lô thành phẩm nào nhập sau
thì sẽ được xuất trước và đơn giá xuất là đơn giá của các lần nhập sau cùng.
Mỗi một phương pháp tính giá thành thực tế của thành phẩm xuất kho đều
có những ưu, nhược điểm riêng. Việc lựa chọn phương pháp nào để vận dụng
cho doanh nghiệp mình, phải căn cứ vào tình hình thực tế yêu cầu hạch toán của
doanh nghiệp, đồng thời việc lựa chọn và áp dụng phương pháp tính giá thành
thực tế thành phẩm xuất kho phải đảm bảo nguyên tắc nhất quán, để báo cáo tài
chính có thể so sánh được và đảm bảo nguyên tắc công khai để chỉ đạo việc thay
đổi từ phương pháp này sang phương pháp khác nếu thấy cần thiết.
Phương pháp kế toán giá vốn hàng bán
Chứng từ sử dụng: Hợp đồng kinh tế; Phiếu xuất kho; Hóa đơn GTGT;
Biên bản giao nhận; Phiếu thu; Giấy báo có…
TK sử dụng: 632 – Giá vốn hàng bán
Ngoài ra, tùy theo từng phương thức bán hàng và tùy theo doanh
nghiệp kế toán hàng tồn kho theo phương pháp kê khai thường xuyên hay
kiểm kê định kì mà có thể sử dụng thêm các tài khoản như:154 – chi phí sản
xuất kinh doanh dở dang; 155 – Thành phẩm;156 – Hàng hóa;157 – Hàng gửi
đi bán.
Trình tự kế toán giá vốn hàng bán:
Sơ đồ 1.1.Phương pháp kê khai thường xuyên

154

911

632

(3)

(6)
(2)

157
(4)

155

(1)

23
SV: Phạm Thị Yến

(5)

23
Lớp: CQ48/21.13


Học viện tài chính

Luận văn tốt nghiệp


(1) Xuất kho thành phẩm đem bán cho khách hàng.
(2) Sản xuất sản phẩm hoàn thành, không nhập kho mà gửi bán.
(3) Sản xuất sản phẩm hoàn thành, không nhập kho, bán thẳng.
(4) Hàng gửi bán xác định là tiêu thụ.
(5) Nhập kho thành phẩm đã bán bị trả lại.
(6) Cuối kỳ, kết chuyển giá vốn thành phẩm đã bán được trong kỳ để
xác định kết quả.
Sơ đồ 1.2.Phương pháp kiểm kê định kỳ
632

631

911
(4)

(2)

155,157
(1)

(3)

(1) Đầu kỳ kết chuyển trị giá vốn thành phẩm tồn kho đầu kỳ, hàng gửi bán chưa
xác định tiêu thụ đầu kỳ.
(2) Cuối kỳ xác định và kết chuyển giá trị thành phẩm hoàn thành và nhập kho.
(3) Cuối kỳ, kết chuyển trị giá vốn thành phẩm tồn kho cuối kỳ và thành phẩm
gửi bán chưa xác định là tiêu thụ trong kỳ.
(4) Cuối kỳ, xác định và kết chuyển trị giá vốn của thành phẩm xuất kho đã được
xác định là tiêu thụ để xác định kết quả.

1.2.5 Kế toán doanh thu bán hàng và các khoản giảm trừ doanh thu
Kế toán doanh thu bán hàng
Theo chuẩn mực kế toán số 14 được ban hành theo quyết định số
149/2001/QĐ-BTC ngày 31/7/2001 thì doanh thu bán hàng được hiểu là tổng
24
SV: Phạm Thị Yến

24
Lớp: CQ48/21.13


Học viện tài chính

Luận văn tốt nghiệp

giá trị các lợi ích kinh tế doanh nghiệp thu được trong kỳ kế toán, phát sinh từ
các hoạt động sản xuất kinh doanh thông thường của doanh nghiệp, góp phần
làm tăng vốn chủ sở hữu.
Doanh thu thuần được xác định bằng tổng doanh thu sau khi trừ đi các khoản
chiết khấu thương mại,giảm giá hàng bán và doanh thu hàng đã bán bị trả lại.
Tùy theo từng loại hình sản xuất kinh doanh mà doanh thu có thể bao
gồm:
- Doanh thu bán hàng.
- Doanh thu cung cấp dịch vụ.
- Doanh thu từ tiền lãi, tiền bản quyền, cổ tức và lợi tức được chia.
Ngoài ra còn có các khoản thu nhập khác.
Doanh thu bán hàng được xác định khác nhau tùy theo doanh nghiệp
nộp thuế GTGT theo phương pháp nào. Nếu doanh nghiệp nộp thuế GTGT
theo phương pháp khấu trừ thuế thì doanh thu bán hàng không bao gồm thuế
GTGT. Nếu doanh nghiệp nộp thuế GTGT theo phương pháp trực tiếp thì

doanh thu bán hàng bao gồm cả thuế GTGT.
Chứng từ kế toán
Chứng từ kế toán sử dụng để kế toán doanh thu và các khoản giảm trừ
doanh thu bán hàng bao gồm:
- Hóa đơn GTGT (mẫu 01- GTKT- 3LL)
- Hóa đơn bán hàng thông thường (mẫu 02- GTGT- 3LL)
- Bảng thanh toán hàng đại lí, ký gửi (mẫu 01- BH)
- Thẻ quầy hàng (mẫu 02- BH)
- Các chứng từ thanh toán (phiếu thu, séc chuyển khoản, séc thanh toán,
ủy nhiệm thu, giấy báo có của ngân hàng…)
- Chứng từ kế toán liên quan khác như phiếu nhập kho hàng trả lại…
* Tài khoản kế toán sử dụng
25
SV: Phạm Thị Yến

25
Lớp: CQ48/21.13


×