Tải bản đầy đủ (.pdf) (15 trang)

Số phận người phụ nữ trong các tác phẩm trung đại Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (195.2 KB, 15 trang )

Số phận người phụ nữ trong các tác phẩm văn học trung
đại Việt Nam.
A+APrintEmail

Hình ảnh người phụ nữ từ lâu đã trở thành đề tài muôn thuở của thi ca,
nhạc, hoạ. Nét đẹp đằm thắm, duyên dáng, đáng yêu của họ đã làm cho
bao văn nhân, nghệ sĩ phải rung động trái tim yêu để rồi sáng tạo nên
những áng thơ văn bất hủ ca ngợi vẻ đẹp của người phụ nữ dân tộc. Từ
khi nền văn học viết ra đời, thì bóng dáng người phụ nữ trở thành đề tài
lớn được tập trung khắc họa ở nhiều khía cạnh, phương diện gắn liến với
quá trình đi lên và phát triển của văn học.

Do ảnh hưởng của thời đại, đã có lúc, người phụ nữ phải chịu nhiều bi
kịch cay đắng, xót xa với số kiếp bị lệ thuộc, không làm chủ được cuộc
đời. Nhưng rồi, họ đã vươn lên tự giải phóng bản thân, dành được quyền
tự chủ, khẳng định vị thế là “một nửa thế giới” của mình. Theo dòng chảy
văn học Việt Nam, qua từng thời kì, giai đoạn, ta sẽ có cái nhìn khát quát,
toàn diện và sâu sắc về người phụ nữ…

Văn học trung đại


Phụ nữ là một đề tài lớn trong văn học Việt Nam. Từ trước thế kỉ XVI,
nhân vật phụ nữđã thoáng hiện trong các tác phẩm văn xuôi tự sự cũng
như trong thơ ca. Đó là hình ảnh những vị anh hùng dân tộc như Bà
Trưng, Bà Triệu, sống đánh giặc, chết hoá thành phúc thần tiếp tục giúp
dân giúp nước; hoặc các nhân vật khác như Mị Châu, vì ngây thơ mà bị
kẻ thù lợi dụng để đến mất nước tan nhà; như công chúa Tiên Dung thích
ngao du sơn thủy, bất chấp luật lệnh của vua cha, tự ý kết duyên cùng
chàng đánh cá Chử Đồng Tử nghèo khó không một mảnh khố che thân;
hay nàng quận chúa A Kim yêu say đắm Hà Ô Lôi – một kẻ vừa xấu vừa


đen nhưng có giọng hát mê hồn…

Trong lĩnh vực thơ ca, ta cũng thấy có một số bài, hoặc ngâm vịnh về
nhân vật lịch sử như các bài Vịnh Mị Ê, Vịnh nàng Điêu Thuyền, Vịnh
Chiêu Quân, hoặc các bài nói về nỗi buồn thương của các thiếu phụ, kẻ
thì bị tình duyên dang dở như bài Chức Nữ nhớ Ngưu Lang, Tiên Tử
mong Lưu Nguyễn, Hoàng Giang điếu Vũ Nương… Tuy nhiên, ở giai
đoạn này, nhân vật phụ nữ chưa trở thành đối tượng quan tâm chính của
văn học mà chỉ mới xuất hiện lẻ tẻ trong văn xuôi lịch sử, trong thần phả,
trong truyện dân gian, hoặc trong các bài thơ điếu, vịnh,…


Đến thế kỉ XVI, đặc biệt là thế kỉ XVIII, phụ nữ đã trở thành một trong
những đề tài lớn của văn học. Các thể loại văn học dường như đều xoay
quanh việc phản ánh số phận người phụ nữ. Vì vậy, trong văn học giai
đoạn này, hình tượng người phụ nữ hiện lên một cách khá đầy đủ và toàn
diện trên nhiều bình diện. Về văn xuôi, các tác phẩm nổi tiếng viết về đề


tài phụ nữ có “Truyền kì mạn lục” của Nguyễn Dữ (nửa đầu thế kỉ XVI),
“Truyền kì tân phả” của Đoàn Thị Điểm (1705 – 1748), “Kiến văn lục”
của Vũ Trinh (1759 – 1828),… Truyện Nôm cũng có rất nhiều tác phẩm
viết về đề tài này, nhưng tiêu biểu hơn cả là các truyện “Tống Trân – Cúc
Hoa”, “ Phạm Tải – Ngọc Hoa”, “Quan Âm Thị Kính”,… và các truyện
“Song Tinh Bất Dạ” của Nguyễn Hữu Hào(? – 1713), “Hoa Tiên” của
Nguyễn Huy Tự (1743 – 1790), “Truyện Kiều” của Nguyễn Du (1766 –
1820), “Sơ kính tân trang” của Phạm Thái (1777? – 1813),… Thơ ca viết
về phụ nữ, nổi bật là thơ của Hồ Xuân Hương, Nguyễn Du, “Chinh phụ
ngâm khúc” của Đặng Trần Côn và Đoàn Thị Điểm(?), “Cung oán ngâm
khúc” của Nguyễn Gia Thiều (1741 – 1798),…


Từ thế kỉ XVI đến đầu thế kỉ XIX, trong các thể loại văn học, thơ ca cũng
như văn xuôi tự sự, tác phẩm viết bằng chữ Hán cũng như viết bằng chữ
Nôm,… dường như nở rộ đề tài viết về người phụ nữ và hình tượng
người phụ nữ nổi bật lên với hai nét cơ bản: hiện thân của cái đẹp và
hiện thân của bi kịch đau thương. Từ góc nhìn của văn học trong giai
đoạn này, người phụ nữ chủ yếu được phản ánh nghiêng về số phận bất
hạnh và vẫy vùng trong lời kêu oán, than thân với khát vọng được giải
phóng. Hãy quay ngược thời gian, trở về quá khứ để tìm hiểu hình tượng
người phụ nữ trong văn học giai đoạn này.


Nhân vật phụ nữ, ở thể loại tự sự hay trữ tình trong văn học trung đại,
thường đẹp cả người lẫn nết, ít thấy có hiện tượng “xấu người đẹp nết”
như trong văn học dân gian. Chính vì thế, các nhân vật chính diện là
những phụ nữ trong văn học từ thế kỉ XVI đến đầu thế kỉ XIX hầu hết có
sự hài hoà giữa cái đẹp về hình thức với cái đẹp về tâm hồn, họ là hiện
thân của cái đẹp: “đẹp người và đẹp nết”. Điều hầu như mới lạ: các cô gái
khi đi vào văn học giai đoạn này đều là những giai nhân tuyệt thế. Hạnh
Nguyên trong “nhị độ mai” là một cô gái đẹp rực rỡ:

“Người đâu trong ngọc trắng ngà,
Mặt vành vạnh nguyệt, tóc rà rà mây”.

Chị em Thúy Vân và Thúy Kiều rõ ràng là khuôn mẫu của sắc đẹp:

“Vân xem trang trọng khác vời,
Khuôn trăng đầy đặn, nét ngài nở nang.
Hoa cười, ngọc thốt đoan trang,
Mây thua nước tóc tuyết nhường màu da.

Kiều càng sắc sảo mặn mà,
So bề tài sắc lại là phần hơn.


Làn thu thủy, nét xuân sơn,
Hoa ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh”.

Sắc đẹp người cung nữ trong “Cung oán ngâm khúc” của Nguyễn Gia
Thiều đã đến mức siêu phàm:

“Chìm đáy nước cá lừ đừ lặn,
Lửng lưng trời nhạn ngẩn ngơ sa.
Hương tươi đắm nguyệt say hoa,
Tây Thi mất vía Hằng Nga giật mình”.

Hồ Xuân Hương còn muốn vĩnh hằng hoá sắc đẹp của người con gái
trong bài thơ “Đề tranh tố nữ”:

“Hỏi bao nhiêu tuổi hỡi cô mình.
Chị cũng xinh mà em cũng xinh.
Đôi lứa như in tờ giấy trắng,
Ngàn năm còn mãi cái xuân xanh”.


Tuy nhiên, sắc đẹp của đa số nhân vật nữ trong văn học giai đoạn này
thường gắn liền với một phần phẩm chất không thể thiếu được, đó là tài.
Ở họ, sắc và tài tạo thành một cặp đặc điểm không tách rời nhau. Theo
quan niệm của các tác giả văn học trung đại, tài gồm bốn mặt sau đây:
cầm (đàn), kì (cờ), thi (thơ), hoạ (vẽ), nghĩa là: có tài đánh đàn, chơi cờ,
làm thơ và vẽ. Có thể coi Thuý Kiều của Nguyễn Du là nhân vật tiêu biểu

cho phẩm chất nói trên. Tiếng đàn của nàng làm cho Kim Trọng phải
“ngơ ngẩn sầu”, làm cho Thúc Sinh “cũng tan nát lòng” và làm cho Hồ
Tôn Hiến “nhăn mày, rơi châu”. Tài làm thơ của Kiều nhanh đến khó mà
tưởng tượng nổi:

“Tay tiên một vẫy đủ mười khúc ngâm.
…Tay tiên gió táp mưa sa…”
Đã nhanh, lại hay! Thơ của Kiều có thể cảm thông được quỷ thần, khiến
hồn ma Đạm Tiên phải hiện lên, khiến viên quan phủ “mặt sắt đen sì”
phải rủ lòng thương, không những chỉ tha cho Kiều mà còn đứng ra làm
lễ tác hợp cho nàng được lấy Thúc Sinh. Và Hoạn Thư, một con người tai
quái cũng phải thốt lên:

“Rằng: Tài nên trọng, mà tình nên thương”


Tuy vậy, ca ngợi tài và sắc của người phụ nữ không phải là mục đích của
tác giả văn học thế kỉ XVI - đầu XIX. Tài và sắc chỉ là một phương diện
của cái đẹp và làm nền để bộc lộ bản chất của cái đẹp: đẹp nết. Khi nói
đến đẹp nết là ta đã đề cập tới phạm trù đạo đức. Trong văn học dân gian
người ta cho rằng:

“Tốt gỗ hơn tốt nước sơn
Xấu người đẹp nết còn hơn đẹp người”.

Nhưng, như trên đã nói, trong văn học viết không có sự đối lập giữa hình
thức (xấu người) với nội dung (đẹp nết). Hình thức và nội dung thường
có sự hòa quyện sóng đôi. Vì thế, ở các truyện truyền kì cũng như truyện
Nôm, trong bất cứ hoàn cảnh nào, nhân vậtphụ nữ luôn toát lên một
phẩm chất cao đẹp: đức hi sinh, lòng vị tha và tấm tình chung thủy. Trước

tai biến bất ngờ của gia đình, Thúy Kiều đã hi sinh thân mình, hi sinh tình
yêu “Rẽ cho để thiếp bán mình chuộc cha”.

Rơi vào lầu xanh của Tú Bà, Kiều phải sống một cuộc đời nhơ nhớp. Có
lần nàng toan tự tử để mong thoát khỏi kiếp sống đọa đày đó. Nhưng khi
Thúc Sinh ngỏ lời cầu hôn, Kiều không coi đấy là cơ may phải chớp lấy.
Điều đầu tiên Kiều nghĩ đến là hạnh phúc của Hoạn Thư, người vợ hiện
tại của Thúc Sinh. Nếu như nàng lấy chàng Thúc, một hiện thực không


thể tránh khỏi cho Hoạn Thư là “Thêm người, người cũng bớt lòng riêng
tây”.

Rõ ràng, người bị thiệt thòi trước hết là Hoạn Thư. Tình cảm vợ chồng
của Hoạn Thư sẽ bị chia sẻ. Kiều không đang tâm. Rồi khi được quan phủ
và Thúc ông tác thành cho lấy Thúc Sinh, có thể nói, đó là lúc Kiều được
sống trong hạnh phúc ấm êm. Nhưng nàng không giành giật hạnh phúc
cho riêng mình. Nàng nghĩ đến sự cô đơn, thiệt thòi của Hoạn Thư, do đó
nàng chủ động nài nỉ chàng Thúc trở về thăm vợ:

“Xin chàng hãy trở lại nhà.
Trước người đẹp ý, sau ta biết tình”.

Làm việc này, Kiều hoàn toàn dự cảm được điều gì đang đợi mình sau
chuyến viếng thăm vợ của chàng Thúc. Nàng nói:

“Dù khi sóng gió bất bình
Lớn ra phận lớn, tôi đành phận tôi”.

Biết hi sinh mình cho người là một trong những đức tính của Kiều nói

riêng và của các nhân vật phụ nữ trong văn học Việt Nam thế kỉ XVI -


đầu XIX nói chung. Cùng với lòng vị tha, tấm tình thủy chung son sắt
cũng là một trong những phẩm chất nổi bật của ngườiphụ nữ.

Kiều ăn ở với mọi người trước sau như bát nước đầy. Bà quản gia, vãi
Giác Duyên, Thúc Sinh… là những người đã từng cưu mang, cứu vớt
Kiều. Sau này, khi đã trở thành vợ của người anh hùng cái thế Từ Hải,
Kiều vẫn nhớ tới ơn sâu nghĩa nặng của họ. Nàng đền ơn chàng Thúc thật
là trọng hậu:

“Gấm trăm cuốn, bạc nghìn cân,
Tạ lòng dễ xứng báo ân gọi là”.

Gặp lại Bà quản gia và vãi Giác Duyên, Kiều nhắc tới công ơn cứu giúp
của họ bằng lời nói vừa chân thật, vừa cảm động:

“Nhớ khi lỡ bước sảy vời,
Non vàng chưa dễ đền bồi tấm thương.
Nghìn vàng gọi chút lễ thường,
Mà lòng Phiếu mẫu mấy vàng cho cân!”.


Hình ảnh Ngọc Hoa trong truyện “Phạm Tải – Ngọc Hoa” còn đặc sắc
hơn. Có thể nói, đó là hình ảnh lí tưởng của tình yêu chung thủy sắt son.
Là con gái Trần tướng công, một viên quan to và giàu có, nhưng Ngọc
Hoa lại yêu và kết duyên cùng Phạm Tải – chàng hàn sĩ lỡ thời, không
chốn lương thân, không nơi trú ngụ, phải đi ăn xin. Vua Trang Vương ép
nàng bỏ Phạm Tải để lấy mình, nàng kiên quyết cự tuyệt. Phạm Tải bị

Trang Vương sát hại, Ngọc Hoa ôm xác chồng về nhà. Cái chết không
chia lìa được tình yêu của họ, suốt ba năm ròng, Ngọc Hoa vẫn gắn bó
với người chồng đã chết ấy:

“Ngày ngày ngồi ở bên ngoài,
Đêm thời mở nắp quan tài vào trong.
Đá vàng khăng khăng thuỷ chung,
Cổ tay lại gói đầu chồng như xưa”.
Ba năm như vậy trôi qua. Lấy cớ nàng mãn tang chồng, Trang Vương sai
người đến bắt Ngọc Hoa về kinh đô, ép nàng làm vợ. Ngọc Hoa không
chịu đầu hàng, nàng tự tử để giữ trọn tình nghĩa với chồng. Xuống đến
âm cung, nàng còn tìm gặp Phạm Tải, cùng đưa nhau đến gặp Diêm
Vương để kiện Trang Vương, bắt tên này phải đền tội. Tình yêu chung
thuỷ đã giúp họ chiến thắng. Cuối cùng Trang Vương bị bỏ vào vạc dầu,


Phạm Tải và Ngọc Hoa được sống lại, trở về dương thế, Phạm Tải lên
ngôi trị vì thiên hạ…

Mỗi một thể loại văn học, mỗi một tác giả văn học lại có cách biểu đạt
riêng về cái đẹp của người phụ nữ. Hồ Xuân Hương đã hình tượng hoá
phẩm chất của người phụ nữtrong bài thơ thất ngôn tứ tuyệt “Bánh trôi
nước” theo kiểu riêng của bà:

“Thân em vừa trắng lại vừa tròn,
Bảy nổi ba chìm với nước non.
Rắn nát mặc dầu tay kẻ nặn,
Mà em vẫn giữ tấm lòng son”.

Dù cuộc đời có bị vùi dập “bảy nổi ba chìm” thì “tấm lòng son” của

người phụ nữ vẫn được giữ gìn trọn vẹn. Đó là nét nổi bật thứ nhất về
hình tượng người phụ nữ trong văn học Việt Nam thế kỉ XVI - đầu XIX.

Với đầy đủ những vẻ đẹp đó, đáng lẽ ra, người phụ nữ phải được sống
một cuộc sống hạnh phúc trọn vẹn nhưng ở giai đoạn này, cả nước Việt
chìm trong những ràng buộc, lễ giáo khắc nghiệt tối tăm. Và vô hình
chung, số phận của người phụ nữ cũng không thể nào vượt ra khỏi ranh


giới của hoàn cảnh xã hội. Dưới chế độ phong kiến, mọi thế lực xã hội, kể
cả gia đình, đều có thể chà đạp lên thân phận người phụ nữ. Đứng đầu
các thế lực xã hội thời bấy giờ là vua chúa.
Để phục vụ cho việc ăn chơi truỵ lạc, bọn chúng đã kén hàng trăm cô gái
trẻ trung, xinh đẹp vào cung làm phi tần. Chế độ cung tần dã man đã làm
cho tuổi xuân và sắc đẹp của các cô gái bị chôn vùi trong cung cấm.
“Cung oán ngâm khúc” của Nguyễn Gia Thiều là tiếng oán thán đến rớm
máu cho những số phận đau thương đó. Khi đã vào cung, ngoại trừ một
vài người có cái may mắn được vua chúa sủng ái, còn hầu hết các cung
nữ đều mau chóng bị ruồng bỏ, lãng quên. Họ chỉ còn biết âm thầm thở
than, oán trách:

“Hoa này bướm nỡ thờ ơ
Để gầy bông thắm, để xơ nhị vàng”.

Dân gian thường nói:

“Vua thì nhiều vợ nhất đời
Ba trăm mỹ nữ, sáu mươi cung tần”.



Bởi quá nhiều cung tần mỹ nữ như vậy, người cung phi không thể tìm
được cho mình chỗ đứng trong cái “gia đình” một chồng mà có tới vài ba
trăm vợ ấy. Họ buộc lòng phải thốt lên:

“Ngán thay cái én ba nghìn
Một cây cù mộc biết chen cành nào”.

Sống âm thầm cô đơn, để cho tuổi xuân tàn tạ và trở thành những người
không chồng không con “Bỗng không mà hoá ra người vị vong” (Người
vị vong: người có chồng bị chết) rồi chết già trong cung cấm, đó là số
phận không thể tránh khỏi của người cung nữ.
Chế độ cung tần còn làm cho nhiều gia đình tan nát, cha xa con, vợ lìa
chồng. Ngọc Hoa trong truyện “Phạm Tải - Ngọc Hoa” là một ví dụ tiêu
biểu cho những số phận bi ai. Nàng bị vua Trang Vương ép phải bỏ Phạm
Tải – người chồng mà nàng hết mực yêu thương để lấy hắn. Ép không
được, Trang Vương đã dùng thủ đoạn độc ác: giết Phạm Tải, Ngọc Hoa
đau đớn tuyệt vọng:

“Trời cao đất rộng có hay,

Sát phu, kiếp phụ, sự này thấu chưa?”




×