Tải bản đầy đủ (.doc) (23 trang)

nhà nước pháp quyền và nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (170.09 KB, 23 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2
PHÒNG SAU ĐẠI HỌC

LÊ NGỌC HẢI

NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN VÀ NHÀ
NƯỚC PHÁP QUYỀN XÃ HỘI CHỦ
NGHĨA VIỆT NAM

TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC

HÀ NỘI – 2012


TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2
PHÒNG SAU ĐẠI HỌC

LÊ NGỌC HẢI

NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN VÀ
NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN XÃ HỘI
CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC
Chuyên ngành: Toán giải tích

Người hướng dẫn khoa học
TS. VI THÁI LANG

HÀ NỘI - 2012



MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU

1

NỘI DUNG
3
CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ NHÀ NƯỚC
3
1.1. Nguồn gốc của nhà nước
3
1.2. Bản chất và chức năng của Nhà nước
5
1.2.1. Bản chất của nhà nước
5
1.2.2. Chức năng của Nhà nước
6
CHƯƠNG 2: NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN
8
2.1. Cơ quan lập pháp
8
2.2. Cơ quan hành pháp
8
2.3. Cơ quan tư pháp
9
CHƯƠNG 3: NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN XÃ HỘI CHỦ NGHĨA
11
3.1. Bản chất nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam
11

3.2. Xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa 11
Việt Nam trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa
3.3. Những đặc trưng của nhà nước pháp quyền XHCN ở Việt Nam
11
3.4. Những thành tựu và những vấn đề cần giải quyết trong quá 12
trình xây dựng Nhà nước pháp quyền tại Việt Nam
KẾT LUẬN
TÀI LIỆU THAM KHẢO

19
20


1

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng Cộng Sản Việt Nam đã
xác định nhiệm vụ xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa dưới sự
lãnh đạo của Đảng là một trong những nhiệm vụ có tính chiến lược trong quá
trình thực hiện các mục tiêu phát triển Kinh tế - xã hội. Sự xây dựng nhà nước
pháp quyền XHCN trong báo cáo chính trị của Đại hội IX không chỉ là khẳng
định quyết tâm chính trị của Đảng trong việc đẩy mạnh cải cách tổ chức và
hoạt động của Nhà nước, phát huy dân chủ, tăng cường pháp chế mà còn là sự
đánh dấu một giai đoạn phát triển mới của sự nghiệp xây dựng Nhà nước kiểu
mới, một nhà nước của dân, do dân, vì dân.
Tuy nhiên quá trình xây dựng và tăng cường Nhà nước trong mấy chục
năm qua cho thấy, hàng loạt vấn đề lý luận về tổ chức và hoạt động của Nhà
nước vẫn chưa được tổng kết làm rõ. Do vậy, các giải pháp đổi mới tổ chức

và hoạt động của Nhà nước được triển khai trong nhiều giai đoạn lịch sử vẫn
chưa đưa lại các kết quả mong muốn. Sự bất cập trong tổ chức bộ máy Nhà
nước và cơ chế vận hành của bộ máy này đang cản trở việc phát huy vai trò
của Nhà nước ta trong cơ chế kinh tế mới. Nhận thức lý luận về chế độ Pháp
quyền trong hoạt động Nhà nước và xã hội vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu
phát triển đất nước hiện nay và do vậy chưa tạo lập được cơ sở khoa học vững
chắc cho việc tìm kiếm các giải pháp cải cách thực tiễn với đời sống Nhà
nước. Chính vì thế sự nghiên cứu lý luận và thực tiễn về Nhà nước pháp
quyền đang là một trong những vấn đề cấp thiết hiện nay.
2. Mục đích nghiên cứu
Tìm hiểu kĩ hơn về “Nhà nước pháp quyền và nhà nước pháp quyền
xã hội chủ nghĩa Việt Nam”.


2
3. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Nghiên cứu những vấn đề cơ bản của nhà nước.
- Nghiên cứu nhà nước pháp quyền và nhà nước pháp quyền Xã hội chủ
nghĩa Việt Nam.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Nghiên cứu nhà nước pháp quyền Xã hội chủ nghĩa Việt Nam
5. Phương pháp nghiên cứu
Nghiên cứu lí luận
6. Cấu trúc tiểu luận
Ngoài phần mở đầu, kết luận, đề nghị và tài liệu tham khảo nội dung
chính của tiểu luận bao gồm 3 chương:
Chương 1. Những vấn đề cơ bản về nhà nước
Chương 2. Nhà nước pháp quyền
Chương 3. Nhà nước pháp quyền Xã hội chủ nghĩa



3

NỘI DUNG
CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ NHÀ NƯỚC
1.1. Nguồn gốc của nhà nước
- Lịch sử xã hội loài người đã có thời kỳ chưa có nhà nước. Đó là thời
kỳ cộng sản nguyên thuỷ. Nhà nước ra đời khi xã hội đã phân chia giai cấp.
Trong tác phẩm Nguồn gốc gia đình, của chế độ tư hữu và của nhà
nước, Ph.Ănghen đã chứng minh rằng trong xã hội nguyên thuỷ không có nhà
nước. Để phù hợp với tình trạng còn thấp kém, chưa có sự phân hoá giai cấp,
hình thức tổ chức đầu tiên của xã hội cộng sản nguyên thuỷ là thị tộc và bộ
lạc. Đứng đầu các thị tộc, bộ lac là những tộc trưởng do nhân dân bầu ra.
Quyền lực của người đứng đầu những cơ quan quản lý xã hội dựa vào sức
mạnh đạo đức và uy tín. Quyền hành và chức năng của cơ quan lãnh đạo
trong thời kỳ đó chưa mang tính chính trị.
Hệ thống quản lý của xã hội trong các thị tộc là trưởng thị tộc, còn
trong các bộ lạc thường bao gồm:
+ Hội đồng là cơ quan quyền lực thường trực, có thể lúc đầu nó bao
gồm các trưởng thị tộc rồi về sau số trưởng thị tộc quá đông thì hội đồng bào
gồm một số người được bầu ra trong số trưởng thị tộc này. Trong những việc
quan trọng, Hội đồng được quyền quyết định cuối cùng.
+ Đại hội nhân dân, do Hội đồng triệu tập để quyết định các công việc
quan trọng. Ở đó mỗi người đều có thể phát biểu ý kiến. Đại hội nhân dân có
quyền quyết định tối hậu mọi vấn đề.
+ Thủ lĩnh quan sự chuyên đảm nhận các công việc lãnh đạo các cuộc
chiến tranh, bảo vệ cộng đồng bộ lạc. Các thủ lĩnh quân sự không phải là
người cai trị, họ không có đặc quyền đặc lợi cá nhân, không bắt nhân dân phải



4
phục vụ cho lợi ích cá nhân riêng tư. Họ hoàn toàn thực hiện vai trò của mình
theo ý chí và quyết định của nhân dân.
Như vậy, trong xã hội nguyên thuỷ không có nhà nước mà chỉ có chế
độ tự quản của nhân dân.
- Vậy nhà nước đã ra đời như thế nào từ một xã hội theo thể chế tự
quản nguyên thuỷ?
- Theo Ph.Ănghen, sự ra đời của nhà nước là do 4 nguyên nhân
+ Một là, do sự phát triển của sản xuất cuối xã hội nguyên thuỷ đã dẫn
tới sự dư thừa tương đối của cải xã hội. Đây là cơ sở khách quan làm nảy sinh
khát vọng chiếm đoạt sản phẩm lao động của nhân dân ở những người đứng
đầu thị tộc, bộ lạc, cũng là sự xuất hiện của sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất
và chế độ người bóc lột người.
+ Hai là, việc các thủ lĩnh thị tộc, bộ lạc sử dụng quyền lực chiếm đoạt
của nhân dân đã thúc đẩy sự phân hoá giai cấp trong xã hội. Sự đối kháng giai
cấp ngày càng trở nên sâu sắc.
+ Ba là, chiến tranh giữa các thị tộc, bộ lạc càng làm tăng quyền lực
của thủ lĩnh quân sự, càng làm tăng thêm mâu thuẫn xã hội.
+ Bốn là, các tổ chức lãnh đạo thị tộc, bộ lạc dần dần thoát ra khỏi gốc
rễ trong nhân dân, từ chỗ là công cụ của nhân dân đã trở thành đối lập với
nhân dân.
Toàn bộ những nguyên nhân ấy đã làm tăng thêm những mâu thuẫn
trong xã hội. Mâu thuẫn giai cấp lần đầu tiên xuất hiện là mâu thuẫn giữa chủ
nô và nô lệ. Các giai cấp đó không ngừng phát triển, mâu thuẫn giai cấp ngày
càng tăng dẫn tới nguy cơ chẳng những các giai cấp đó có thể tiêu diệt lẫn nhau
mà còn có khả năng tiêu diệt luôn cả xã hội. Để tránh nguy cơ đó cần có một
cơ quan quyền lực đặc biệt ra đời là nhà nước. Đó là một tổ chức, thiết chế cò
tiền thân từ những tổ chức phi chính trị trong các xã hội thị tộc, bộ lạc cổ xưa.



5
Như vậy, theo Ph.Ănghen, sự xuất hiện của nhà nước không phải để
giải quyết các mầu thuẫn giai cấp trong xã hội, cũng không phải để điều hoà
mâu thuẫn giai cấp mà là để duy trì mâu thuẫn giai cấp trong một giới hạn trật
tự nhằm thực hiện được sự bóc lột của giai cấp nắm giữ tư liệu sản xuất đối
với người lao động.
Còn theo V.I.Lênin, trong tác phẩm Nhà nước và cách mạng đã đặc biệt
lưu y các luận điểm đó của Ph.Ănghen và nhấn mạnh nguyên nhân trực tiếp
làm xuất hiện nhà nước trong lịch sử. Theo V.I.Lênin, nhà nước là sản phẩm
và biểu hiện của những mâu thuẫn giai cấp không thể điều hoà được. Bất cứ ở
đâu, hễ lức nào và chừng nào về mặt khách quan, những mâu thuẫn giai cấp
không thể điều hoà được thì nhà nước xuất hiện. Và ngược lại, sự tồn tại của
nhà nước chứng tỏ những mâu thuẫn giai cấp là không thể điều hoà được
Tóm lại, Nhà nước là một phạm trù lịch sử chỉ ra đời và tồn tại trong
điều kiện lịch sử nhất định. Nguồn gốc sâu xa của Nhà nước chính là do sự
phát triển của lực lượng sản xuất, trước hết là công cụ lao động. Lực lượng
sản xuất phát triển đã làm cho chế độ sở hữu tư nhân ra đời, các giai cấp bóc
lột và bị bóc lột xuất hiện. Cuộc đấu tranh giữa chủ nô và nô lệ - hai giai cấp
đối kháng đầu tiên trong lịch sử - dẫn đến nguy cơ huỷ diệt luôn cả xã hội. Để
điều này không xảy ra, một cơ quan quyền lực đặc biệt đã ra đời. Đó là Nhà
nước.
1.2. Bản chất và chức năng của Nhà nước
1.2.1. Bản chất của nhà nước
Theo quan niệm của triết học Mác – Lênin, nhà nước là một yếu tổ đặc
biệt quan trọng trong kiến trúc thượng tầng của xã hội có giai cấp đối kháng.
Nó là một hệ thống tổ chức quyền lực công cộng đặc biệt mà thông thường
gồm ba bộ phận chính cấu thành là bộ phận quyền lực, thực thi quyền lực và
giám sát quyền lực. Xét về thực chất, nhà nước là một bộ máy quyền lực của



6
một giai cấp này dùng để trấn áp một giai cấp khác, là bộ máy quyền lực dùng
để duy trì sự thống trị của giai cấp này đối với giai cấp khác, là cơ quan quyền
lực của một giai cấp đối với toàn thể xã hội, là công cụ chuyên chính của giai
cấp thống trị xã hội - tức là giai cấp nắm những tư liệu sản xuất chủ yếu của
xã hội trong những điều kiện lịch sử nhất định.
Như vậy, xét theo bản chất, nhà nước không phải là một lực lượng điều
hoà các mâu thuẫn chính trị, xã hội trong điều kiện xã hội có đối kháng giai
cấp mà là một lực lượng bạo lực của giai cấp thống trị về kinh tế để thực hiện
sự thống trị của nó về kinh tế để thực hiện được lợi ích của chính giái cấp đó
trước sự phản kháng của giai cấp khác. Theo nghĩa đó, thực chất nhà nước là
công cụ chuyên chính giai cấp trong điều kiện xã hội tồn tại nhưng đối kháng
giai cấp không thể điều hoà được.
1.2.2. Chức năng của Nhà nước
Mỗi nhà nước đều có những chức năng cụ thể của nó nhưng bất cứ nhà
nước nào cũng có các chức năng chính trị, xã hội, đối nội, đối ngoại của nó.
- Chức năng chính trị và xã hội của Nhà nước
Chức năng chính trị: là chức năng bảo vệ và thực hiện lợi ích của giai
cấp thống trị
Chức năng xã hội: là chức năng bảo vệ và thực hiện lợi ích chung của
cộng đồng quốc gia trong đó có lợi ích của giai cấp thống trị.
Hai chức năng đó tồn tại trong mối quan hệ thống nhất biện chứng với
nhau, trong đó chức năng chính trị quyết định tính chất, phạm vi, mức độ,
hiệu quả thực hiện chức năng xã hội, nhưng chức năng xã hội của nhà nước
lại giữ vai trò cơ sở cho việc thực hiện chức năng chính trị đảm bảo cho việc
thực hiện chức năng chính trị một cách có hiệu quả.
- Chức năng đối nội và đối ngoại của nhà nước là chức năng xây dựng,
củng cố, xây dựng, phát triển và bảo vệ một chế độ kinh tế - xã hội nhất định
phù hợp với lợi ích của giai cấp thống trị.



7
Chức năng đối ngoại của nhà nước là chức năng bảo vệ biên giới lãnh
thổ quốc gia và thực hiện các mối quan hệ kinh tế, chính trị, xã hội với các
nước khác, mà thực chất và cơ bản là thực hiện lợi ích giữa các giai cấp thống
trị trong mối quan hệ với các quốc gia khác nhau.
Chức năng đối nội là những mặt hoạt động của nhà nước được diễn ra ở
trong nước. Nhà nước sử dụng công cụ bạo lực và bộ máy thống trị nói chung
để duy trì các mặt trật tự về kinh tế, chính trị xã hội và tư tưởng nhằm trấn áp
các giai cấp khác và bảo vệ kinh tế, địa vị thống trị của giai cấp thống trị.
Trong hai chức năng đó thì chức năng đối nội quyết định chức năng đối
ngoại bởi vì nhà nước ra đời và tồn tại là do cơ cấu giai cấp bên trong của mỗi
quốc gia quy định. Sự thống trị của mỗi giai cấp được thực hiện trước hết và
chủ yếu trên phạm vi quốc gia mà nó quản lý. Lợi ích chủ yếu của giai cấp
thống trị là duy trị địa vị cai trị trong một quốc gia nhất định. Tính chất của
chức năng đối nội quyết định tính chất của chức năng đối ngoại, ngượi lại tính
chất và nhu cầu của chức năng đối ngoại có tác động mạnh mẽ trở lại chức
năng đối nội của nhà nước, làm biến đổi trong một giới hạn nhất định quá
trình thực hiện chức năng đối nội.


8
CHƯƠNG 2
NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN
2.1. Cơ quan lập pháp
Quyền lập pháp là quyền làm luật, xây dựng luật và ban hành những
văn bản luật được áp dụng trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Quyền
lập pháp do Quốc hội tiến hành.
Cơ quan lập pháp là kiểu hội đồng thảo luận đại diện có quyền thông

qua các luật. Đây là một trong ba cơ quan chính gồm lập pháp, hành pháp và
tư pháp của thể chế chính trị tam quyền phân lập.
Lập pháp có nhiều tên gọi khác nhau, phổ biến nhất là nghị viện và
quốc hội (lưỡng viện), mặc dù những tên này có nhiều nghĩa đặc trưng khác
nữa. Trong hệ thống nghị viện của chính phủ, cơ quan lập pháp là cơ quan tối
cao chính thức và chỉ định cơ quan hành pháp. Ở hệ thống tổng thống, cơ
quan lập pháp được xem là phân nhánh quyền lực tương đương và độc lập với
cơ quan hành pháp. Ngoài việc ban hành luật ra, cơ quan lập pháp còn có
quyền tăng thuế, thông qua ngân sách và các khoản chi tiêu khác.
Lập pháp hiểu đơn giản là xây dựng luật và các văn bản dưới luật.
Cơ quan lập pháp: Cơ quan lập pháp là kiểu hội đồng thảo luận đại diện
có quyền thông qua các luật. Đây là một trong ba cơ quan chính gồm lập
pháp, hành pháp và tư pháp của thể chế chính trị tam quyền phân lập.
2.2. Cơ quan hành pháp
Quyền hành pháp là một trong ba quyền trong cơ cấu quyền lực Nhà
nước, bên cạnh quyền lập pháp và quyền tư pháp. Quyền hành pháp do các cơ
quan hành chính Nhà nước thực thi để đảm bảo hoàn thành chức năng và
nhiệm vụ của mình.
Quyền hành pháp bao gồm hai quyền: quyền lập qui và quyền hành
chính.


9
Quyền lập qui là quyền ban hành những văn bản pháp qui dưới luật, để cụ thể
hoá luật pháp do các cơ quan lập pháp ban hành trên tất cả các lĩnh vực của
đời sống xã hội.
Quyền hành chính là quyền tổ chức quản lý tất cả các mặt, các quan hệ
xã hội bằng cách sử dụng quyền lực Nhà nước. Quyền hành chính bao gồm
các quyền về tổ chức nhân sự trong cơ quan hành chính, quyền tổ chức thực
thi và áp dụng pháp luật trong các mối quan hệ giữa tổ chức với cá nhân, tổ

chức với tổ chức và giữa các cá nhân với nhau trong đời sống xã hội.
Hành pháp là một trong ba quyền trong cơ cấu quyền lực Nhà nước,
bên cạnh quyền lập pháp và quyền tư pháp. Quyền hành pháp do các cơ quan
hành chính Nhà nước thực thi để đảm bảo hoàn thành chức năng và nhiệm vụ
của mình.
Quyền hành pháp bap gồm hai quyền:
* Quyền lập quy: là quyền ban hành những văn bản pháp qui dưới luật,
để cụ thể hoá luật pháp do các cơ quan lập pháp ban hành trên tất cả các lĩnh
vực của đời sống xã hội.
* Quyền hành chính: là quyền tổ chức quản lý tất cả các mặt, các quan
hệ xã hội bằng cách sử dụng quyền lực Nhà nước. Quyền hành chính bao gồm
các quyền về tổ chức nhân sự trong cơ quan hành chính, quyền tổ chức thực
thi và áp dụng pháp luật trong các mối quan hệ giữa tổ chức với cá nhân, tổ
chức với tổ chức và giữa các cá nhân với nhau trong đời sống xã hội.
2.3. Cơ quan tư pháp
Quyền tư pháp là quyền bảo vệ luật pháp, đảm bảo cho pháp luật được
thực hiện và chống lại các hành vi vi phạm pháp luật. Quyền tư pháp do Tòa
án và Viện Kiểm sát tiến hành.
Theo luật học, cơ quan tư pháp hay hệ thống tư pháp là một hệ thống
tòa án nhân danh quyền tối cao hoặc nhà nước để thực thi công lý, một cơ chế
để giải quyết các tranh chấp.


10
Thuật ngữ này cũng được dùng để đề cập đến cả quan tòa ở các cấp,
những người thiết lập nền móng cho một bộ máy tư pháp và cả những người
trợ giúp cho hệ thống này hoạt động tốt.
+ Tư pháp Theo luật học, cơ quan tư pháp hay hệ thống tư pháp là một
hệ thống tòa án nhân danh quyền tối cao hoặc nhà nước để thực thi công lý,
một cơ chế để giải quyết các tranh chấp.

Thuật ngữ này cũng được dùng để đề cập đến cả quan tòa ở các cấp,
những người thiết lập nền móng cho một bộ máy tư pháp và cả những người
trợ giúp cho hệ thống này hoạt động tốt.
+ Tam quyền phân lập: là một thể chế chính trị với ba cơ quan hành
pháp, lập pháp và tư pháp được tổ chức song song với nhau, và qua đó kiểm
tra, giám sát hoạt động lẫn nhau. Theo thể chế này, không một cơ quan nào có
quyền lực tuyệt đối trong sinh hoạt chính trị của quốc gia.


11
CHƯƠNG 3
NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN XÃ HỘI CHỦ NGHĨA
3.1. Bản chất nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam
Là Nhà nước của dân, do dân, vì dân, đặt dưới sự lãnh đạo tuyệt đối
của một đảng, đó là Đảng cộng sản Việt Nam, trên cở sở liên minh vững chắc
giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức, là công cụ
quyền lực chủ yếu để nhân dân xây dựng một quốc gia độc lập XHCN theo
mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ văn minh, góp phần
tích cực vào cuộc đấu tranh vì hoà bình, độc lập, dân tộc, dân chủ và tiến bộ
trên thế giới.
Điểm bản chất của Nhà nước pháp quyền là nhà nước mang bản chất
“của dân, do dân, vì dân”.
3.2. Xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt
Nam trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa
3.3. Những đặc trưng của nhà nước pháp quyền XHCN ở Việt Nam
Dựa trên tư tưởng của các nhà lý luận trên thế giới về nhà nước pháp
quyền nói chung, quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh và nhận thức của Đảng Cộng sản Việt Nam nói riêng về nhà nước pháp
quyền, Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam có 5 đặc trưng chủ

yếu sau:
Một là, nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa là nhà nước của dân, do
dân, vì dân. Tất cả quyền lực nhà nước đều thuộc về nhân dân.
Hai là, trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, quyền
lực của nhà nước là thống nhất, nhưng có sự phân công rành mạch, phối hợp
chặt chẽ giữa các cơ quan nhà nước là trong việc thực hiện các quyền lập
pháp, hành pháp và tư pháp.


12
Ba là, Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam được tổ chức
và hoạt động trên cơ sở hiến pháp, luật pháp. Ở đó hiến pháp và các đạo luật
giữ vị trí tối thượng trong việc điều chỉnh các quan hệ trên tất cả mọi lĩnh vực
đời sống xã hội.
Bốn là, Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam tôn trọng và
bảo đảm quyền con người, quyền công dân, nâng cao trách nhiệm pháp lý
giữa nhà nước và công dân, thực hành dân chủ đồng thời tăng cường kỷ luật,
kỷ cương.
Năm là, Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam do Đảng
Cộng sản Việt Nam lãnh đạo. Chính quyền nhà nước chịu sự giám sát của
nhần dân, sự phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức
thành viên thuộc Mặt trận.
Năm đặc trưng trên là kết luận đã được rút ra từ việc thực hiện Chương
trình “Tổng kết 20 năm xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt
Nam “.
3.4. Những thành tựu và những vấn đề cần giải quyết trong quá trình xây
dựng Nhà nước pháp quyền tại Việt Nam
Những thành tựu
Đối với Việt Nam, vấn đề xây dựng nhà nước pháp quyền đang được
đặt ra như một tất yếu lịch sử và tất yếu khách quan

Tính tất yếu lịch sử của việc xây dựng Nhà nước pháp quyền của Việt
Nam bắt nguồn từ chính lịch sử xây dựng và phát triển của Nhà nước ta. Ngay
từ khi thành lập và trong quá trình phát triển, Nhà nước Việt Nam dân chủ
cộng hòa đã và luôn là một nhà nước hợp hiến, hợp pháp. Nhà nước được tổ
chức và hoạt động trên cơ sở các quy định của Hiến pháp, pháp luật và luôn
vận hành trong khuôn khổ Hiến pháp, pháp luật. Các đạo luật tổ chức của
Quốc hội, Chính phủ, Toà án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân và các đạo


13
luật về chính quyền địa phương được xây dựng trên cơ sở các Hiến pháp năm
1946, năm 1959, năm 1980 và năm 1992. Những lần Hiến pháp được sửa đổi
và thông qua là những bước củng cố cơ sở pháp lý cho tổ chức và hoạt động
của bản thân các cơ quan nhà nước. Vì vậy, có thể nói, quá trình xây dựng
nhà nước pháp quyền của Việt Nam là một quá trình lịch sử được bắt đầu
ngay từ Tuyên ngôn độc lập năm 1945 và Hiến pháp năm 1946. Quá trình này
đã trải qua hơn nửa thế kỷ và đang được tiếp tục trong thời kỳ đổi mới toàn
diện đất nước.
Tính tất yếu khách quan của việc xây dựng nhà nước pháp quyền của
Việt Nam xuất phát từ định hướng XHCN mà mục tiêu cơ bản là xây dựng
một chế độ xã hội dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn
minh. Chúng ta ý thức sâu sắc rằng, để xây dựng được một chế độ xã hội
với những mục tiêu như vậy thì công cụ, phương tiện cơ bản chỉ có thể là
nền kinh tế thị trường định hướng XHCN và một nhà nước pháp quyền
XHCN dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam trên cơ sở chủ nghĩa
Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Tính tất yếu khách quan ấy còn
xuất phát từ đặc điểm của thời đại với xu hướng toàn cầu hóa. Nhu cầu hội
nhập kinh tế quốc tế đòi hỏi chúng ta phải tiếp tục đẩy mạnh cải cách nhà
nước, cải cách pháp luật, bảo đảm cho Nhà nước ta không ngừng vững
mạnh, có hiệu lực để giải quyết có hiệu quả các nhiệm vụ phát triển kinh tế

– xã hội, thực hiện dân chủ, củng cố độc lập, tự chủ và hội nhập vững chắc
vào đời sống quốc tế.
Nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân, vì nhân
dân của Việt Nam là một nhà nước vừa phải thể hiện được các giá trị phổ
biến của nhà nước pháp quyền đã được xác định trong lý luận và thực tiễn
của một chế độ dân chủ hiện đại, vừa khẳng định được bản sắc, đặc điểm
của riêng mình.


14
Sự khác nhau cơ bản giữa nhà nước pháp quyền tư sản và nhà nước
pháp quyền XHCN nói chung, trong đó có Nhà nước pháp quyền XHCN Việt
Nam nói riêng, đã được khái quát trên các mặt chính sau đây:
Một là, cơ sở kinh tế của nhà nước pháp quyền XHCN là nền kinh tế
thị trường định hướng XHCN. Tính định hướng XHCN của nền kinh tế thị
trường không phủ nhận quy luật khách quan của thị trường mà là cơ sở để xác
định sự khác nhau giữa kinh tế thị trường trong CNTB và kinh tế thị trường
trong CNXH. Do vậy, đặc tính của nền kinh tế thị trường XHCN tạo ra sự
khác nhau giữa nhà nước pháp quyền tư sản và nhà nước pháp quyền XHCN.
Hai là, cơ sở chính trị của nhà nước pháp quyền XHCN là chế độ dân
chủ nhất nguyên. Tính nhất nguyên chính trị được thể hiện trong việc khẳng
định vai trò lãnh đạo của một đảng duy nhất cầm quyền ở Việt Nam. Bản chất
của một nền dân chủ không lệ thuộc vào chế độ đa đảng hay chế độ một đảng,
mà lệ thuộc vào chỗ đảng cầm quyền đại diện cho lợi ích của ai, sử dụng
quyền lực nhà nước vào những mục đích gì trên thực tế. Vì vậy, điều kiện để
xây dựng nhà nước pháp quyền không thể là chế độ đa đảng hay chế độ một
đảng và không thể coi đó là căn cứ để đánh giá tính chất và trình độ của một
nền dân chủ. Sự lãnh đạo của Đảng cộng sản – đảng duy nhất cầm quyền đối
với đời sống xã hội và đời sống nhà nước không những không trái với bản
chất nhà nước pháp quyền nói chung mà còn là điều kiện có ý nghĩa tiên

quyết đối với quá trình xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân,
do nhân dân và vì nhân dân của nước ta.
Ba là, cơ sở xã hội của nhà nước pháp quyền XHCN là khối đại đoàn
kết toàn dân tộc. Với khối đại đoàn kết toàn dân tộc, nhà nước pháp quyền có
được cơ sở xã hội rộng lớn và khả năng to lớn trong việc tập hợp, tổ chức các
tầng lớp nhân dân thực hành và phát huy dân chủ. Nền kinh tế thị trường định
hướng XHCN tuy không loại bỏ được sự phân tầng xã hội theo hướng phân


15
hoá giàu nghèo, nhưng có khả năng xử lý tốt hơn mối quan hệ giữa tăng
trưởng kinh tế và thực hiện công bằng xã hội. Những mâu thuẫn xã hội phát
sinh trong điều kiện phát triển nền kinh tế thị trường do được điều tiết thông
qua pháp luật, chính sách và các công cụ khác của nhà nước nên ít có nguy cơ
trở thành các mâu thuẫn đối kháng và tạo ra các xung đột có tính chất chia rẽ
xã hội. Đây là một trong những điều kiện để bảo đảm ổn định chính trị, đoàn
kết các lực lượng xã hội vì mục tiêu chung của sự phát triển. Nhờ vậy, nhà
nước pháp quyền XHCN có được sự ủng hộ rộng rãi từ phía xã hội, nguồn
sức mạnh từ sự đoàn kết toàn dân, phát huy được sức sáng tạo của các tầng
lớp dân cư trong việc thực hiện dân chủ.
Những vấn đề cần giải quyết
Để xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN của nước ta hiện nay, một
trong những nhiệm vụ quan trọng và cấp thiết là chúng ta phải sớm xây dựng
và hoàn thiện hệ thống pháp luật. Nhu cầu đổi mới tư duy pháp lý đã được đặt
ra trong giai đoạn loại bỏ cơ chế pháp lý của nền kinh tế kế hoạch hoá tập
trung bao cấp, xây dựng cơ chế pháp lý cho thể chế kinh tế mới. Ngày nay,
một lần nữa nhu cầu đổi mới tư duy pháp lý lại được đặt ra với tính cấp thiết
mạnh mẽ, kiên quyết hơn, phù hợp với giai đoạn phát triển mới của đất nước.
Tư duy pháp lý mới có thể được phác thảo trên những nét chính sau đây:
Xác định và quán triệt cơ sở lý thuyết cho mô hình luật pháp nước ta

trong giai đoạn phát triển đến năm 2010 và giai đoạn tiếp theo
Điều này có nghĩa là chúng ta cần nhanh chóng xác định mô hình luật
pháp của nước ta được xây dựng theo lý thuyết nào. Dĩ nhiên, chúng ta không
thể áp dụng một cách máy móc các mô hình lý thuyết hiện đang được áp dụng
ở các quốc gia trên thế giới. Nhưng chúng ta cũng không thể không tính đến
sự ảnh hưởng và chi phối của các lý thuyết này đối với sự vận động của đời
sống pháp luật hiện đại. Vì vậy, việc nghiên cứu xây dựng các cơ sở lý thuyết


16
cho mô hình luật pháp của nước ta cần đặt trong mối quan hệ giữa hai yếu tố:
Dân tộc và hiện đại.
Cần có các nghiên cứu tổng kết kinh nghiệm lịch sử của các thế hệ
người Việt Nam trong tiến trình xây dựng và thực thi các thể chế pháp lý. Các
kinh nghiệm xây dựng và thi hành pháp luật trong các giai đoạn lịch sử cho
thấy các thế hệ người Việt Nam khá thành công trong việc tiếp thu các giá trị
pháp lý nước ngoài, làm nên một bản sắc pháp lý Việt Nam. Xin hãy lấy
Quốc triều hình luật thời Lê (Bộ luật Hồng Đức) để suy ngẫm. Bộ luật Hồng
Đức, theo đánh giá của sử gia Phan Huy Chú: “Thật là cái mẫu mực để trị
nước, các khuôn phép để buộc dân”. Điều cần nhấn mạnh là, mặc dù chịu ảnh
hưởng của tư tưởng pháp lý và các quy tắc pháp luật của Trung Hoa thời
phong kiến, nhưng Bộ luật Hồng Đức vẫn là bộ luật của người Việt Nam, là
sản phẩm văn hóa của người Việt Nam, chứ không phải là sự sao chép máy
móc pháp luật của nhà Đường hay nhà Minh. Trong lịch sử, dân tộc ta đã rất
thông minh và chủ động trong việc tiếp thu pháp luật nước ngoài để cách tân
đất nước. Ngày nay, chúng ta vẫn cần tiếp thu có chọn lọc các giá trị pháp luật
nước ngoài một cách chủ động để tiếp tục củng cố và phát triển đất nước.
Nhu cầu hội nhập kinh tế quốc tế trong bối cảnh toàn cầu hoá, bảo
đảm sự tương thích của pháp luật quốc gia với các không gian pháp lý có
tính quốc tế đang đòi hỏi chúng ta cần phải đẩy mạnh việc đổi mới công

tác lập pháp
Một là, đổi mới công tác kế hoạch lập pháp. Kế hoạch xây dựng luật
nếu chỉ được tiến hành trên cơ sở đề xuất của các cơ quan hữu quan để tập
hợp, cân đối và thông qua sẽ không thể khắc phục được tình trạng không hoàn
thành kế hoạch vì không ít dự án luật được đăng ký theo kiểu “giữ chỗ” và
trên thực tế, rất khó xây dựng do chưa xác định được đầy đủ tính chất, mục
tiêu, đối tượng điều chỉnh và phương pháp điều chỉnh. Sự đăng ký văn bản


17
theo kiểu “ghi danh” đã không ràng buộc một cách chặt chẽ trách nhiệm của
cơ quan đề xuất dự luật. Để khắc phục tình trạng này, nên chăng, thay vì xây
dựng và thông qua kế hoạch xây dựng luật hàng năm và 5 năm thường lệ,
Quốc hội chỉ cần thông qua các sáng kiến pháp luật. Cá nhân, cơ quan (theo
quy định của pháp luật) nêu sáng kiến pháp luật có trách nhiệm lập luận các
căn cứ về sự cần thiết của mục tiêu, đối tượng cần điều chỉnh và tính khả thi
của công tác xây dựng văn bản; trên cơ sở đó, Quốc hội thảo luận, thông qua
và giao trách nhiệm xây dựng dự thảo cho các cơ quan, tổ chức và cá nhân
phù hợp. Hiện nay, nước ta đã gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO),
công tác xây dựng luật của nước ta trở nên rất khẩn trương, không những phải
xây dựng các đạo luật mới đáp ứng yêu cầu của tình hình và nhiệm vụ mới
mà còn phải rà soát lại toàn bộ luật pháp của nước ta để có thể bổ sung, hoàn
thiện nhằm đảm bảo sự tương thích của pháp luật nước ta với không gian
pháp lý có tính quốc tế theo nguyên tắc: Nhà nước cộng hòa XHCN Việt Nam
tôn trọng và thực hiện các điều ước quốc tế đã ký kết hoặc tham gia.
Hai là, thay đổi quan niệm về quy mô các đạo luật. Thực tiễn xây dựng
luật ở nước ta thời gian qua cho thấy, các đạo luật được xây dựng và thông
qua phần nhiều đều có dung lượng khá lớn, các quy phạm và đối tượng điều
chỉnh cũng khá lớn. Do vậy, thời gian xây dựng luật phải kéo dài. Để khắc
phục tình trạng này, thay vì xây dựng và thông qua các đạo luật có quy mô

lớn, nên tập trung xây dựng và thông qua các đạo luật có quy mô điều chỉnh
hẹp. Một đạo luật với ít điều khoản sẽ được nhanh chóng xây dựng, đáp ứng
kịp thời các nhu cầu điều chỉnh pháp luật, dễ dàng tương thích với không gian
pháp lý quốc tế. Tính hữu ích của một đạo luật ít điều khoản không chỉ thể
hiện ở sự gọn nhẹ về nội dung, dễ xây dựng, mà còn thể hiện ở việc dễ kiểm
soát tính đồng bộ và thống nhất, dễ sửa đổi khi có nhu cầu và dễ áp dụng trên
thực tế.


18
Ba là, tăng cường lắng nghe và tiếp thu ý kiến của nhân dân đóng góp
xây dựng các dự thảo luật. Sự tham gia đóng góp ý kiến xây dựng pháp luật
của đông đảo các tầng lớp nhân dân là điều kiện quan trọng để pháp luật phản
ánh đúng ý chí, nguyện vọng của nhân dân, bảo đảm cho pháp luật thật sự là
của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Cần quy định, việc lấy ý kiến của
nhân dân đối với các dự án luật là điều kiện bắt buộc trong quá trình xây dựng
dự thảo luật. Đặc biệt, việc tiếp thu ý kiến của nhân dân vào các dự thảo luật
phải được thông báo công khai, minh bạch. Có như vậy, nhân dân mới cảm
thấy ý kiến của mình được tôn trọng, củng cố được niềm tin của nhân dân vào
pháp luật; mặt khác, khi đã được ban hành, luật sẽ nhanh chóng đi vào cuộc
sống và phát huy hiệu quả.


19

KẾT LUẬN
Thực tiễn phát triển của xã hội ta, đất nước ta xác nhận và khẳng định
vai trò lãnh đạo của Đảng. Đó chính là căn cứ, là điều kiện cần thiết để chúng
ta hoàn thiện pháp luật. Hiến pháp của nước ta đã ghi nhận vai trò lãnh đạo
của Đảng Cộng sản Việt Nam. Để khẳng định vai trò lãnh đạo của Đảng phù

hợp với những nguyên tắc của nhà nước pháp quyền, căn cứ vào kinh nghiệm
thực tiễn và yêu cầu của xã hội, cần cụ thể hóa hơn nữa mối quan hệ lãnh đạo
của Đảng, mà cụ thể là các tổ chức đảng và cấp ủy các cấp, cán bộ lãnh đạo
Đảng với các cơ quan nhà nước và các chức vụ nhà nước các cấp. Hoàn thiện
những cơ sở pháp lý đó sẽ giúp tránh được những biểu hiện bao biện, làm
thay hay can thiệp không đúng nguyên tắc của cấp ủy và cán bộ Đảng vào
công việc chính quyền mà có thời kỳ nhiều nơi mắc phải.
Nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng, mở rộng dân chủ, phát huy tối
đa vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và của các tổ chức chính trị - xã hội
trong xây dựng và quản lý nhà nước, trong vai trò phản biện và trong giám sát
hoạt động của các tổ chức trong hệ thống chính trị. Sự lãnh đạo của Đảng
được tăng cường không phải chỉ dựa vào quyền uy, mệnh lệnh, mà là bằng trí
tuệ, năng lực lãnh đạo của Đảng, ở khả năng vạch ra đường lối chính trị đúng
đắn, ở sự gắn bó với nhân dân và khả năng giáo dục, thuyết phục toàn xã hội
chấp thuận, ở vai trò tiên phong của đảng viên và tổ chức đảng trong các cơ
quan nhà nước, các tổ chức chính trị - xã hội, các tổ chức kinh tế, các tổ chức
xã hội, các tổ chức xã hội - nghề nghiệp. Trong điều kiện hiện nay ở Việt
Nam, sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam là điều kiện quan trọng nhất,
cơ bản nhất đối với sự nghiệp xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa của dân, do dân, vì dân.


20

TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] Bộ Giáo dục và Đào tạo (2007), Giáo trình Triết học (Dùng cho học viên
cao học và nghiên cứu sinh không thuộc chuyên ngành Triết học), NXB Lý
luận chính trị Hà Nội.
[2] Các tài liệu liên quan đến môn học.
[3] Đảng Cộng sản Việt Nam (1996), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần

thứ VIII, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
[4] PGS. TS. Đặng Văn Nam (2007), Địa lí Kinh tế - Xã hội Việt Nam thời kỳ
hội nhập, NXB. Giáo dục, Hà Nội.
[5] PGS. TS. Đặng Hữu Toàn (2003), Chủ nghĩa Mác – Lênin và công cuộc
đổi mới ở Việt Nam (Sách tham khảo), NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.



×