Tải bản đầy đủ (.docx) (115 trang)

TƯ TƯỞNG TRIẾT HỌC VỀ CON NGƯỜI TRONG VĂN HỌC VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 1900 1945

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (578.6 KB, 115 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI
----------------

ĐẶNG THỊ TIẾN

TƯ TƯỞNG TRIẾT HỌC VỀ CON NGƯỜI TRONG
VĂN HỌC VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 1900 - 1945
Chuyên ngành: Triết học
Mã số: 60.22.03.01

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC TRIẾT HỌC

Người hướng dẫn khoa học: TS. Đào Đức Doãn

Hµ Néi - 2015

LỜI CẢM ƠN


Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới TS Đào Đức Doãn, người thầy
đã nhiệt tình, tận tâm trong quá trình hướng dẫn tôi hoàn thành luận văn này.
Tôi xin chân thành cảm ơn Ban giám hiệu, tập thể thầy cô giáo khoa
Triết học trường Đại học Sư phạm Hà Nội, phòng sau Đại học đã tận tình
giúp đỡ tôi trong quá trình học tập và nghiên cứu.
Và tôi cũng xin cảm ơn, cha mẹ, anh – chị – em và những người thân
trong gia đình, bạn bè, đồng nghiệp đã luôn ở bên động viên, khích lệ và giúp
đỡ tôi trong suốt quá trình học tập.
Xin trân trọng cảm ơn!
Hà Nội, tháng 10 năm 2015
Tác giả luận văn



Đặng Thị Tiến


MỤC LỤC


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
1.1. Vấn đề con người luôn được coi là trung tâm của mọi nền triết học.
Tư tưởng triết học về con người vừa là mục đích, động lực của sự phát triển triết
học, vừa là yếu tố nhân lõi của mọi trào lưu, mọi giai đoạn phát triển triết học.
Nó không chỉ được thể hiện phong phú, sâu sắc đến các khoa học khác, mà còn
có ảnh hưởng rất sâu rộng đến các ngành khoa học đó, đặc biệt là các khoa học
về con người (Xã hội học, Y học, Sinh học, Đạo đức học, Tâm lý học…).
Văn học là nhân học - tức là khoa học về con người. Thông qua bức
tranh đời sống xã hội được miêu tả trong tác phẩm, nhà văn thể hiện tình cảm,
quan niệm của mình về con người. Chiều sâu của sự ảnh hưởng của triết học
tới văn học chính là ảnh hưởng của tư tưởng triết học về con người. Nó không
chỉ chi phối tình cảm, quan niệm nghệ thuật tác giả văn học về con người, mà
còn tác động hết sức sâu sắc đến cả quá trình sáng tạo nghệ thuật, từ lựa chọn
chi tiết nghệ thuật đến các phương pháp, phương tiện thể hiện nghệ thuật.
Vì vậy, nghiên cứu triết học không thể không nghiên cứu tư tưởng triết
học về con người và nghiên cứu văn học không thể không nghiên cứu ảnh
hưởng của tư tưởng triết học về con người tới quá trình sáng tạo nghệ thuật
của tác giả.
1.2. Giai đoạn 1900 - 1945 có ý nghĩa rất quan trọng trong tiến trình
văn hóa của dân tộc vì đây là giai đoạn hiện đại hóa của văn hóa nước nhà.
Quá trình hiện đại hóa đó in dấu ấn rất sâu đậm trong triết học và văn học.
Hiện đại hóa triết học ảnh hưởng rất to lớn đến hiện đại hóa văn học và hiện

đại hóa văn học thể hiện phong phú, sâu sắc hiện đại hóa triết học.
Vì thế, nghiên cứu tư tưởng triết học về con người trong văn học giai
đoạn này sẽ có nhiều ý nghĩa không chỉ trong việc nhận diện sự phát triển của
triết học mà cả sự phát triển văn học.

4


1.3. Ở nước ta, sự phát triển triết học nói chung, tư tưởng triết học về
con người nói riêng trong giai đoạn 1900 - 1945 vẫn còn chưa nhận được sự
quan tâm thỏa đáng của các nhà nghiên cứu. Việc nghiên cứu quá trình hiện
đại hóa văn học trong giai đoạn này đã đạt được nhiều thành tựu, nhưng sự
thể hiện và sự ảnh hưởng của tư tưởng triết học về con người trong văn học
vẫn còn đang là mảnh đất mới. Vì vậy, nghiên cứu tư tưởng triết học về con
người trong văn học ở giai đoạn này sẽ hứa hẹn nhiều đóng góp mới.
Từ những lý do trên, tôi mạnh dạn chọn vấn đề “Tư tưởng triết học về
con người trong văn học Việt Nam giai đoạn 1900 - 1945” làm đề tài luận
văn Thạc sĩ Triết học của mình.
2. Lịch sử nghiên cứu
2.1. Vấn đề tư tưởng triết học về con người ở Việt Nam
Kể từ 1900 đến nay, do ảnh hưởng của văn hóa phương Tây, đặc biệt
là văn hóa Pháp, các lĩnh vực nghiên cứu khoa học chuyên biệt ở Việt Nam
bắt đầu hình thành và phát triển. Vấn đề lịch sử, văn hóa và tư tưởng của con
người bắt đầu nhận được sự quan tâm của các học giả. Tiêu biểu nhất trong
giai đoạn này là các công trình nghiên cứu như: Việt Nam văn hóa sử cương
(1938) của Đào Duy Anh (NXB Tp.Hồ Chí Minh, 2005) và Văn minh Việt
Nam (1944) của Nguyễn Văn Huyên (NXB Hội Nhà văn, 2005).
Từ sau Cách mạng tháng Tám (1945), vấn đề văn hóa nói chung và tư
tưởng triết học của người Việt Nam nói riêng ngày càng được các nhà nghiên
cứu quan tâm hơn. Tiêu biểu nhất là các tác giả như: Trần Văn Giàu với Sự

phát triển của tư tưởng ở Việt Nam từ thế kỷ XIX đến Cách mạng tháng Tám
(NXB KHXH, 1973 và 1975) và Giá trị tinh thần truyền thống của dân tộc
Việt Nam (NXB Chính trị quốc gia, tái bản, 2015); Nguyễn Đăng Thục với
Lịch sử tư tưởng Việt Nam (NXB Tp. Hồ Chí Minh, tái bản, 1992); Nguyễn
Tài Thư (chủ biên) với Lịch sư tư tưởng Việt Nam (Tập 1, NXB KHXH,
1978); Lê Sĩ Thắng với Lịch sư tư tưởng Việt Nam (Tập 2, NXB KHXH,
5


1977); Vũ Minh Tâm (chủ biên) với Tư tưởng triết học về con người (NXB
Giáo dục, 1996); Doãn Chính (chủ biên) với Lịch sử tư tương triết học Việt
Nam từ thời kỳ dựng nước đến thế kỷ XX (NXB Chính trị Quốc gia, 2013);
Nguyễn Hùng Hậu (chủ biên) với Đại cương triết học Việt Nam (NXB Thuận
Hóa, 2013)…
Đó là chưa kể đến các công trình nghiên cứu về Nho giáo ở Việt Nam,
Đạo giáo ở Việt Nam, Phật giáo ở Việt Nam, về các nhà tư tưởng của Việt
Nam như Nguyễn Trãi, Lê Quý Đôn, Nguyễn Bỉnh Khiêm, Nguyễn Trường
Tộ, Hồ Chí Minh,... và các công trình khác về văn hóa Việt Nam. Chẳng hạn
như: Việt Nam Phật giáo sử luận (Tập 1 và 2) của Nguyễn Lang (NXB Văn
học, H. 1992); Tư tưởng Phật giáo Việt Nam của Nguyễn Duy Hinh (NXB
KHXH, H.1999); Cơ sở văn hóa Việt Nam của Trần Ngọc Thêm (NXB Giáo
dục, H.1998)…
2.2.

Vấn đề tư tưởng triết học về con người trong văn học Việt Nam giai đoạn
1900 – 1945
Từ 1900 đến 1945, các công trình nghiên cứu về văn học Việt Nam
xuất hiện ở nước ta đã rất phong phú. Tiêu biểu có thể kể đến các công trình
như: Phê bình và Cảo luận (1933) của Thiếu Sơn (Nam ký xuất bản, H.1943);
Việt Nam văn học sử yếu (1941) của Dương Quảng Hàm; Nhà văn hiện đại

(1944) của Vũ Ngọc Phan (NXB Vĩnh Thịnh, 1951); Nghiên cứu và phê bình
văn học (1944) của Lê Thanh (NXB Hội Nhà văn, H.2002); Thi nhân Việt
Nam (1942) của Hoài Thanh – Hoài Chân (NXB Văn học, H.1988)…
Từ 1945 trở lại đây, các công trình nghiên cứu về văn học Việt Nam
ngày càng phong phú hơn. Vấn đề tư tưởng triết học về con người trong văn
học Việt Nam vì thế cũng ngày càng được chú trọng xem xét hơn.
Tiêu biểu là các công trình nghiên cứu như: Lời giới thiệu “Tuyển tập
Tản Đà” (NXB Văn học, H.1982) của Xuân Diệu; Văn học Việt Nam từ đầu
thế kỷ XX đến 1930 in trong Lịch sử văn học Việt Nam, tập 4B (NXB Giáo
6


dục, H.1978) của Lê Trí Viễn; Văn học Việt Nam những năm 20 của thế kỷ
XX in trong Hợp tuyển văn thơ Việt Nam, tập V (NXB Văn học, H.1987) của
Nguyễn Hà Thu; (Tiểu thuyết Việt Nam hiện đại (NXB ĐH&THCN, H.1974,
1975) và Văn học Việt Nam thế kỷ XX (NXB Giáo dục, H.2005) của Phan Cự
Đệ; Khảo luận văn chương (NXB KHXH, H.1998) của Hà Minh Đức; Văn
học Việt Nam 1900 - 1930 (NXB Giáo dục, H. 1996) của Trần Đình Huợu và
Lê Chí Dũng; Văn học Việt Nam thế kỷ XX (NXB Đại học Sư phạm, H.2008)
của Trần Đăng Suyền (chủ biên); Về con người cá nhân trong văn học cổ Việt
Nam (NXB Giáo dục, H.1997) của Nguyễn Hữu Sơn, Trần Đình Sử, Huyền
Giang, Trần Ngọc Vương, Trần Nho Thìn, Đoàn Thị Thu Vân; Con người cá
nhân – nhân tố nội tại chi phối sự ra đời của tiểu thuyết tâm lý Việt Nam đầu
thế kỷ XX (Tạp chí Khoa học trường ĐHSP Hà Nội, số 2 năm 2006) của Đào
Đức Doãn; Nhân vật tiểu thuyết Vũ Trọng Phụng (NXB KHXH, H.2005) của
Đinh Trí Dũng…
Nhìn chung, không thể kể hết các công trình, bài viết về văn học Việt
Nam trong cả một giai đoạn dài từ 1945 đến nay. Điều chúng tôi muốn nói ở
đây là: từ nguồn tài liệu đồ sộ, phong phú đó, bên cạnh những đóng góp trong
nghiên cứu về lịch sử và thể loại văn học, những khám phá về giá trị nội dung

và hình thức nghệ thuật của các tác phẩm văn học,... ở những mức độ khác
nhau, vấn đề tư tưởng triết học về con người trong văn học Việt Nam giai
đoạn từ 1900 đến 1945 đã luôn nhận được sự quan tâm của nhiều nhà nghiên
cứu. Đó có thể là những nhận định tuy còn rời rạc qua nghiên cứu tư tưởng
tác giả; có thể là những phát hiện ngẫu nhiên qua nghiên cứu quan niệm nghệ
thuật về con người trong từng tác phẩm. Đối với luận văn này, những nhận
định và phát hiện đó là những gợi ý có rất nhiều ý nghĩa.
Bằng nguồn tài liệu mà chúng tôi có được, có thể khẳng định: cho đến
nay, về vấn đề tư tưởng triết học về con người trong văn học Việt Nam giai
đoạn từ 1900 đến 1945, vẫn chưa có công trình nào nghiên cứu một cách tập
7


trung và có hệ thống. Các công trình nghiên cứu kể trên, mặc dù không trực
tiếp đề cập đến đề tài mà luận văn đang nghiên cứu, song đó là nguồn tài liệu
rất quan trọng mà luận văn đã sử dụng trong suốt quá trình nghiên cứu.
3. Mục đích, đối tượng, phạm vi nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
- Mục đích của luận văn là làm tìm hiểu những tư tưởng triết học cơ
bản về con người trong văn học Việt Nam giai đoạn từ 1900 đến 1945.
- Trên cơ sở đó, tác giả luận văn mong muốn: Một là được dồi thêm tri
thức về sự phát triển triết học ở Việt Nam nói chung, sự phát triển tư tưởng
triết học về con người trong văn học Việt Nam giai đoạn 1900 - 1945 nói
riêng; và hai là được rèn luyện kỹ năng nghiên cứu khoa học về triết học, đặc
biệt là kỹ năng nghiên cứu sự thể hiện và ảnh hưởng của tư tưởng triết học đối
với một lĩnh vực cụ thể của khoa học xã hội và nhân văn.
3.2. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là: sự thể hiện và ảnh hưởng của tư
tưởng triết học về con người trong văn học Việt Nam giai đoạn từ 1900 – 1945.
3.3. Phạm vi nghiên cứu

- Đề tài Tư tưởng triết học về con người trong văn học Việt Nam giai
đoạn 1900- 1945 chí giới hạn trong phạm vi là: chỉ nghiên cứu tư tưởng triết
học về con người trong văn học Việt Nam giai đoạn từ 1900 – 1945. Tư tưởng
triết học về con người trong các lĩnh vực khoa học và nghệ thuật khác (đạo
đức học, xã hội học, tôn giáo học, âm nhạc, mỹ thuật...) và tư tưởng triết học
về con người trong văn học Việt Nam ở các giai đoạn lịch sử khác (trước
1900 hoặc sau 1945) đều không thuộc phạm vi nghiên cứu của đề tài này. Các
lĩnh vực khoa học và nghệ thuật khác, các tác phẩm văn học thuộc các giai
đoạn lịch sử khác, nếu có được nói đến trong luận văn thì chỉ là để so sánh.
- Đề tài Tư tưởng triết học về con người trong văn học Việt Nam giai
đoạn 1900 - 1945 cũng chỉ tập trung nghiên cứu tư tưởng triết học về con
người trong văn học viết Việt Nam với hai thể loại là văn xuôi nghệ thuật và
8


thơ. Các sáng tác văn học thuộc các thể loại văn học khác, nếu có được nói
đến thì chỉ là để đối chiếu.
4. Những luận điểm cơ bản và đóng góp mới của đề tài
- Luận văn là công trình đầu tiên nghiên cứu tập trung và có hệ thống tư
tưởng triết học về con người trong văn học Việt Nam giai đoạn từ 1900
-1945, chỉ ra những nội dung chủ yếu của những tư tưởng đó và sự phát triển
của nó qua hai thời kỳ phát triển của văn học Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX:
thời kỳ từ 1900 đến 1930 và từ 1930 đến 1945.
- Để giải thích, cắt nghĩa cho tư tưởng triết học về con người trong văn
học, luận văn nghiên cứu và làm sáng tỏ những tiền đề kinh tế, xã hội và văn
hóa của sự xuất hiện những tư tưởng đó, đồng thời bước đầu nhận diện sự thể
hiện và ảnh hưởng của tư tưởng triết học về con người trong văn học Việt
Nam giai đoạn từ 1900 - 1945.
5. Phương pháp nghiên cứu
Trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và

phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật lịch sử, luận văn sử dụng các
phương pháp nghiên cứu chủ yếu như: phân tích và tổng hợp, logic và lịch sử,
so sánh, thống kê,...
Đồng thời, luận văn cũng sử dụng các phương pháp tiếp cận các tác phẩm văn
chương như: Phương pháp so sánh văn học, phương pháp nghiên cứu tác
phẩm văn học, phương pháp nghiên cứu tác giả văn học…
6. Kết cấu luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
luận văn gồm hai chương:
Chương 1: Tư tưởng triết học về con người trong văn học Việt Nam
giai đoạn từ 1900 – 1930
Chương 2: Tư tưởng triết học về con người trong văn học Việt Nam
giai đoạn từ 1930 – 1945

9


CHƯƠNG 1

TƯ TƯỞNG TRIẾT HỌC VỀ CON NGƯỜI
TRONG VĂN HỌC VIỆT NAM GIAI ĐOẠN TỪ 1900 - 1930
1.1. Những tiền đề kinh tế, xã hội và văn hóa của sự xuất hiện tư tưởng
triết học về con người trong văn học Việt Nam giai đoạn 1900 - 1930
1.1.1. Tiền đề kinh tế, xã hội
Về chính trị
Ðầu thế kỉ XX, thực dân Pháp cơ bản đã thực hiện xong công cuộc bình
định trên đất nước ta và chuyển sang khai thác thuộc địa, xây dựng trật tự
mới. Ðây là thời điểm chính phủ thực dân Pháp thấy có thể yên tâm và phấn
khởi trước cảnh thái bình mà chúng hằng mong đợi, nhưng đối với nhân dân
ta, đây là những ngày tháng đau thương, bi đát nhất của lịch sử.

Kể từ sau cái chết của Phan Ðình Phùng (1896), phong trào chống Pháp
theo ngọn cờ Cần Vương xem như đã thất bại hoàn toàn. Thôn xóm, làng mạc
Việt Nam tiêu điều xơ xác do kẻ thù tàn phá, nhân dân lưu lạc khắp nơi.
Rường cột của chế độ phong kiến bị sụp đổ. Hàng ngũ giai cấp thống trị
phong kiến tan rã. Cả bộ máy thống trị của nhà nước phong kiến từ triều đình
đến tỉnh, huyện, làng, xã đều trở thành tay sai cho bọn xâm lược. Mọi quyền
hành đều nằm trong tay thực dân Pháp. Tầng lớp trí thức thời phong kiến lâm
vào tình trạng sống dở, chết dở. Những người đã từng tham gia vào phong
trào chống Pháp kẻ thì bị giết chết, người bị tù đày hoặc trốn tránh, có khi
phải chạy ra nước ngoài. Có người không chịu được thử thách cuối cùng phải
ra đầu thú, sống nơm nớp trong cảnh tù treo của thực dân. Có người không
tham gia chống Pháp nhưng còn chút liêm sĩ thì lui về sống ẩn dật, bất đắc
chí. Họ thường phải cam chịu, bất lực và đành phải an phận. Cá biệt có một số
người ham cuộc sống giàu sang phú quý nên đã cởi bỏ lớp nho phong, sĩ khí
để ra phục vụ cho ông chủ mới... Bộ máy cai trị của Pháp được tổ chức lại
theo lối hiện đại hơn, chặt chẽ hơn, có quyền lực hơn. Ðể che giấu bộ mặt thật
cướp nước, để tuyên truyền văn minh nước Pháp, bọn thực dân đã đưa ra Hội
10


đồng tư vấn, bày trò dân chủ giả hiệu. Chúng còn lập Viện Hàn lâm Bắc Kì để
dựng lên cái gọi là “bảo vệ và phát triển văn hoá”
Trong bối cảnh chính trị phức tạp và đen tối như thế, thanh niên Việt
Nam cảm thấy bi quan tuyệt vọng vô cùng. Họ hết sức chán nản lối học cũ,
bởi vì ai cũng nhận ra một điều rất rõ ràng :
Ông nghè ông cống cũng nằm co
Sao bằng đi học làm ông phán
Sáng rượu sâm banh, tối sữa bò
(Chữ Nho - Trần Tế Xương)
Họ quyết định bỏ lối học từ chương, đi tìm đến những tri thức hiện đại

mà họ biết được qua sách vở và báo chí nước ngoài được bí mật đưa vào Việt
nam lúc này. Trong số đó tiêu biểu là tân thư, tân văn. Cũng từ sách vở nước
ngoài, họ được tiếp xúc với các luồng tư tưởng tiến bộ, hiểu được tình hình
cách mạng trên thế giới từ đó chọn cho mình một con đường cứu nưóc khác
trước. Năm 1900, Phan Bội Châu đậu giải nguyên. Tên tuổi, danh tiếng, khí
phách của ông đã được nhiều người biết đến và hết lòng ái mộ, nhất là tầng
lớp thanh niên. Họ cảm thấy rằng: Con người đó là hiện thân của tinh thần bài
Pháp, của phong trào ái quốc, phong trào vận động cách mạng lúc này.
Phong trào yêu nước lại được diễn ra sôi nổi trong những năm 1905
đến 1908, dưới sự lãnh đạo của các nhà chí sĩ yêu nước đi theo con đường
cách mạng dân chủ tư sản. Mặc dù chia làm hai phái, kịch liệt và ôn hoà,
nhưng những tổ chức yêu nước này đều nhằm mục đích chung là cứu nước,
khôi phục nền độc lập cho dân tộc. Hoạt động của các tổ chức Duy Tân ở
Bắc, Trung và Minh Tân ở Nam, cùng với nhóm Ðông Kinh Nghĩa Thục đã
đưa phong trào cách mạng ở những năm này lên đến đỉnh cao. Thực dân Pháp
lo sợ và tìm cách đối phó. Một cuộc đàn áp dã man những người yêu nước đã
diễn ra. Lực lượng cách mạng bị tan rã. Thực dân Pháp không chỉ khủng bố
điên cuồng bằng biện pháp chính trị, quân sự mà còn chủ trương áp dụng
những chính sách văn hoá thực dân để tạo ảnh hưởng lâu dài và sâu sắc.

11


Thế nhưng, những người yêu nước vẫn không chịu khuất phục. Họ vẫn
tiếp tục hoạt động và tìm cơ hội để gây dựng lại phong trào. Việt Nam Quang
Phục Hội ra đời năm 1912 và tìm cách bắt rễ về trong nước. Sau đại chiến thế
giới lần thứ nhất, đặc biệt từ khoảng năm 1922, cách mạng Việt Nam lại
chuyển biến mạnh mẽ. Xu hướng cách mạng tư sản cũ trước khi chấm dứt với
cuộc khởi nghĩa Yên Bái do Nguyễn Thái Học lãnh đạo thất bại, cũng đã có
những cố gắng, vừa công khai, vừa bí mật hoạt động. Cách mạng Việt Nam

đã đến lúc phải bước vào phạm trù cách mạng dân chủ mới. Ngày 03- 021930, Ðảng Cộng sản Ðông Dương chính thức được thành lập, mở ra một kỉ
nguyên mới, kỉ nguyên cách mạng vô sản do giai cấp công nhân lãnh đạo.
Về kinh tế
Ðầu thế kỉ XX, kinh tế nước ta vẫn là kinh tế nông nghiệp lạc hậu.
Thực dân Pháp thực hiện chính sách kinh tế thực dân: bán hàng hoá, khai thác
nguyên liệu, cho vay nặng lãi, công nghiệp chỉ phát triển trong giới hạn không
hại đến công nghiệp chính quốc, đóng khung trong phạm vi cung cấp cho chính
quốc những nguyên liệu hay những sản vật mà chúng thiếu, tăng cường bóc lột ,
sưu thuế,.v.v.. từ đó làm phá sản nông dân và thợ thủ công, tạo ra nguồn nhân
công rẻ mạt , phục vụ cho các công trình khai thác của chúng. Kết quả của chính
sách nói trên đã kéo nước ta vào quỹ đạo của chủ nghĩa tư bản nhưng không
được công nghiệp hoá mà lại biến thành thị trường tiêu thụ cho Pháp.
Giao thông buôn bán mở mang, kinh tế hàng hoá phát triển đã tạo ra
một thị trường thống nhất từ Nam đến Bắc. Khách quan đã tạo cơ sở để củng
cố sự thống nhất của dân tộc đã hình thành từ lâu nhưng chưa thật vững. Sự
phát triển của giao thông và buôn bán làm mọc lên nhiều thành thị, các hải
cảng được xây dựng, nhiều người từ nông thôn kéo ra thành thị. Nhưng thành
thị chủ yếu là trung tâm thương nghiệp và tiêu thụ, không có tác dụng tích cực
đẩy mạnh kinh tế nước ta theo hướng tư sản hoá.
Về xã hội
Xã hội nước ta trước khi Pháp xâm lược là một xã hội phong kiến.
Nông dân giữ vai trò quan trọng về kinh tế nhưng bị khinh rẻ, bị áp bức bóc
12


lột. Kẻ sĩ được xem như một đẳng cấp đặc biệt, tự nhận và được xã hội thừa
nhận như người cầm chính đạo truyền bá giáo hoá triều đình cho nông dân
nhất là giai đoạn đầu thế kỉ XX .
Khi có mặt thực dân Pháp trên đất nước ta thì mọi cái đã thay đổi. Kinh
tế hàng hoá kích thích sự phát triển của công thương nghiệp làm cho thành thị

phát triển, làm xuất hiện nhiều nhu cầu mới, phát triển nhiều nghề mới, tầng
lớp thị dân phát triển. Tầng lớp thị dân trong các thành phố nhượng địa ít
nhiều có chút tự do trong đời sống thành thị tư sản. Ðối với họ thì họ hàng,
làng xã, đẳng cấp không còn nhiều ý nghĩa nữa. Giai cấp tư sản từ các tầng
lớp thị dân phát triển dần lên.
Giai cấp tư sản Việt Nam hình thành trong hoàn cảnh hết sức đặc biệt
nên có những đặc trưng riêng. Ðiều đó cũng ảnh hưởng đến ý thức của giai
cấp này. Giai cấp tư sản Việt Nam không sinh ra và trưởng thành từ cuộc đấu
tranh chống giai cấp phong kiến Việt Nam mà lại do thực dân Pháp đẻ ra.
Pháp đẻ ra rồi cũng chính chúng chèn ép. Giai cấp tư sản Việt Nam nhiều tính
chất mại bản, nặng thương nghiệp hơn công nghiệp, không lìa bỏ được lối bóc
lột phong kiến. Tầng lớp tư sản Việt Nam thời bấy giờ cũng không có một
tinh thần dân tộc vì họ không có một cơ sở kinh tế hùng hậu, không có kinh
nghiệm đấu tranh và không có ý thức giai cấp rõ rệt.
Sự phát triển các đô thị dẫn đến sự phá sản nông nghiệp, làm cho nông
thôn tiêu điều xơ xác. Nông dân kéo ra thành thị ngày càng đông. Một tầng
lớp tiểu tư sản nghèo ngày càng phát triển , sống bấp bênh ở thành thị.
Ở đầu thế kỉ XX, giai cấp công nhân Việt Nam đã hình thành. Do quá
trình bần cùng hoá và phá sản của nông dân, thợ thủ công, giai cấp công nhân
có điều kiện để hiểu được nông dân, liên minh được chặt chẽ với nông dân.
Và ngược lại, cũng trên điều kiện hiểu biết ấy, do vị trí lịch sử của giai cấp vô
sản mà nông dân đi theo nó làm cách mạng, bền bỉ và lâu dài.
Trong tình hình xã hội đầy phức tạp và có nhiều đổi mới như thế thì
giai cấp phong kiến, vốn đã hình thành lâu đời trong xã hội Việt Nam cũng
lung lay đến tận gốc. Ðể bảo vệ quyền lợi ích kỉ cho giai cấp mình, giai cấp
13


phong kiến đã quỳ gối đầu hàng giặc, làm tay sai cho giặc. Hơn thế nữa, họ
còn cấu kết với giặc để quay trở lại đàn áp các phong trào yêu nước của nhân

dân ta. Tuy nhiên, trong số họ cũng còn có những người yêu nước, tự tách
mình ra khỏi hàng ngũ đó để đi làm cách mạng theo xu hướng dân chủ tư sản.
Nhìn chung, xã hội Việt Nam đầu thế kỉ XX có nhiều biến động. Cơ
cấu xã hội thay đổi hoàn toàn.
1.1.2. Tiền đề văn hóa
Nhà Nguyễn khi lên ngôi đã duy trì Nho giáo, xem Nho giáo như là
quốc giáo, dùng tư tưởng Nho giáo để thống trị xã hội. Nho giáo đã ràng buộc
con người vào tư tưởng mệnh trời. Nho giáo dùng luân thường đạo lí để giáo
dục xã hội, lấy bổn phận tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ làm kim chỉ
nam cho mọi hành động của người quân tử. Mục đích của Nho giáo muốn
biến con người trở thành những phần tử đắc lực phụng sự cho nhà nước
phong kiến. Ðến khi có sự hiện diện của thực dân Pháp, tình hình chính trị xã
hội đã có nhiều biến đổi nhưng mọi vấn đề nêu trên vẫn được tồn tại. Kẻ thù
muốn duy trì tư tưởng phong kiến lạc hậu để kìm hãm sự phát triển của ta,
nhằm tạo thuận lợi cho việc cai trị của chúng.
Ðến đầu thế kỉ XX, giai cấp phong kiến đã tỏ ra bạc nhược, ươn hèn,
cúi đầu làm tay sai cho giặc. Hàng ngũ giai cấp thống trị tan rã hoàn toàn. Ý
thức phong kiến cũng ngày càng thể hiện tính chất lạc hậu, cổ hủ. Với cách
nhìn của các nhà nho tiến bộ thời này, nó là sức mạnh cản trở sự phát triển
của xã hội. Cho nên, các nhà chí sĩ Ðông Kinh Nghia Thục đã chủ trương
chống lại tư tưởng phục cổ, sùng bái cổ nhân, giáo điều, có tác hại kìm hãm
sự phát triển của trí tuệ. Họ chủ trương làm cho con người phải từ bỏ tư tưởng
sống định mệnh, trở nên can đảm, làm chủ cuộc đời mình, có khả năng hiểu
biết vũ trụ, phất cao ngọn cờ khoa học .
Mặc dù ý thức phong kiến đã tỏ ra thoái hoá, nhưng trong thực tế, ở
giai đoạn 1900 - 1930, nó vẫn còn cơ sở tồn tại. Ở nông thôn, gốc rễ của nó
vẫn còn rất sâu. Ở thành thị thì nó bắt đầu va chạm với ý thức tư sản vừa mới

14



xuất hiện. Tuy nhiên, phạm vi còn rất nhỏ hẹp, chỉ giới hạn trong quan hệ đạo
đức gia đình và tình cảm cá nhân.
Vào đầu thế kỉ XX, giai cấp tư sản đã ra đời, tư tưởng tư sản cũng xuất
hiện. Nó được đưa từ nước ngoài vào, thông qua các sĩ phu tiến bộ. Ý thức tư
sản còn giới hạn trong phạm vi các thành thị và tỏ ra còn nhiều yếu ớt. Ý thức
tư sản trong giai đoạn này còn chịu khuất phục ý thức phong kiến. Sự xung
đột cũng chỉ xảy ra trong phạm vi cá nhân, gia đình là chủ yếu. Vị trí lịch sử
của nó không cho phép nó xung đột với ý thức phong kiến trên các lĩnh vực
kinh tế, chính trị.Tuy nhiên, khi đề cập đến vấn đề ảnh hưởng của ý thức hệ tư
sản Việt Nam đối với sự phát triển của văn học, cũng cần phải lưu ý rằng:
Mặc dù giai cấp tư sản Việt Nam ở giai đoạn này, bản chất là ốm yếu, phát
triển què quặt nhưng đó là sự ốm yếu, què quặt về kinh tế, chính trị, văn hoá.
Ðối với công cuộc hiện đại hoá văn chương Việt Nam, ý thức hệ tư sản đã có
một vai trò xúc tác tích cực. Và, theo quan điểm của Mác: Ý thức hệ thống trị
thời đại là ý thức hệ của giai cấp thống trị. Giai cấp nào thống trị xã hội về
mặt vật chất cũng thống trị xã hội về mặt tinh thần, nhưng trong khi chi phối
xã hội thì đồng thời nó cũng là của xã hội và chịu sự chi phối trở lại của xã
hội. Qua đó, chúng ta càng thấy rõ vai trò của ý thức hệ tư sản trong tiến trình
hiện đại hoá văn chương ở giai đoạn đầu thế kỉ XX. Ở đây, khi xem xét vấn
đề , chúng ta cũng phải lưu ý một điều là không thể đồng nhất hoàn toàn
chính trị với văn học, nhất là bàn đến ý thức hệ tư sản của giai đoạn này. Giữa
chúng có liên quan mật thiết với nhau nhưng vẫn có quy luật riêng. Và bằng
chứng là khi cách mạng tư sản đã thất bại hoàn toàn, với cuộc khởi ngĩa Yên
Bái, sau năm 1930 văn học chịu ảnh hưởng của ý thức hệ tư sản đã phát triển
mạnh mẽ, mặc dù nó còn mang nhiều hạn chế.
Nhìn chung, đầu thế kỉ XX, trong xã hội Việt Nam đã có những chuyển
biến mạnh mẽ từ ý thức hệ phong kiến sang ý thức hệ tư sản. Ở giai đoạn 30 năm
đầu của thế kỉ, ý thức hệ tư sản chưa đủ sức làm thay đổi nền văn hoá phong kiến
Việt Nam nhưng trong một mức độ nhất định nó đã góp phần tạo ra những nhân

tố thúc đẩy cho sự đổi mới hoàn toàn ở giai đoạn sau, giai đoạn 1930 - 1945.
15


Vào những thập niên 20, 30 của thế kỷ XX, ý thức vô sản đã bắt đầu
xuất hiện do hai điều kiện: ảnh hưởng của Cách mạng tháng Mười Nga và
cách mạng Trung Quốc thông qua sách báo, đặc biệt là vai trò của Nguyễn Ái
Quốc và một số trí thức tiến bộ đương thời; và sự ra đời của giai cấp vô sản
Việt Nam. Nhưng ảnh hưởng của ý thức hệ vô sản chủ yếu mới chỉ là trên đời
sống tư tưởng chính trị. Ðối với văn học, nhất là văn học giai đoạn này, dĩ
nhiên nó có ảnh hưởng, hơn nữa còn tạo ra những thành tựu đáng kể nhưng
chưa có điều kiện để phát triển.
Trước thế kỉ XX, nền văn hoá nước ta là nền văn hoá phong kiến mang
đậm bản sắc Ðông Nam Á. Về đời sống vật chất, Việt Nam có nghề trồng lúa
nước cho nên thức ăn là cơm, thức uống thì có rượu cũng được chế tạo từ gạo.
Khí hậu ở Việt Nam nóng cho nên cách ăn mặc của người Việt thường giản
dị, thoáng mát, làm từ chất liệu thực vật (tơ tằm, bông vải, đay gai). Việc ở
cũng rất cẩn thận, người Việt có thói quen chọn hướng làm nhà, chú ý vai trò
phong thủy. Ðất Việt là vùng sông nước, cho nên phương tiện đi lại cần phải
dùng thuyền. Trồng lúa nước thì có tính thời vụ cao, vì thế người Việt cần
phải sống có sự liên kết chặt chẽ với nhau, hình thành tính cộng đồng và tính
tự trị trong tổ chức xã hội. Lối tổ chức này tạo nên tính dân chủ và tính tôn ti,
tinh thần đoàn kết và tính tập thể. Khi tiếp thu những luồng tư tưởng nước
ngoài, người Việt Nam đã có sự tiếp biến chứ không có tình trạng xung đột
hoặc độc tôn .
Nhìn chung, nền văn hoá Việt Nam được thai nghén và trưởng thành
trong cái nôi văn hoá Ðông Nam Á. Tư tưởng phương Ðông đã ăn sâu vào
phong tục, tập quán và tâm khảm của con người. Lối sống theo làng xã, họ tộc
đã tạo nên thế tự trị lâu đời cho người Việt Nam. Con người Việt Nam có nếp
sống chuẩn mực từ trong cách ăn mặc cho đến việc ứng xử. Thế mà đến đầu

thế kỉ XX, sự du nhập của văn hoá phương Tây vào Việt Nam đã làm thay đổi
những giá trị cổ truyền của dân tộc. Văn hoá Việt Nam chuyển dần sang nền
văn hoá hiện đại chịu ảnh hưởng của văn hoá phương Tây.

16


Trên bình diện văn hoá vật chất, ảnh hưởng đáng kể nhất là trong phát
triển đô thị, công nghiệp và giao thông - các lĩnh vực mà phương Tây vốn mạnh.
Trước kia ở Việt Nam tồn tại ba tôn giáo được du nhập từ nước ngoài.
Ðó là Phật giáo, Nho giáo và Ðạo giáo. Kitô giáo vốn đã xuất hiện ở Việt
Nam từ các thế kỉ trước (XVI, XVII), đến giai đoạn 1900 - 1930 đã có nhiều
ảnh hưởng đến đời sống tinh thần của người Việt Nam. Ngoài ra, còn có
những đổi mới trong việc giáo dục, trong lĩnh vực văn tự - ngôn ngữ, báo chí,
văn học nghệ thuật.
Ði đôi với những đổi thay về kinh tế, chính trị, xã hội, giáo dục ở giai
đoạn này cũng xuất hiện nhiều yếu tố mới. Thực hiện chính sách cai trị thuộc
địa, Pháp đã tỏ ra rất khôn khéo trong vấn đề này. Khi đã bình định xong toàn
cõi Việt Nam, chúng chưa bỏ ngay việc học và thi cử bằng chữ Hán mà tiến
hành theo từng bước. Ðầu tiên là bổ sung những bài thi mới vào những kì thi
vốn có từ trước. Cho nên Tú Xương đã mỉa mai :
Bốn kì trọn vẹn thêm kì nữa
Á , ớ , u , Âu ngọn bút chì
(Ði thi – Trần Tế Xương)
Mãi đến năm 1919, nhà Nguyễn còn cho tổ chức kì thi Hội cuối cùng.
Nhưng các ông nghè, ông cử, ông cống thời đó chỉ có danh hiệu mà thôi, chứ
không được bổ dụng vào các ngạch quan lại như trước nữa. Dần dần, các
trường dạy chữ Nho bị đóng cửa. Các giáo chức đều bị bãi bỏ. Thay thế vào
đó Pháp đã ban bố học chính tổng quy (1918). Bắt đầu từ lúc đó, chính quyền
thực dân kiểm soát tất cả công việc về giáo dục. Tiếng Pháp được dạy trong

nhà trường ngày càng phổ biến rộng hơn. Từ năm thứ hai, thứ ba học sinh
phải học tiếng Pháp.
Mục đích của Pháp là hướng tới việc đào tạo lớp người làm tay sai cho
chúng. Pháp không hề đặt ra nhiệm vụ phát triển trình độ dân trí. Và, những
đổi thay về giáo dục ấy đã dẫn đến kết quả là tỉ lệ người đi học so với dân số
còn rất ít. Hầu hết học sinh là con em của tầng lớp giàu có hoặc con em của
người dân thành thị có điều kiện thuận lợi trong việc học tập.
17


Chữ quốc ngữ ra đời từ thế kỉ XVII, là thành quả tập thể của nhiều giáo
sĩ Bồ Ðào Nha, Ý, Pháp ... trong đó công lao lớn nhất thuộc về linh mục
Alexandre de Rhodes. Cuối thế kỉ XIX, chữ quốc ngữ đã được người Pháp
mang ra phổ biến nhưng bị sự phản ứng quyết liệt của các nhà nho, cũng như
những người yêu nước Việt Nam. Nó bị xem là thứ chữ của quân xâm lược.
Sang đầu thế kỉ XX, những sĩ phu yêu nước trong phong trào Duy Tân nhận thấy
những ưu điểm của chữ quốc ngữ đã cổ động sử dụng chữ quốc ngữ. Tác giả
Văn minh tân đọc sách viết: Phàm người trong nước đi học nên lấy chữ quốc
ngữ làm phương tiện đầu tiên, để cho trong thời gian vài ba tháng đàn bà, trẻ
con đều biết chữ... Ðó thực là là bước đầu tiên trong việc mở mang trí khôn vậy.
Nhưng đến sau chiến tranh thế giới lần thứ nhất, khi Hán học mất địa vị
chính thống và trong xã hội đã hình thành những yêu cầu mới, những thành
phần công chúng mới thì chữ quốc ngữ mới được xem là thứ chữ của dân tộc.
Việc đổi mới chữ viết đã mang nhiều ý nghĩa lớn, nó không chỉ tạo điều
kiện dễ dàng trong việc học, viết, đọc mà còn cung cấp phương tiện hiện đại
cho nền văn học mới.
Việc phổ biến sử dụng chữ quốc ngữ cũng góp phần thúc đẩy việc xây
dựng và phát triển nền văn xuôi Việt Nam. Nền văn học trung đại Việt Nam
chưa chú ý phát triển văn xuôi. Ở giai đoạn nửa cuối thế kỉ XIX đã có xuất
hiện những sáng tác văn xuôi bằng chữ quốc ngữ của Trương Vĩnh Kí và

Huỳnh Tịnh Của. Nhưng đây chỉ là những mò mẫm ban đầu, những thí
nghiệm lẻ loi chưa có tính chất phổ biến. Sang đầu thế kỉ XX, văn xuôi Việt
Nam mới thể hiện những tiến bộ rõ rệt. Bên cạnh đó, do có sự tiếp xúc với
văn học phương Tây mà nền văn học Việt Nam giai đoạn này đã xuất hiện thể
loại mới: Thể loại tiểu thuyết hiện đại, vốn là đặc thù của văn hoá phương
Tây. Khởi đầu là quyển tiểu thuyết in bằng chữ quốc ngữ, xuất hiện ở Nam kì
năm 1887 với tựa đề Truyện thầy Lazarô Phiền của Nguyễn Trọng Quản.
Nhưng đến giai đoạn 1900-1930 thì thể loại tiểu thuyết hiện đại mới phát triển
trong phạm vi cả nước. Những tên tuổi tiêu biểu là Hồ Biểu Chánh, Trần
Thiên Trung, Trương Duy Toản, Hoàng Ngọc Phách, Trọng Khiêm, Nguyễn
18


Trọng Thuật... Chất văn xuôi, tính cách cá nhân phương Tây còn ảnh hưởng
đến cả lĩnh vực sáng tác lâu đời trong văn học Việt Nam, đó là thơ. Thơ Tản
Ðà, thơ Trần Tuấn Khải trong giai đoạn này đã mang những giai điệu mới.
Ở giai đoạn này đã có diễn ra một cuộc tranh luận về văn học rất sôi
nổi, tiêu biểu là cuộc tranh luận về Truyện Kiều của Phạm Quỳnh với Ngô
Ðức Kế và Huỳnh Thúc Kháng. Nội dung tư tưởng của văn học giai đoạn này
(trừ văn học nô dịch) nổi bật ba xu hướng: xu hướng yêu nước, xu hướng lãng
mạn, xu hướng hiện thực. Xu hướng văn học yêu nước có sự thăng trầm theo
diễn biến của các phong trào Cách mạng. Khi phong trào cách mạng dân chủ
tư sản lên cao, văn thơ yêu nước thuộc các tổ chức này là những lời tố cáo tội
ác kẻ thù rất đanh thép. Nó là bức tranh phản ánh thời sự của xã hội đương
thời; là những lời động viên kêu gọi toàn dân chống giặc cứu nước. Ðến lúc
phong trào cách mạng theo xu hướng tư sản bắt đầu thất bại thì tiếng nói yêu
nước lại bộc lộ bằng những hình thức khác nhau: Lối nói bóng gió, lối gởi
gắm kín đáo, lối dùng hình ảnh tượng trưng hoặc mượn lời nhân vật lịch sử để
thổ lộ tâm tình rất phổ biến.
Xu hướng hiện thực mới được manh nha trong giai đoạn này qua một

số tác phẩm của Phạm Duy Tốn, Nguyễn Bá Học, Hồ Biểu Chánh, Vũ Ðình
Long,... Các tác giả đã phanh phui những xấu xa của xã hội thực dân nửa
phong kiến, phơi bày cảnh khổ của nhân dân.
Xu hướng lãng mạn được khơi nguồn từ các tác phẩm của Ðông Hồ,
Tương Phố, Tản Ðà, Hoàng Ngọc Phách. Ðấy là những sáng tác đã gợi lên
tiếng lòng sâu kín, những nỗi buồn đau và những mơ ước của lớp người đang
bi quan, chán nản trước cuộc sống. Sự xung đột giữa lễ giáo phong kiến cũ và
chủ nghĩa cá nhân bắt đầu xuất hiện.
Văn chương hiện thực và lãng mạn giai đoạn này như khúc nhạc dạo
đầu chuẩn bị cho buổi hoà tấu sẽ được diễn ra vào giai đoạn 1930 - 1945. Vào
thập niên thứ ba của thế kỉ đã xuất hiện các sáng tác của Nguyễn Ái Quốc
được gửi từ nước ngoài về như: Con rồng tre, Nhật kí chìm tàu, Bản án chế

19


độ thực dân Pháp, Ðường Cách mạng ... Nguyễn Ái Quốc đã khai sinh
cho dòng văn học của giai cấp vô sản của nước ta.
Ý thức thẩm mỹ cũng có nhiều thay đổi. Cũng như mọi dân tộc khác,
người Việt Nam ta có ý thức thẩm mĩ riêng của mình. Ý thức thẩm mĩ của
người Việt Nam cũng vận động và phát triển qua các chặng đường lịch sử từ
thời dựng nước đến nay. Ý thức ấy nói chung là phát sinh từ cuộc sống. Nó
luôn luôn nằm trong sự biến đổi, gạn lọc để đi lên nhưng nó lại có chất bền
vững để chịu đựng với thử thách của thời gian và không gian. Những nhân tố
nào đã tạo nên môi trường thẩm mĩ để cho con người nảy sinh ý thức thẩm
mĩ? Ðó chính là thiên nhiên là vị trí địa lí, vị trí văn hoá, là cộng đồng làng
xã, là vận mệnh đất nước, vận mệnh nhân dân.
Ở giai đoạn 1900 - 1930, tình hình chính trị xã hội có nhiều biến động
lớn lao như đã trình bày, cho nên môi trường thẩm mĩ không còn như trước
nữa. Lối sống tư sản đã tấn công quyết liệt vào xã hội phong kiến Việt Nam,

cùng với nó là sự du nhập ồ ạt của nền văn hoá phương Tây. Tất cả đã làm
thay đổi hẳn bộ mặt trang nghiêm của xã hội phong kiến vốn tồn tại vững
chắc hơn 10 thế kỉ qua. Kẻ thù mang vào đất nước chúng ta nhiều cái mới. Sự
phát triển của đô thị tư sản đã phá dần thế tự trị làng xã ngày trước. Lối sống
sôi động, gấp rút theo cường độ của xã hội hiện đại đánh mất những sinh hoạt
gia đình, họ tộc, làng xã, vốn là một phương diện tạo nên các mối quan hệ tốt
đẹp của con người được hình thành rất lâu. Ðứng trước những đổi thay của
con người và xã hội; đối diện với những cái xấu xa, hợm hĩnh do thực dân
Pháp đưa đến, con người Việt Nam đã phản ứng quyết liệt trong buổi đầu. Họ
tỏ ra bực tức, căm giận, không thể chấp nhận nổi, lắm lúc phải hét to lên trong
sự bất lực. Trần Tế Xương đã từng thốt lên rằng:
Muốn mù , trời chẳng cho mù nhỉ ,
Giương mắt trông chi buổi bạc tình?
(Đau mắt – Trần Tế Xương)
Nhưng dù căm tức, dù bực bội đến đâu họ vẫn phải sống với nó, phải
thích nghi với nó; dần dần lại bình thường hoá trước cái xấu, cái lố lăng của
20


phương Tây, của xã hội tư sản. Cuối cùng, chính những người nệ cổ nhất,
những nhà nho bảo thủ nhất cũng phải chạy theo cuộc sống mới, phải học lối
sống mới. Trạng thái tâm lí của con người đã thay đổi trước những biến động
trong xã hội, cho nên ý thức thẩm mĩ của con người tất yếu cũng đổi thay.
Quan niệm về cái đẹp của cuộc sống, của con người khác trước. Và cũng
chính vì thế quan niệm về cái đẹp trong nghệ thuật không giống như xưa nữa.
Thử nhìn lại trong lĩnh vực sinh hoạt đời sống thường ngày như ăn, ở, mặc và
trong lĩnh vực nghệ thuật, ý thức ấy có những biểu hiện mới nào?
Trước hết chúng ta bàn đến lĩnh vực sinh hoạt. Biểu hiện rõ nhất qua
cái mặc. Người Việt Nam vốn chuộng sự đoan trang và kín đáo trong cách
mặc. Áo dài của người phụ nữ Việt Nam với nét đẹp truyền thống thể hiện

sự mềm mại, uyển chuyển, thướt tha, êm dịu, không khoe khoang mà lộng lẫy
nay phải ở vào thế bị cạnh tranh với chiếc váy đầm, với quần Âu. Lẽ dĩ nhiên,
cái mới vẫn còn ở trong thế bị xem là hợm hĩnh nên không ít người lúc bấy
giờ đã mỉa mai:
Váy lĩnh cô kia quét sạch hè
(Năm mới - Trần Tế Xương )
Bộ đồ Âu phục, đôi giày Tây cũng làm cho người đàn ông phải đắn đo
cân nhắc với Áo hàng Tàu, khăn nhiễu tím, ô lục soạn xanh .
Trong cách ở của người Việt Nam thời này cũng có những thay đổi.
Chen lẫn với kết cấu nhà theo kiểu truyền thống là những hình thức trang trí
mới được học tập từ phương Tây. Cạnh những câu đối, hoành phi, những
hương án bàn thờ, trong gian nhà khách lại xuất hiện thêm những bộ xa lông,
những tủ chè không chạm tùng, hạc, mai, lộc, bát tiên, tứ quý nữa mà chạm
cành nho, con sóc. Cái đồng hồ quả lắc được chiếm một phần ở vách nhà
trên... Cái đẹp lúc bấy giờ không chỉ là sự trang nghiêm cổ kính mà phải có
phần lộng lẫy, mới lạ và có chút gì đó xa hoa. Cuộc sống sôi động, chen
chúc phức tạp đòi hỏi người ta phải nhanh chóng, gọn ghẽ, luôn luôn động.
Cái đẹp cũng phải thích ứng với cuộc sống như thế. Cuộc sống trong xã hội
phong kiến vốn mang tính ổn định, trầm lặng. Con người trong xã hội thời đó
21


thường hướng nội. Cái đẹp cũng được hình thành từ tính cách và đặc điểm đó
của con người và xã hội. Trước kia, người ta chuộng hàm răng đen rưng rức,
người ta quý cái môi trầu cắn chỉ và thấy tất cả sự duyên dáng ở chiếc nón
quai thao. Nhưng bây giờ, để thích nghi với cuộc sống mới, cái đẹp lại được
thể hiện với hàm răng trắng như ngà. Người ta không còn ca ngợi mái tóc dài
mà lại thích rẽ tóc lệch... Nói chung, quan niệm cái đẹp được quy định lại
theo những đổi thay của cuộc sống và trạng thái tâm lí con người.
Ðối với sáng tác văn chương, ngày trước người ta quan niệm cái đẹp toát

lên từ sự hài hoà cân đối của một bài thơ Ðường luật, từ sự hoàn chỉnh của phép
đối, của cách gieo vần... Giờ đây, những yếu tố đó đang chịu sự lấn át dần bởi
chất phóng khoáng, tự do vừa tìm thấy được từ văn học phương Tây.
Theo quan niệm ngày xưa, ý thức thẩm mĩ được biểu hiện qua lĩnh vực
đời sống vật chất và tinh thần của con người, đồng thời cách ứng xử của
người Việt cũng thể hiện ý thức thẩm mĩ. Tạo được sự hài hoà trong cuộc
sống về đạo lí ở lĩnh vực gia đình, họ tộc, cộng đồng làng xã cũng là một góc
thẩm mĩ không nhỏ. Ðến giai đọan này những quan niệm ấy vẫn được duy
trì. Hơn nữa, vào những năm này, đối với con người, thiên nhiên vẫn còn
là một nét thẩm mĩ lớn. Sự sống không thể thiếu thiên nhiên, sự sống dựa
vào thiên nhiên, thiên nhiên làm đẹp sự sống. Thiên nhiên vẫn còn tạo nên
nguồn cảm hứng sáng tác của văn thi sĩ. Nói chung, nó vẫn còn gắn bó với
con người như trước.
Nhìn chung, sự thay đổi ý thức thẩm mĩ của người Việt Nam ở giai
đoạn 1900 – 1930 do hoàn cảnh chính trị, xã hội chi phối. Chúng ta phải thấy
một điều: Nó cũng đang đứng trước sự gạn lọc, biến đổi. Và chính cái chất
vững bền đã giúp nó vượt qua mọi thử thách để giữ lấy những gì thuộc về
truyền thống của dân tộc Việt Nam không bị mất gốc, lai căng bởi ảnh hưởng
tư tưởng văn hoá nước ngoài.
Tất cả những yếu tố trên đã tạo nên những tiền đề to lớn cho sự thay
đổi tư tưởng triết học về con người, từ đó kéo theo nhiều biến chuyển của
diện mạo nền văn học 1900 – 1930.
22


1.2. Tư tưởng triết học về con người trong văn học Việt Nam thời trung đại
1.2.1. Tư tưởng triết học về con người và quan niệm nghệ thuật về con người
Vấn đề tư tưởng triết học về con người và quan niệm nghệ thuật về
con người là hai khái niệm không đồng nhất nhưng có nhiều điểm tương
đồng và có mối quan hệ gắn bó mật thiết với nhau trong việc thể hiện tư

tưởng triết học về con người trong các tác phẩm văn học.
Trong các sáng tác văn học, tư tưởng triết học về con người được bộc
lộ thông qua quan niệm nghệ thuật về con người. Và ngược lại, quan niệm
nghệ thuật về con người là sự thể hiện phong phú của tư tưởng triết học về
con người. Vì vậy, nghiên cứu tư tưởng triết học về con người không thể
không dựa trên quan niệm nghệ thuật về con người.
Quan niệm nghệ thuật về con người đóng vai trò quan trọng trong
nghệ thuật nói chung và văn học nói riêng. Quan niệm nghệ thuật về con
người, chính là thước đo chuẩn mực thành công và đóng góp của văn
học trong việc khám phá thế giới. Khi đánh giá thành tựu của một nền
văn học, một xu hướng, một tác giả hay một giai đoạn… không thể không
đánh giá quan niệm nghệ thuật về con người. Quan niệm con người cũng
là một sản phẩm của lịch sử. Nó chịu sự chi phối của cá tính sáng tạo của
nhà văn, truyền thống văn hoá dân tộc và ảnh hưởng của mối quan hệ giao
lưu văn hoá quốc tế. Ở mỗi thời kỳ, mỗi nơi, mỗi con người khi đưa ra quan
niệm nghệ thuật về con người đều có sự khác nhau. Chính sự khác nhau đó
tạo nên bản sắc nghệ thuật phong phú, đa dạng cho văn học và nghệ thuật.
Nhưng dù có khác nhau thế nào thì đến cái đích cuối cùng vẫn là “khám phá
ngày càng sâu sắc con người như nó tự cảm thấy trong tự nhiên, xã hội và
lịch sử với tất cả sự phong phú và tinh tế” [70, 101].
Quan niệm con người là cách hiểu, cách c ắt nghĩa về con người.
Quan niệm đó quyết định chiều sâu của việc miêu tả cũng như việc giải
quyết chủ đề, đề tài trong sáng tác… Với tầm quan trọng đó , vấn đề
quan n iệm nghệ thuậ t về con người đã trở thành một trong những
trung tâm chú ý của các nhà nghiên cứu, phê bình văn học.
23


Đối với các nhà nghiên cứu phương Tây thì cho rằng con người
chính là phương tiện tất yếu và quan trọng nhất để thể hiện tư tưởng của

tác phẩm. Theo Brech: “các nhân vật của tác phẩm nghệ thuật không phải
giản đơn là những bản dập của những con người sống, mà là hình tượng
được khắc hoạ phù hợp với ý đồ tư tưởng của tác giả” [1, 213]. Về nhân
vật và lập trường của tác giả đối với nhân vật trong sáng tác của
Đôxtôiepxki, M. Bakhtin có ý kiến: “Nhân v ật làm cho Đôxtôiepxki
quan tâm chỉ như một quan điểm đặc biệt đối v ới thế giới và đối với
chính nó, như m ột lập trường ý nghĩa và lập trường đánh giá của con
người đối với bản thân và đối với thế giới xung quanh nó”. Đó chính là
đặc điểm rất quan trọng và căn bản trong việc cảm thụ nhân vật văn học.
Bởi cái cần khám phá và khắc hoạ của tác giả là một sự tổng kết mới nhất
của ý thức và sự tự ý thức của nó. Suy đến cùng là ý thức mới nhất của
nhân vật về chính nó và thế giới của nó. Ở đây, ta th ấy nhân vật trở
thành đối tượng của sự tự ý thức mà chức năng của sự tự ý thức đó lại là
đối tượng của cái nhìn và sự miêu tả của chính tác giả. Do vậy, toàn bộ
thực tại đều trở thành yếu tố tự ý thức của nhân vật chỉ có toàn bộ cái tự ý
thức thuần tuý đó mới là đối tượng của cái nhìn và sự miêu tả của tác
giả, trong trường nhìn, điểm nhìn tinh tế của tác giả. Cũng cùng với quan
niệm trên của Bakhtin thì Pôspelôv nói về điều này có phần giản đơn
hơn, ông cho rằng: “Các tác phẩm tự sự và kịch miêu tả con người cá nhân
với hành vi bề ngoài và cách hiểu thế giới của chúng gọi là nhân vật được
miêu tả một cách nghệ thuật trong tác phẩm” [2,18]. Như vậy , theo
Pôspelôv ở đây nhân vật bộc lộ bản thân chủ yếu không phải trong việc
làm, trong hành đ ộng mà qua các suy nghĩ về những điều trông thấy,
qua cảm xúc đối với xung quanh.
Đối với các nhà nghiên cứu phê bình ở Việt Nam, quan niệm nghệ
thuật là cơ sở chắc chắn nhất để nghiên cứu tính độc đáo của các sáng tác
nghệ thuật. Sự tiến bộ nghệ thuật được đề cập đến sau đây không nằm
ngoài sự mở rộng , đào sâu các giới hạn trong việc cảm thụ hiện thực,đời
24



sống của các nhà văn.Theo giáo sư Trần Đình Sử thì vấn đề quan niệm
nghệ thuật về con người thực chất là vấn đề “tính năng động của nghệ
thuật, là gi ới hạn , phạm vi chiếm lĩnh đời sống của một hệ thống nghệ
thuật, là kh ả năng thâm nhập của nó vào các miền khác nhau của cuộc
đời” [72, 90]. Khi nói đến quan niệm nghệ thuật là nói đến tính sáng tạo
về chất tr ong cảm thụ và miêu tả đời sống : “Chừng nào chưa có đ ổi
mới trong quan niệm nghệ thuật về con người thì sự tái hiện các hiện
tượng đời sống khác nhau chỉ có ý nghĩa mở rộng lượng trên cùng m ột
chiều sâu ” [71, 91]. Trong tá c phẩ m M ột số vấn đề về thi pháp văn học
hiện đại tác giả cho biết: Từ trước tới nay, người ta hay phân tích nhân
vật văn học như là sự miêu tả một loại người nào đó trong xã hội, từ đó
người ta thường đối chiếu nhân vật với loại người mà nó miêu tả xem có
giống hay không giông để xác định mức độ chân thật . Thi pháp học có
hướng tiếp cận khác: Xem toàn bộ sự miêu tả về nhân vật như là một cái
biểu đạt, như là sự biểu hiện trình độ cảm nhận về con người, từ đó phân
tích nhân vật, để tìm hiểu quan niệm của con người trong ý thức của tác giả.
Từ quan niệm nghệ thuật về con người dưới cách nhìn của các nhà
nghiên cứu ta có thể thấy rằng con người khi được đưa vào trong tác phẩm
nó trở thành đối tượng nhận thức các vấn đề của cuộc sống. Nhân vật được
khắc hoạ qua cái nhìn của tác giả và được các nhà văn thể hiện qua các
hình thức nghệ thuật. Qua nhân vật, người đọc có thể đánh giá được sự
cảm nhận cũng như quan điểm, tư tưởng của tác giả đối với cuộc sống và
con người. Ở các nhà văn lớn, sự hình thành quan niệm nghệ thuật của họ
vừa có vai trò đặc biệt quyết định của cá tính sáng tạo của thế giới quan và
tư tưởng nghệ thuật của nhà văn. Với một nhà văn có một quá trình sáng
tác trải qua nhiều giai đoạn thì quan niệm nghệ thuật cũng có nhiều biến
đổi. Quá trình này có khi là sự nhảy vọt, nhưng cũng có khi từ từ như một
mạch nước ngầm thấm dần trong tư tưởng, suy nghĩ và được thể
nghiệm trên từng trang viết với tất cả sự tâm huyết với nghề.


25


×