Tải bản đầy đủ (.doc) (28 trang)

Tìm hiểu về tôn giáo và những vấn đề về tôn giáo

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (197 KB, 28 trang )

1

LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành chuyên đề Triết học và viết bài tiểu luận với đề tài :
“Tìm hiểu về tôn giáo và những vấn đề về tôn giáo”, tôi đã nhận được sự
hướng dẫn, giúp đỡ và góp ý nhiệt tình của quý thầy cô trường Đại học Sư
Phạm Hà Nội 2.
Trước hết tôi xin được bày tỏ lòng biết ơn chân thành và sâu sắc tới TS.
Vi Thái Lang. Thầy đã tận tâm dìu dắt, chỉ bảo tôi trong suốt quá trình học
tập và hoàn thiện đề tài này.
Dù tôi đã có rất nhiều cố gắng cùng với sự nhiệt tình, năng lực của bản
thân để hoàn thành bài tiểu luận song chắc chắn không thể không có những
thiếu sót và hạn chế. Kính mong nhận được sự chia sẻ và những ý kiến đóng
góp quý báu của các thầy cô giáo và các bạn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, tháng 1 năm 2013
Học viên

Lê Thị Ngọc Trâm

MỤC LỤC


2

MỞ ĐẦU..........................................................................................................
NỘI DUNG.......................................................................................................
Chương 1: SƠ LƯỢC VỀ BẢN CHẤT, NGUỒN GỐC VÀ TÍNH
CHẤTCỦA TÔN GIÁO.................................................................................
1.1.Bản chất của tôn giáo..................................................................................
1.2.Nguồn gốc của tôn giáo...............................................................................


1.3.Tính chất của tôn giáo ................................................................................
Chương 2: VẤN ĐỀ TÔN GIÁO Ở VIỆT NAM...........................................
2.1..Đặc điểm tôn giáo ở nước ta.......................................................................
2.2.Quan điểm của nhà nước ta về tôn giáo......................................................
2.3.Những hành động chống phá nhà nước Việt Nam bằng chiêu bài tôn
giáo..................................................................................................................
2.4.Về công tác tôn giáo của Đảng và nhà nước ta hiện nay...........................
2.4.1Hoàn thiện pháp luật, cơ chế chính sách về tôn giáo và công tác
tôn giáo............................................................................................................
2.4.2.Tăng cường đầu tư và thực hiện các chương trình phát triển kinh
tế - xã hội vùng đồng bào các tôn giáo............................................................
2.4.3. Mở rộng các hoạt động đối ngoại trong lĩnh vực tôn giáo....................
Chương 3: CHÍNH SÁCH TÔN GIÁO CỦA ĐẢNG VÀ NHÀ
NƯỚC VIỆT NAM........................................................................................
3.1. Những chính sách về tôn giáo của nhà nước ta........................................
3.2. Thực hiện các chính sách tôn giáo trong thực tiễn...................................
3.3. Đảng và nhà nước ta hoàn thiện các chính sách tôn giáo để thích
nghi với tình hình mới.....................................................................................
KẾT LUẬN....................................................................................................
TÀI LIỆU THAM KHẢO............................................................................
MỞ ĐẦU


3

1. Lí do chọn đề tài
Trong quá trình tồn tại và phát triển, nhất là sự phát triển về mặt kinh tế
con người ngày càng có nhiều nhu cầu cần được đáp ứng trong đó thì nhu cầu
về tín ngưỡng tôn giáo vẫn là một nhu cầu tinh thần của bộ phận lớn các tầng
lớp nhân dân.

Thực tế trong quá trình xây dựng đất nước và giữ nước của dân tộc
Đảng và nhà nước ta luôn lấy tinh thần tự do tôn giáo làm kim chỉ nam để đưa
ra các chính sách tôn giáo phù hợp. Chính phủ có nói rằng: “Chính sách tôn
giáo của Đảng Cộng sản Việt Nam và Nhà nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa
Việt Nam được cụ thể hóa bằng các vấn đề cụ thể như các tôn giáo ở Việt
Nam được hoạt động tự do trong khuôn khổ của Hiến pháp và Pháp luật Nhà
nước Việt Nam”.
Các tôn giáo ở Việt Nam được Nhà nước khuyến khích tham gia các
hoạt động giáo dục, từ thiện, nhân đạo theo sự hướng dẫn của các cơ quan
chuyên môn. Các tổ chức cá nhân tôn giáo cũng được tạo điều kiện thuận lợi
để giao lưu quốc tế, được đi đào tạo ở nước ngoài. Đã có rất nhiều các tổ chức
tôn giáo quốc tế vào Việt Nam giao lưu với các tổ chức tôn giáo Việt Nam mà
không bị cản trở gì.
Lợi dụng chính sách tôn giáo của nhà nước ta nhiều tổ chức phản động
núp dưới vỏ bọc là các tổ chức tôn giáo xuyên tạc các chủ trương của Đảng
kích động quần chúng nhân dân tổ chức nhiều cuộc biểu tình và có hành động
chống phá nhà nước Việt Nam.
Vì vậy, tôi chọn đề tài: “Tìm hiểu về tôn giáo và những vấn đề về tôn
giáo” qua đó nắm vững những chính sách của Đảng để khỏi vô tình tiếp tay
cho các tổ chữc phản động và tuyên truyền cho những người xung quanh cũng
nhận thức rõ chính sách của Đảng và nhà nước.
2. Mục đích nghiên cứu


4

Thông qua việc nghiên cứu đề tài để hiểu rõ hơn về tôn giáo và vấn đề
tôn giáo ở Việt Nam hiện nay.
3. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Nghiên cứu cơ sở lí luận và thực tiễn của đề tài.

- Nghiên cứu vấn đề tôn giáo và tôn giáo ở Việt Nam.
- Nghiên cứu chính sách tôn giáo của Đảng và nhà nước Việt Nam.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu:
Nghiên cứu tôn giáo và vấn đề tôn giáo ở Việt Nam.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Giới hạn pham vi nghiên cứu về tôn giáo ở Việt Nam hiện nay.
5. Phương pháp nghiên cứu
Sử dụng tổng hợp các phương pháp: phương pháp tổng hợp, phân tích,
phương pháp tổng kết kinh nghiệm, phương pháp lịch sử cụ thể, phương pháp
logic…
6. Kết cấu tiểu luận:
Gồm 3 phần: mở đầu, nội dung, kết luận.

NỘI DUNG


5

CHƯƠNG 1: SƠ LƯỢC VỀ BẢN CHẤT, NGUỒN GỐC
VÀ TÍNH CHẤT CỦA TÔN GIÁO
1.1. Bản chất của tôn giáo
Bản chất của tôn giáo: tôn giáo là một hình thái ý thức xã hội ra đời rất
sớm trong lịch sử, nó là sự phản ánh hư ảo vào đầu óc con người những sức
mạnh bên ngoài chi phối cuộc sống hàng ngày của họ. Sự phản ánh mà các
thế lực ở thế gian mang màu sắc tiêu thế gian.
1.2. Nguồn gốc của tôn giáo
Tôn giáo ra đời do các nguồn gốc sau:
• Nguồn gốc nhận thức:
Do khả năng nhận thức của con người đối với mọi hiện tượng tự nhiên

và xã hội rất hạn chế nên họ phản ánh sai lạc bản chất các hiện tượng ấy, đi
đến thần thánh hóa nó.
• Nguồn gốc xã hội: đó là do tính tự phát của các mối quan hệ xã hội
của con người và chế độ áp bức bóc lột người. Tôn giáo ra đời còn có nguồn
gốc tâm lý: tâm lý sợ sệt, yếu đuối, thiếu sức mạnh lý trí tạo ra những xúc
cảm tiêu cực, tạo điều kiện nảy sinh ý thức tôn giáo.
1.3. Tính chất của tôn giáo
• Tính lịch sử: tôn giáo là một phạm trù có tính lịch sử, nghĩa là nó ra
đời và tồn tại trong một giai đoạn lích sử nhất định.
• Tính chính trị: Trong xã hội có giai cấp đối kháng, một mặt là sự
phản kháng tiêu cực của quần chúng bị áp bức bóc lột. Mặt khác, tôn giáo bị
các giai cấp thống trị lợi dụng, chúng biến tôn giáo thành công cụ thống trị áp
bức, bóc lột và mê hoặc quần chúng nhân dân.


6

• Tính quần chúng: Tôn giáo thâm nhập vào quần chúng nhân dân và
lôi kéo một bộ phận không nhỏ nhân dân vào các tôn giáo, biến tôn giáo thành
đức tin, lối sống và lẽ sống của một bộ phận dân cư, trở thành nhu cầu giải
phóng, nhu cầu hạnh phúc của một số người.


7

CHƯƠNG 2: VẤN ĐỀ TÔN GIÁO Ở VIỆT NAM
2.1.Đặc điểm tôn giáo ở Việt Nam
Việt Nam là quốc gia có nhiều loại hình tín ngưỡng, tôn giáo. Với vị trí
địa lý nằm ở khu vực Đông Nam Á có ba mặt giáp biển, Việt Nam rất thuận
lợi trong mối giao lưu với các nước trên thế giới và cũng là nơi rất dễ cho việc

thâm nhập các luồng văn hoá, các tôn giáo trên thế giới.
Về mặt dân cư, Việt Nam là quốc gia đa dân tộc với 54 dân tộc anh em.
Mỗi dân tộc, kể cả người Kinh (Việt) đều lưu giữ những hình thức tín
ngưỡng, tôn giáo riêng của mình. Người Việt có các hình thức tín ngưỡng dân
gian như thờ cúng ông bà tổ tiên, thờ Thành hoàng, thờ những người có công
với dân tộc, thờ thần, thờ thánh, nhất là tục thờ Mẫu của cư dân nông nghiệp
lúa nước.
Ở Việt Nam, do đặc điểm lịch sử liên tục bị xâm lược từ bên ngoài nên
việc Lão giáo, Nho giáo - những tôn giáo có nguồn gốc ở phía Bắc thâm
nhập; Công giáo - một tôn giáo gắn với văn minh Châu Âu vào truyền đạo và
sau này đạo Tin lành đã khai thác điều kiện chiến tranh ở miền Nam để truyền
giáo thu hút người theo đạo là điều dễ hiểu.
Ở Việt Nam có những tôn giáo có nguồn gốc từ phương Đông như Phật
giáo, Lão giáo, Nho giáo; có tôn giáo có nguồn gốc từ phương Tây như Thiên
chúa giáo, Tin lành; có tôn giáo được sinh ra tại Việt Nam như Cao Đài, Phật
giáo Hoà Hảo; có tôn giáo hoàn chỉnh (có hệ thống giáo lý, giáo luật, lễ nghi
và tổ chức giáo hội), có những hình thức tôn giáo sơ khai. Có những tôn giáo
đã phát triển và hoạt động ổn định; có những tôn giáo chưa ổn định, đang
trong quá trình tìm kiếm đường hướng mới cho phù hợp.


8

Ước tính, hiện nay ở Việt Nam có khoảng 80% dân số có đời sống tín
ngưỡng, tôn giáo, trong đó có khoảng gần 20 triệu tín đồ của 6 tôn giáo đang
hoạt động bình thường, ổn định, chiếm 25% dân số. Cụ thể:
- Phật giáo: Gần 10 triệu tín đồ, có mặt hầu hết ở các tỉnh, thành phố
trong cả nước, trong đó tập trung đông nhất ở Hà Nội, Bắc Ninh, Nam Định,
Hải Phòng,...
- Thiên chúa giáo: Hơn 5,5 triệu tín đồ, có mặt ở 50 tỉnh, thành phố,

trong đó có một số tỉnh tập trung đông như Nam Định, Ninh Bình, Thái Bình,
Hải Phòng,...
- Đạo Cao Đài: Hơn 2,4 triệu tín đồ có mặt chủ yếu ở các tỉnh Nam Bộ
như Tây Ninh, Long An, Bến Tre, TP Hồ Chí Minh, Đồng Tháp, Tiền Giang,

- Phật giáo Hoà Hảo: Gần 1,3 triệu tín đồ, tập trung chủ yếu ở các tỉnh
miền Tây Nam Bộ như: An Giang, Cần Thơ, Hậu Giang, Đồng Tháp, Vĩnh
Long.
- Đạo Tin lành: khoảng 1 triệu tín đồ, tập trung ở các tỉnh: Đà Nẵng,
Quảng Nam, TP Hồ Chí Minh, Bến Tre, Long An, Lâm Đồng, Đắk Lắk,... và
một số tỉnh phía Bắc.
- Hồi Giáo: Hơn 60 nghìn tín đồ, tập trung ở các tỉnh: An Giang, TP Hồ
Chí Minh, Bình Thuận, Ninh Thuận...
Ngoài 6 tôn giáo chính thức đang hoạt động bình thường, còn có một số
nhóm tôn giáo địa phương, hoặc mới được thành lập có liên quan đến Phật
giáo, hoặc mới du nhập ở bên ngoài vào như: Tịnh độ cư sỹ, Bửu Sơn Kỳ
Hương, Tứ Ân Hiếu Nghĩa, Tổ Tiên Chính giáo, Bàlamôn, Bahai và các hệ
phái tin lành.
Hầu hết các dân tộc thiểu số vẫn giữ tín ngưỡng nguyên thủy thờ đa
thần với quan niệm vạn vật hữu linh và thờ cúng theo phong tục tập quán


9

truyền thống. Sau này, theo thời gian các tôn giáo dần dần thâm nhập vào
những vùng đồng bào các dân tộc thiểu số hình thành các cộng đồng tôn giáo,
cụ thể:
- Cộng đồng dân tộc Khơme theo Phật giáo Nam tông. Hiện nay có
1.043.678 người Khơme, 8.112 nhà sư và 433 ngôi chùa trong đồng bào
Khơme.

- Cộng đồng người Chăm theo Hồi giáo. Có khoảng gần 100 nghìn
người Chăm, trong đó số người theo Hồi giáo chính thống (gọi là Chăm
Ixlam) là 25.703 tín đồ, Hồi giáo không chính thống (Chăm Bàni) là 39.228
tín đồ.
- Cộng đồng dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên theo Công giáo, Tin lành.
Hiện nay ở khu vực Tây Nguyên có gần 300 nghìn người dân tộc thiểu số
theo Công giáo và gần 400 nghìn người theo đạo Tin lành.
- Cộng đồng dân tộc thiểu số ở Tây Bắc một số theo Công giáo, Tin
lành. Hiện nay ở Tây Bắc có 38 nghìn người dân tộc thiểu số theo Công giáo;
đặc biệt, khoảng 20 năm trở lại đây có đến trên 100 nghìn người Mông theo
đạo Tin lành dưới tên gọi Vàng Chứ và hơn 10 nghìn người Dao theo đạo Tin
lành dưới tên gọi Thìn Hùng.
2.2. Quan điểm của nhà Nước ta về tôn giáo
Trong quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Đảng ta luôn có quan
điểm, thái độ rõ ràng về tín ngưỡng, tôn giáo. Báo cáo chính trị tại Đại hội đại
biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng năm 1991 đã khẳng định: "Tín ngưỡng,
tôn giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân. Đảng và Nhà nước ta
tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng và không tín ngưỡng của nhân dân, thực
hiện bình đẳng, đoàn kết lương giáo và giữa các tôn giáo. Khắc phục mọi thái
độ hẹp hòi, thành kiến, phân biệt đối xử với đồng bào có đạo, chống những


10

hành vi lợi dụng tôn giáo phá hoại độc lập dân tộc và đoàn kết dân tộc, chống
phá chủ nghĩa xã hội, ngăn cản tín đồ làm nghĩa vụ công dân".
Tôn giáo là một hình thái ý thức xã hội gồm một hệ thống những quan
điểm dựa trên cơ sở tin tưởng và sùng bái những lực lượng tự nhiên, thần
thánh, cho rằng những lực lượng này quyết định số phận con người, con
người phải phục tùng, tôn thờ.

Cho đến nay, ở Việt Nam có nhiều hình thức tôn giáo từ cổ đến kim, từ
Đông sang Tây, nội sinh và ngoại nhập. Bên cạnh những tín ngưỡng dân tộc:
thờ vua Hùng, thờ thành hoàng, thờ tổ tiên và các tôn giáo: Phật giáo, Thiên
Chúa giáo, Hồi giáo. Hòa hợp tôn giáo, tự do tôn giáo là một đặc điểm có tính
truyền thống của văn hóa Việt Nam.
Hiến pháp nước CHXHCN Việt Nam, điều 70 ghi rõ: “Công dân có
quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, theo hoặc không theo một tôn giáo nào. Các
tôn giáo đều bình đẳng trước pháp luật. Những nơi thờ tự của các tín ngưỡng,
tôn giáo được pháp luật bảo hộ. Không ai được xâm phạm tự do tín ngưỡng,
tôn giáo hoặc lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để làm trái pháp luật và chính
sách của Nhà nước.”
Nghị quyết Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ IX nhấn mạnh tín
ngưỡng, tôn giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân, đoàn kết
đồng bào tôn giáo trong khối đại đoàn kết dân tộc; đồng bào theo đạo và các
vị chức sắc tôn giáo có nghĩa vụ làm tròn trách nhiệm công dân với Tổ quốc,
sống “tốt đời, đẹp đạo”, phát huy những giá trị tốt đẹp về văn hóa, đạo đức
của tôn giáo.
2.3. Những hành động chống phá nhà nước Việt Nam bằng chiêu bài
tôn giáo
Những thành tựu về kinh tế - xã hội và nền chính trị ổn định của Việt
Nam đang là yếu tố thu hút các nhà đầu tư nước ngoài. Và một thế hệ người


11

Việt năng động biết làm giàu cho bản thân và xã hội đang là động lực cho sự
phát triển đi lên của cả đất nước.
Tuy nhiên, có một nhóm thiểu số những kẻ cực đoan đang cấu kết với
các tổ chức phản động nước ngoài, trong đó có cả những nhóm khủng bố, chỉ
với một mục tiêu duy nhất là lật đổ chế độ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam để gây

rối loạn xã hội hòng phá hủy toàn bộ thành quả của hơn hai thập kỷ Đổi mới.
Bước đi của họ từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp, nhưng khi
cần cũng hành động rất trắng trợn công khai. Trước hết, họ tìm cách thoát
khỏi sự quản lý của pháp luật hiện hành, của Nhà nước như không xin phép
hoạt động, hoặc xin ít làm nhiều trên các lĩnh vực: xây dựng cơ sở, tổ chức lễ
hội, tuyên truyền xuất bản, … Tiến lên một bước nữa, họ xây dựng những tổ
chức bất hợp pháp. Bất cứ tổ chức tôn giáo nào thật sự hoạt động vì mục đích
tôn giáo đều được Nhà nước công nhận tư cách pháp nhân. Nhưng Chính phủ
không bao giờ công nhận những tổ chức mang danh nghĩa tôn giáo hoạt động
vì mục đích khác nhằm phá hoại độc lập, thống nhất, chủ quyền quốc gia, mê
tín dị đoan, xâm phạm đến an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, tính mạng,
tài sản, sức khỏe của nhân dân.
Cuối cùng, chúng ta cần lưu ý đến vai trò và sự liên kết của các lực
lượng phản động quốc tế dùng chiêu bài “tự do tôn giáo” để chống phá chủ
nghĩa xã hội, chống phá Nhà nước ta. Khi vào Việt Nam, họ phát tán tài liệu
và truyền đạo trái phép, kể cả dùng biện pháp mua chuộc bằng vật chất, họ
kích động chia rẽ các tôn giáo, móc nối với các phần tử đội lốt tôn giáo đã có
nhiều hành vi trái pháp luật. Khi ở nước ngoài, họ liên kết để tuyên truyền
xuyên tạc về tình hình tôn giáo ở Việt Nam, hỗ trợ cho các hoạt động chống
phá khối đại đoàn kết dân tộc của chúng ta.


12

Xuất phát từ bản chất văn hóa của dân tộc, từ chính sách đại đoàn kết
toàn dân, chúng ta đã có những chính sách đúng đắn về tự do tín ngưỡng, tôn
giáo.
Trong những năm gần đây, bên cạnh những nhân vật chống đối nhà
nước quyết liệt có nhiều tiếng tăm, đã xuất hiện những gương mặt mới với
tuổi đời ít hơn nhưng không kém phần “lớn tiếng” chẳng hạn như: Nguyễn

Văn Đài, Trần Khải Thanh Thủy và thậm chí cả một người chưa đến tuổi 30
là Lê Thị Công Nhân.
Nguyễn Văn Đài - bị bắt hôm 6/3/2007 và vài ngày trước đó bị khởi tố
về hành vi “tuyên truyền chống nhà nước CHXHCN Việt Nam” - chính là kẻ
trực tiếp soạn thảo điều lệ của tổ chức “Đảng Dân chủ 21,” trong đó y không
hề giấu diếm ý đồ muốn giành chính quyền ở Việt Nam.
Trần Khải Thanh Thủy - một nhân vật có thái độ bất mãn với chế độ
sau khi bị buộc nghỉ việc vì vi phạm kỷ luật, đã tích cực tham gia các diễn
đàn chống cộng trên internet. Thị đã viết tới 190 bài xuyên tạc tình hình chính
trị, kinh tế, xã hội trong nước, vu cáo Việt Nam vi phạm dân chủ, nhân quyền.
Trong khi đó, Lê Thị Công Nhân, sinh năm 1979, là một phần tử nòng
cốt, hỗ trợ đắc lực cho những kẻ cầm đầu hoạt động chống đối trong nước
như Nguyễn Văn Lý và Nguyễn Văn Đài. Giữa năm 2006, thị xin gia nhập
“Đảng Thăng tiến Việt Nam” và xung phong làm người phát ngôn của đảng
này. Ngoài ra, Nhân còn tự nguyện tham gia “Liên minh dân chủ nhân quyền
Việt Nam” - tổ chức do những kẻ phản động lưu vong người Việt và các phần
tử chống đối trong nước cùng nhau lập ra trên mạng Internet vào tháng
10/2006.
Bất chấp những biện pháp giáo dục, cảm hóa của cơ quan an ninh và tổ
dân phố, Nguyễn Văn Đài, Trần Khải Thanh Thủy, Lê Thị Công Nhân vẫn
ngày càng tỏ thái độ thách thức pháp luật và càng quyết liệt chống phá Nhà


13

nước Việt Nam. Chính vì thế, Nguyễn Văn Đài càng được các tổ chức phản
động lưu vong và các thế lực thù địch với Việt Nam ở nước ngoài ủng hộ.
Nhóm khủng bố “Việt Tân” thậm chí đánh giá rằng “Hoàng Minh Chính chỉ
là viên gạch lót đường, cốt lõi sẽ là thành phần trẻ như Đài.”
Hơn 85 triệu người dân Việt Nam đang từng ngày cố gắng chung tay tự

xây dựng đất nước và tạo niềm tin với bạn bè quốc tế. Nhưng một số ít người
mang trong mình dòng máu Việt, trong đó có cả những người quá trẻ để
chứng kiến những hy sinh của cả dân tộc cho độc lập hôm nay, lại chỉ muốn
kích động hận thù. Song luật pháp sẽ không cho phép họ làm điều đó.
2.4 Về công tác tôn giáo của Đảng và nhà nước ta hiện nay
Cùng với sự nghiệp đổi mới của đất nước, công tác tôn giáo đã có
những biến đổi sâu sắc và đạt được kết quả khả quan hơn. Việc thực hiện tự
do tín ngưỡng đã đi vào nề nếp bên cạnh việc bảo đảm sự phát triển của kinh
tế - xã hội, nâng cao đời sống nhân dân, trong đó có cả đồng bào có đạo.
Những thành quả được thể hiện rõ trên một số mặt:
2.4.1. Hoàn thiện pháp luật, cơ chế, chính sách về tôn giáo và công tác
tôn giáo
Từ khi có Nghị quyết 25/NQ-TW ngày 12-3-2003 của Trung ương
Đảng về công tác tôn giáo, Chính phủ đã chỉ đạo các bộ, ngành từng bước cụ
thể hóa các quan điểm, giải pháp và các nhiệm vụ chủ yếu trong Nghị quyết
của Đảng thành các quy định của pháp luật, các kế hoạch, giải pháp, cơ chế.
Các bộ, ngành liên quan đã tham mưu và giúp Chính phủ, Thủ tướng
xây dựng và trình Quốc hội thông qua các văn bản liên quan trực tiếp và gián
tiếp đến công tác quản lý nhà nước về hoạt động tôn giáo. Ban Tôn giáo
Chính phủ chủ trì, phối hợp với các bộ, ngành liên quan tiến hành bổ sung
vào Dự thảo Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo, cụ thể hóa chính sách tôn giáo


14

của Đảng trong Nghị quyết 25/NQ-TW; tổ chức lấy ý kiến rộng rãi của các
nhà khoa học, quản lý và chức sắc đại diện cho các tổ chức tôn giáo.
Ban Tôn giáo Chính phủ chủ trì soạn thảo Nghị định số 22/2005/NĐCP hướng dẫn thi hành một số điều của Pháp lệnh Tín ngưỡng, tôn giáo trình
Chính phủ và được ban hành ngày 01-03-2005. Sau đó, Chính phủ ban hành
tiếp chỉ thị số 01/2005/CT-TTg ngày 4-2-2005 về một số công tác đối với đạo

Tin Lành. Mặt khác, Quốc hội, Chính phủ đã ban hành và sửa đổi 16 văn bản
quy phạm pháp luật có những nội dung liên quan đến các lĩnh vực hoạt động
tôn giáo như: về đất đai có Luật Đất đai sửa đổi năm 2003, Nghị quyết số
23/2003/QH XI về nhà đất do Nhà nước quản lý nhà đất và chính sách cải tạo
xã hội chủ nghĩa trước ngày 01-7-1991…
Như vậy, việc xây dựng các văn bản pháp luật và cơ chế chính sách về
tôn giáo và công tác tôn giáo trong thời gian qua đã được chú trọng hơn, có sự
phối hợp của các bộ, ngành liên quan và Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố,
phát huy được sự đóng góp trí tuệ của hệ thống chính trị, các nhà khoa học,
chức sắc tôn giáo.
Do có hệ thống luật pháp về tôn giáo và được tuyên truyền sâu rộng
trong xã hội nên việc thực thi luật pháp diễn ra suôn sẻ. Tập thể, tổ chức, cá
nhân thực hiện tốt được biểu dương khen thưởng; ngược lại, nếu không thực
hiện tốt hay vi phạm luật pháp thì bị trừng trị.
2.4.2. Tăng cường đầu tư và thực hiện các chương trình phát triển kinh tế xã hội vùng đồng bào các tôn giáo
Trong thời kỳ đổi mới, đặc biệt là khi có Nghị quyết 25/NQ-TW cũng
như chương trình hành động của Chính phủ, Đảng và Nhà nước ta đã xác
định, việc thực hiện có hiệu quả chủ trương, chính sách và chương trình phát
triển kinh tế - xã hội, nâng cao đời sống vật chất, văn hóa của nhân dân, trong
đó có đồng bào các tôn giáo là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của công tác


15

tôn giáo. Từ nhiệm vụ tổng thể trên, các chương trình hành động của Chính
phủ thực hiện Nghị quyết của Bộ Chính trị về phát triển kinh tế - xã hội, bảo
đảm an ninh quốc phòng, các khu vực như: Tây Nguyên, miền núi phía Bắc,
đồng bằng sông Cửu Long,… được xác định khá cụ thể trong việc phát triển
kinh tế, bảo đảm đời sống vật chất và tinh thần, đời sống tín ngưỡng, tôn giáo
của đồng bào trên nguyên tắc tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng,

tôn giáo của công dân.
Các bộ, ngành, trung ương trong quá trình hướng dẫn địa phương xây
dựng định hướng quy hoạch, kế hoạch và cơ chế chính sách phát triển kinh tế
- xã hội của các vùng, các địa phương đều đã gắn với kế hoạch chung của cả
nước về chính sách hỗ trợ đất ở và đất sản xuất cho đồng bào dân tộc thiểu số
ở Tây Nguyên, Tây Nam Bộ; về công tác định canh, định cư cho đồng bào
dân tộc thiểu số,… Trên cơ sở đó, tham mưu cho Chính phủ cân đối nguồn
lực bảo đảm thực hiện các chương trình mục tiêu quốc gia như: Chương trình
Xóa đói giảm nghèo, Phát triển giáo dục, …Các chương trình này được chú
trọng và ưu tiên đã tạo điều kiện tốt cho việc bố trí nguồn lực ở các xã, thôn,
bản có đông đồng bào dân tộc, đồng bào tôn giáo.
Kết quả thực hiện các chương trình kinh tế - xã hội thời gian qua với số
vốn hàng trăm tỉ đồng đã tác động tích cực đến đời sống kinh tế, văn hóa, xã
hội của đồng bào nói chung, đồng bào các tôn giáo nói riêng, góp phần ổn
định và phát triển, làm cho đồng bào an tâm, đoàn kết xây dựng đời sống “tốt
đời, đẹp đạo”.
2.4.3. Mở rộng các hoạt động đối ngoại trong lĩnh vực tôn giáo
Trong những năm đổi mới, nhất là 3 năm qua, Chính phủ, các bộ,
ngành, các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương đã thực sự quan tâm đẩy
mạnh các hoạt động đối ngoại tôn giáo và liên quan đến tôn giáo nhằm tháo


16

gỡ những rào cản, vướng mắc ảnh hưởng đến các hoạt động kinh tế, chính trị,
ngoại giao và nhiều mặt khác.
Thông qua kênh Chính phủ, các tổ chức phi chính phủ, các tổ chức, cá
nhân tôn giáo và liên quan đến tôn giáo ở trong nước với các tổ chức, cá nhân
tôn giáo ở nước ngoài; các cuộc hội thảo chuyên đề do các tổ chức phi chính
phủ tổ chức, cũng như việc tạo điều kiện thuận lợi để các tổ chức, cá nhân có

dịp tiếp cận với thực tế ở các vùng, miền nhạy cảm về tôn giáo, các nhân vật
tôn giáo đã làm cho dư luận quốc tế hiểu rõ hơn tình hình và chính sách tôn
giáo của Nhà nước Việt Nam.
Các kênh đối ngoại tôn giáo được tăng cường như: trao đổi đoàn; tham
dự các diễn đàn, hội thảo đối thoại về nhân quyền, với Ủy ban Tự do tôn giáo
quốc tế (Mỹ), diễn đàn nhân dân ASEM hàng năm, hội thảo về pháp luật tôn
giáo các nước Đông Nam Á, các cuộc tiếp xúc giữa sứ quán các nước đã tạo
được niềm tin, sự hiểu biết, chia sẻ của các nước, các tổ chức về chính sách
tôn giáo, cũng như những vướng mắc trong công tác xử lý một số vấn đề tôn
giáo của Việt Nam.
Các cuộc trao đổi kinh nghiệm quản lý với các nước trong khu vực như:
Lào, Căm-pu-chia, Trung Quốc, các tổ chức tôn giáo được tiếp tục duy trì và
tăng cường hơn trong thời gian qua. Cùng với các hoạt động đó là việc hướng
dẫn, giúp đỡ các tổ chức tôn giáo cử đoàn tham dự các hội nghị, hội thảo, các
sinh hoạt tôn giáo ở nước ngoài như Hội đồng Giám mục Việt Nam tham gia
làm thành viên Hội đồng Giám mục Á châu,…
Thực tiễn công tác đối ngoại tôn giáo và liên quan đến tôn giáo từ sau
khi có Nghị quyết 25/NQ-TW và chương trình hành động của Chính phủ đã
thực sự thấm nhuần đường lối đối ngoại của Đảng và Nhà nước, có sự quan
tâm và có sự tham gia tích cực chủ động, của các bộ, ngành liên quan đã


17

mang lại kết quả rất quan trọng trong việc làm thay đổi nhận thức, tình cảm
của bạn bè quốc tế.
Có thể nói, công tác tôn giáo trong những năm gần đây của Đảng và
Nhà nước ta có nhiều thành tựu và nhiều bài học kinh nghiệm quý. Những
thành tựu và kinh nghiệm ấy đã và đang được đúc kết thành những bài học để
làm cơ sở cho những năm tới thực hiện tốt hơn.



18

CHƯƠNG 3
CHÍNH SÁCH TÔN GIÁO CỦA ĐẢNG VÀ NHÀ NƯỚC VIỆT NAM
3.1. Những chính sách về tôn giáo của nhà nước ta
Hiến pháp nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992 có ghi
về chính sách tôn giáo của Nhà nước như sau:
"Công dân có quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, theo hoặc không theo 1
tôn giáo nào. Các tôn giáo đều bình đẳng trước pháp luật. Những nơi thờ tự
của các tín ngưỡng, tôn giáo được pháp luật bảo hộ. Không ai được xâm
phạm tự do tín ngưỡng, tôn giáo hoặc lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để làm
trái pháp luật và chính sách của Nhà nước" (Điều 70). Trong Chỉ thị của Bộ
Chính trị về công tác tôn giáo trong tình hình mới có ghi những nguyên tắc về
tín ngưỡng, tôn giáo sau đây:
1. “Tôn trọng và đảm bảo quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo và tự do
không tín ngưỡng, tôn giáo của công dân”.
2. Đoàn kết gắn bó đồng bào theo các tôn giáo và không theo tôn giáo
trong khối đại đoàn kết toàn dân.
3. Mọi cá nhân và tổ chức hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo phi tuân thủ
Hiến pháp và Pháp luật.
4. Những hoạt động tôn giáo ích nước, lợi dân, phù hợp với nguyện
vọng và lợi ích chính đáng, hợp pháp của tín đồ được đảm bảo.
5. Mọi hành vi lợi dụng tôn giáo để làm mất trất tự an toàn xã hội, phá
hoại chính sách đoàn kết toàn dân, chống lại Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ
nghĩa Việt Nam, gây tổn hại các giá trị đạo đức, lối sống, văn hoá của dân tộc
đều bị xử lý theo pháp luật.”
Chính sách tôn giáo của Đảng Cộng Sản Việt Nam và của Nhà nước
Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam trước hết là đoàn kết dân tộc, đoàn kết



19

người có tôn giáo với nhau, động viên nhau thực hiện mục tiêu "Độc lập
Thống nhất, chủ quyền quốc gia, toàn vẹn lãnh thổ, Dân giàu, Nước mạnh, Xã
hội công bằng, dân chủ, văn minh".
Có một vấn đề thiết tưởng cần làm rõ để tránh ngộ nhận về chính sách
tôn giáo của Đảng Cộng sản Việt Nam và Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ
nghĩa Việt Nam, đó là Đảng và Nhà nước không chống tôn giáo tức là bảo
đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, tôn giáo nhưng kiên quyết chống sự lợi
dụng tôn giáo.
Chính sách tôn giáo của Đảng Cộng sản Việt Nam và Nhà nước Cộng
hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam được cụ thể hoá bằng mấy vấn đề sau đây:
1. Các tôn giáo ở Việt Nam được hoạt động tự do trong khuôn khổ của
Hiến pháp và Pháp luật Nhà nước Việt Nam. Các tôn giáo ở Việt Nam được
Nhà nước Việt Nam quan tâm, tạo điều kiện đáp ứng những nhu cầu tôn giáo
căn bản:
+ Tự do sinh hoạt tôn giáo
+ Bảo hộ nơi thờ tự; xây mới nơi thờ tự
+ Có trường đào tạo giáo sĩ, cho đi đào tạo ở nước ngoài
+ Có kinh sách, ấn phẩm tôn giáo
+ Được giao lưu quốc tế
2. Một tôn giáo ở Việt Nam muốn hoạt động hợp pháp phải đáp ứng đủ
những tiêu chí căn bản: có tín đồ tự nguyện tin theo; có giáo sĩ hướng dẫn
việc đạo; có tôn chỉ mục đích hoạt động không trái với pháp luật Nhà nước;
có hệ thống giáo lý, giáo luật phù hợp; không hoạt động mê tín dị đoan.
3. Nhà nước Việt Nam chỉ quan tâm đến tư cách, phẩm chất công dân
của những người lãnh đạo các tôn giáo, không can thiệp vào trình độ tôn giáo
của những người đó. Thực tế này được thể hiện trong quan hệ Việt Nam Vatican những năm qua về việc bổ nhiệm các giám mục ở Việt Nam .



20

4. Từ trước tới nay, Việt Nam không xử tù, giam giữ, quản chế hành
chính bất kỳ một nhân vật tôn giáo nào vì lý do tôn giáo. Mọi công dân Việt
Nam đều bình đẳng trước pháp luật.
5. Các tôn giáo ở Việt Nam được Nhà nước khuyến khích tham gia các
hoạt động giáo dục, từ thiện, nhân đạo theo sự hướng dẫn của các cơ quan
chuyên môn.
6. Nhà nước Việt Nam không tịch thu bất cứ tài sản nào của các tôn
giáo ngoại trừ nếu các tài sản đó được sử dụng như một công cụ nhằm phục
vụ cho các hoạt động gây bạo loạn, lật đổ, chống lại Nhà nước và nhân dân.
7. Các tổ chức, cá nhân tôn giáo được tạo điều kiện thuận lợi để giao
lưu quốc tế, được đi đào tạo ở nước ngoài.
3.2. Thực hiện các chính sách tôn giáo trong thưc tiễn
Chính sách tôn giáo của Đảng và Nhà nước Việt Nam được xây dựng
trên quan điểm cơ bản của học thuyết Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về
tín ngưỡng, tôn giáo và căn cứ vào đặc điểm tín ngưỡng, tôn giáo ở Việt Nam.
Tư tưởng nhất quán, xuyên suốt của Đảng và Nhà nước Việt Nam là tôn
trọng quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của nhân dân; đoàn kết tôn giáo, hòa
hợp dân tộc. Trong chỉ thị của Thường vụ Trung ương về vấn đề thành lập
Hội phản đế Đồng Minh ngày 18-11-1930, Đảng đã có tuyên bố đầu tiên về
chính sách tôn trọng tự do tín ngưỡng của quần chúng: "... phải lãnh đạo từng
tập thể sinh họat hay tập đoàn của nhân dân gia nhập một tổ chức cách mạng,
để dần dần cách mạng hóa quần chúng và lại đảm bảo tự do tín ngưỡng của
quần chúng...".
Ngay trong năm đầu của cuộc chiến tranh phá hoại miền Bắc, mặc dù
phải lo đối phó với cuộc chiến tranh ác liệt nhưng chính phủ vẫn quan tâm
đến nhu cầu tâm linh của nhân dân.



21

Sau ngày giải phóng miền Nam thống nhất đất nước, ngày 11-11-1977,
Chính phủ ban hành Nghị quyết số 297-CP về "Một số chính sách đối với tôn
giáo" trong đó nêu lên 5 nguyên tắc về tự do tôn giáo.
Tự do tín ngưỡng, tôn giáo là một quyền nhân thân cơ bản của công dân
cũng được đề cập trong Bộ luật Dân sự , được bảo vệ bằng pháp luật và được
cụ thể hoá trong các văn bản quy phạm pháp luật ngày càng ở mức độ cao
hơn, hoàn thiện hơn.
Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo ra đời là một minh chứng, một bước tiến
và một lần nữa tiếp tục khẳng định nguyên tắc nhất quán trong chủ trương,
chính sách của Đảng và Nhà nước Việt Nam là tôn trọng tự do tín ngưỡng,
tôn giáo.
Thực tế, những chủ trương, chính sách tín ngưỡng, tôn giáo không phải
chỉ được khẳng định ở Hiến pháp, pháp luật hay trong các chỉ thị, nghị quyết
của Đảng mà được thể hiện sống động trong cuộc sống hàng ngày.
Cho đến nay, Nhà nước ta đã công nhận tư cách pháp nhân cho 15 tổ
chức tôn giáo và tiếp tục xem xét theo tinh thần của Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn
giáo. Có thể khẳng định, hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo đã và đang diễn ra
bình thường ở mọi nơi trên đất nước Việt Nam.
Năm 1955, trước yêu cầu mới về công tác tôn giáo nói chung, công tác
quản lý Nhà nước về hoạt động tôn giáo nói riêng, Thủ tướng Chính phủ nước
Việt Nam Dân chủ Cộng hòa thành lập Ban Tôn giáo trực thuộc Phủ Thủ
tướng (tiền thân của Ban Tôn giáo Chính phủ ngày nay) để "nghiên cứu kế
hoạch thi hành những chủ trương chính sách của Chính phủ về vấn đề tôn
giáo, giúp Thủ tướng phối hợp với các ngành ở Trung ương và theo dõi
hướng dẫn, đôn đốc các địa phương trong việc thực hiện những chính sách
của Chính phủ về vấn đề tôn giáo và liên hệ với các tổ chức tôn giáo".



22

Quá trình xây dựng và trưởng thành của Ban Tôn giáo Chính phủ có thể
chia thành 3 thời kỳ:
- Thời kỳ 1955-1975: Đây là thời kỳ Ban Tôn giáo thực hiện chức năng
giúp Thủ tướng trong việc thực hiện các chủ trương chính sách về tôn giáo,
nhất là sau khi Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh 234-SL về tôn giáo.
- Thời kỳ 1975-1990: Đây là thời kỳ Ban Tôn giáo Chính phủ thực hiện
chức năng giúp Chính phủ quản lý Nhà nước về tôn giáo trong điều kiện đất
nước mới được thống nhất.
- Thời kỳ 1990 đến nay: Thời kỳ này, Ban Tôn giáo Chính phủ phối
hợp với các ngành thực hiện các mặt công tác đấu tranh chống các thế lực thù
địch lợi dụng tôn giáo chống phá cách mạng Việt Nam; đồng thời giúp Đảng
và Nhà nước khẳng định quan điểm, chủ trương chính sách đối với tôn giáo.
Đánh giá sự trưởng thành và những đóng góp của Ban Tôn giáo Chính
phủ, năm 2002, Nhà nước trao tặng Huân chương Độc lập hạng Nhất và để
khẳng định truyền thống của ngành quản lý Nhà nước về tôn giáo và xác lập
cơ chế quản lý theo ngành - một ngành vốn có nhiều nét đặc thù, nhạy cảm.
Đây là phần thưởng cao quý của Đảng và Nhà nước dành cho các thế hệ làm
công tác tôn giáo trong cả nước.
3.3. Đảng và nhà nước ta hoàn thiện các chính sách tôn giáo để thích nghi
với tình hình mới
Ngày 18-6-2004, Ủy ban Thường vụ Quốc hội tại phiên họp thứ 19
khóa XI đã thông qua Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo. Ngày 29-6-2004, Chủ
tịch nước đã ký lệnh công bố. Ðây là văn bản quy phạm pháp luật có giá trị
pháp lý cao nhất điều chỉnh trực tiếp lĩnh vực tín ngưỡng, tôn giáo.
Pháp lệnh đã thể chế hóa đường lối, chủ trương chính sách về tín
ngưỡng, tôn giáo của Ðảng và Nhà nước ta, nhằm tạo cơ sở pháp lý bảo đảm



23

cho công dân thực hiện quyền cơ bản về tự do tín ngưỡng, tôn giáo, đồng thời
nâng cao hiệu lực quản lý nhà nước đối với lĩnh vực này.
Hơn nửa thế kỷ qua, chính sách, pháp luật của Ðảng và Nhà nước ta về
tôn giáo được xây dựng trên cơ sở nhận thức và giải quyết các vấn đề tôn giáo
theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh.Quan điểm
đó của Người tiếp tục được củng cố, phát triển và được thể hiện xuyên suốt
qua các Hiến pháp (1946, 1959, 1980, 1992) cũng như các văn bản khác của
Ðảng và Nhà nước ta.
Tuy nhiên, thời gian gần đây, do nhiều nguyên nhân khác nhau, trong
đó có điều kiện mở cửa và hội nhập quốc tế, tác động của kinh tế thị trường,
vì vậy trong sinh hoạt tín ngưỡng, tôn giáo cũng phát sinh nhiều vấn đề phức
tạp: một số người đã lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để hành nghề mê tín dị
đoan, ảnh hưởng tiêu cực tới trật tự, an toàn xã hội.
Bên cạnh đó, trong công tác quản lý nhà nước, hệ thống bộ máy quản lý
nhà nước về tôn giáo chưa được kiện toàn củng cố, có nơi chủ quan, giản đơn
trong quản lý, không kịp thời đấu tranh với những hành vi lợi dụng tín
ngưỡng, tôn giáo vi phạm pháp luật. Vì vậy dễ tạo sơ hở cho phần tử xấu lợi
dụng vấn đề tôn giáo để lợi dụng, kích động xuyên tạc, vu cáo ta vi phạm
nhân quyền và quyền tự do tôn giáo.
Trước tình hình đó, việc ban hành Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo là rất
cần thiết. Trong quá trình xây dựng Pháp lệnh, các nguyên tắc luôn được tuân
thủ là: Tiếp tục quan điểm đổi mới trong công tác tôn giáo theo tinh thần Nghị
quyết 24 (1990), Nghị quyết Ðại hội IX của Ðảng và đặc biệt là những nội
dung về công tác tôn giáo được xác định trong Nghị quyết 25/NQ ngày 12-32003 Hội nghị lần thứ 7 Ban Chấp hành Trung ương khóa IX.
Nhằm thể hiện đường lối, chủ trương, chính sách, pháp luật của Ðảng
và Nhà nước ta đối với lĩnh vực tín ngưỡng, tôn giáo trong thời kỳ đổi mới,



24

Pháp lệnh đã công bố một cách hệ thống quyền và nghĩa vụ cơ bản của công
dân về tự do tín ngưỡng, tôn giáo.
Các tổ chức tôn giáo ở Việt Nam đều bình đẳng trước pháp luật. Nhà
nước bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tự do tôn giáo, đồng thời phát huy
những giá trị văn hóa đạo đức tôn giáo, gìn giữ những giá trị truyền thống của
tín ngưỡng, tôn giáo. Nhà nước khẳng định việc bảo hộ cơ sở vật chất, tài sản
của cơ sở tín ngưỡng, tôn giáo như chùa, nhà thờ, thánh đường, thánh thất,
điện và các đồ dùng thờ cúng của tín ngưỡng, tôn giáo.
Trong tình hình đất nước hiện nay đảng và nhà nước ta đã có những
chính sách hợp lý để ổn định tình hình đất nước trước những âm mưu thủ
đoạn của các thế lực thù địch như:
+ Chính sách trắng về tôn giáo:
Chiều 1/2/2007, tại Hà Nội, Ban Tôn giáo Chính phủ, Bộ Ngoại giao
Việt Nam đã tổ chức cuộc họp báo công bố Sách Trắng về "Tôn giáo và
Chính sách tôn giáo ở Việt Nam" nhằm giúp cho nhân dân trong và ngoài
nước, bạn bè quốc tế hiểu hơn về tình hình sinh hoạt tôn giáo ở Việt Nam
cũng như chính sách của Chính phủ Việt Nam đối với công tác tôn giáo.
Nói về Quan hệ quốc tế của các tôn giáo giới thiệu về quan điển của
Nhà nước Việt Nam về quan hệ quốc tế của các tôn giáo và quan hệ quốc tế
của các tôn giáo.
+ Thủ tướng Chính phủ chỉ thị về công tác đối với đạo Tin Lành:
Để thực hiện tốt chính sách của Đảng và Nhà nước về tín ngưỡng tôn
giáo nói chung và đạo Tin lành nói riêng, ngày 4/2 Thủ tướng Chính phủ đã
ban hành Chỉ thị số 01/2005/CT - TTg về một số công tác đối với đạo Tin
lành.
Chỉ thị nhấn mạnh: Thực hiện các chủ trương, chính sách của Đảng và

Nhà nước về công tác đối với đạo Tin lành, thời gian qua các Bộ, ngành, địa


25

phương đã có nhiều nỗ lực và đã đạt được những kết quả quan trọng. Đồng
bào theo đạo Tin lành đã hăng hái tham gia các phong trào phát triển kinh tế,
văn hóa, xã hội, góp phần tích cực vào công cuộc xây dựng đất nước.
Để tiếp tục thực hiện tốt chính sách của Đảng và Nhà nước ta về tín
ngưỡng, tôn giáo nói chung và về Tin lành nói riêng, Thủ tướng Chính phủ
yêu cầu các Bộ, ngành, Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung
ương phối hợp chặt chẽ với Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các đoàn thể nhân
dân thực hiện nghiêm túc và có hiệu quả những nhiệm vụ sau đây:
1. Tổ chức quán triệt sâu sắc và triển khai thực hiện đầy đủ các chủ
trương của Đảng, pháp luật của Nhà nước về tín ngưỡng, tôn giáo và chính
sách đối với đạo Tin lành; đồng thời tổ chức thực hiện tốt các chương trình
phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho
nhân dân.
2. Tăng cường công tác tuyên truyền vận động và tạo điều kiện thuận
lợi để các chức sắc, tín đồ Tin lành thực hiện tốt chính sách của Đảng và pháp
luật của Nhà nước về tín ngưỡng, tôn giáo, đưa sinh hoạt tôn giáo của đạo Tin
lành đi vào nền nếp bình thường, phù hợp với pháp luật.
3. Hướng dẫn, giúp đỡ Tổng hội Hội thánh Tin lành Việt Nam (miền
Bắc) và Tổng Liên hội Hội thánh Tin lành Việt Nam (miền Nam) thực hiện
các hoạt động tôn giáo đúng theo Hiến chương, Điều lệ của giáo hội và tuân
thủ các quy định của pháp luật.
4. Đối với đồng bào theo đạo Tin lành ở Tây Nguyên, Nam Trường Sơn
và các tỉnh miền Trung: Tiếp tục xem xét công nhận các Chi hội thuộc Tổng
Liên hội Hội Thánh Tin lành Việt Nam (miền Nam) và tạo điều kiện thuận lợi
để các Chi hội này xây dựng nơi thờ tự, đào tạo và bố trí chức sắc hướng dẫn

việc đạo cho các Chi hội đã được công nhận theo quy định của pháp luật.
5. Đối với số đồng bào ở miền núi phía Bắc mới theo đạo Tin lành cần
căn cứ vào nhu cầu tín ngưỡng để có chủ trương thích hợp theo hướng: Đối


×