Tải bản đầy đủ (.docx) (20 trang)

tài liệu ôn thi môn ngữ văn lớp 12

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (146.25 KB, 20 trang )

ÔN THI NGỮ VĂN 12
CHUYÊN ĐỀ 1: NGUYỄN ÁI QUỐC - HỒ CHÍ MINH VÀ “TUYÊN NGÔN
ĐỘC LẬP”
A.Phần I: Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh
- Năm sinh (1890 -1969)
- Tên gọi thời niên thiếu: Nguyễn Sinh Cung.
+ Thời gian dạy học ở trường Dục Thanh - Phan Thiết: Nguyễn Tất Thành (mong
muốn mọi ước mơ, sự nghiệp của Người tất yếu trở thành hiện thực.
- Thời kì đầu hoạt động Cách mạng ở nước ngoài: Nguyến Ái Quốc gửi gắn tình
yêu tha thiết với nhân dân, đất nước.
- Khi người về nước hoạt động và lãnh đạo Cách mạng, lấy tên Hồ Chí Minh
(mong muốn luôn có ý chí sáng suốt và đúng đắn → mang tên Hồ Chí Minh cho
đến khi từ trần.
→ Mỗi cái tên gọi của Bác đều gợi lên vẻ đẹp trong nhân cách, trong tâm hồn Hồ
Chí Minh.
* Quê quán
- Quê cha: làng Kim Liên, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An.
- Quê mẹ: làng Hoàng Trù, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An.
→ Giàu truyền thống yêu nước, trở thành cái nôi nuôi dưỡng tình yêu đất nước sâu
nặng trong con người Hồ Chí Minh.
* Xuất thân trong một gia đình nhà Nho yêu nước.
1


+ Cha: Nguyễn Sinh Sắc: phó bảng (phó Tiến sĩ).
+ Mẹ: Hoàng Thị Loan (con của một gia đình nhà Nho).
- Học vấn: thuở nhỏ học chữ Hán, chữ quốc ngữ và tiếng Pháp.
→ Hồ Chí Minh am hiểu cả văn hóa - văn học phương Đông (Trung Quốc) và văn
hóa - văn học phương Tây (Pháp).
→ Hai dòng phương Đông và phương Tây quyện chảy trong huyết mạch văn
chương của Người.


* Các chặng đường hoạt động
- 1910, Người dạy học ở Phan Thiết.
- 1911, Người ra đi tìm đường cứu nước tại bến cảng Nhà Rồng.
- Từ năm 1918 - 1922, chủ yếu hoạt động Cách mạng ở Pháp: người tích cực viết
báo, viết sách tuyên truyền chống chủ nghĩa thực dân và đoàn kết các dân tộc thuộc
địa.
- Từ năm 1923 - 1941: Chủ yếu người hoạt động ở Liên Xô, Trung Quốc và Thái
Lan.
- Từ năm 1942 - 1943: Người bị chính quyền Tưởng Giới Thạch bắt giam tại nhà
ngục Quảng Tây - Trung Quốc.
- Ngày 02 - 09- 1945, Người đọc tuyên ngôn độc lập tại Quảng trường Ba Đình.
→ Hồ Chí Minh là vị lãnh tụ vĩ đại, đồng thời là nhà văn, nhà thơ lớn của dân tộc,
với một di sản văn học vô cùng quý giá.
II. Quan điểm sáng tác của Hồ Chí Minh (3 quan điểm)
2


* Giới thiệu: Sinh thời Hồ Chí Minh thường tự nhủ: “Ngâm thơ ta vốn không
ham”. Nhưng trên thực tế, Người đã để lại cho đời một sự nghiệp văn học lớn lao
về tầm vóc, phong phú, đa dạng về thể loại và thống nhất trên tinh thần thép, phục
vụ đắc lực cho sự nghiệp Cách mạng. Có được điều đó không chỉ do yếu tố khách
quan, năng khiếu bẩm sinh mà điều quan trọng quyết định là người đã xác định cho
mình một quan điểm sáng tác đúng và tiến bộ.
1. Quan điểm nghệ thuật thứ nhất : Xác định bản chất của văn học.
- Hồ Chí Minh coi văn học là một bộ phận của Cách mạng, là vũ khí chiến đấu lợi
hại, phục vụ cho sự nghiệp Cách mạng. Biểu hiện trong thư gửi các họa sĩ năm
1951, Bác viết: “ Văn hóa - văn nghệ là một mặt trận. Anh chị em là chiến sĩ trên
mặt trận ấy”. Còn trong bài “Cảm tưởng đọc Thiên gia thi”, Người viết và chỉ rõ
trong thơ phải có chất thép, nhà thơ phải như một chiến sĩ trên mặt trận biết xung
phong:

“Thơ xưa yêu cảnh thiên nhiên đẹp
Mây, gió, trăng, hoa, tuyết, núi, sông.
Nay ở trong thơ nên có thép
Nhà thơ cũng phải biết xung phong”.
Chất “thép” ấy chính là bản lĩnh Cách mạng, là tính chiến đấu và tinh thần chiến sĩ
của nhà thơ.
- Quan điểm này của Bác chính là sự kế thừa tư tưởng: “Văn dĩ tải đạo” trong
truyền thống của cha ông. Đồng thời cũng bắt nguồn từ quan điểm “Văn chương
phải có thế trận đuổi nghìn quân giặc” (Trần Thái Tông). Rồi quan điểm “Chở bao
nhiêu đạo thuyền không khẳm/ Đâm mấy thằng gian bút chẳng tà”.
3


2. Quan điểm nghệ thuật 2
- Người chú trọng đến tính chân thật và tính dân tộc trong văn chương.
+ Tính chân thật: Chân thật trong cảm xúc, chân thật trong hiện thực.
- Người thường chê chất thơ mộng trong văn chương và thường căn dặn văn nghệ
sĩ phải giữ cho tình cảm chân thực và “miêu tả cho hay cho chân thành, cho hùng
hồn hiện thực phong phú của đời sống.
* Tính dân tộc:
- Nội dung: nội dung cần hướng vào đời sống Cách mạng của toàn dân tộc, viết
cho phù hợp với tâm hồn với tính cách của dân tộc, đề cao cái tốt và phê phán cái
xấu, giữ cho được bản sắc của dân tộc trong tác phẩm của mình.
- Hình thức - nghệ thuật: Giữ gìn được sự trong sáng của tiếng Việt. Ngôn ngữ phải
giản dị, gần gũi với quần chúng, tránh lối sống cầu kì, xa lạ.
3. Quan điểm nghệ thuật 3: Chú trọng đến đối tượng, tiếp nhận của văn học.
- Vì văn chương là vũ khí sắc bén phục vụ cho sự nghiệp Cách mạng nên khi sáng
tác Người phải xuất phát từ đối tượng tiếp nhận và mục đích sáng tác để lựa chọn
và quyết định nội dung và hình thức của tác phẩm. Mỗi khi cầm bút Người luôn tự
đặt ra 4 câu hỏi: “Viết cho ai?” (Xác định đối tượng), “Viết để làm gì?” (Xác

định mục đích), “Viết như thế nào?” (Xác định hình thức). Tuy nhiên nếu chỉ như
vậy sẽ làm giảm nhẹ tính nghệ thuật trong văn chương. Vì vậy, Người luôn căn dặn
người nghệ sĩ phải là người sáng tạo và có vai trò định hướng, nâng cao trình độ
nhận thức cho quần chúng nhân dân.
III. Sự nghiệp sáng tác văn học

4


*Giới thiệu: Với một quan điểm sáng tác đúng đắn và tiến bộ, sự chủ động tiếp
thu tinh hoa văn hóa thế giới, Hồ Chí Minh đã để lại một sự nghiệp văn học lớn lao
về tầm vóc, phong phú, đa dạng về thể loại và đặc sắc về phong cách.
1. Văn chính luận
- Chia làm 2 giai đoạn:
+ Đầu thế kỉ XX:
. Bút danh: Nguyễn Ái Quốc.
. Sáng tác một loạt các tác phẩm tiêu biểu: “Bản án chế độ thực dân Pháp”.
. Những bài báo đăng trên các tờ Người cùng khổ, Nhân đạo ở Pari.
+ Sau Cách mạng tháng 8 thành công.
. Bút danh: Hồ Chí Minh.
. Sáng tác tiêu biểu: “Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến”; “Tuyên ngôn độc lập”;
“Không có gì quý hơn độc lập tự do”.
- Nội dung: + Đấu tranh trực diện với kẻ thù.
+ Ca ngợi và khẳng định ý chí chiến đấu, tinh thần khát khao độc lập
của dân tộc.
- Nghệ thuật:
+ Hàm xúc và ngắn gọn, bộc lộ tư duy sáng suốt, trí tuệ uyên bác, văn phong chặt
chẽ, hào sảng, giàu tính luận chiến.
2. Truyện và ký


5


- Chia làm 2 giai đoạn
+ Khi Người hoạt động ở Pháp: “Lời than vãn của bà Trưng Trắc” (1922); “Vi
hành” (1923); “ Những trò lố hay là Vaden và Phan Bội Châu”(1925).
+ Sau Cách mạng tháng Tám: Với bút danh T.Lan, Hồ Chí Minh viết tập ký: “Vừa
đi đường vừa kể chuyện” (1963).
- Nội dung:
+ Vạch trần bộ mặt vô nhân đạo của bọn thực dân Pháp và tay sai phong kiến Việt
Nam.
+ Ca ngợi những tấm gương yêu nước và tinh thần cách mạng của dân tộc.
- Nghệ thuật:
+ Ngắn gọn, sắc sảo, biến hóa linh hoạt mang đầy tính châm biếm, thâm trầm, sâu
sắc.
3. Thơ ca
- Chia làm 3 giai đoạn:
+ Nhật kí trong tù.
+ Thời gian sáng tác: Mùa thu năm 1942 đến mùa thu năm 1943.
+ Mục đích sáng tác: “Ngày dài ngâm ngợi cho khuây” để giãi bày tâm trạng.
+Nội dung: Vạch trần bộ mặt thật chế độ nhà tù Tưởng Giới Thạch.
- Chân dung tinh thần con người Hồ Chí Minh bản lĩnh, luôn hướng về quê hương,
nhạy cảm với con người, thiên nhiên).

6


+ Thơ “Việt Bắc”.
+ Thời gian: Từ năm 1941 đến 1945.
+ Mục đích viết: Tuyên truyền Cách mạng và thể hiện những tâm sự “nỗi nước

nhà” của một vị lãnh tụ yêu nước, ái dân.
+ Tác phẩm tiêu biểu: Thơ tuyên truyền: Hòn đá to, Ca công nhân, Ca sợi chỉ, Ca
người lính, Ca dân cày.
. Thơ nghệ thuật: Rằm tháng giêng, Cảnh khuya, Tức cảnh Pác Bó.
. Thơ chúc Tết: Thời gian từ năm 1946 đến khi Người qua đời.
+ Mục đích: Chúc Tết và động viên tinh thần chiến đấu của nhân dân.
- Nội dung:
+ Khắc họa lên chân dung của nhân vật trữ tình luôn mang nặng nỗi nước nhà, tâm
hồn luôn hòa hợp với tự nhiên và làm chủ hoàn cảnh.
- Nghệ thuật:
Thơ tuyên truyền: ngắn, giản dị, dễ nhớ...
Thơ nghệ thuật luôn luôn có sự kết hợp hài hòa giữa cổ điển và hiện đại, giữa thép
và tình.
IV. Phong cách nghệ thuật Hồ Chí Minh
1. Khái niệm
- Là sự lặp lại tới mức thống nhất về những yếu tố có tính khái quát nhưng lại có
sự vận động khác biệt ở yếu tố cụ thể trong sáng tác hoặc trong từng giai đoạn sáng
tác của nhà văn.
7


2. Phong cách nghệ thuật Hồ Chí Minh
- Vừa đa dạng lại vừa thống nhất.
a. Phong cách: Đa dạng (Phong phú về thể loại, đa dạng về phong cách).
+ Văn chính luận: Văn phong ngắn gọn, bộc lộ tư duy sắc sảo, lập luận chặt chẽ, lí
lẽ đanh thép, bằng chứng thuyết phục , giàu tính luận chiến, đa dạng về bút pháp.
* Truyện và kí: Tính hiện đại và tính chiến đấu mạnh mẽ, nghệ thuật trào phúng
sắc bén, thâm thúy , đậm chất phương Đông, hài hước, hóm hỉnh, đậm chất phương
Tây. Tình huống truyện sáng tạo và độc đáo.
* Thơ ca:

- Thơ tuyên truyền: Lời lẽ giản dị, mang màu sắc dân gian hiện đại, dễ thuộc, dễ
nhớ.
- Thơ nghệ thuật: kết hợp hài hòa giữa bút pháp cổ điển và hiện đại, giữa chất thép
và chất tình.
b. Thống nhất:
- Dù viết ở thể loại nào thì văn phong của Người cũng rất hàm súc, cô đọng, thâm
thúy và tinh tế. Ngòi bút của Người luôn chủ động, linh hoạt, hình tượng nghệ
thuật luôn hướng về Cách mạng, về ánh sáng và niềm vui.
- Nghệ thuật có sự kết hợp giữa truyền thống, hiện đại, giàu tri thức văn hóa, mang
đậm chất trí tuệ người phương Đông.

8


B: TÁC PHẨM TUYÊN NGÔN ĐỘC LẬP - Hồ Chí Minh
I. Giới thiệu chung
1. Hoàn cảnh, đối tượng và mục đích sáng tác “Tuyên ngôn độc lập”
a. Hoàn cảnh sáng tác
- 19 - 08 -1943, Cách mạng tháng Tám thành công làm thay đổi toàn bộ bộ mặt xã
hội Việt Nam, từ chế độ quản chủ sang dân chủ, từ nô lệ sang làm chủ, nhưng đất
nước vẫn đứng trước muôn vàn khó khăn, kẻ thù vẫn chưa từ bỏ âm mưu xâm lược
nước ta.
- Phía Nam, quân đội Anh núp sau Anh là Thực dân Pháp.
- Phía Bắc: quân Tàu Tưởng, núp sau là đế quốc Mĩ.

9


- Hơn nữa, thực dân Pháp còn láo lếu tung ra dư luận tuyên bố rằng: “Đông
Dương là đất bảo hộ của Pháp, nay Nhật đầu hàng thì Đông Dương phải thuộc về

tay Pháp”.
- 26 - 08 - 1945, Hồ Chí Minh từ chiến khu Việt Bắc trở về Hà Nội.
- 28 - 08 -1945, tại số nhà 48, phố Hàng Ngang, Hà Nội. Người đã soạn thảo
“Tuyên ngôn độc lập”.
- 02 - 09 - 1945, đứng trước hơn 2 vạn đồng bào, Hồ Chí Minh trong bộ kaki trắng
giản dị trên lễ đài, người đã thay mặt cho chính phủ lâm thời đọc “Tuyên ngôn độc
lập” khai sinh ra nước Việt Nam dân chủ cộng hòa.
b. Đối tượng
- Bản tuyên ngôn hướng tới đồng bào cả nước, những người mà hơn 80 năm qua
đang rên xiết trong ách xâm lược của thực dân Pháp và phát xít Nhật. Khi chiến
tranh thế giới thứ 2 kết thúc, phát xít Nhật đầu hàng đồng minh, nhân dân Việt
Nam đứng dậy dưới sự lãnh đạo của Việt Minh giành chính quyền trong cả nước
vào tháng 8 năm 1945.
- Đối tượng hướng tới của bản tuyên ngôn còn là nhân dân trên toàn thế giới. Nhân
dân trên thế giới họ chưa biết đến một đất nước Việt Nam độc lập hoàn toàn mà chỉ
biết rằng Việt Nam là thuộc địa, là nô lệ của Thực dân Pháp, vì thế bản tuyên ngôn
trịnh trọng tuyên bố với thế giới về sự ra đời của một nước Việt Nam độc lập, tự
do, thống nhất, có chủ quyền.
- Từ hoàn cảnh ra đời của tuyên ngôn chúng ta nhận thấy đối tượng hướng tới của
tác phẩm còn là các thế lực thù địch và bọn cơ hội quốc tế đang lăm le tái chiếm
nước ta. Cụ thể thực dân Pháp và đế quốc Mĩ.

10


C. Mục đích
- Tuyên ngôn độc lập ra đời nhằm tuyên bố xóa bỏ chế độ thực dân phong kiến.
Khẳng định quyền tự chủ và vị thế bình đẳng của dân tộc ta trên toàn thế giới.
- Nhằm đập tan những luận điệu xảo trá của kẻ thù và những âm mưu xâm lược
của chúng, đồng thời khẳng định và kêu gọi nhân dân cả nước luôn sẵn sàng đương

đầu với âm mưu xâm lược mới của kẻ thù.
2. Thể loại
3. Bố cục: 3 phần
- Phần 1: Cơ sở pháp lí của bản tuyên ngôn (Từ đầu đến “đó là lẽ phải không ai có
thể chối cãi được”).
- Phần 2: Cơ sở thực tiễn và tội ác của Thực dân Pháp, quá trình nổi dậy của nhân
dân ta (Tiếp đến “Lập nên chế độ dân chủ cộng hòa”).
- Phần 3: Lời tuyên ngôn (phần còn lại).
=> Nhận xét về bố cục:
- Mục đích của “Tuyên ngôn độc lập” không phải chỉ để tuyên bố mà còn bẻ gãy
những luận điệu xảo trá của kẻ thù, vì vậy bản tuyên ngôn trước hết phải xác định
cơ sở pháp lí để làm điểm tựa vững trãi, vạch tội kẻ thù, sau đó chỉ ra tính chất phi
nghĩa của chúng và chính nghĩa của ta. Rồi cuối cùng mới đanh thép khẳng định
xóa bỏ chế độ quân chủ, thoát li quan hệ với thực dân Pháp, xóa bỏ những hiệp ước
đã kí về thực dân Pháp =>> Bố cục logic và chặt chẽ.
II. Phân tích
1. Cơ sở pháp lí của bản tuyên ngôn
11


* Mở đầu bản tuyên ngôn: Người không nêu ra pháp lí quốc tế trực tiếp mà lại
trích dẫn 2 bản tuyên ngôn:
+ Bản tuyên ngôn của Mĩ: 1776
+ Bản tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền của Pháp: 1791.
=>> Cả hai bản tuyên ngôn đều hướng tới quyền tự do, bình đẳng, quyền được
sống, quyền được sung sướng và quyền mưu cầu hạnh phúc. Khẳng định: “Đó là lẽ
phải không ai có thể chối cãi được”.
*Ý nghĩa của cách nêu này
- Nêu ra được pháp lí quốc tế: Lấy những lí lẽ đã trở thành chân lí được cả thế giới
thừa nhận để làm nền cho việc thế giới buộc phải công nhận quyền độc lập của dân

tộc ta.
- Bộc lộ được niềm tự hào kín đáo của Bác khi đặt 3 bản tuyên ngôn, 3 cuộc cách
mạng ngang hàng nhau. Ở thế kỷ XV, Bình Ngô đại cáo của Nguyễn Trãi đã sử
dụng đăng đối cân xứng để khẳng định tầm vóc của dân tộc mình:
“Từ Triệu, Đinh, Lí, Trần bao đời gây nền độc lập
Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên hùng cứ một phương”.
Nay trong Bản tuyên ngôn độc lập của Hồ Chí Minh, cuộc vùng dậy phá tan xiềng
xích của dân tộc ta được sánh với những cuộc cách mạng của các dân tộc thuộc
địa: Bắc Mĩ đấu tranh thoát khỏi thực dân Anh và cách mạng dân quyền, nhân
quyền của Pháp, đấu tranh thoát khỏi chế độ quân chủ ở Pháp cuối thế kỷ XVIII.
- Đây chính là chiến thuật “gậy ông đập lưng ông” dùng lí lẽ của đối thủ để bác bỏ
chính lí lẽ của đối thủ. Người dường như tiên cảm được toan tính, dã tâm tìm cách
chối cãi lẽ phải của kẻ thù nên ở đầu của bản tuyên ngôn, Người đã tìm cách tranh
12


luận ngầm lẽ phải của kẻ thù. Muốn chối cãi lẽ phải ư? Thì đây, hãy đọc lại lời lẽ
mà tổ tiên mình đã từng nói.
- Trích 2 bản tuyên ngôn này, Người đã tạo ra được 1 hàng rào pháp lí vừa khéo
léo, mềm mỏng vừa cương quyết, vừa cứng cỏi.
+ Khéo léo, mềm mỏng: Bởi Bác chẳng những trích dẫn tuyên ngôn của họ mà còn
trân trọng, đánh giá đó là những điều bất hủ.
+ Xong lại cứng cỏi và kiên quyết khi Người chốt lại: “Đó là lẽ phải không ai có
thể chối cãi được”. Nếu họ cố tình đi ngược lại tức là họ đã phủ nhận chính tổ tiên
mình, làm vấy bùn lên lá cờ nhân đạo đã từng là niềm tự hào của cha ông họ.
*Đóng góp của Hồ Chí Minh trong cách nêu này
- Nếu 2 bản tuyên ngôn mà Người trích dẫn chỉ dừng lại ở quyền con người thì ở
đây Bác đã dùng phép suy luận tương đồng để phát triển thành quyền lợi của dân
tộc. Có thể nói rằng cống hiến của Người nằm trọn trong 3 chữ: “Suy rộng ra” để
thấy “Tất cả các dân tộc trên thế giới thì đều sinh ra bình đẳng, dân tộc nào cũng có

quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do”. Lời suy rộng được đánh giá là một
đóng góp quan trọng của Hồ Chí Minh cho phong trào giải phóng dân tộc trên thế
giới. Nó là phát súng lệnh mở đầu cho cơn bão táp Cách mạng, làm sụp đổ chủ
nghĩa thực dân, giành độc lập cho các nước thuộc địa ở Á, Phi, Mĩ, La Tinh.
2. Cơ sở thực tiễn của bản tuyên ngôn (Tố cáo tội ác và quá trình nổi dậy của
nhân dân ta)
A.Tố cáo tội ác của thực dân Pháp
*Tại sao??

13


- Bởi thực dân Pháp lúc đó là kẻ thù trực tiếp đe dọa đến nền độc lập của ta. Đồng
thời vào thời điểm tuyên ngôn khai sinh ra nước Việt Nam hoàn toàn non trẻ, Việt
Nam rất cần sự đồng tình ủng hộ của nhân loại tiến bộ. Vì vậy bản tuyên ngôn đã
đập tan từng luận điệu xảo trá của bọn cướp nước.
*Cách kết tội thực dân Pháp
- Thực dân Pháp đưa ra luận điệu 1: Pháp đến Việt Nam để khai hóa Đông Dương
thì bản tuyên ngôn vạch trần bản chất thực dân của chúng bằng những lí lẽ, dẫn
chứng đanh thép, hùng hồn.
+ Khẳng định lí lẽ: “Thế mà hơn 80 năm nay, bọn thực dân Pháp lợi dụng lá cờ tự
do, bình đẳng, bác ái đến cướp nước ta, áp bức đồng bào ta. Hành động của chúng
trái hẳn với nhân đạo và chính nghĩa”.
+ Khẳng định bằng lí lẽ chưa đủ mà Người còn đưa thêm dẫn chứng khiến kẻ thù
không thể chối cãi được: “Trong 80 năm chúng thống trị dân ta, chúng đã gây ra
những tội ác gì? Chúng thủ tiêu quyền tự do dân chủ, chia rẽ 3 kì Bắc, Trung,
Nam; Tắm máu các phong trào yêu nước và cách mạng của dân tộc ta, thi hành
chính sách ngu dân, đầu độc dân bằng thuốc phiện, rượu cồn, bóc lột, vơ vét đến
tận cùng xương tủy. Cuối cùng gây ra nạn đói “từ Quảng Trị đến Bắc Kì hơn 2
triệu đồng bào ta bị chết đói”.

=>Thực dân Pháp không phải có công khai hóa mà là có tội cướp nước.
- Nghệ thuật kết tội: Tác giả sử dụng biện pháp nghệ thuật liệt kê để kể tội thực dân
trên toàn lĩnh vực khiến người đọc có cảm giác đâu đâu cũng hiển diện tội ác chất
chồng của kẻ thù. Mỗi ý liệt kê lại được tách ra thành từng đoạn thơ văn riêng biệt
để tô đậm ấn tượng, đặc biệt 14 câu văn kể tội đều bắt đầu bằng từ chúng, những từ
chúng nặng nề gợi tội ác của kẻ thù trút xuống đầu nhân dân ta như búa tạ, những
14


từ giàu hình ảnh như thẳng tay chém giết, tắm các cuộc khởi nghĩa của ta trong bể
máu... tăng hiệu quả diễn đạt và sức tố cáo cho bài văn nghị luận.
- Thực dân Pháp đã đưa ra luận điệu 2: Có công bảo hộ Đông Dương ư? Bản
tuyên ngôn đã chỉ ra rõ đó không phải là công mà là tội vì:
+ Lí lẽ: trong 5 năm chúng đã 2 lần bán nước ta cho Nhật.
+ Lí lẽ chưa đủ Người còn đưa ra dẫn chứng, cụ thể là:
. Mùa thu năm 1940 Pháp quỳ gối đầu hàng Nhật khiến nhân dân ta chịu 2 tầng
xiềng xích cực khổ, hơn 2 triệu đồng bào ta chết đói.
. Ngày 09/03/1945, Pháp lại bỏ chạy đầu hàng khi Nhật vào tước khí giới của quân
đồng minh.
+ Nghệ thuật lập luận: Bác không chỉ sử dụng câu văn dài ngắn trùng điệp khác
nhau mà còn ghi lại các mốc thời gian cụ thể theo diễn biến để kể tội 2 lần bán
nước ta của thực dân Pháp cho Nhật. Cách viết này khiến cho người đọc có cảm
tưởng như đang lật giở những trang hồ sơ tội ác, mà ở những trang ấy, mỗi sự kiện
lịch sử đều được luận tội rõ ràng.
=>> Thực dân Pháp không phải có công bảo hộ mà có tội bán nước.
- Thực dân Pháp đưa ra luận điệu 3: Thực dân Pháp tuyên bố Đông Dương là
thuộc địa của chúng và chúng có quyền trở lại Đông Dương.
+ Lí lẽ: bản tuyên ngôn chỉ rõ Đông Dương không còn là thuộc địa của Pháp nữa.
+Dẫn chứng: “Sự thật là mùa thu năm 1940, nước ta đã thành thuộc địa của Nhật
chứ không còn là thuộc địa của Pháp nữa.

- Sự thật là nước Việt Nam ta lấy lại từ tay Nhật chứ không phải từ tay Pháp.
15


+ Nghệ thuật: Có sự lặp lại 2 chữ “sự thật” như 1 điệp khúc tiếp nối nhau nhằm tạo
lí lẽ hùng hồn, bẻ gãy luận điệu xảo trá, trơ tráo của kẻ thù trước dư luận thế giới.
=> Như vậy bản tuyên ngôn như 1 bản tranh luận giữa thực dân và đế quốc, Người
đã bác bỏ hùng hồn, sắc bén mọi luận điệu của kẻ thù.
b. Quá trình nổi dậy của nhân dân
Còn đối với dân tộc Việt Nam, dân tộc ta có xứng đáng được hưởng tự do hay
không? Có đủ tư cách làm chủ đất nước hay không? Bản tuyên ngôn của Người đã
đưa ra những lí lẽ khẳng định 1 cách đanh thép về những gì nhân dân ta phải trải
qua.
*Quá trình nổi dậy
Bằng những hình ảnh nào:
+Loại 1: Nổi dậy, đánh đổ, lập nên.
+ Loại 2: Giúp cho, cứu cho.
- Thực dân Pháp:
+ Hoặc là bỏ chạy, hoặc đầu hàng.
+ Phản bội lại quân đồng minh.
+ Bán nước ta 2 lần cho Nhật.
=> Bản chất đê hèn, nhu nhược.
+ Nhân dân Việt Nam đứng về phe đồng minh dưới sự lãnh đạo của Việt Minh,
đánh đổ phát xít Nhật.

16


→ Tư thế đẹp, lập nên nước Việt Nam dân chủ cộng hòa “rũ bùn đứng dậy sáng
lòa”.

- Thực dân Pháp thẳng tay khủng bố Việt Minh, nhẫn tâm giết nốt số đông tù chính
trị → Bản chất “tàn bạo”.
- Nhân dân Việt Nam:
+ Giúp cho người Pháp chạy qua biên thùy.
+ Cứu cho người Pháp ra khỏi nhà giam của Nhật.
+ Bảo vệ tính mạng và tài sản cho họ.
=> Khoan hồng, nhân đạo khi kẻ thù thất thế.
=>> Nhận xét: Nhân dân Việt Nam được miêu tả như 1 tấm gương vằng vặc chính
nghĩa để soi tỏ bộ mặt quỷ dữ của kẻ thù. Đó cũng là tấm lòng nhân ái, nhân đạo
trong truyền thống của nhân dân ta xuất hiện trong “Bình Ngô đại cáo” của
Nguyễn Trãi.
* Sự thật lịch sử: Pháp chạy, Nhật hàng, vủa Bảo Đại thoái vị.
- Với sự anh hùng bất khuất chiến đấu cho độc lập, tự do và tinh thần nhân đạo bác
ái như thế, nhân dân ta xứng đáng được hưởng tự do và hưởng độc lập, và sự thật
lịch sử đã được khẳng định bằng một câu văn ngắn nhưng mang lượng thông tin rất
lớn: “Pháp chạy, Nhật hàng, vua Bảo Đại thoái vị”. Câu văn chỉ 9 chữ mà như 1
bức điện tín, như 1 thước phim lịch sử được đem ra chiếu trước mặt người đọc
những sự kiện anh hùng của cả dân tộc, cùng 1 lúc nhân dân ta đánh đổ cả 3 thế
lực: thực dân, phát xít và phong kiến. Để rồi không nói mà ai ai cũng biết người
chủ thực sử của đất nước Việt Nam là nhân dân Việt Nam.
3. Phần tuyên ngôn
17


* Lời tuyên bố 1: Hướng về thực dân Pháp
- Thoát li hẳn quan hệ thực dân với Pháp.
- Xóa bỏ hết những hiệp ước Pháp đã kí về nước Việt Nam.
- Xóa bỏ hết tất cả mọi đặc quyền của thực dân Pháp trên nước Việt Nam.
→ Xóa bỏ toàn bộ dấu vết của thực dân Pháp trên đất nước Việt Nam.
* Lời tuyên bố 2: Hướng về nhân dân Việt Nam

Nhân dân Việt Nam sẽ đoàn kết và kiên quyết đoàn kết chống lại mọi âm mưu xâm
lược của bọn thực dân.
* Lời tuyên bố 3:Hướng về nhân dân thế giới (nhiều người yêu tự do, ưa
chuộng hòa bình).
- Tin tưởng và thuyết phục họ, công nhận và ủng hộ trong nền độc lập của ta.
*Lời tuyên bố cuối cùng: Ngắn gọn và quan trọng nhất
+ Câu 1: Tuyên bố Việt Nam trở thành 1 nước tự do và độc lập.
+ Câu 2: Tuyên bố về ý chí và lòng quyết tâm bảo vệ độc lập dân tộc bằng tất
cả tinh thần, lực lượng, tính mạng và của cải.
Câu tuyên ngôn cuối như một lời thề thiêng liêng của toàn dân tộc mà qua đó Bác
ngầm báo với kẻ thù rằng: Dân tộc Việt Nam đã nhận ra âm mưu của chúng và sẵn
sàng đánh đổi tất cả để bảo vệ chủ quyền, độc lập của đất nước.
III. Tổng kết: Các giá trị của “Tuyên ngôn độc lập”
1. Giá trị lịch sử

18


- Bản tuyên ngôn đã tuyên bố chấm dứt được chế độ phong kiến thuộc địa, mở ra
kỉ nguyên mới của dân tộc: Kỉ nguyên của độc lập và tự do.
2. Giá trị tư tưởng
- Tư tưởng yêu nước: tác phẩm nêu cao được truyền thống yêu nước và tinh thần
bất khuất chống giặc ngoại xâm, đồng thời khẳng định khát vọng độc lập - tự do
của dân tộc.
- Tư tưởng nhân đạo: Mạnh mẽ khẳng định quyền của con người, quyền của dân
tộc mà chúng ta xứng đáng được hưởng.
+ Người tố cáo tội ác của kẻ thù, Người phê phán thực dân và phát xít chà đạp
quyền của con người và quyền của dân tộc.
+ Sự khoan hồng, nhân đạo của nhân dân Việt Nam.
3. Giá trị nghệ thuật

- Bản “Tuyên ngôn độc lập” xứng đáng là một áng văn chính luận mẫu mực:
+ Bố cục rõ ràng
+ Lí lẽ sắc sảo
+ Lập luận chặt chẽ
+ Giọng văn hùng hồn và đanh thép
=> Với 3 giá trị trên “Tuyên ngôn độc lập” xứng đáng là “thiên cổ hùng văn” của
dân tộc và xứng đáng với lời ca ngợi của Trần Dân Tiên: “Tuyên ngôn độc lập là
hoa quả của bao nhiêu máu đã đổ và bao nhiêu tính mạng đã hi sinh của những con
người anh dũng ở Việt Nam trong nhà tù, trong trại tập trung, trong những hải đảo

19


xa xôi, trên máy chém, trên chiến trường.... là kết quả của bao nhiêu hi vọng, gắng
sức và tin tưởng của hơn 20 triệu nhân dân Việt Nam lúc bấy giờ.

20



×