Tải bản đầy đủ (.doc) (24 trang)

đóng góp của v i lênin trong bảo vệ và phát triển triết học mác

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (201.86 KB, 24 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI II
PHÒNG SAU ĐẠI HỌC
------    ------

NGUYỄN THỊ THÚY NGÂN

ĐÓNG GÓP CỦA V.I.LÊNIN TRONG BẢO VỆ
VÀ PHÁT TRIỂN TRIẾT HỌC MÁC

TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC
Chuyên ngành: Lí luận Văn học K18 đợt 2

Người hướng dẫn khoa học:
TS. VI THÁI LANG

Hà Nội, tháng 3 năm 2015


MỤC LỤC

MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Lịch sử ra đời và phát triển của các trào lưu, tư tưởng triết học luôn gắn
liền với sự phát triển của xã hội trong từng giai đoạn lịch sử. Triết học Mác ra
đời là mốc son rực rỡ trong lịch sử phát triển các tư tưởng triết học, là hệ
thống triết học mang tính cách mạng và khoa học, là cơ sở thế giới quan,
phương pháp luận khoa học trong nhận thức và cải tạo thế giới. Tuy nhiên,
ngay chính Mác và Ăngghen cũng khẳng định, triết học của hai ông không
phải là sự hoàn bị tuyệt đối mà nó phải thường xuyên được củng cố và phát
triển, thường xuyên được kiểm nghiệm trong thực tiễn, và chính điều này đã
tạo nên sức sống trường tồn của triết học Mác.


Vào những năm cuối thế kỷ XIX, chủ nghĩa tư bản chuyển sang giai
đoạn Đế quốc chủ nghĩa tạo nên sự biến đổi sâu sắc trên tất cả các lĩnh vực
của đời sống xã hội. Cùng với đó, khoa học tự nhiên đạt được một số thành
tựu quan trọng tạo nên sự khủng hoảng trong nhận thức thế giới. Thực tiễn
lịch sử và đặc biệt là sự phát triển của phong trào cộng sản thế giới đòi hỏi
phải có một lý luận mới phù hợp hơn để tiếp tục bảo vệ và phát triển triết học
Mác. Và V.I.Lênin đã thực hiện tốt điều đó, đã vận dụng sáng tạo vào thực
tiễn làm nên Cách mạng tháng Mười Nga vĩ đại.
2


Sự sụp đổ của mô hình Chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và Đông Âu cùng
với những điều chỉnh thích nghi của Chủ nghĩa tư bản hiện nay là một rào cản
lớn trong nghiên cứu và phát triển triết học Mác. Lợi dụng vấn đề này các lực
lượng phản cách mạng, bọn cơ hội xét lại đang ra sức chống phá và xuyên tạc
Chủ nghĩa Mác nói chung và triết học Mác nói riêng cả về mặt lý luận và vận
dụng. Điều này tác động tiêu cực tới sự phát triển của các tư tưởng triết học
nhân loại, tác động trực tiếp tới sự phát triển của phong trào cách mạng thế
giới. Nghiên cứu vấn đề “Đóng góp của V.I.Lênin trong bảo vệ và phát triển
triết học mác” thực sự là vấn đề lý luận và thực tiễn cấp thiết đặt ra. Thông
qua vấn đề nghiên cứu, một lần nữa khẳng định tính cách mạng và khoa học
của chủ nghĩa Mác, sự cần thiết phải tiếp tục bảo vệ và phát triển chủ nghĩa
Mác – Lênin, trang bị thế giới quan khoa học trong nghiên cứu lịch sử phát
triển của các tư tưởng triết học.
2. Mục đích nghiên cứu
Luận chứng làm rõ những cống hiến và ý nghĩa V.I.Lênin bảo vệ và
phát triển triết học Mác.
3. Đối tượng nghiên cứu:
Đóng góp của Lê Nin trong bảo vệ và phát triển triết học Mác
4. Nhiệm vụ:

- Làm rõ tiền đề khách quan và nhân tố chủ quan V.I.Lênin bảo vệ và
phát triển triết học Mác.
- Phân tích thực chất và giá trị lịch sử, hiện thực Lênin bảo vệ và phát
triển triết học Mác.
5. Phương pháp:
Phân tích, tổng hợp, đánh giá
6. Cấu trúc
Đề tài gồm:
3


- Phần mở đầu.
- Phần nội dung
- Phần kết luận
- Danh mục tài liệu tham khảo

NỘI DUNG
Chương 1
ĐIỀU KIỆN KHÁCH QUAN VÀ NHÂN TỐ CHỦ QUAN
CỦA V.I.LÊNIN BẢO VỆ VÀ PHÁT TRIỂN TRIẾT HỌC MÁC
1.1. Những điều kiện khách quan V.I.Lênin bảo vệ và phát triển triết học
Mác
* Tiền đề về chính trị - kinh tế xã hội thế giới và trong nước
Cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, Chủ nghĩa Tư bản phát triển sang giai
đoạn mới là chủ nghĩa Đế quốc tạo ra sự biến đổi sâu sắc trong xã hội. Giai cấp
Tư sản ngày càng bộc lộ rõ bản chất phản động, chúng tăng cường các hoạt
động bóc lột giai cấp công nhân và nhân dân lao động. Giai cấp tư sản không
còn là giai cấp trung tâm trong xã hội và chính sự bóc lột của nó đã từng bước
tạo ra một giai cấp mới tiến bộ hơn, cách mạng hơn có đủ khả năng lãnh đạo xây
dựng xã hội không có áp bức bóc lột. Cùng với đó nhiều tổ chức độc quyền ra

đời đã làm sâu sắc thêm những mâu thuẫn bên trong phương thức sản xuất tư
bản chủ nghĩa, xuất khẩu tư bản phát triển mạnh làm cho mâu thuẫn giữa GCTS
với GCCN và nông dân không chỉ ở nội bộ mỗi quốc gia mà phát triển rộng lên
tầm thế giới.

4


Vấn đề đấu tranh giai cấp đã có bước chuyển mới, về tính chất ngày
một gay gắt hơn. Giai cấp vô sản đã có sự phát triển, trở thành lực lượng tiến
bộ có khả năng xoá bỏ chế độ tư bản chủ nghĩa và xây dựng chế độ xã hội chủ
nghĩa trên phạm vi toàn thế giới. Đấu tranh giai cấp đã gắn liền với phong
trào giải phóng dân tộc, do vậy nó có khả năng phát triển hết sức mạnh mẽ,
vấn đề Cách mạng vô sản vẫn là tâm điểm của phong trào cách mạng thế giới
nhưng có sự biểu hiện khác so với giai đoạn Mác, giai cấp vô sản độc lập
bước lên vũ đài chính trị một cách tự giác, có cương lĩnh, có lý luận dẫn
đường và có mục tiêu rõ ràng. Trong khi đó, khi các tổ chức độc quyền ra đời
đã làm mâu thuẫn giữa tư sản với tư sản ngày càng gay gắt, đây là điều kiện
hết sức thuận lợi cho cách mạng vô sản nổ ra và giành thắng lợi.
Cùng thời điểm này ở Tây Âu cách mạng tư sản đã nổ ra và cơ bản
giành thắng lợi, tuy nhiên nước Nga, nơi mà chủ nghĩa Mác được truyền bá
vào từ rất sớm vẫn đang ở vào đêm trước của cách mạng tư sản. Sự tồn tại của
chế độ Nga Hoàng đã làm cho những mâu thuẫn trong lòng xã hội Nga nổi lên
găy gắt, nó bao gồm mâu thuẫn giữa tư sản với vô sản; giữa nông dân Nga với
địa chủ trong nước; giữa giai cấp vô sản và nông dân Nga với tư sản nước
ngoài…Mặc dù ra đời muộn nhưng giai cấp tư sản Nga có tốc độ phát triển
rất nhanh nhờ vào bóc lột ngay chính công nhân và nông dân trong nước, điều
này nó dẫn đến mâu thuẫn trong lòng xã hội Nga càng trở nên sâu sắc hơn.
* Tiền đề về mặt lý luận
Chủ nghĩa Mác đã được truyền bá vào Nga từ rất sớm và nhanh chóng

trở thành vũ khí lý luận sắc bén của phong trào công nhân. Chính Plê-kha-nốp
và nhóm “Giải phóng lao động” do ông đứng đầu đã dịch những tác phẩm
của Mác và Ăngghen ra tiếng Nga và bí mật chuyển về nước. Đây cũng là giai
đoạn diễn ra cuộc đấu tranh gay gắt trên mặt trận lý luận đối với các trào lưu
tư tưởng phản động, tiêu biểu là chủ nghĩa Dân túy và chủ nghĩa kinh tế...
5


Chủ nghĩa dân tuý thực chất là trào lưu tư tưởng tiểu tư sản, xuất hiện ở
Nga vào những năm 60 - 70 thế kỷ XIX và phát triển qua nhiều giai đoạn phức
tạp. Ban đầu về cơ bản họ là nông dân cách mạng nhằm tổ chức những cuộc
cách mạng của nông dân. Mặc dù tự xưng là những người dân chủ cách mạng
nhưng trên thực tế họ lại từ bỏ chủ nghĩa duy vật và đến với chủ nghĩa duy tâm,
chủ nghĩa không tưởng. Phái dân tuý cho rằng chủ nghĩa tư bản ở Nga là một
hiện tượng ngẫu nhiên không phát triển được và như thế thì giai cấp vô sản ở
Nga cũng không phát triển được cho nên không có vai trò lãnh đạo cách mạng.
Về sau phái dân tuý phân hoá thành ba khuynh hướng: một số người từ bỏ hoạt
động chính trị; một số ngả theo những người mácxít ; một số đi vào con đường
thoả hiệp, đầu hàng chính phủ chống lại những người Mácxít (gọi là dân túy tự
do, đội lốt những người bạn dân để chống lại nhân dân, chống lại cách mạng).
Chủ nghĩa Dân tuý đã phủ nhận sứ mệnh lịch sử của giai cấp vô sản Nga và
phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng Mácxít đối với đấu tranh cách mạng.
Phái kinh tế là lực lượng xuất phát từ thắng lợi của một số cuộc đấu
tranh kinh tế, đòi nhượng bộ...và chống lại chủ nghĩa Mác. Họ cho rằng không
cần đấu tranh cách mạng mà chỉ cần đấu tranh đòi nhượng bộ là có thể giành
được chính quyền, tuyệt đối hoá tính tự phát, phủ nhận tính tự giác; tuyệt đối
hoá vai trò đấu tranh kinh tế và đi vào đấu tranh đòi nhượng bộ để giành chính
quyền.
Chiến tranh thế giới lần thứ nhất nổ ra làm cho nước Nga trở thành mắt
khâu yếu nhất trong sợi dây chuyền của chủ nghĩa đế quốc. Tình thế và thời cơ

cách mạng xuất hiện, nước Nga trở thành trung tâm cách mạng của thế giới.
Trên cơ sở nghiên cứu sự phát triển không đều của chủ nghĩa tư bản, Lênin đã
đưa ra kết luận: Cách mạng vô sản có thể nổ ra và giành thắng lợi ở một nước,
thậm chí ở một nước tư bản trung bình, nhưng ở đó tập trung mọi mâu thuẫn
của thời đại hoặc đó là mắt xích yếu nhất trong sợi dây chuyền của chủ nghĩa
6


tư bản. Đây chính là dấu hiệu quan trọng, là xuất phát điểm hình thành tư
tưởng lý luận mới mang tính bước ngoặt trong đấu tranh cách mạng mà Lênin
đã nhận ra đó là: Cách mạng vô sản có thể nổ ra và giành thắng lợi ở Nga.
Cách mạng Tháng Mười nổ ra và giành thắng lợi nó đã khẳng định tính
đúng đắn, cách mạng và khoa học của chủ nghĩa Mác. Tuy nhiên, nước Nga xây
dựng chủ nghĩa xã hội trong hoàn cảnh hết sức khó khăn: điểm xuất phát thấp,
nền kinh tế kém phát triển, tuy là nước tư bản nhưng có tới hơn 60% là nông
nghiệp, nạn đói và nạn rét diễn ra triền miên…bên cạnh đấy còn bị 14 nước đế
quốc bao vây, cấm vận…Trước tình hình này nhiều vấn đề cấp bách đặt ra với
chính quyền non trẻ trong đó vấn đề quan trọng là phải có phương pháp mới
trong đấu tranh cách mạng để bảo vệ thành quả đã đạt được. Do vậy thực tiễn
đòi hỏi phải tiếp tục bảo vệ và phát triển triết học Mác để nó thật sự là vũ khí lý
luận cho phong trào cách mạng thế giới nói chung và nước Nga nói riêng.
* Tiền đề về khoa học tự nhiên
Cùng với sự phát triển của phong trào cách mạng thế giới, cuối thế kỷ
XIX, đầu thế kỷ XX khoa học tự nhiên (đặc biệt là trong lĩnh vực vật lý học)
đạt được những thành tựu mới đã làm đảo lộn quan niệm về thế giới của vật
lý học cổ điển. Năm 1895 Rơn ghen tìm ra tia X nó chứng minh vật chất
không chỉ tồn tại dưới dạng sự vật mà còn tồn tại dưới dạng hiện tượng; năm
1896 Béccơ Rơn phát hiện ra tia phóng xạ nó chứng minh nguyên tử có thể
phân chia được; năm 1897 Tôm sơn phát hiện ra điện tử nó chứng minh
nguyên tử không phải là phần tử nhỏ nhất; năm 1910 Anh xtanh phát hiện ra

thuyết tương đối rộng nó chứng minh không gian, thời gian chỉ là những đại
lượng tương đối... Một số nhà khoa học do nhận thức không theo kịp với sự
phát triển của xã hội đã bị khủng hoảng và đã trượt sang chủ nghĩa duy tâm,
thậm chí quay lại chống phá chủ nghĩa Mác. Thực tiễn đòi hỏi đối với triết

7


học là phải có sự khái quát mới, đánh giá đúng đắn những thành tựu của khoa
học làm cơ sở nhận thức và cải tạo thế giới.
1.2. Nhân tố chủ quan V.I.Lênin bảo vệ và phát triển triết học Mác
Trước những biến cố và đòi hỏi của lịch sử, cùng với sự thiên tài và
lòng nhiệt thành cách mạng, ngay từ đầu Lênin đã xác định chủ nghĩa Mác là
lý luận soi đường cho phong trào vô sản thế giới, và cũng chính điều này nó
đã trở thành động lực lớn tác động trực tiếp tới quá trình bảo vệ và phát triển
triết học Mác. Sinh ngày 10 tháng 4 năm 1870 tại thành phố Ximbiếcxcơ của
nước Nga trong một gia đình có truyền thống cách mạng. Về sau, cả sáu anh
chị em Lênin đều trở thành những chiến sĩ cộng sản và có lòng nhiệt thành
cách mạng cao.
Tháng 5 năm 1887 người anh cả bị treo cổ vì tham gia ám sát Sa hoàng
Aleksandr III. Sự kiện này đã khiến Lênin trở thành người cấp tiến với câu nói
vĩ đại lúc bấy giờ “Chúng ta sẽ đi theo một con đường khác”, tức là chủ nghĩa
Mác. Từ đây Lênin tiếp cận tới cách mạng nhân dân thay vì những phương
pháp vô chính phủ, cá nhân. Là người sớm bộc lộ tài năng và lòng nhiệt thành
cách mạng, Ông nổi tiếng là người học giỏi tiếng Latinh và tiếng Hy Lạp. Năm
17 tuổi, do tham gia tích cực vào phong trào sinh viên, Lênin bị đuổi khỏi
trường Đại học Tổng hợp Cadan và bị bắt giam. Từ đó, Người bước vào con
đường đấu tranh cách mạng. Người quan tâm nghiên cứu chủ nghĩa Mác, đánh
giá công lao vĩ đại của Mác và Ăngghen và cho rằng, cống hiến lớn nhất của
hai ông là đã xây dựng được khoa học về những quy luật phát triển của xã hội,

chỉ ra con đường cải tạo xã hội bằng cách mạng. Lênin hết sức hào hứng tiếp
nhận và tuyên truyền nhiệt thành cho những tư tưởng vĩ đại của chủ nghĩa Mác.
Lênin là một người kiên định với lập trường giai cấp công nhân, ông
đấu tranh không mệt mỏi vì lợi ích và mục tiêu giải phóng giai cấp vô sản và
nhân dân lao động. Mặc dù là người trực tiếp lãnh đạo phong trào cộng sản
8


tiến hành đấu tranh cách mạng, song Lênin cũng giành rất nhiều thời gian cho
nghiên cứu, phát triển lý luận Mác. Người nhấn mạnh: Chúng ta không hề coi
lý luận của Mác như là một cái gì đã xong xuôi hẳn và bất khả xâm phạm, trái
lại chúng ta tin tưởng rằng, lý luận đó chỉ đặt nền móng cho môn khoa học
mà những người xã hội chủ nghĩa cần phải phát triển hơn nữa về mọi mặt, nếu
họ không muốn lạc hậu với cuộc sống.
Trong các tác phẩm của mình, Lênin giải thích cho quần chúng công
nhân về bản chất học thuyết Mác, vạch rõ ý nghĩa của chủ nghĩa Mác đối với
cách mạng và kiên quyết đấu tranh chống lại bọn cơ hội, xét lại bảo vệ, phát
triển chủ nghĩa Mác và triết học Mác. Trong những năm tháng hoạt động lý
luận và chỉ đạo phong trào cách mạng của giai cấp công nhân Nga, Lênin đã
thể hiện rõ là một lãnh tụ, một nhà lý luận thiên tài, nhà tổ chức và người lãnh
đạo kiệt xuất của giai cấp vô sản. Lênin trở thành người kế tục trung thành và
phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác và triết học Mác trong thời đại mới- thời
đại đế quốc chủ nghĩa và quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Đảng cộng sản Liên Xô
đã khẳng định: Lê nin là nhà bác học vĩ đại trong đấu tranh cách mạng và là
nhà cách mạng trong hoạt động khoa học. Ông là người mở ra thời kỳ mới
trong sự phát triển của lý luận mác-xít, làm phong phú thêm tất cả các bộ
phận cấu thành chủ nghĩa Mác: triết học, kinh tế chính trị học và chủ nghĩa
cộng sản khoa học.

9



Chương 2
THỰC CHẤT VÀ GIÁ TRỊ CỦA V.I.LÊNIN BẢO VỆ VÀ
PHÁT TRIỂN TRIẾT HỌC MÁC
2.1. Thực chất nội dung V.I.Lênin bảo vệ và phát triển triết học Mác
Mặc dù là người trực tiếp lãnh đạo phong trào cách mạng, song Lênin
vẫn giành thời gian cho việc nghiên cứu và phát triển lý luận. Hàng loạt bài
viết, bài phát biểu trong các hội nghị và các cuốn sách của Lênin ra đời đã trở
thành vũ khí lý luận sắc bén được truyền bá vào phong trào cộng sản, được
những người cộng sản đón nhận và là lý luận soi đường trong đấu tranh cách
mạng. Nghiên cứu những cống hiến của Lênin trong bảo vệ và phát triển triết
học Mác có thể chia làm ba thời kỳ gắn với những mốc son đạt được của
phong trào công nhân thế giới nói chung và ở nước Nga nói riêng. Với mỗi
thời kỳ đều có những tác phẩm tiêu biểu để vừa trang bị lý luận cho giai cấp
công nhân, vừa bảo vệ và phát triển triết học Mác trước sự chống phá của các
thế lực phản cách mạng.
Một là, thời kỳ bảo vệ và phát triển triết học Mác nhằm thành lập
Đảng Mác-xít ở Nga và chuẩn bị cho cuộc cách mạng dân chủ tư sản lần thứ
nhất. Thời kỳ này kéo dài từ năm 1893 đến năm 1907 với nhiều biến động lớn
kể cả về chính trị cũng như trong lĩnh vực khoa học.
Từ những năm 80 của thế kỷ XIX chủ nghĩa Mác đã trở thành hệ tư
thưởng của phong trào công nhân Tây Âu và bắt đầu được truyền bá vào nước
Nga. Trong bối cảnh lúc bấy giờ nó là vũ khí lý luận sắc bén để Plê-kha-nốp
và nhóm “Giải phóng lao động” do ông đứng đầu cùng với giai cấp công nhân
Nga chống lại phái Dân túy. Lênin đã đánh giá rất cao vai trò của Plêkhanốp,
Người khẳng định: Không thể trở thành người cộng sản thực sự tự giác nếu
không nghiên cứu những bài viết của Plêkhanốp trong triết học. Những bài
viết đó là rất tốt trong các văn kiện quốc tế của chủ nghĩa Mác. Song,
10



Plêkhanốp đã phạm những sai lầm nghiêm trọng, đó là không thấy rõ vai trò
của giai cấp cách mạng, không thấy được vai trò của liên minh công nông
trong đấu tranh cách mạng, về thực chất Plêkhanốp đã trượt dài sang chủ
nghĩa duy tâm.
Với hàng loạt tác phẩm tiêu biểu trong thời kỳ này như: tác phẩm
Những “người bạn dân” là thế nào và họ đấu tranh chống những người dân
chủ-xã hội ra sao? và tác phẩm Nội dung kinh tế của chủ nghĩa dân tuý và sự
phê phán trong cuốn sách của ông Xtơruvê về nội dung đó viết năm 1894; tác
phẩm Chúng ta từ bỏ di sản nào? viết năm 1897; tác phẩm Làm gì ? viết năm
1902 v.v..Lênin đã giáng một đòn mạnh vào chủ nghĩa duy tâm, xây dựng lập
trường duy vật cho giai cấp công nhân chuẩn bị cho đấu tranh cách mạng.
Thông qua đấu tranh Lênin đã phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác nói chung
và triết học Mác nói riêng.
Trong tác phẩm những “người bạn dân” là thế nào và họ đấu tranh
chống những người dân chủ - xã hội ra sao?, Lênin đã đấu tranh chống chủ
nghĩa duy tâm, phương pháp siêu hình của phái Dân Túy, điển hình là những
quan điểm sai lầm của Mikhailốpxki khi ông này coi chủ nghĩa Mác là siêu hình
và giáo điều; phê phán mưu đồ của phái Dân Tuý khi đồng nhất phép biện chứng
của Mác với phép biện chứng của Hêghen. Ông khẳng định, công lao to lớn của
C.Mác và Ph. Ăngghen trong việc sáng tạo học thuyết khoa học cách mạng, chỉ
rõ sự khác biệt về chất giữa phép biện chứng duy vật với phép biện chứng duy
tâm. Phép biện chứng duy vật phản ánh đúng đắn bản chất, quy luật vận động,
phát triển của thế giới khách quan, là vũ khí sắc bén để con người nhận thức và
cải tạo hiện thực, nhất là hiện thực xã hội. Nhờ vận dụng phép biện chứng duy
vật vào xem xét lĩnh vực xã hội, C.Mác và Ph. Ăngghen đã khắc phục được
những thiếu sót căn bản của triết học trước đó, và làm cho xã hội học trở thành
một khoa học thực sự chân chính.
11



Bên cạnh đấy, Lênin phê phán quan điểm của Mikhailôpxki, khi ông
này phủ nhận tính khách quan của chân lý; không coi thực tiễn là tiêu chuẩn
của chân lý. Lê-nin khẳng định: nhiệm vụ chân chính của khoa học là phản
ánh đúng đắn, toàn diện hiện thực lịch sử. Ông viết: Không bao giờ có một
người mác xít nào đã xây dựng những quan điểm dân chủ-xã hội của mình
trên cơ sở nào khác, ngoài cái cơ sở là sự phù hợp của những quan điểm ấy
với hiện thực và với lịch sử của những quan hệ kinh tế-xã hội nhất định. Ông
cũng đã vạch ra tính chất siêu hình trong phương pháp nhận thức các hiện
tượng xã hội của phái Dân Tuý, bảo vệ và phát triển phép biện chứng duy vật.
Lê-nin cho rằng, phái Dân Tuý đã không nhìn thấy tính chất mâu thuẫn trong
sự phát triển, không thừa nhận sự nhảy vọt và đứt đoạn của quá trình lịch sử.
Nghiên cứu phát triển triết học Mác về chủ nghĩa duy vật lịch sử, Lênin
đặc biệt quan tâm nghiên cứu các hiện tượng, quy luật phát triển của xã hội,
về lý luận hình thái kinh tế - xã hội. Trong bộ "Tư bản", Lênin khẳng định chỉ
có chủ nghĩa Mác mới biết tách các quan hệ kinh tế từ trong hàng loạt mối
quan hệ xã hội hết sức phức tạp, mới có khả năng khám phá ra tính "lắp đi,
lắp lại" của các hiện tượng xã hội và đi tới thừa nhận tính khách quan, tính
quy luật trong sự phát triển của chúng, thừa nhận sự phát triển của các hình
thái kinh tế - xã hội như một quá trình lịch sử tự nhiên. Lênin là người đầu
tiên đã luận chứng sâu sắc vai trò lịch sử của giai cấp công nhân nối chung và
giai cấp công nhân Nga nối riêng. Thông qua đấy phất triển mới về đấu tranh
giai cấp đó là vấn đề liên minh giai cấp, liên minh cách mạng giữa giai cấp
công nhân và nông dân trong cách mạng xã hội chủ nghĩa.
Lênin phê phán phái "chủ nghĩa Mác hợp pháp", "phái kinh tế" ... về
tính phiến diện, chủ quan phi lịch sử xã hội, về sự tách rời lý luận và thực
tiễn, phát triển và làm phong phú nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa duy vật biện
chứng về mối liên hệ hữu cơ giữa lý luận và thực tiễn. Điều này được thể hiện
12



trong tác phẩm: "Nội dung kinh tế của chủ nghĩa dân tuý và sự phê phán
trong cuốn sách của ông Xtơruvê về nội dung đó", thông qua đó khẳng định
bản chất của triết học mác xít là mối liên hệ hữu cơ giữa nó với phong trào
đấu tranh cách mạng của giai cấp vô sản. Đây là mối quan hệ xuất phát từ tính
khách quan khoa học vốn có của nó, triết học Mác cũng như phong trào cộng
sản đều nhằm mục đích giải phóng xã hội, giải phóng nhân loại trong đó triết
học Mác là lý luận soi đường cho phong trào cộng sản.
Trong đấu tranh chống kẻ thù của chủ nghĩa Mác, thông qua tác phẩm
Làm gì? Lênin đã phát triển phong phú các nguyên lý của chủ nghĩa duy vật
lịch sử. Ông đã phát triển tư tưởng của chủ nghĩa Mác về các hình thức đấu
tranh giai cấp trước khi có chính quyền, đấu tranh kinh tế, đấu tranh chính trị
và đấu tranh tư tưởng, đặc biệt nhấn mạnh vai trò quyết định của đấu tranh
chính trị. Coi đó là cuộc đấu tranh gay go, quyết liệt và phức tạp, mục đích
của nó là lật đổ chế độ xã hội cũ, xây dựng xã hội mới. Tuy vậy, các hình thức
đấu tranh ấy có liên hệ chặt chẽ với nhau, việc sử dụng từng hình thức đấu
tranh cụ thể là tuỳ thuộc vào điều kiện lịch sử nhất định. Lênin cũng nhấn
mạnh vai trò của hệ tư tưởng của giai cấp vô sản và khẳng định nó không hình
thành tự phát mà được hình thành một cách tự giác thông qua cuộc đấu tranh
chính trị và được giáo dục trong phong trào công nhân; nhiệm vụ trực tiếp của
các nhà Dân chủ - xã hội là phải đấu tranh chống hệ tư tưởng tư sản, phải tiến
hành công tác giáo dục chính trị cho giai cấp công nhân nâng cao nhận thức
xã hội chủ nghĩa cho họ.
Ngoài ra, trong tác phẩm: "Hai sách lược của Đảng dân chủ - xã hội
trong cách mạng dân chủ", trên cơ sở tổng kết những kinh nghiệm quý báu
của cách mạng Nga và sự phát triển của thời đại mới, Lênin đã phát triển học
thuyết của Mác về cách mạng xã hội chủ nghĩa, bổ sung thêm những tư tưởng
mới, có ý nghĩa to lớn đối với các dân tộc trên thế giới trong cuộc đấu tranh
13



giành thắng lợi vì dân chủ và chủ nghĩa xã hội. Ông phân tích, làm rõ lực
lượng cách mạng là giai cấp công nhân liên minh với giai cấp nông dân; vấn
đề xác lập quyền lãnh đạo của giai cấp công nhân trong và chính đảng của nó
trong cách mạng dân chủ tư sản và khẳng định: nếu cách mạng dân chủ tư sản
giành thắng lợi sẽ là điều kiện cho việc chuyển trực tiếp từ cuộc cách mạng
dân chủ lên cách mạng xã hội chủ nghĩa.
Hai là, thời kỳ Lênin phát triển toàn diện triết học Mác và lãnh đạo
phong trào công nhân Nga, chuẩn bị cho cách mạng xã hội chủ nghĩa. Thời kỳ
này diễn ra từ năm 1907 đến cách mạng tháng Mười nổ ra và giành thắng lợi.
Nước Nga sau thất bại của cuộc cách mạng 1905 -1907, tình hình xã
hội có nhiều diễn biến hết sức phức tạp. Lực lượng phản động giữ địa vị
thống trị và hoành hành trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Cùng với đó,
ngay chính trong hàng ngũ những người cách mạng cũng đã nảy sinh hiện
tượng dao động, thoái chí, mất tinh thần, phân liệt, từ bỏ lập trường giai cấp.
Trên mặt trận tư tưởng, chủ nghĩa Mác bị tấn công từ nhiều phía, trong lĩnh
vực triết học có xu hướng ngả sang chủ nghĩa duy tâm, tôn giáo, ra đời trào
lưu “tìm thần” và “tạo thần” trong giới trí thức... đã ảnh hưởng trực tiếp tới
phong trào cộng sản.
Có thể nói, đây là thời kỳ hết sức quan trọng, vừa nghiên cứu bảo vệ và
phát triển triết học Mác, vừa lãnh đạo tiến hành cách mạng tháng Mười song
đây cũng là thời kỳ Lênin cho ra đời nhiều tác phẩm lớn. Tiêu biểu như tác
phẩm Chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa kinh nghiệm phê phán; Bút ký triết họ;
Chủ nghĩa xã hội và chiến tranh; Chủ nghĩa đế quốc, giai đoạn tột cùng của
chủ nghĩa tư bản; Nhà nước và cách mạng; Hải cảng Lữ thuận thất thủ; Chiến
tranh và cách mạng.... các tác phẩm này nó đã đi vào phong trào cộng sản và
trở thành vũ khí lý luận sắc bén đưa cách mạng đến thành công. Người chỉ ra
rằng, giữa triết học và chính trị có mối quan hệ chặt chẽ, rằng chủ nghĩa Mác là
14



sự thống nhất không thể tách rời giữa lý luận khoa học với thực tiễn cách
mạng.
Lênin phê phán gay gắt những quan điểm sai lầm của Makhơ,
Avênariút và một số người Dân chủ - xã hội đã rời bỏ triết học Mác. Thông
qua việc phê phán đó, cùng với tổng kết thành tựu của khoa học tự nhiên
Lênin đã đưa ra định nghĩa kinh điển về vật chất. Định nghĩa vật chất của
Lênin đã giải quyết triệt để vấn đề cơ bản của triết học, khắc phục triệt để sự
khủng hoảng về nhận thức thế giới, mở đường cho khoa học phát triển, đặc
biệt là khoa học tự nhiên và vật lý học. Lý giải về sự khủng hoảng Lênin cho
rằng giới hạn nhận thức của con người đã bị phá vỡ nhờ vào những thành tựu
khoa học mà do chính con người đạt được. Thực chất của cuộc khủng hoảng
của vật lý học hiện đại là ở sự đảo lộn của những qui luật cũ và những nguyên
lý cơ bản, ở sự gạt bỏ thực tại khách quan ở bên ngoài ý thức, tức là ở sự thay
thế chủ nghĩa duy vật bằng chủ nghĩa duy tâm và chủ nghĩa bất khả tri. Người
chỉ rõ, con đường thoát khỏi cuộc khủng hoảng vật lý là phải thay thế chủ
nghĩa duy vật siêu hình bằng chủ nghĩa duy vật biện chứng. Lênin đã phát
triển và hoàn thiện học thuyết phản ánh, vạch ra bản chất của cảm giác là hình
ảnh chủ quan của thế giới khách quan. Về lý luận nhận thức, Ông đã vạch ra
con đường biện chứng của quá trình nhận thức chân lý và đặc biệt nhấn mạnh
vai trò của thực tiễn như là tiêu chuẩn khách quan của chân lý, thực tiễn cuộc
sống của con người là tiêu chuẩn khách quan của chân lý.
Về chủ nghĩa duy vật lịch sử, Lênin phê phán những người theo chủ
nghĩa Makhơ đã phủ nhận vai trò quyết định của phương thức sản xuất đối
với sự phát triển xã hội, không thấy được vai trò phản ánh tồn tại xã hội của ý
thức xã. Cùng với đó, Lênin kịch liệt phê phán phái Makhơ muốn đồng nhất
chủ nghĩa Mác với chủ nghĩa Makhơ, thay lý luận khoa học bằng những quan
điểm duy tâm - chủ quan về sự phát triển lịch sử, đồng nhất quy luật sinh học
15



với quy luật lịch sử, lấy quy luật sinh học giải thích các hiện tượng của đời
sống xã hội.
Thông qua tác phẩm Bút ký triết học Lênin tiếp tục nghiên cứu, bổ
sung, phát triển phép biện chứng duy vật, coi phép biện chứng như là khoa
học về sự phát triển, đặc biệt là vấn đề nguồn gốc, động lực của sự phát triển,
chỉ rõ sự khác biệt căn bản giữa hai quan điểm biện chứng và siêu hình, giữa
phép biện chứng duy vật và phép biện chứng duy tâm. Cùng với việc phê
phán quan điểm duy tâm siêu hình, Lênin phát triển lý luận của Mác về
nguyên tắc thống nhất giữa phép biện chứng, lôgích học và lý luận nhận thức,
phân tích và làm rõ những yếu tố căn bản của phép biện chứng. Trên cơ sở đó,
về chủ nghĩa duy vật lịch sử, Lênin đã làm sáng tỏ quan hệ giữa tồn tại xã hội
và ý thức xã hội, tính đảng của hệ tư tưởng, vai trò của quần chúng nhân dân
trong sự phát triển của lịch sử, chỉ rõ sự đối lập giữa quan điểm duy vật với
quan điểm duy tâm về lịch sử, sự đối lập giữa quan điểm duy vật lịch sử với
quan điểm nhân bản của Phoiơbắc.
Nghiên cứu và phát triển lý luận của Mác, vận dụng vào thực tiễn lịch
sử Lênin phát hiện và làm rõ bản chất của thời đại đế quốc chủ nghĩa và đưa
ra kết luận chủ nghĩa đế quốc là giai đoạn tột cùng của chủ nghĩa tư bản, là
đêm trước của cách mạng xã hội chủ nghĩa. Phát triển sáng tạo triết học Mác
về mối quan hệ giữa những quy luật khách quan của sự phát triển của xã hội
với hoạt động có ý thức của con người; về vai trò của quần chúng nhân dân và
cá nhân trong lịch sử; về quan hệ giữa tất yếu và tự do.... Từ thực tiễn phong
trào cachs mạng trong nước, Lênin đã nêu lên hàng loạt những kết luận mới
có tính chất nguyên tắc về khả năng, điều kiện để cách mạng vô sản nổ ra và
giành thắng lợi; về tư tưởng cách mạng không ngừng trong cách mạng xã hội
chủ nghĩa. Những phát kiến vĩ đại đó đã chỉ cho công nhân con đường cách

16



mạng, lật đổ giai cấp tư sản nước mình, giành lấy chính quyền và thực hiện sự
quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội.
Về vấn đề nhà nước và cách mạng trong điều kiện mới, Lênin đã phát
triển một cách khoa học lý luận chủ nghĩa Mác, chỉ ra mục tiêu và nhiệm vụ
mà cách mạng vô sản phải thực hiện. Trình bày lại và phát triển quan điểm
của Chủ nghĩa Mác về nguồn gốc bản chất của nhà nước đồng thời khẳng
định nhà nước là sản phẩm và biểu hiện của mâu thuẫn không thể điều hoà
được; về bản chất, nhà nước là một cơ quan thống trị, áp bức của một giai cấp
này với một giai cấp khác. Điều này đã bác bỏ hoàn toàn quan điểm của giai
cấp tư sản, về thực chất là biện hộ cho sự áp bức và thống trị của mình, đồng
thời nó là động lực lớn cổ vũ phong trào giải phóng dân tộc trên thế giới.
Theo Lênin, vấn đề nhà nước luôn phải được gắn liền với cách mạng vô
sản, cách mạng vô sản không chỉ phá bỏ nhà nước tư sản mà còn biết thay thế
nhà nước ấy bằng nhà nước chuyên chính vô sản của giai cấp vô sản. Về nhà
nước trong thời kỳ quá độ Lênin tiếp tục làm rõ: nhà nước trong thời kỳ đó
chỉ có thể là nhà nước chuyên chính vô sản và lực lượng lãnh đạo nhà nước
ấy phải là đội tiên phong của giai cấp công nhân tức chính đảng Mácxít; nhà
nước vô sản là nhà nước của đa số nhân dân lao động, là nhà nước trong đó
nhân dân tự mình nắm lấy vận mệnh lịch sử.
Trong giai đoạn này Lênin đã giải quyết một cách khoa học những vấn
đề về chiến tranh và hoà bình; tiếp tục phát triển học thuyết Mác về chiến
tranh và quân đội, vạch rõ những cơ sở triết học- xã hội học của học thuyết
đó. Làm rõ về nguồn gốc, bản chất, các kiểu, các hình thức của chiến tranh,
mối quan hệ giữ chiến tranh và chính trị, chiến tranh và kinh tế, chiến tranh và
hệ tư tưởng; quy luật về tiến trình và kết cục của các cuộc chiến tranh hiện
nay; về nguồn gốc, bản chất giai cấp và chức năng của quân đội.

17



Ba là, thời kỳ tổng kết thực tiễn, phát triển lý luận lãnh đạo đất nước
bước vào thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội. Thời kỳ
này từ sau cách mạng tháng Mười đến năm 1924. Cùng với hoạt động thực
tiễn lãnh đạo toàn Đảng, toàn dân, toàn quân chống lại sự can thiệp của 14
nước đế quốc, bọn phản động trong nội chiến bảo vệ thành quả cách mạng và
xây dựng đất nước, trên mặt trận lý luận, Lênin kiên quyết đấu tranh chống
mọi loại kẻ thù của chủ nghĩa Mác nói chung và triết học Mác nói riêng.
Thời kỳ này, Lênin đã viết nhiều tác phẩm quan trọng nhằm tiếp tục
bảo vệ chủ nghĩa Mác, giữ vững lập trường giai cấp công nhân, lãnh đạo
phong trào cộng sản ở nước Nga cũng như trên thế giới. Một số tác phẩm tiêu
biểu như: Những nhiệm vụ trước mắt của Chính quyền Xô viết; Cách mạng vô
sản và tên phản bội Cauxky; Sáng kiến vĩ đại; Bệnh ấu trĩ"tả khuynh" trong
phong trào cộng sản; Lại bàn về Công đoàn; Chính sách kinh tế mới... là sự
phát triển mới chủ nghĩa Mác trong thời kỳ xây dựng chủ nghĩa xã hội dưới
sự lãnh đạo của Đảng cộng sản. Trên cơ sở tổng kết kinh nghiệm thực tiễn
cách mạng, dựa vào những thành tựu mới nhất của khoa học Lênin đưa ra
những kết luận chính xác, bổ sung, hoàn thiện triết học Mác.
Thông qua phân tích nguyên nhân thắng lợi và những bài học kinh
nghiệm của cách mạng tháng Mười, Lênin đã xây dựng những vấn đề có tính
nguyên tắc trong xây dựng chủ nghĩa xã hội, trong đường lối đối nội, đối ngoại
ở Nga. Đây cũng chính là bài học kinh nghiệm và là những vấn đề có tính
nguyên tắc mà phong trào công nhân ở các nước cần học tập, vận dụng sáng
tạo vào phong trào giải phóng dân tộc ở nước mình. Lênin đặc biệt quan tâm
tới vấn đề cải tạo nền kinh tế nước Nga theo con đường xã hội chủ nghĩa, coi
đây là nhiệm vụ chủ yếu, trong đó nâng cao năng suất lao động là nhiệm vụ cơ
bản hàng đầu. Phát triển tư tưởng của Mác về chuyên chính vô sản Lênin chỉ
rõ: Chính quyền Xô viết không phải là cái gì khác mà chỉ là hình thức của
18



chuyên chính vô sản, chỉ ra tính tất yếu nhà nước vô sản phải thực hiện chuyên
chính đối với bọn bóc lột trong thời kỳ quá độ từ Chủ nghĩa tư bản lên chủ
nghĩa xã hội. Người nhấn mạnh phải thẳng tay đập tan sự phản kháng của bọn
bóc lột mới có thể chiến thắng và diệt trừ được chủ nghĩa tư bản.
Phê phán Cau-xky đã đi ngược lại với lợi ích của giai cấp công nhân,
phủ nhận chuyên chính vô sản, bóp méo học thuyết Mác về cách mạng xã hội
chủ nghĩa, vạch trần những mưu toan vô căn cứ của Cau-xky coi nền dân chủ
tư sản là “trong sạch và không có tính giai cấp”, Lênin khẳng định: chừng nào
còn các giai cấp khác nhau thì chỉ có thể nói đến nền dân chủ có tính giai cấp
mà thôi. Người cũng chỉ rõ, sự khác biệt căn bản giữa nền dân chủ tư sản và
nền dân chủ vô sản. Nền dân chủ tư sản thể hiện lợi ích của một thiểu số bóc
lột, còn nền dân chủ vô sản- dân chủ hơn gấp triệu lần, có nhiệm vụ bảo vệ lợi
ích của tuyệt đại bộ phận nhân dân là những người lao động.
Về vấn đề giai cấp, kế thừa và phát triển những quan điểm duy vật về
lịch sử của Mác và Ăngghen, lần đầu tiên Lênin đưa ra định nghĩa hoàn chỉnh
về giai cấp. Định nghĩa đó cho phép nắm vững những đặc trưng chung cơ bản,
phổ biến và ổn định nhất của giai cấp, giúp ta có cơ sở khoa học để nhận biết,
phân rõ các giai cấp khác nhau trong lịch sử xã hội có giai cấp. Tiếp tục phát
triển tư tưởng về nâng cao năng suất lao động, Người chỉ rõ: xét đến cùng năng
suất lao động là cái quan trọng nhất, chủ yếu nhất bảo đảm cho thắng lợi của
chế độ xã hội mới. Lênin đã làm phong phú và phát triển những tư tưởng của
Mác, Ăngghen về thời kỳ quá độ, đặc biệt là chủ trương phát triển kinh tế nhiều
thành phần, phát triển kinh tế hàng hoá trong nông nghiệp. Giải quyết đứng đắn
mối quan hệ giữa công nghiệp và nông nghiệp, trong quan hệ đó, Người chủ
trương khôi phục kinh tế phải bắt đầu từ nông nghiệp. Vấn đề liên minh công
nông cũng được Lênin phân tích hết sức cụ thể và rõ ràng. Người giải thích,

19



thông qua thực hiện chính sách kinh tế mới mà khối liên minh công nông và
chính quyền Xô viết được củng cố.
2.2. Giá trị lịch sử và hiện thực của V.I. Lênin bảo vệ và phát triển triết
học Mác
Như vậy, Lênin không chỉ nghiên cứu, phát triển chủ nghĩa Mác và triết
học Mác mà còn biến lý luận đó thành hiện thực sinh động ở đất nước Xô
viết. Phát triển triết học Mác gắn liền cuộc đấu tranh không khoan nhượng với
những kẻ thù. phê phán một cách triệt để những biến tướng khác nhau của chủ
nghĩa duy tâm, thuyết bất khả tri dưới mọi mầu sắc; vạch rõ nguồn gốc nhận
thức và xã hội của nó; xác định những vấn đề có tính nguyên tắc trong phê
phán triết học tư sản hiện đại.
Lần đầu tiên trong lịch sử tư tưởng triết học nhân loại nói chung và triết
học Mác nói riêng được phát triển lên tầm cao mới mang ý nghĩa vạch thời
đại. Với lương tâm khoa học trong sáng, Lênin đã phát triển triết học Mác
một cách cách mạng và khoa học, nó không chỉ giúp nhân loại nhận thức thế
giới mà còn chỉ ra cho nhân loại con đường cải tạo thế giới một cách đúng
đắn. Đây là bước tiến mới, một thành quả vĩ đại bảo vệ và phát triển triết học
Mác trong điều kiện mới, thời đại Đế quốc chủ nghĩa.
Lênin bảo vệ và phát triển triết học Mác đã mở ra một thời kỳ mới cho
phong trào công nhân và phong trào cộng sản thế giới. Là cơ sở để các Đảng
cộng sản và phong trào công nhân đấu tranh giành chính quyền một cách tự
giác, có cương lĩnh, có đường lối cách mạng và khoa học, trên cơ sở đó xác
định đường lối xây dựng đất nước phù hợp với điều kiện cụ thể của mình.
Thắng lợi của Cách mạng tháng Mười là một minh chứng lịch sử vĩ đại khẳng
định vai trò lý luận tiên phong của chủ nghĩa Mác đối với sự nghiệp giải
phóng các dân tộc thuộc địa và giải phóng nhân loại.

20



Không chỉ là lý luận về nhận thức và cải tạo thế giới, Lênin bảo vệ và
phát triển triết học Mác còn có ý nghĩa lịch sử to lớn đối với các ngành khoa
học. Lý luận chủ nghĩa Mác trang bị thế giới quan, phương pháp luận cho các
ngành khoa học tiếp tục khám phá tự nhiên và xã hội. Một lần nữa Lênin
khẳng định tính độc lập tương đối trong mối quan hệ hữu cơ giữa triết học với
các khoa học khác, loại bỏ hoàn toàn tư tưởng siêu hình, cơ học khi xem xét
vai trò của triết học đối với đời sống xã hội. Đồng thời, đây là cơ sở khoa học
để đấu tranh với các quan điểm phản động, xuyên tạc chủ nghĩa Mác, triết học
Mác lúc bấy giờ.
Về mặt hiện thực, Lênin bảo vệ và phát triển triết học Mác còn có ý
nghĩa hiện thực hết sức to lớn. Trước hết nó là cơ sở khoa học để các Đảng
cộng sản tiếp tục đấu tranh bảo vệ và phát triển triết học Mác-Lênin trong
điều kiện mới. Chủ nghĩa tư bản đã có sự điều chỉnh thích nghi, Chủ nghĩa xã
hội hiện thực đang lâm vào giai đoạn thoái trào, song xu hướng tiến lên Chủ
nghĩa xã hội vẫn là tất yếu và đang được các quốc gia dân tộc hưởng ứng.
Mác đã từng khẳng định xã hội loài người nhất định sẽ tiến lên Cộng sản chủ
nghĩa, luận điểm này ngày nay vẫn còn nguyên giá trị, phong trào cách mạng
thế giới vẫn đang có sự phát triển mạnh mẽ.
Những quan điểm của V.I.Lênin là cơ sở khoa học, là kiểu mẫu cho
chúng ta trong đấu tranh chống chủ nghĩa duy tâm dưới mọi mầu sắc, khắc
phục những sai lầm của chủ nghĩa duy vật siêu hình, đấu tranh phê phán hệ tư
tưởng tư sản, triết học tư sản, phê phán chủ nghĩa cơ hội và chủ nghĩa xét lại
hiện nay. Mặt khác, thế giới quan phương pháp luận Mácxít vẫn là nền tảng
nhận thức khoa học trong hoạch định đường lối kinh tế, mục tiêu chính trị và
dự báo xu thế phát triển của xã hội tương lai. Cùng với đó, đòi hỏi việc
nghiên cứu phát triển lý luận cũng phải có một tư duy mới, một sự phát triển
mới trong giai đoạn hiện nay.
21



KẾT LUẬN
Bảo vệ và phát triển triết học Mác là hoạt động thường xuyên phù hợp
với lý tưởng cao đẹp của chủ nghĩa Mác. Những vấn đề lý luận trong phát
triển triết học Mác của Lênin, các Đảng Cộng sản và công nhân, cho đến nay
vẫn có giá trị to lớn, là kiểu mẫu cho chúng ta trong đấu tranh chống chủ
nghĩa duy tâm dưới mọi mầu sắc, khắc phục những sai lầm của duy vật siêu
hình, bảo vệ và phát triển triết học mácxít; trang bị thế giới quan, phương
pháp luận khoa học cho các nhà khoa học tiếp tục đi sâu khám phá tự nhiên
và xã hội, không ngừng làm phong phú tri thức của con người về thế giới; cơ
sở lý luận khoa học cho quá trình xây dựng nhà nước Việt Nam xã hội chủ
nghĩa hiện nay. Đây là vấn đề mang tính cấp bách trước mắt đồng thời là vấn
đề có tính lâu dài quyết định trực tiếp tới sự tồn vong của cách mạng Việt
Nam.

22


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1

2

3
4

5

6

7
8

Nguyễn Trọng Chuẩn (2006), Về vai trò của triết học trong giai
đoạn toàn cầu hóa hiện nay, tạp chí triết học số 7/ 2006
Nguyễn Văn Thức (2007), Chủ nghĩa tư bản nhà nước: từ quan
niệm của V.I.Lênin đến sự vận dụng của Đảng ta trong công cuộc đổi
mới, Tạp chí Triết học số 11/ 2007
Đặng Hữu Toàn (2008), các mác, triết học mác và thời đại ngày
nay, tạp chí triết học số 12/ 2008
Nguyễn Quang Hưng (2009), Quan niệm của các nhà sáng lập chủ
nghĩa Mác-Lênin về lịch sử triết học, Tạp chí Triết học số 01/ 2009
V.I.Lênin (1894), “Những “người bạn dân” là như thế nào và họ
đấu tranh chống những người dân chủ xã hội ra sao?”, V.I.Lênin toàn
tập, tập 1, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva, 1974.
V.I.Lênin (1908), “Chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa kinh nghiệm phê
phán”, V.I.Lênin toàn tập, tập 18, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva, 1980.
V.I.Lênin (1917), “Nhà nước và cách mạng”, V.I.Lênin toàn tập, tập
33, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva, 1976.
Nguyễn Hữu Vui, Lịch sử triết học, Nxb CTQG, H.2004.

23



×