LỜI CẢM ƠN
Với tình cảm chân thành, tác giả xin bày tỏ lòng biết ơn và sự kính
trọng tới Ban giám hiệu, cùng các thầy, cô và cán bộ các phòng- ban Trường
Đại học Giáo dục- Đại học Quốc gia Hà Nội đã nhiệt tình giảng dạy và tạo
điều kiện thuận lợi cho tác giả trong quá trình học tập, nghiên cứu và hoàn
thành luận văn của mình.
Đặc biệt, tác giả xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc và gửi lời cảm ơn chân
thành nhất tới PGS.TS Trần Khánh Thành đã định hướng, giúp đỡ tôi trong
suốt quá trình học tập, nghiên cứu và hoàn thành luận văn.
Tác giả xin được gửi lời cảm ơn chân thành tới Ban giám hiệu và đội
ngũ giáo viên Trường THPT Ba Vì, Trường Phổ thông Dân tộc Nội trú Hà
Nội đã tạo điều kiện giúp đã tác giả trong suốt quá trình nghiên cứu đề tài.
Tác giả cũng gửi lời cảm ơn tới gia đình, bạn bè, đồng nghiệp đã tận
tình giúp đỡ động viên tác giả hoàn thành khóa học và luận văn này.
Mặc dù đã có nhiều cố gắng song luận văn không tránh khỏi thiếu xót,
tác giả mong nhận được sự đóng góp ý kiến từ các thầy cô, các bạn đồng
nghiệp và những người quan tâm để luận văn được hoàn thiện hơn.
Xin trân trọng cảm ơn./.
Hà Nội, tháng 11 năm 2014
Tác giả luận văn
Quách Đình Lợi
i
DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU, CÁC CHỮ VIẾT TẮT
1. BGD&ĐT
Bộ Giáo dục và Đào tạo
2. DTTS
Dân tộc thiểu số
3. CNTT
Công nghệ thông tin
4. GV
Giáo viên
5. HS
Học sinh
6. THPT
Trunh học phổ thông
7. TPVH
Tác phẩm Văn học
8. SGK
Sách giáo khoa
9. SGD&ĐT
Sở Giáo dục và Đào tạo
ii
MỤC LỤC
Mùa xuân thường mang lại cho con người hi vọng, ước mơ, là mùa lễ hội, vui chơi, mùa
của tình yêu. Hàng năm khi hoa đào, hoa mận nở trắng rừng cũng là lúc người dân tộc
H’mông bắt đầu đón tết. Tết H’mông rơi vào cuối tháng một, đầu tháng Chạp âm lịch
(30/11 âm lịch). Tết thường kéo dài trong nhiều ngày với nhiều sinh hoạt cộng đồng mang
đậm nét văn hóa dân tộc H’mông. Cho nên cái tết năm ấy đến Hồng Ngài giữa lúc "gió và
rét rất dữ dội" nhưng cũng không ngăn được niềm vui đang trỗi dậy trong tâm hồn những
người dân ở đây, đặc biệt là ở những đôi trai gái yêu nhau. Tô Hoài đã đặc tả không khí
ngày tết với những từ ngữ giàu chất tạo hình, qua đó hiện lên bức tranh ngày tết miền núi
tràn ngập màu sắc và âm thanh: "Nhưng trong các làng Mèo Đỏ, những chiếc váy hoa đã
đem ra phơi trên những mỏm đá xòe như con bướm sặc sỡ [...] Đám trẻ đợi tết, chơi quay,
cười ầm trên sân chơi trước nhà" [39, tr.7]............................................................................54
iii
DANH MỤC BẢNG
Bảng 3.1: Kết quả kiểm tra nhanh cuối giờ học trường THPT Ba Vì.............................98
Bảng 3.2: Kết quả kiểm tra nhanh cuối giờ học trường Phổ thông Dân tộc...................99
Nội trú Hà Nội.....................................................................................................................99
iv
DANH MỤC BIỂU ĐỒ
Biểu đồ 3.1: Thống kê kiểm tra nhanh cuối giờ học tại....................................................99
Trường THPT Ba Vì Hà Nội..............................................................................................99
Biểu đồ 3.2: Thống kê kiểm tra nhanh cuối giờ học tại....................................................99
Trường Phổ thông Dân tộc Nội trú Hà Nội.....................................................................100
v
MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
1.1. Xu hướng hội nhập và toàn cầu hóa đã chi phối và tác động mạnh
mẽ đến các nước trên thế giới trong đó có Việt Nam về cả hai mặt thuận lợi
và thách thức. Sau hơn hai mươi năm thực hiện đường lối đổi mới của Đảng,
đất nước ta đã thu được những thành tựu hết sức to lớn về mọi mặt như: kinh
tế, chính trị và quan hệ quốc tế. Song, để đứng vững và tiếp tục đẩy mạnh hơn
nữa những thành công đó trước sự tác động mạnh mẽ của nền kinh tế thị
trường và xu hướng toàn cầu hóa đòi hỏi con người Việt Nam phải giữ vững
và phát huy được những tinh hoa văn hóa của dân tộc, trong đó việc giữ gìn
bản sắc văn hóa dân tộc là một trong những vấn đề hết sức cần thiết.
Hội nghị Ban chấp hành Trung ương lần thứ 5 (khóa XIII), nhận thức
vai trò quan trọng của nền văn hóa trong sự phát triển của đất nước, nối tiếp
truyền thống coi trọng văn hóa của dân tộc, Đảng ta đề ra nghị quyết riêng về
văn hóa, trong đó đã chỉ rõ “Phương hướng chung của sự nghiệp văn hóa
nước ta là phát huy chủ nghĩa yêu nước và truyền thống đại đoàn kết dân tộc,
ý thức độc lập tự chủ, tự cường xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam
tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc …” [3]. Đến Hội nghị lần thứ 9, Ban Chấp
hành Trung ương Đảng khóa XI tiếp tục khẳng định “phải kế thừa, bổ sung
và phát triển quan điểm của Đảng về xây dựng và phát triển văn hóa đã được
nêu trong Nghị quyết Trung ương 5 (khóa VIII), đồng thời nhấn mạnh văn
hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, là mục tiêu, động lực và nguồn nội lực
quan trọng cho phát triển bền vững đất nước; văn hóa phải được đặt ngang
hàng với kinh tế, chính trị, xã hội; tăng trưởng kinh tế phải đi đôi với phát
triển văn hóa, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội” [61].
1.2. Thực trạng hiện nay, trước ảnh hưởng của thời kì hội nhập và xu
thế toàn cầu hóa một bộ phận người Việt Nam nhất là thế hệ trẻ đã dần mai
một đi những truyền thống văn hóa tốt đẹp của dân tộc. Do vậy, việc tuyên
truyền, vận động, giáo dục ý thức giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc là một vấn
1
đề mang tính thời sự và cấp thiết đối với sự nghiệp đổi mới và phát triển của
nước ta.
Việc giáo dục ý thức giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc có thể thông qua
nhiều cách, nhiều hình thức, nhiều kênh khác nhau, trong đó thông qua việc
dạy học các tác phẩm văn chương trong nhà trường là một trong những cách
giáo dục hữu dụng. Bởi văn học là một bộ phận không thể tách rời văn hóa.
Giữa văn hóa và văn học có mối quan hệ tương hỗ với nhau. Một tác phẩm
văn học hay được đề cao và lưu truyền lại cho thế hệ sau phải là một tác phẩm
trong đó tác giả không những thành công về nội dung mà đòi hỏi cả ở mặt
nghệ thuật vận dụng của các giá trị văn hóa như thế nào. Do vậy, khi dạy học,
nếu giáo viên biết vận dụng linh hoạt các tín hiệu văn hóa có trong tác phẩm
thì có tác dụng rất lớn trong việc giáo dục cho các em học sinh ý thức giữ gìn
bản sắc văn hóa dân tộc.
1.3. Trong chương trình Ngữ văn lớp 12 THPT, Vợ chồng A phủ (1952)
in trong tập truyện Tây Bắc của nhà văn Tô Hoài là một tác phẩm hay, đặc
sắc, tiêu biểu của nhà văn về đề tài miền núi và cũng là tác phẩm đặc sắc của
văn xuôi Việt Nam giai đoạn (1945- 1975). Thông qua dạy học tác phẩm này,
giáo viên Ngữ văn, đặc biệt là giáo viên giảng dạy ở địa bàn miền núi có thể
kết hợp, tích hợp giáo dục ý thức giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc. Bởi đây là
tác phẩm văn học mang đậm bản sắc văn hóa H’mông- một dân tộc ít người
sống chủ yếu ở vùng Tây Bắc nước ta. Nét văn hóa của người H’mông cũng
là một nét văn hóa đặc sắc, tiêu biểu của các dân tộc ít người sống trên đất
nước Việt Nam.
1.4. Trường THPT Ba Vì, nơi tôi đang giảng dạy thuộc địa bàn miền
núi của Hà Nội. Là nơi sinh sống chủ yếu của đồng bào các dân tộc như:
Kinh, Mường, Dao. Đặc điểm của học sinh miền núi chất phác, giản dị thật
thà tuy nhiên còn tự ti và nhận thức, tiếp thu kiến thức chậm hơn so với học
sinh các địa bàn khác. Cùng chung xu thế của thời đại, của đất nước, ý thức
giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc của học sinh ở đây cũng đang có xu hướng bị
phai nhạt theo thời gian và năm tháng.
2
Với những lí do trên, chúng tôi chọn vấn đề “Tích hợp giáo dục ý thức giữ
gìn bản sắc văn hóa dân tộc cho học sinh lớp 12, địa bàn miền núi qua dạy học
tác phẩm "Vợ chồng A Phủ" của Tô Hoài” làm đề tài luận văn cao học.
2. Lịch sử vấn đề
2.1. Vấn đề tích hợp
2.1.1. Trong thời gian qua đã có nhiều công trình nghiên cứu về dạy học
theo hướng tích hợp đã được công bố. Nổi bật nhất là cuốn sách Khoa sư phạm
tích hợp hay làm thế nào để phát triển các năng lực ở nhà trường [58]. Cuốn
sách đã mang lại giá trị lý luận cao, giúp chúng ta hiểu được nội dung và bản
chất tích hợp và cho thấy những ảnh hưởng của khoa học sư phạm Tích hợp
đối với chương trình SGK cũng như kiến thức mà học sinh lĩnh hội được.
2.1.2. Trong việc dạy học Ngữ văn, quan điểm tích hợp cũng đã được
ứng dụng và nghiên cứu: Phương pháp dạy học Ngữ văn ở THCS theo hướng
tích hợp và tích cực [31]. Ngoài ra còn một số bài báo bàn về quan điểm tích
hợp trong môn Ngữ văn và dạy học Ngữ văn: Tích hợp và liên nội hướng tới
kết nối trong dạy học Ngữ văn [13], Tích hợp trong dạy học Ngữ văn [16],
Dạy Ngữ văn theo hướng tích hợp [7].
2.1.3. Bên cạnh đó, một số luận văn, luận án cũng đã quan tâm lựa
chọn và vận dụng quan điểm tích hợp vào dạy học Ngữ văn như: Luận án Hệ
thống đề kiểm tra nhằm đánh giá năng lực Ngữ văn THCS theo yêu cầu tích
hợp của Nguyễn Thị Hồng Vân. Dạy học ca dao trong ngữ văn 10 theo
hướng tích cực và tích hợp [8]. Tích hợp kỹ năng sống, tích hợp giáo dục môi
trường, tích hợp tư tưởng Hồ Chí Minh…
2.2. Về tác phẩm Vợ chồng A phủ của Tô Hoài
Vợ chồng A phủ in trong tập Truyện Tây Bắc (1953) cùng với Cứu đất cứu
mường, Mường Giơn và là các tác phẩm xuất sắc nhất, tác phẩm đã được tặng
giải nhất giải thưởng văn học của Hội văn nghệ Việt Nam năm (1954 - 1955).
Đây là một tác phẩm được trích giảng trong chương trình lớp 12 phổ
thông. Vợ chồng A phủ nhận được rất nhiều ý kiến của các nhà phê bình,
3
nghiên cứu, các nhà giáo và đông đảo bạn đọc là đối tượng học sinh, sinh
viên. Tác phẩm được sự đánh giá chung là một tác phẩm hay và xuất sắc của
Tô Hoài khi viết về đồng bào dân tộc ở miền núi Tây Bắc.
Đỗ Kim Hồi trong cuốn Giảng văn học Việt Nam, đã đánh giá rất cao về
tác phẩm này: “Sức chinh phục của Vợ chồng A phủ phải chăng là ở chỗ nhà
văn đã đứng về phía khát vọng được sống, được yêu để tố cáo xã hội đã giam
hãm, trói buộc tuổi xuân và sinh lực, ở chỗ nhà văn tin tưởng vào sức sống bất
diệt của con người để cảm thông với nguyện vọng đau đáu, thiết tha muốn
được vươn lên sống làm người, muốn phản kháng lại thực tại đen tối để tìm
đến tình yêu, tự do và hạnh phúc và sự chinh phục của thiên truyện còn ở cái
nhìn thật biện chứng của tác giả vào thế giới nội tâm của nhân vật” [22, tr 273].
Tác giả Nguyễn Văn Long khi viết về Vợ chồng A phủ đã nhấn mạnh ý
nghĩa giáo dục tư tưởng của tác phẩm Vợ chồng A phủ đã miêu tả một cách cô
đọng nhưng sinh động quá trình trưởng thành con đường đi đến cách mạng
của nhân dân lao động miền núi, của các dân tộc đã trải qua mấy mươi năm.
Con đường đó càng làm sáng tỏ chân lí của thời đại: chỉ có chủ nghĩa xã hội,
chủ nghĩa cộng sản mới giải phóng được các dân tộc bị áp bức và những
người lao động trên thế giới thoát khỏi ách nô lệ [34].
Mai Hạnh Ngân, trường THPT chuyên Lê Quý Đôn - Điện Biên cũng
có bài viết: Nhãn quan phong tục trong Vợ chồng A phủ của Tô Hoài, tác giả
đã đi sâu vào tìm hiểu các phong tục của người H’mông trong tác phẩm như:
Tục cho vay nặng lãi, tục cưới vợ trình ma, tục xử kiện phạt vạ, trình ma
người vay nợ, những ngày tết vùng cao, đêm tình mùa xuân. Bài viết thể hiện
sự hiểu biết tường tận về các phong tục của người H’mông ở vùng cao Tây
Bắc và đánh giá được khả năng khám phá, tìm hiểu sâu sắc của Tô Hoài về
những phong tục tập quán mà chỉ có người dân tộc thiểu số ở vùng cao tiêu
biểu là dân tộc H’mông mới có.
Một vài tác giả khác cũng rất tâm đắc với tác phẩm Vợ chồng A phủ của
Tô Hoài và đã nghiên cứu, tìm hiểu một phương pháp tiếp cận mới qua dạy
4
học tác phẩm này đó là “Dạy học tác phẩm Vợ chồng A phủ cho học sinh
vùng cao theo hướng đối thoại văn hóa”.
Bên cạnh đó, hàng loạt các tác giả nổi tiếng khác đã thiết kế dạy học tác
phẩm Vợ chồng A phủ như: Phan Trọng Luận -Tổng chủ biên, cùng nhóm tác
giả khác với cuốn SGK Ngữ văn (tập 2), Nxb Giáo dục 2008; thiết kế bài
giảng Ngữ văn 12 tập 2, Nxb Hà Nội do Nguyễn Văn Đường chủ biên năm
2008; Thiết kế bài giảng Ngữ văn 12 nâng cao tập 2, Nxb Hà Nội do Nguyễn
Văn Đường chủ biên; Thiết kế dạy học Ngữ văn 12 – Nxb Giáo dục năm
2008; do tác giả Lưu Đức Hạnh chủ biên vv … Hướng thiết kế của các tác giả
đó bám rất sát chuẩn kiến thức của Bộ giáo dục đề ra. Chủ yếu hướng học
sinh đi sâu vào tìm hiểu các khía cạnh của giá trị tác phẩm Vợ chồng A phủ.
Đây là những tài liệu rất đáng tin cậy để giáo viên và học sinh tham khảo
trong quá trình dạy học tác phẩm này.
Rõ ràng, tác phẩm Vợ chồng A phủ của Tô Hoài được rất nhiều người
quan tâm và đánh giá cao. Nhưng cho đến nay chưa có công trình nghiên cứu
nào đề cập cụ thể tới việc tích hợp giáo dục ý thức giữ gìn bản sắc văn hóa
dân tộc cho học sinh lớp 12 THPT nói chung và ở địa bàn miền núi nói riêng
qua dạy học tác phẩm Vợ chồng A phủ của Tô Hoài. Chính vì vậy chúng tôi
mạnh dạn đi vào nghiên cứu vấn đề này.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1.1 Mục đích
Đưa ra phương hướng tiếp cận tác phẩm Vợ chồng A Phủ dựa trên
những tín hiệu văn hóa và trên cơ sở đó lồng ghép giáo dục ý thức giữ gìn bản
sắc văn hóa dân tộc cho học sinh.
3.1.2. Nhiệm vụ
Tìm hiểu khái niệm về văn hóa và bản sắc văn hóa dân tộc; Bản sắc văn
hóa của các dân tộc sống trên đất nước Việt Nam.
Lý thuyết về dạy học theo hướng tích hợp.
5
Tìm hiểu thực trạng về dạy học tích hợp và vận dụng tích hợp giáo dục
ý thức giữ gìn bản sắc văn hóa qua dạy học Vợ chồng A phủ của Tô Hoài ở
một số trường trên địa bàn miền núi khu vực Hà Nội.
Đề xuất một số biện pháp tích hợp giáo dục ý thức giữ gìn bản sắc văn
hóa dân tộc cho học sinh.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng lựa chọn nghiên cứu là tích hợp giáo dục ý thức giữ gìn bản
sắc văn hóa dân tộc qua dạy học Vợ chồng A phủ của Tô Hoài.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Tìm hiểu giá trị nội dung nghệ thuật của tác phẩm Vợ chồng A phủ của
Tô Hoài, từ đó đề xuất quy trình dạy học tích hợp giáo dục ý thức giữ gìn bản
sắc văn hóa dân tộc qua dạy học tác phẩm Vợ chồng A phủ của Tô Hoài.
Phạm vi điều tra, khảo sát thực trạng dự kiến tiến hành tại các trường
trên địa bàn miền núi Hà Nội là: Trường THPT Ba Vì, Trường Phổ thông Dân
tộc Nội trú Hà Nội và trường THPT Bắc Lương Sơn.
5. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp phân tích, tổng hợp, khảo cứu tài liệu.
Phương pháp điều tra, phỏng vấn.
Phương pháp thực nghiệm sư phạm.
6. Cấu trúc luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và khuyến nghị, tài liệu tham khảo, phụ
lục, nội dung chính của luận văn được trình bày trong 3 chương.
Chương 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn của đề tài.
Chương 2: Thực trạng và biện pháp tổ chức dạy học tích hợp giáo dục ý
thức giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc qua dạy học Vợ chồng A phủ của Tô Hoài.
Chương 3: Giáo áo thể nghiệm và thực nghiệm sư phạm.
6
NỘI DUNG
CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI
1.1. Bản sắc văn hóa dân tộc
1.1.1. Khái niệm về văn hóa
Văn hóa là sản phẩm của con người, là hệ quả của sự tiến hóa nhân
loại. Nhờ có văn hóa mà con người trở nên độc đáo trong thế giới sinh vật và
khác biệt so với những con vật khác trong thế giới động vật. Tuy nhiên, để
hiểu về khái niệm “văn hóa” đến nay vẫn còn nhiều ý kiến khác nhau, do đó
có rất nhiều những định nghĩa khác nhau về văn hóa.
Trong lịch sử, khái niệm văn hóa xuất hiện rất sớm ở phương Đông
cũng như ở phương Tây. Ở phương Tây, từ văn hóa bắt nguồn từ tiếng La
tinh: Cuture, có nghĩa là vun trồng, chăm bón, cải thiện tạo ra những sản
phẩm phục vụ cho nhu cầu của con người. Trong thời kỳ Cổ đại ở Trung
Quốc, văn hóa được hiểu là cách thức điều hành xã hội của tầng lớp thống trị
dùng văn hóa và giáo hóa, dùng cái hay, cái đẹp để giáo dục và cảm hóa con
người. Văn là là cái tốt, cái đẹp; hóa là cảm hóa, giáo dục. Nghĩa là giáo dục
con người bằng cái tốt, cái đẹp và hiện thực hóa cái tốt đẹp đó trong cuộc
sống. Ở nước ta gần 600 năm trước, Nguyễn Trãi cũng đã mơ ước một xã hội
văn trị, lấy nền tảng văn hiến cao, lấy trình độ học vấn và trình độ tu thân của
mỗi người làm cơ sở cho sự phát triển hài hòa của xã hội.
Khái niệm văn hóa về sau phát triển ngày càng phong phú. Tùy cách
tiếp cận khác nhau, cách hiểu khác nhau, đến nay đã có mấy trăm định nghĩa
khác nhau về văn hóa. Theo định nghĩa của cựu Tổng giám đốc UNESCO
Federico Mayor "Văn hóa là tổng thể các hoạt động sáng tạo của cá nhân và
các cộng đồng trong quá khứ và hiện tại. Qua các thế kỷ hoạt động sáng tạo
đã hình thành lên hệ thống các giá trị, các truyền thống và các thị hiếu,
những yếu tố xác định đặc tính riêng của mỗi dân tộc (...). Văn hóa nhất định
sẽ ghi dấu của mình lên hoạt động kinh tế của con người" [54, tr.23].
7
UNESCO thừa nhận văn hóa là cội nguồn trực tiếp của phát triển xã
hội, có vị trí trung tâm và đóng vai trò điều tiết xã hội. Nó không những là
yếu tố nội sinh của sự phát triển, mà còn là mục tiêu động lực cho sự phát
triển xã hội. Văn hóa giúp cho con người tự hoàn thiện, nó quyết định tính
cách riêng của một xã hội, làm cho dân tộc này khác dân tộc khác.
Nhà nghiên cứu văn hóa Phan Ngọc nói ông đã tìm được trên 300 định
nghĩa về văn hóa và những định nghĩa này đều theo tinh thần luận. Ông nhận
xét: " …không có cái vật gì gọi là văn hóa cả và ngược lại bất cứ vật gì cũng
có cái mặt văn hóa". Theo thao tác luận, ông định nghĩa: "Văn hoá là một
quan hệ. Nó là mối quan hệ giữa thế giới biểu tượng với thế giới thực tại.
Quan hệ ấy biểu hiện thành một kiểu lựa chọn riêng của một tộc người, một
cá nhân so với một tộc người khác, một cá nhân khác. Nét khu biệt các kiểu
lựa chọn làm cho chúng khác nhau, tạo thành những nền văn hóa khác nhau
là độ khúc xạ. Tất cả mọi cái mà một tộc người tiếp thu hay sáng tạo đều có
một độ khúc xạ riêng có mặt ở mọi lĩnh vực và rất khác độ khúc xạ ở một tộc
người khác" [45, tr 104]. Hồ Chí Minh cho rằng “Vì lẽ sinh tồn cũng như mục
đích của cuộc sống, loài người mới sáng tạo và phát minh ra ngôn ngữ, chữ
viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn học, nghệ thuật, những công
cụ cho sinh hoạt hằng ngày về mặt ăn, ở và các phương thức sử dụng. Toàn
bộ những sáng tạo và phát minh đó tức là văn hóa” [44, tr 431]. Còn Trần
Ngọc Thêm lại định nghĩa : "Văn hóa là một hệ thống hữu cơ các giá trị vật
chất và tinh thần do con người sáng tạo và tích luỹ qua quá trình hoạt động
thực tiễn, trong sự tương tác giữa con người với môi trường tự nhiên và xã
hội của mình" [53, tr 20].
Việc xác định khái niệm văn hóa không đơn giản, bởi vì mỗi một nhà
nghiên cứu đều xuất phát từ những quan điểm riêng, cứ liệu riêng, mục đích
riêng phù hợp với vấn đề mình cần nghiên cứu để đưa ra các định nghĩa khác
nhau về văn hóa. Tuy khác nhau, nhưng các định nghĩa đó đều thống nhất ở
một điểm: “Văn hóa là toàn bộ những giá trị vật chất và tinh thần do con
8
người sáng tạo ra”. Mọi thứ văn hóa đều là văn hóa thuộc về con người, các
thứ tự nhiên không thuộc về khái niệm văn hóa. Văn hóa là đặc trưng căn bản,
phân biệt con người với động vật, cũng là tiêu chí căn bản để phân biệt sản
phẩm nhân tạo và sản phẩm tự nhiên.
Như vậy với những định nghĩa giá trị về văn hóa nói trên, chúng ta có
thể sử dụng để nghiên cứu lối sống, lối suy nghĩ, lối ứng xử của một dân tộc,
một cồng đồng người.
1.1.2. Khái niệm bản sắc
"Bản sắc" là một khái niệm phức tạp, liên quan đến cả cái chung và cái
riêng, bao gồm cả yếu tố nội dung và yếu tố hình thức. Theo Từ điển tiếng
Việt [47], thuật ngữ "bản sắc" dùng để chỉ tính chất, màu sắc riêng tạo thành
phẩm chất đặc biệt của một sự vật tức là nói tới sắc thái, đặc tính, đặc thù
riêng của sự vật đó. Thực tế, khi nói "bản sắc" thường là nói tới cái riêng, cái
rất riêng của một sự vật để phân biệt nó với các sự vật khác trong thế giới
khách quan. Cách định nghĩa này có phần nhấn mạnh cái riêng, cái đặc thù,
cái biểu hiện ra bên ngoài của bản chất sự vật.
"Bản sắc" là từ một ghép có gốc Hán - Việt nên có một cách tiếp cận
khác là phân tích trên ngữ nghĩa của hai từ "bản" và "sắc". Theo đó, "bản" là
cái gốc, cái căn bản, cái cốt lõi, cái hạt nhân của một sự vật; "sắc" là sự biểu
hiện cái căn bản, cái cốt lõi, cái hạt nhân đó ra ngoài. Cách tiếp cận này được
nhận thức trên hai bình diện: mặt bản chất bên trong và mặt biểu hiện bên
ngoài và giữa hai mặt đó có mối quan hệ biện chứng với nhau. Trong đó, mặt
bên trong phản ánh tính đồng nhất, bản chất của một lớp đối tượng sự vật nhất
định và mặt bên ngoài phản ánh những dấu hiệu, những sắc thái riêng của sự
vật để làm cơ sở phân biệt sự khác nhau giữa sự vật này với sự vật khác.
Thuật ngữ bản sắc thường được sử dụng gắn với văn hóa và dân tộc.
Nói đến dân tộc là nói đến văn hoá, bản sắc văn hoá và nói đến văn hoá là nói
đến dân tộc, bản sắc dân tộc.
9
1.1.3. Khái niệm về bản sắc văn hóa dân tộc
Dân tộc nào cũng có nền văn hóa truyền thống. Đó là tổng hợp những
hiện tượng văn hóa-xã hội bao gồm các chuẩn mực giao tiếp, các khuôn
mẫu văn hóa, các tư tưởng xã hội, các phong tục tập quán, các lễ nghi, thiết
chế xã hội… được bảo tồn qua năm tháng, trở thành thói quen trong các
hoạt động sống của con người và nó được in dấu mọi mặt của đời sống xã
hội thuộc một dân tộc nhất định, của một cộng đồng riêng biệt, chúng ta gọi
là đó “bản sắc dân tộc của văn hoá” hay “bản sắc văn hoá dân tộc”.
Có thể hiểu bản sắc văn hoá là hệ thống các giá trị đặc trưng bản chất
của một nền văn hoá được xác lập, tồn tại, phát triển trong lịch sử và được
biểu hiện thông qua nhiều sắc thái văn hóa. Trong bản sắc văn hóa, các giá trị
đặc trưng bản chất là cái trừu tượng, tiềm ẩn, bền vững; còn các sắc thái biểu
hiện của nó có tính tương đối cụ thể, bộc lộ và biến đổi hơn. Tuy nhiên, nếu
dừng lại ở đây thì khái niệm bản sắc văn hóa vẫn là một khái niệm vô định, vì
nói tới văn hóa là nói tới con người và nói tới những dân tộc cụ thể đã sinh ra,
duy trì và phát triển nó. Vì vậy, chỉ khi tiếp cận đến bản sắc văn hóa của dân
tộc thì ý nghĩa của nó mới được thể hiện một cách trọn vẹn.
Ở Việt Nam có nhiều quan niệm khác nhau về vấn đề bản sắc văn hóa
như tính chất dân tộc, hình thức dân tộc, đặc điểm, cốt cách, bản lĩnh, sắc
thái dân tộc... Tác giả Hoàng Trinh cho rằng: "Bản sắc văn hoá dân tộc và
tổng thể những tính chất, tính cách, đường nét, sắc thái biểu hiện ở một dân
tộc trong lịch sử tồn tại và phát triển giúp cho dân tộc đã giữ vững được tính
duy nhất, tính thống nhất, tính nhất quán so với bản thân mình trong quá
trình phát triển” [56].
Nói tới bản sắc văn hóa của dân tộc tức là nói những “giá trị gốc, căn
bản, cốt lõi, những giá trị hạt nhân” của dân tộc. Giá trị hạt nhân không phải
là tất cả mọi giá trị, mà chỉ là những giá trị tiêu biểu nhất, bản chất nhất, mang
tính dân tộc sâu sắc nhất biểu hiện trong mọi lĩnh vực của nền văn hóa, trong
các lĩnh vực văn học nghệ thuật, sân khấu, hội họa, điêu khắc, kiến trúc, trong
10
sinh hoạt, giao tiếp, ứng xử hằng ngày của con người. Bản sắc văn hóa dân
tộc là những biểu hiện giá trị của dân tộc, là cái hồn của dân tộc được biểu
hiện trong văn hóa, chi phối dẫn đạo văn hóa. Đó là những yếu tố độc đáo,
đặc sắc của một nền văn hóa, biểu hiện “đặc tính”, “cốt cách” của dân tộc.
Bản sắc này tạo lên sức mạnh duy trì và phát triển cộng đồng với tư cách là
một dân tộc.
Bản sắc văn hoá dân tộc là những yếu tố độc đáo, đặc sắc của một nền
văn hóa, biểu hiện “đặc tính dân tộc”, “cốt cách dân tộc”, tạo nên sức mạnh
cố kết, duy trì và phát triển đời sống của dân tộc, là bộ “gen” bảo tồn của dân
tộc, là các giá trị đặc trưng tiêu biểu phản ánh diện mạo, truyền thống, bản
lĩnh, phẩm chất, tâm hồn, lối sống, cách cảm, cách nghĩ, khát vọng và biểu
tượng riêng của mỗi quốc gia, dân tộc;
Từ việc nghiên cứu hệ thống hoá các quan niệm của các tác giả đi
trước, chúng tôi đưa ra cách hiểu về bản sắc văn hóa dân tộc như sau: “Bản
sắc văn hóa dân tộc là những giá trị vật chất tinh thần cô đọng nhất, bền
vững nhất, tinh túy nhất, là sắc thái gốc, riêng biệt của mỗi dân tộc, làm
cho dân tộc này không thể lẫn với dân tộc khác”. Bản sắc văn hoá dân tộc
là hệ thống giá trị bền vững mang tính truyền thống và hiện đại, gồm các giá
trị tinh hoa của dân tộc được vun đắp nên qua hàng nghìn năm đấu tranh dựng
nước và giữ nước; là quá trình tiếp nhận, bổ sung, hoàn thiện những giá trị
mới, đồng thời là gạt bỏ những giá trị lạc hậu, lỗi thời, để những giá trị bền
vững luôn sống động với thực tiễn xã hội.
1.1.4. Tính độc đáo, đặc sắc của nền văn hóa Việt Nam
Văn hóa khắc họa bản sắc và phương thức tồn tại của một cộng đồng,
khiến cộng đồng ấy có một đặc thù riêng. Như vậy, văn hóa mang bản sắc dân
tộc. Bản sắc dân tộc gắn liền với văn hóa và thường được biểu hiện thông
qua văn hóa. Vì vậy, có thể coi: “Bản sắc chính là văn hóa, song không phải
bất cứ yếu tố văn hóa nào cũng được xếp vào bản sắc. Người ta chỉ coi
những yếu tố văn hóa nào giúp phân biệt một cộng đồng văn hóa này với
một cộng đồng văn hóa khác là bản sắc” [52, tr.13].
11
Từ nhận định trên có thể thấy yếu tố dân tộc là yếu tố quyết định nhất
của một nền văn hóa. Bản sắc văn hóa dân tộc là cái "hồn", là sức sống nội
sinh, là cái “thẻ căn cước” của mỗi dân tộc, để phân biệt dân tộc này với dân
tộc khác, từ đó nó có thể biểu lộ một cách trọn vẹn nhất sự hiện diện của mình
trong quá trình giao lưu và hội nhập. Bản sắc văn hóa dân tộc là dấu hiệu cơ
bản để phân biệt nền văn hóa của dân tộc này với dân tộc khác, quốc gia này
với quốc gia khác. Bản sắc văn hóa dân tộc thể hiện tập trung trong truyền
thống văn hóa dân tộc. Truyền thống văn hóa là các giá trị do lịch sử truyền
lại, được các thế hệ sau kế thừa gìn giữ và phát huy trong thời đại của mình,
tạo nên dòng chảy liên tục của lịch sử văn hóa.
Nói đến tính độc đáo, đặc sắc của văn hóa Việt Nam là nói đến những
tinh hoa, những giá trị bền vững được hun đúc, vun đắp trong suốt chiều dài
lịch sử hàng nghìn năm đấu tranh dựng nước và giữ nước của dân tộc. Những
giá trị ấy, những tinh hoa ấy đã tạo nên những nét đặc sắc, riêng có ở cộng
đồng các dân tộc Việt Nam, trong con người Việt Nam.
Bản sắc văn hóa của một dân tộc, chính là bản sắc riêng của dân tộc
ấy, hay nói cách khác bản sắc văn hóa là cái cốt lõi của bản sắc dân tộc. Bởi
bản sắc của dân tộc không thể biểu hiện ở đâu đầy đủ và rõ nét hơn ở văn
hóa. Sức sống trường tồn của một nền văn hóa khẳng định sự tồn tại của
một dân tộc, khẳng định bản sắc và bản lĩnh của dân tộc ấy.
Bản sắc văn hóa dân tộc có hai mặt giá trị. Giá trị tinh thần bên trong
và biểu hiện bên ngoài. Giá trị bên trong như năng lực sáng tạo, tư duy,
chiều sâu tâm hồn, truyền thống đạo lý, thế giới quan, nhân sinh quan; giá
trị bên ngoài như cung cách ứng xử, phong thái sinh hoạt, nghệ thuật kiến
trúc đình, chùa, nét đặc trưng của các làn điệu dân ca, ngôn từ, các tác phẩm
văn học nghệ thuật…Các giá trị này luôn có mối quan hệ khăng khít củng
cố thúc đẩy nhau phát triển.
Nguồn gốc tạo thành bản sắc dân tộc có thể do nhiều yếu tố như: hoàn
cảnh địa lý, nguồn gốc chủng tộc, đặc trưng tâm lý, phương thức hoạt động
12
kinh tế. Nhưng bản sắc văn hoá dân tộc, không thể xuất phát từ nhừ yếu tố
tạo thành dân tộc. Vì thế hiểu khái niệm bản sắc văn hóa dân tộc phải hiểu
theo khái niệm phát triển, khái niệm mở. Nó không chỉ là hình thức mà còn
là nội dung đời sống cộng đồng, gắn với bản lĩnh các thế hệ các dân tộc
Việt Nam. Đánh giá về vấn đề trên, Nghị quyết hội nghị BCH TW lần thứ
V khóa VIII của Đảng đã chỉ rõ: “Bản sắc dân tộc bao gồm những giá trị
bền vững, những tinh hoa của cộng đồng các dân tộc Việt Nam được vun
đắp nên qua lịch sử hàng ngàn năm đấu tranh dựng nước và giữ nước. Đó
là lòng yêu nước nồng nàn, ý chí tự cường dân tộc, tinh thần đoàn kết, ưý
thức cộng đồng gắn kết cá nhân- gia đình- làng xã- Tổ quốc… Bản sắc
văn hóa dân tộc còn đậm nét trong cả hình thức biểu hiện mang tính dân
tộc độc đáo” [3, tr.57].
Bản sắc văn hóa dân tộc Việt Nam là những giá trị bền vững, những tinh
hoa của cộng đồng các dân tộc Việt Nam, được vun đắp nên qua lịch sử hàng
ngàn năm đấu tranh dựng nước và giữ nước. “Đó là lòng yêu nước nồng nàn, ý
chí tự cường dân tộc, tinh thần đoàn kết, ý thức cộng đồng gắn kết cá nhân gia đình - làng xã - Tổ quốc; lòng nhân ái, khoan dung, trọng nghĩa tình, đạo
lý, đức tính cần cù, sáng tạo trong lao động, sự tinh tế trong ứng xử, tính giản
dị trong lối sống”. Bản sắc văn hóa dân tộc là cơ sở để liên kết xã hội và liên
kết các thế hệ, tạo nên sức mạnh tinh thần của dân tộc. Vì vậy, bảo vệ và phát
huy bản sắc văn hóa dân tộc trở thành yêu cầu khách quan và là mục tiêu của
sự nghiệp xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam hiện nay.
Bản sắc văn hóa Việt Nam là tố chất được hợp luyện cùng chiều với
lịch sử đấu tranh dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam. Bản sắc đó
không phải là một hằng số, là những giá trị bất biến, mà có những giá trị mới
được hình thành, bồi tụ trong quá trình hội nhập, tiếp biến giữa các nền văn
hóa. Bản sắc văn hóa dân tộc Việt Nam được hình thành và phát triển phụ
thuộc vào đặc điểm tộc người, điều kiện lịch sử tự nhiên, môi trường cư trú,
thể chế chính trị cũng như sự giao lưu với nền văn hóa khác. Nói đến văn
13
hóa là nói đến dân tộc đã sáng tạo ra, đã vun trồng nền văn hóa đó, bản sắc
dân tộc của văn hóa cũng chính là bản sắc văn hóa của dân tộc ấy.
Bản sắc dân tộc là tổng thể những tính chất, tính cách, đường nét,
màu sắc, kiểu lựa chọn… giúp cho mỗi dân tộc giữ vững được tính duy
nhất, tính thống nhất, tính nhất quán của dân tộc mình trong quá trình phát
triển. Bản sắc văn hóa là một sức mạnh, sức mạnh nội tại của dân tộc. Nó là
hạt nhân năng động nhất trong toàn bộ tinh thần sáng tạo truyền từ đời này
qua đời khác. Bản sắc văn hóa làm cho một dân tộc dù biểu hiện có thay đổi
nhưng giá trị bản sắc văn hoá vẫn duy trì: “Một dân tộc qua các biến cố lịch
sử một lúc nào đó, một thời đại nào đó có thể mất độc lập, bị người ngoài
đô hộ nhưng nếu dân tộc ấy vẫn giữ được tiếng nói của mình, vẫn giữ được
vốn văn nghệ dân gian, vẫn giữ và phát triển được bản sắc văn hóa của
mình, thì dân tộc ấy vẫn nắm chắc trong tay chìa khóa của sự giải phóng,
chìa khóa của tự do, độc lập” [10, tr. 48].
Bản sắc văn hóa có tính dân tộc vì nó được tạo ra, được lưu truyền
trong công đồng dân tộc với một sắc thái thiên nhiên, điều kiện xã hội, lịch
sử riêng; qua quá trình phát triển lâu dài, những đặc điểm dân tộc in dấu ấn
vào các sáng tạo văn hóa. Trải qua nhiều thử nghiệm, thách thức của thời
gian dần dần lắng đọng, định hình tạo thành bản sắc dân tộc của văn hóa. Nó
tạo nên cốt cách, bản lĩnh, sức sống nội sinh củ dân tộc, trên cơ sở đó nảy
sinh và hoàn thiện ý thức dân tộc, tạo nên lực hút, quy tu, gắn kết với các
thành viên cộng đồng, tạo ra thế đứng vững chắc trong quá trình phát triển.
Bản sắc văn hóa dân tộc được tôi luyện, đúc kết qua hàng trăm thế kỷ
nối tiếp nhau trong lịch sử, như dòng phù xa đã hóa thân vào màu xanh của
đồng lúa, như tính chất của đất trở thành sức sống của cây, cỏ, hoa, trái. Tất
cả các Quốc gia hiện nay đều chú trọng nghiên cứu di sản văn hóa của dân
tộc mình, họ ý thức được rằng nếu không đề cao bản sắc văn hóa dân tộc thì
tính da dạng của văn hóa thế giới sẽ bị nghèo đi do sự lai căng của các nền
văn hóa vì thế bản sắc văn hóa dân tộc phải đứng vững trên đôi chân của
14
mình để tiếp nhận các yếu tố hiện đại, làm cho các yếu tố hiện đại gia nhập
và trở thành yếu tố văn hóa truyền thống.
Tính độc đáo, đặc sắc của nền văn hóa Việt Nam chính là năng lực chế
ngự thiên nhiên, tư duy độc lập, tự chủ, sáng tạo trong chống giặc ngoại xâm;
sự hình thành một hệ giá trị cốt lõi của văn hóa dân tộc với tinh thần yêu
nước, ý chí độc lập tự cường, tinh thần đoàn kết, ý thức cố kết cộng đồng gắn
kết cá nhân - gia đình - làng xã - Tổ quốc; lòng nhân ái, sự khoan dung, trọng
nghĩa tình đạo lý, lấy nhân nghĩa làm gốc; trách nhiệm của cá nhân đối với
cộng đồng nhà - làng - nước; trọng dân, đề cao dân, lấy dân làm gốc; hòa hợp
đề hòa đồng, cần cù, khiêm tốn, giản dị trong lối sống,… Tất cả tạo thành
nhân cách của con người và được nhân dân làm thành nhân cách, cốt cách của
dân tộc Việt Nam.
1.1.5. Bản sắc văn hóa các tộc người Việt Nam
Việt Nam là một đất nước có truyền thống văn hóa lâu đời và là một
quốc gia đa dân tộc trong đó dân tộc Kinh chiếm đa số (85,7%) còn lại 53
dân tộc thiểu số (DTTS) chiếm 14,3%. 54 dân tộc là 54 sắc màu văn hoá tạo
nên nền văn hoá Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc. Mỗi dân tộc
được phân bố ở các vùng miền của Tổ quốc và có giá trị truyền thống, sắc
thái văn hoá riêng. Nhằm giáo dục truyền thống yêu nước, lòng tự hào dân
tộc, ý thức về việc gìn giữ và phát huy truyền thống văn hóa, tôn vinh những
nét văn hóa đặc sắc của mỗi dân tộc, mỗi vùng miền trong 54 dân tộc anh em,
Nhà nước đã quyết định lấy ngày 19-4 hằng năm làm "Ngày Văn hóa các dân
tộc Việt Nam". Từ đó, làm cho các dân tộc trong đại gia đình Việt Nam, vốn
gần gũi, càng gần gũi, sát cánh bên nhau thành một khối đại đoàn kết không
gì lay chuyển nổi để chung lòng, chung sức bảo vệ và xây dựng đất nước
ngày càng giàu, đẹp. Giữ gìn và phát huy bản sắc dân tộc của tất cả các dân
tộc anh em sẽ phát huy sức mạnh tổng hợp của cả cộng đồng dân tộc Việt
Nam, tạo nên sự phong phú đa dạng trong tính thống nhất của nền văn hóa
Việt Nam.
15
Văn hóa tộc người là toàn bộ những giá trị vật chất và tinh thần, cũng
như những quan hệ xã hội được sáng tạo trong điều kiện môi trường sinh tụ
của một tộc người, phản ánh những nhận thức, tâm lý, tình cảm, tập quán
riêng biệt được hình thành trong lịch sử của tộc người đó. Ở các quốc gia đa
dân tộc, văn hóa của các tộc người đan xen, hấp thụ lẫn nhau tạo nên nét
chung của văn hóa quốc gia, của cả cộng đồng dân tộc, và mỗi nền văn hóa
đều có những giá trị riêng của nó. Giá trị văn hóa của mỗi cộng đồng, dân
tộc như là “mật mã di truyền xã hội” của tất cả các thành viên sống trong
cộng đồng, dân tộc đó, đã được tích lũy lắng đọng trong quá trình hoạt động
của mình. Chính quá trình đó đã hình thành nên bản sắc văn hóa riêng của
dân tộc họ. Cộng đồng sẽ bền vững khi nó trở thành dân tộc. Yếu tố dân tộc
là yếu tố quyết định nhất của một nền văn hóa.
Một dân tộc đánh mất bản sắc văn hóa, dân tộc ấy đã đánh mất chính
mình, một nền văn hóa có tính dân tộc, là nền văn hóa mang đầy đủ bản sắc
của dân tộc. Chính vì vậy, việc kế thừa và phát huy các giá trị văn hóa tạo
nên bản sắc văn hóa của dân tộc, là vấn đề có ý nghĩa hết sức lớn lao đối với
sự tồn vong của mỗi dân tộc.
Bản sắc văn hóa dân tộc là các giá trị tiêu biểu, bền vững, phản ánh
sức sống của từng dân tộc, nó thể hiện tập trung ở truyền thống văn hóa.
Truyền thống văn hóa là các giá trị do lịch sử để lại được thế hệ sau tiếp
nối, khai thác và phát huy trong thời đại của họ để tạo nên dòng chảy liên
tục của lịch sử văn hóa các dân tộc. Khi đã được hình thành, truyền thống
mang tính bền vững và có chức năng định hướng, đánh giá, điều chỉnh hành
vi của cá nhân và cộng đồng. Tuy nhiên, khái niệm bản sắc văn hóa không
phải là sự bất biến, cố định hoặc khép kín mà nó luôn vận động mang tính
lịch sử cụ thể. Trong quá trình này nó luôn đào thải những yếu tố bảo thủ,
lạc hậu và tạo lập những yếu tố mới để thích nghi với đòi hỏi của thời đại.
Truyền thống cũng không phải chỉ bao hàm các giá trị do dân tộc sáng tạo
nên, mà còn bao hàm cả các giá trị từ bên ngoài được tiếp nhận một cách
16
sáng tạo và đồng hóa nó, biến nó thành nguồn lực nội sinh của dân tộc. Bản
sắc văn hoá dân tộc cũng chính là một tiêu chí quan trọng quyết định đến sự
tồn vong của dân tộc này hay dân tộc khác.
Văn hoá các dân tộc thiểu số Việt Nam là một bộ phận cấu thành quan
trọng của nền văn hoá Việt Nam phong phú, đậm đà bản sắc dân tộc. Cùng
với xu thế hội nhập và phát triển, những luồng văn hoá khác nhau xâm nhập
vào đời sống xã hội ở vùng dân tộc thiểu số, gây ảnh hưởng, tác động mạnh
đến văn hoá truyền thống các dân tộc thiểu số, đáng chú ý là nguy cơ phai
mờ, biến dạng bản sắc dân tộc. Do vậy, việc bảo tồn, phát triển văn hoá các
dân tộc thiểu số là nhiệm vụ cấp thiết, có ý nghĩa chiến lược cần phải tiếp tục
thực hiện thường xuyên và lâu dài.
Chính sách giáo dục còn chưa quan tâm đầy đủ và chưa có những chính
sách, biện pháp hữu hiệu trong việc dạy và học chữ, học tiếng đối với học
sinh các dân tộc thiểu số, mà đây chính là vấn đề cực kỳ quan trọng, then chốt
trong việc bảo tồn và phát triển văn hóa của mỗi dân tộc; Di sản văn hoá các
dân tộc thiểu số Việt Nam đang đứng trước nhiều thách thức, chưa giải quyết
tốt mối quan hệ giữa bảo tồn và phát triển.
“Nhiều di sản văn hóa truyền thống của các dân tộc thiểu số chưa
được nghiên cứu, đánh giá một cách bài bản khoa học. Nghệ thuật diễn
xướng Then của các dân tộc Tày, Nùng, Thái; Kho sách cổ của dân tộc
Dao…, hàng nghìn làng, bản, buôn… truyền thống với các giá trị văn hóa
tiêu biểu của các dân tộc (kiến trúc, trang phục dân tộc, nghề truyền thống và
các món ăn truyền thống, các làn điệu dân ca, dân vũ, lễ hội…) đang đứng
trước nguy cơ biến mất theo xu hướng kiên cố hoá, hiện đại hoá hoặc do tác
động mặt trái của cơ chế thị trường rất cần phải nhanh chóng được hướng
dẫn, hỗ trợ để bảo tồn, phát huy trong cuộc sống đương đại” [56].
Từ quan điểm chỉ đạo của Đảng, Nhà nước, trước những đòi hỏi của
thực tế, yêu cầu của xu hướng phát triển, trên cơ sở kế thừa, tích luỹ những
bài học về bảo tồn, phát triển văn hoá dân tộc thiểu số giai đoạn trước, ngày
17
27 tháng 7 năm 2011, Thủ tướng Chính phủ đã có quyết định số 1270/ QĐTTg phê duyệt Đề án “Bảo tồn, phát triển văn hoá các dân tộc thiểu số Việt
Nam đến năm 2020”. Đề án có đối tượng là “các dân tộc thiểu số Việt Nam,
tập trung ưu tiên cho phát triển văn hoá các dân tộc thiểu số rất ít người, các
dân tộc không có điều kiện tự bảo vệ và phát huy di sản văn hoá của dân tộc
mình. Với địa bàn miền núi, dân tộc thiểu số. Ưu tiên cho vùng sâu, vùng xa,
vùng đặc biệt khó khăn, biên giới, hải đảo; những vùng phải di dời để phát
triển kinh tế; vùng có nguy cơ cao bị mai một bản sắc văn hóa; vùng dân tộc
trọng điểm (Tây Bắc, Tây Nguyên và Tây Nam Bộ)”.
Nhiều di sản văn hóa các dân tộc được công nhận là di sản văn hóa cấp
quốc gia như: “Lễ hội Lồng Tồng” của dân tộc Tày, “Lễ Cấp sắc” của dân tộc
Dao… cùng nhiều di sản văn hóa các dân tộc được công nhận di sản cấp tỉnh.
Ngày 19.4 hàng năm là ngày truyền thống văn hóa các dân tộc Việt Nam.
Quốc tế cũng đã công nhận “Không gian văn hóa Cồng chiêng Tây Nguyên”,
“Thánh địa Mỹ Sơn”… là di sản văn hóa thế giới. Năm 2011, Việt Nam đã tổ
chức trình diễn trang phục 54 dân tộc Việt Nam. Năm 2013, 2014 tổ chức thi
Hoa hậu các dân tộc Việt Nam.
Có thể thấy, Đảng và Nhà nước luôn quan tâm tới việc bảo tồn, giữ gìn
và phát huy bản sắc văn hóa của từng dân tộc, tạo mọi điều kiện thuận lợi để
các dân tộc thể hiện theo hướng: “Mỗi dân tộc khẳng định bản sắc văn hóa
của mình và phát triển sự hiểu biết với các dân tộc khác”, tạo nên nền văn hóa
Việt Nam đa dạng, phong phú, đậm đà bản sắc dân tộc, hoà nhập với xu thế
phát triển chung của đất nước, dân tộc và thời đại.
1.2. Vấn đề giảng dạy theo hướng tích hợp
1.2.1. Các khái niệm về tích hợp
Dạy học tích hợp đã trở thành một trào lưu sư phạm hiện đại hiện đang
được quan tâm nghiên cứu và áp dụng vào nhà trường ở nhiều nước trên thế
giới. Liên quan đến khái niệm tích hợp, có nhiều cách định nghĩa, quan niệm
18
khác nhau. Trong tiếng Anh, tích hợp được viết là “integration” một từ gốc
Latin, Integer có nghĩa là “whole” hay “toàn bộ, toàn thể”. Có nghĩa là sự
phối hợp các hoạt động khác nhau, các thành phần khác nhau của một hệ
thống để bảo đảm sự hài hòa chức năng và mục tiêu hoạt động của hệ thống
ấy. Từ điển Giáo dục học cho rằng: “Tích hợp là những hành động liên kết
các đối tượng nghiên cứu, giảng dạy, học tập của cùng một lĩnh vực hoặc vài
lĩnh vực khác nhau trong cùng một kế hoạch dạy học” [27]. Còn theo Từ điển
tiếng Việt “Tích hợp có nghĩa là sự thống nhất, hài hòa, sự kết hợp” [47].
Theo quan điểm Giáo dục học, Nhà nghiên cứu Phạm Văn Lập quan niệm
“Dạy học tích hợp có nghĩa là những kiến thức, kĩ năng học được ở môn học
này, phần này của môn học được sử dụng như những công cụ để nghiên cứu học
tập trong môn học khác, trong các phần khác của cùng một môn học” [33].
Tháng 9-1968, “Hội nghị tích hợp về việc giảng dạy các khoa học” đã
được Hội đồng Liên quốc gia về giảng dạy khoa học tổ chức tại Varna
(Bungari),với sự bảo trợ của UNESCO. Hội nghị nêu ra hai vấn đề là “vì sao
phải dạy học tích hợp và tích hợp các khoa học là gì”. Tại hội nghị, vấn đề
dạy học tích hợp được UNESCO định nghĩa như sau: “Một cách trình bày các
khái niệm và nguyên lí khoa học cho phép diễn đạt sự thống nhất cơ bản của
tư tưởng khoa học, tránh nhấn quá mạnh hoặc quá sớm sự sai khác giữa các
lĩnh vực khoa học khác nhau” [15]. Định nghĩa của UNESCO, cho thấy quá
trình dạy học tích hợp bao gồm những hoạt động tích hợp giúp học sinh biết
cách phối hợp các kiến thức, kĩ năng và thao tác một cách có hệ thống.
Khoa sư phạm tích hợp nhấn mạnh dạy cách phát huy sáng tạo và cách
vận dụng kiến thức vào các tình huống khác nhau, được định nghĩa như sau:
“Khoa sư phạm tích hợp là một quan niệm về quá trình học tập trong đó toàn
thể quá trình học tập góp phần hình thành ở học sinh những năng lực rõ ràng,
có dự tính trước, những điều cần thiết cho học sinh, nhằm phục vụ cho các
quá trình học tập tương lai, hoặc nhằm hòa nhập học sinh vào cuộc sống lao
động” [59, tr.24].
19
Trong dạy học tích hợp, ngoài việc đề xuất các định hướng giáo dục
tích hợp như: Tích hợp đa môn (Multidisciplinary Integration); Tích hợp liên
môn: (Interdisciplinary Integration); Tích hợp xuyên môn (Transdisciplinary
Integration), các nhà giáo dục học phân chia tích hợp ra thành tích hợp dọc
(vertical integration) và tích hợp ngang (horizontal integration). Tích hợp dọc
là “loại tích hợp dựa trên cơ sở liên kết hai hoặc nhiều môn học thuộc cùng
một lĩnh vực hoặc một số lĩnh vực gần nhau”, còn tích hợp ngang là “tích hợp
dựa trên cơ sở liên kết các đối tượng học tập, nghiên cứu thuộc các lĩnh vực
khoa học khác nhau” xung quanh một chủ đề [27, tr.384-385].
Từ các quan niệm trên, có thể thấy dạy học tích hợp là chính là quá
trình giúp học sinh biết cách sử dụng kiến thức và kĩ năng của mình để giải
quyết và ứng dụng trong những tình huống cụ thể, trên cơ sở đó phát triển
năng lực người học. Dạy học tích hợp chính là quá trình làm cho “việc học
chân chính” xảy ra.
1.2.2. Mục đích của dạy tích hợp
Dạy học tích hợp khuyến khích người học một cách toàn diện hơn. Nội
dung bài học chủ động hơn. Người học tích cực, chủ động, độc lập hơn.
- Làm cho các quá trình học tập có ý nghĩa: Đặt quá trình học tập vào
hoàn cảnh để học sinh nhận thấy ý nghĩa của kiến thức, kĩ năng, năng lực cần
lĩnh hội. Điều này có ý nghĩa to lớn trong việc tạo động lực học tập cho học
sinh. Trong quá trình học tập các kiến thức, kĩ năng, năng lực đều được huy
động và gắn với thực tế cuộc sống.
- Phân biệt cái cốt yếu với cái ít quan trọng hơn: Lựa chọn các tri thức,
kĩ năng cốt yếu xem là quan trọng đối với quá trình học tập của học sinh và
dành thời gian, cũng như giải pháp hợp lí cho chúng.
- Dạy sử dụng kiến thức trong tình huống: Nêu bật cách thức sử dụng kiến
thức đã lĩnh hội. Tạo các tình huống học tập để học sinh vận dụng kiến thức một
cách sáng tạo, tự lực để hình thành người lao động có năng lực tự lập.
- Lập mối liên hệ giữa các khái niệm đã học: Thiết lập mối quan hệ
giữa các khái niệm khác nhau của cùng một môn học cũng như của các môn
20