Tải bản đầy đủ (.doc) (105 trang)

Sử dụng trò chơi đóng vai theo chủ đề phát triển khả năng tưởng tượng cho trẻ 5-6 tuổi

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (592.54 KB, 105 trang )

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Lứa tuổi mầm non có vị trí quan trọng trong q trình phát triển cuộc đời của
mỗi con người. Nhiều cơng trình nghiên cứu khoa học dưới góc độ sinh lý, tâm vận
động, tâm lý xã hội…đã khẳng định sự phát triển của trẻ em từ 0-6 tuổi có tính
quyết định để tạo nên thể lực, nhân cách, năng lực phát triển trí tuệ trong tương lai.
Tưởng tượng là một trong những cấu thành của năng lực trí tuệ. Tưởng
tượng là cơ sở của bất kỳ hoạt động sáng tạo nào, nó biểu hiện trong mọi
phương diện của đời sống văn hóa, làm cho mọi sáng tạo nghệ thuật, khoa
học, kỹ thuật có khả năng thực hiện. L. X. Vưgotxky nói “Nhất thiết mọi cái ở
xung quanh ta và do bàn tay con người làm ra tất cả thế giới văn hóa, khác với
thế giới tự nhiên – đều là sản phẩm của trí tưởng tượng con người và của hệ
sáng tạo dựa trên cơ sở tưởng tượng đó”[45]. Tưởng tượng tham gia vào quá
trình lao động của con người. Trong quá trình hoạt động của con người tưởng
tượng cho phép con người nhìn thấy kết quả lao động trước khi bắt đầu, chính
vì vậy mà tưởng tượng định hướng hoạt động.
Đối với trẻ em, đặc biệt là trẻ dưới 6 tuổi, tưởng tượng góp phần hình thành
nhân cách ở trẻ. Nhà tâm lý học M. Birkinlit và A. Pêtropxki trong cuốn “Tưởng
tượng và hiện thực” đã khẳng định vai trò của tưởng tượng trong việc hình thành
nhân cách bình thường ở trẻ, nó giúp và cần thiết cho sự hình thành khả năng sáng
tạo, nhờ có tưởng tượng mà trẻ vượt qua trở ngại đến sự phát triển nhân cách.
Tưởng tượng có vai trị to lớn trong q trình tiếp thu và thể hiện tri thức mới. Nhờ
có tưởng tượng dựa vào những kinh nghiệm đã có trẻ có thể hình dung những điều
chưa từng biết đến trong quá trình lĩnh hội tri thức mới. Tưởng tượng vừa là kết quả
của quá trình phát triển trí tuệ đồng thời nó cũng là điều kiện cần thiết cho sự phát
triển nhận thức. Như vậy, việc phát triển tưởng tượng cho trẻ là một nội dung giáo
dục cần thiết để chuẩn bị cho trẻ đến trường phổ thơng.
Tưởng tượng của trẻ được hình thành và phát triển thông qua các hoạt động
ở trường mầm non. Một trong những hoạt động giúp cho việc phát triển khả năng

1




tưởng tượng của trẻ là hoạt đông vui chơi, cụ thể hơn là trị chơi đóng vai theo chủ
đề (ĐVTCĐ). Trị chơi ĐVTCĐ là mơ phỏng lại các hoạt động và các mối quan hệ
của người lớn trong xã hội bằng cách nhập vào (đóng vai) một nhân vật nào đó để
thực hiện chức năng xã hội của họ. Bằng việc tham gia trò chơi, trẻ “tiếp xúc một
cách độc đáo với xã hội người lớn” [37], ở chúng hình thành tính chủ định của q
trình tâm lý, rèn luyện những phẩm chất ý chí, phát triển tưởng tượng, tư duy…qua
đó hình thành nền móng của nhân cách. Bởi vậy, tổ chức, hướng dẫn chơi ĐVTCĐ
có ý nghĩa hết sức quan trọng đối với trẻ mẫu giáo, đặc biệt là lứa tuổi mẫu giáo
lớn (5-6 tuổi) - giai đoạn chuẩn bị bước vào trường phổ thơng. Vì vậy, chúng tơi
thực hiện đề tài “Sử dụng trị chơi đóng vai theo chủ đề phát triển khả năng
tưởng tượng cho trẻ 5-6 tuổi” với mong muốn sẽ đưa ra một vài ý kiến đóng góp
vào kho tàng lý luận và thực tiễn trong việc tìm hiểu và phát triển khả năng tưởng
tượng cho trẻ trong trò chơi ĐVTCĐ.
2. Mục đích nghiên cứu
Trên cở sở nghiên cứu lý luận và thực tiễn, xây dựng quy trình sử dụng trị
chơi ĐVTCĐ phát triển khả năng tưởng tượng cho trẻ 5-6 tuổi, góp phần phát triển
nhân cách toàn diện cho trẻ trước tuổi học.
3. Khách thể và đối tượng nghiên cứu
3.1. Khách thể nghiên cứu
Quá trình phát triển khả năng tưởng tượng cho trẻ 5-6 tuổi thơng qua trị chơi
ĐVTCĐ.
3.2. Đới tượng nghiên cứu
Quy trình sử dụng trò chơi ĐVTCĐ phát triển khả năng tưởng tượng cho trẻ
5-6 tuổi.
4. Giả thuyết khoa học
Trí tưởng tượng của trẻ phong phú đa dạng. Nếu giáo viên ý thức được vai
trò của trò chơi ĐVTCĐ đối với việc phát triển khả năng tưởng tượng cho trẻ cũng
như xây dựng được quy trình sử dụng trị chơi ĐVTCĐ thì có thể giúp cho việc phát

triển khả năng tưởng tượng của trẻ tốt hơn.

2


5. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Nghiên cứu cơ sở lí luận của việc sử dụng trò chơi ĐVTCĐ phát triển khả
năng tưởng tượng cho trẻ 5-6 tuổi
- Nghiên cứu thực trạng việc sử dụng trò chơi ĐVTCĐ phát triển khả năng
tưởng tượng cho trẻ 5-6 tuổi ở trường mầm non
- Xây dựng và thực nghiệm quy trình sử dụng trị chơi ĐVTCĐ phát triển
khả năng tưởng tượng cho trẻ 5-6 tuổi ở trường mầm non
6. Phạm vi nghiên cứu của đề tài
Nghiên cứu tưởng tượng ở trẻ có nhiều nội dụng, đề tài chỉ tập trung nghiên
cứu quy trình sử dụng trò chơi ĐVTVĐ phát triển khả năng tưởng tượng trong trò
chơi ĐVTCĐ cho trẻ 5-6 tuổi tại trường Mầm non thị trấn Tứ Trưng và trường
Mầm non xã Ngũ Kiên thuộc huyện Vĩnh Tường – tỉnh Vĩnh Phúc.
7. Phương pháp nghiên cứu
7.1. Phương pháp nghiên cứu lí luận
- Phương pháp phân tích - tổng hợp lý thuyết
- Phương pháp phân loại và hệ thống hóa lý thuyết
7.2. Phương pháp nghiên cứu thực tiễn
- Phương pháp quan sát: quan sát giờ hoạt động góc và các hoạt động khác
của trẻ ở trường mầm non để tìm hiểu thực trạng sử dụng trò chơi ĐVTVĐ phát
triển khả năng tưởng tượng cho trẻ 5-6 ở trường mầm non.
- Phương pháp điều tra viết: Dùng phiếu hỏi để tìm hiểu nhận thức của giáo
viên về vai trò của việc phát triển khả năng tưởng tượng cho trẻ, quy trình giáo viên
sử dụng các trò chơi ĐVTVĐ nhằm phát triển khả năng tưởng tượng cho trẻ ở
trường mầm non.
- Phương pháp trò chuyện: Trò chuyện cùng giáo viên để tìm hiểu thơng tin

của trẻ và hình thức sử dụng trị chơi ĐVTCĐ nhằm phát triển KNTT cho trẻ.
- Phương pháp thực nghiệm: tiến hành thực nghiệm sư phạm trên trẻ 5-6 tuổi
để xác định tính khả thi và hiệu quả của quy trình sử dụng trò chơi ĐVTCĐ phát
triển khả năng tưởng tượng cho trẻ.

3


7.3. Phương pháp xử lý số liệu
- Phương pháp thống kê tốn học: Sử dụng để phân tích kết quả thu được.
8. Những đóng góp của đề tài
8.1. Về lí luận
- Xây dựng cơ sở khoa học của việc sử dụng trò chơi ĐVTCĐ phát triển khả
năng tưởng tượng cho trẻ 5-6 tuổi.
- Góp phần hệ thống hóa cơ sở lý luận về việc sử dụng trò chơi ĐVTCĐ phát
triển khả năng tưởng tượng cho trẻ 5-6 tuổi.
- Tìm hiểu thực trạng của sử dụng trò chơi ĐVTCĐ phát triển khả năng
tưởng tượng cho trẻ 5-6 tuổi.
- Đề xuất quy trình sử dụng trị chơi ĐVTCĐ phát triển khả năng tưởng
tượng cho trẻ 5-6 tuổi.
- Xây dựng tiêu chí và thang đánh giá khả năng tưởng tượng của trẻ 5-6 tuổi
trong trị chơi ĐVTCĐ.
8.2. Về thực tiễn
Đóng góp và làm phong phú thêm cách sử dụng trị chơi ĐVTCĐ góp phần
phát triển khả năng tưởng tượng cho trẻ mẫu giáo.

4


CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VIỆC SỬ DỤNG TRỊ CHƠI

ĐĨNG VAI THEO CHỦ ĐỀ PHÁT TRIỂN KHẢ NĂNG TƯỞNG TƯỢNG
CHO TRẺ 5-6 TUỔI
1.1. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
1.1.1. Các cơng trình nghiên cứu về khả năng tưởng tượng của trẻ 5-6
tuổi của các nhà tâm lý- giáo dục
Tưởng tượng là một quá trình tâm lý đặc biệt cho phép tạo ra cái mới, hình
dung được những điều mà trẻ chưa được trực tiếp nhìn thấy, cho thấy trước kết quả
và quá trình thực hiện hoạt động. Vấn đề tưởng tượng từ lâu đã thu hút được mối
quan tâm của nhiều nhà nghiên cứu.
* Nghiên cứu đặc điểm tưởng tượng của trẻ mẫu giáo ở nước ngoài
Từ những năm đầu của thế kỷ XX, tưởng tượng đã được các nhà khoa học
tâm lý người Pháp nghiên cứu. Đặc biệt là Ribô, ông đã coi tưởng tượng như một
quá trình xây dựng biểu tượng mới từ những gì đã có từ trước (xây dựng biểu tượng
mới dựa trên kinh nghiệm cá nhân đã có). Ơng cho rằng nghiên cứu tưởng tượng
trong mối liên hệ thống nhất của hai yếu tố xúc cảm và trí tuệ.
Các nhà tâm lý người Đức như B.Stern và L.Điui thì nhận định tưởng tượng
là một khả năng bẩm sinh và vì thế họ cho rằng tưởng tượng của trẻ em trước tuổi
học đặc sắc, phong phú hơn ở người lớn.
S.Phrớt (1856 -1939) và những người theo trường phái của ông cho rằng
nguồn gốc những kích thích tạo ra tưởng tượng là sự dồn nén các bản năng tính dục
khi chúng khơng được thỏa mãn. Họ lập luận rằng khi khơng được thỏa mãn thì dục
vọng sẽ không tự mất đi mà bị dồn nén vào vô thức, trong vô thức họ tưởng tượng
để thỏa mãn dục vọng. Những người theo trường phái này cho rằng chức năng cơ
bản của tưởng tượng là bảo vệ “Cái tơi”, điều hịa những cảm xúc bị dồn nén.
J.Piaget (1896 – 1980) nhà tâm lý học Thụy Sĩ, khi nói về sự phát triển các
chức năng kí hiệu chỉ ra rằng những hình ảnh của tưởng tượng khơng phải chỉ là sự
sao chép hiện thực một cách đơn thuần mà là sự sao chép một cách tích cực những
bức tranh tri giác[24].

5



Một số quan điểm về tưởng tượng của các nhà tâm lý học cịn đánh đồng
tưởng tượng với trí nhớ, tiêu biểu là: Vinhem Serer, Muyle Phraiphenx. Xuất phát
từ ý tưởng muốn phản bác lại luận thuyết coi tưởng tượng là yếu tố không nhận biết
được, là lãnh địa riêng của thiên tài sáng tạo, là sức mạnh vơ hình của sự sáng tạo
độc lập, các tác giả đã quy tưởng tượng thành một hiện tượng tâm lý phổ biến. Họ
coi hình ảnh của trí nhớ đều là sự thể hiện thực sự của tưởng tượng, trí nhớ và tưởng
tượng chẳng qua chỉ là một mà thôi và đấy là khả năng gợi lại những biểu tượng cũ.
Các nhà tâm lý học phương tây như: Guilford, Wallasen, Kogan, Taylor
C.W,…..và các nhà tâm lý học Mỹ như: Willson, Torsance, J.Gillord nghiên
cứu và cho rằng tưởng tượng được xem như tư duy sáng tạo – một thành tố
không thể thiếu được của trí tuệ con người. Họ cho rằng tưởng tượng sáng tạo
ln gắn liền với hoạt động sáng tạo, trong đó thành phần cấu trúc của hoạt
động sáng tạo bao gồm các yếu tố.
-

Tính linh hoạt sáng tạo.

-

Tính độc đáo.

-

Tính tỉ mỷ

Quan điểm của các nhà tâm lý học Mác xít khẳng định “sự sáng tạo ra cái
mới, ban đầu chỉ là dưới hình thức biểu tượng đó là tưởng tượng”.
C. Mác từ thế kỷ trước đã đưa ra một quan niệm duy vật biện chứng – quan

niệm nền tảng cho sự nghiên cứu khoa học về tưởng tượng .Ông cho rằng sự sáng
tạo ra cái mới, mới đầu chỉ là dưới hình thức “biểu tượng” đó chính là tưởng tượng.
V.I.LêNin đã đánh giá cao vai trò của tưởng tượng khi ông viết người ta sẽ
nhầm nếu cho rằng trí tưởng tượng chỉ cần thiết cho thi sĩ. Đó là một thiên kiến ngu
xuẩn! Ngay cả các nhà toán học tưởng tượng cũng cần, hay trong việc phát minh ra
cách tính vi phân, tích phân cũng khơng thể có được nếu khơng có trí tưởng tượng.
Trí tưởng tượng một phẩm chất vô cùng quý giá của con người.
L.X.Vưgôtxky (1896-1934) người đặt nền móng cho việc nghiên cứu tưởng
tượng. Trong các tác phẩm của mình tưởng tượng và sáng tạo ở lứa tuổi thiếu nhi,
sự phát triển chức năng tâm lý cấp cao. Ông đã viết về tưởng tượng của con người

6


nói chung. Theo ơng tưởng tượng là một hoạt động tâm lý phức tạp, một quá trình
tâm lý như các q trình tâm lý đã nghiên cứu, nó là sự phản ánh hiện thực khách
quan và phát triển mạnh mẽ ở lứa tuổi mẫu giáo. Ông đã nghiên cứu tưởng tượng
chặt chẽ với các yếu tố:
- Tưởng tượng được xây dựng bằng những yếu tố lấy trên hiện thực và kinh
nghiệm cũ của con người.
- Cảm xúc .
- Tư duy.
- Ngơn ngữ.
Tư tưởng của L.X.Vưgơtxky về q trình hình thành và phát triển tưởng
tượng ở trẻ khơng nằm ngồi quy luật phát triển của chức năng cao cấp [45].
Nhiều nhà tâm lí học đã xem xét tưởng tượng dưới góc độ học thuyết hoạt
động của L.X.Vưgôtxky và A.N.Lêonchep như: X.L.Rubinstein, J.M. Rozet,
V.Zaiporogiet, ĐB.Encônhin, A.A.Luiblinxcaia, O.M.Điatrencô… Họ chỉ ra rằng
các phương tiện chủ yếu của hoạt động nhận thức trong đó có tưởng tượng là các ký
hiệu, hình ảnh L.A.Vengher đã chỉ ra rằng những phương tiện nhận thức chủ yếu ở

trẻ em là chuẩn nhận cảm các mẫu hình như một dạng đặc biệt của thế giới hiện
thực. Trẻ lớn lên và phát triển không chỉ trong thế giới đồ vật thật, mà còn trong thế
giới các ký hiệu tượng trưng và sử dụng chúng trong hoạt động nhận thức cũng như
tưởng tượng là vô cùng cần thiết. Tác giả X.L.Rubinstein lại cho rằng thời điểm
quan trọng của các quá trình tưởng tượng là sự xuất hiện và hình thành một biểu
tượng hình ảnh trọn vẹn trên cơ sở các yếu tố đã cho.
Nhà tâm lý học O.M.Điatrencô cho rằng việc lĩnh hội các phương tiện của
hoạt động tưởng tượng diễn ra trong mối quan hệ tác động qua lại giữa trẻ với
những đồ vật của nền văn hóa xã hội đã được tạo dựng nhờ sự phát triển các chức
năng kí hiệu trong đó các dạng hoạt động khác nhau của trẻ dưới sự tác động qua lại
của người lớn.
Trong những thập kỷ gần đây, các nhà khoa học Xô Viết đã đi sâu nghiên
cứu nhiều mặt khác nhau của hoạt động tưởng tượng như một quá trình, cơ chế của
hoạt động tưởng tượng, những yếu tố ảnh hưởng đến sự phát triển và những đặc
điểm cơ bản của tưởng tượng ở trẻ.

7


Tác giả I.I.Palagina nghiên cứu sự hình thành và phát triển trí tưởng tượng
của trẻ trong giáo duc cổ truyền Nga và chẩn đoán các mức độ phát triển tưởng
tượng của trẻ ở lứa tuổi vườn trẻ. Cơng trình nghiên cứu của bà đã tiếp nối tư tưởng
của Vưgôtxky về vai trò hoạt động thực tiễn qua lại giữa trẻ và người lớn ở lứa tuổi
vườn trẻ đối với việc hình thành và lĩnh hội các ký hiệu để trở thành cơng cụ của
hoạt động trí tuệ nói chung và đặc biệt vai trò của giáo dục cổ truyền đối với việc
lĩnh hội các ký hiệu tưởng tượng ban đầu ở trẻ làm cơ sở cho việc xuất hiện và phát
triển tưởng tượng.
E.E. Xapagova đã nghiên cứu các thao tác xây dựng biểu mẫu điều kiện cần
thiết cho sự phát triển trí tưởng tượng ở trẻ mẫu giáo. Nghiên cứu của bà đã vạch ra
triển vọng tốt đẹp của các trị chơi lắp ghép, xếp hình theo mơ hình trong các trường

mẫu giáo đối với sự phát triển trí tưởng tượng cho trẻ.
Tác giả X.A.Zavaragin đã nghiên cứu vấn đề tưởng tượng bạo lực ở lứa tuổi
học sinh phổ thông. Trong các tác phẩm nghiên cứu về tưởng tượng của mình tác
giả đã đánh giá cao vai trị của các loại trò chơi cũng như bất cứ hoạt động thực tiễn
nào và mối quan hệ trong gia đình đến sự phát triển tưởng tượng của trẻ em đồng
thời chỉ ra sự cần thiết của trò chơi lành mạnh, xây dựng bầu khơng khí gia đình
đầm ấm, giàu tình thương để làm giảm đi sự xuất hiện của các hiện tượng bạo lực
trong tưởng tượng của trẻ.
Các nhà nghiên cứu tiêu biểu của tâm lý học Xô Viết đều xem xét tưởng
tượng như một quá trình nhận thức, một chức năng tâm lý cấp cao. Sự phát triển của
tưởng tượng cũng là quá trình nhập tâm chuyển vào trong các quan hệ xã hội dưới
dạng ký hiệu họ nghiên cứu tưởng tượng theo các tư tưởng sau:
- Mối liên hệ giữa tưởng tượng với kinh nghiệm về thế giới hiện thực.
- Vai trò của hành động thực với sự xây dựng hình ảnh tưởng tượng.
- Vai trị của ngơn ngữ trong việc khơi phục hình ảnh tưởng tượng trong óc.
* Nghiên cứu đặc điểm tưởng tượng của trẻ mẫu giáo ở Việt Nam
Tưởng tượng là một vấn đề được các nhà giáo dục học và tâm lý học Việt
Nam quan tâm nghiên cứu. Trong việc nghiên cứu tưởng tượng nói chung và tưởng

8


tượng của trẻ mầm non nói riêng có nhiều đóng góp có ý nghĩa cho việc xây dựng
lý luận và phương pháp đánh giá sự phát triển tưởng tượng của trẻ em như: Phạm
Minh Hạc, Phạm Hoàng Gia, Nguyễn Quang UẨn, Nguyễn Ánh Tuyết, Ngơ Cơng
Hồn, Lê Thanh Thủy và nhiều tác giả khác đều cho rằng tưởng tượng là một đặc
trưng chỉ có ở người và đánh giá cao vai trò của tưởng tượng đối với giáo dục đặc
biệt là giáo dục trí tuệ.
Tác giả Trương Bích Hà đã trình bày vai trị to lớn của tưởng tượng đối với
một số ngành nghề chuyên biệt nói riêng và đối với đời sống con người nói chung,

trong luận văn viết về khả năng tưởng tượng sáng tạo hành động của sinh viên khoa
diễn viên, trường Đại học sân khấu Điện ảnh [11].
Lê Thanh Thủy nghiên cứu về “Ảnh hưởng của tri giác tới tưởng tượng sáng
tạo trong hoạt động vẽ của trẻ mẫu giáo 5-6 tuổi” đã khẳng định vai trò to lớn của
khả năng tri giác đối với tưởng tượng, đặc biệt trong hoạt động vẽ của trẻ [30].
Việc nghiên cứu tưởng tượng đều xuất phát từ một trong ba quan điểm sau:
+ Tưởng tượng có nguồn gốc sinh học
+ Tưởng tượng được nghiên cứu dước góc độ đánh đồng với các hoạt động
tâm lý khác.
+ Tưởng tượng là hoạt động tâm lý nằm trong giai đoạn nhận thức lý tính, nó
gắn liền với hoạt động sáng tạo.
Như vậy, Có nhiều nghiên cứu về tưởng tượng từ những góc độ khác nhau
về nguồn gốc, yếu tố ảnh hưởng và q trình hình thành tưởng tượng của trẻ 5-6
tuổi… Tóm lại, các nghiên cứu về tưởng tượng ở nhiều góc độ khác nhau đã chỉ ra
được những vấn đề về tưởng tượng như sau:
- Tưởng tượng là một quá trình nhận thức cấp cao nhằm phản ánh cái mới
chưa từng có trong vốn kinh nghiệm sống của cá nhân bằng cách xây dựng những
hình ảnh mới trên cơ sở những biểu tượng đã có và nảy sinh trước nhu cầu khám
phá, phát hiện, sáng tỏ cái mới.
- Nghiên cứu tưởng tượng được đặt trong mối liên hệ chặt chẽ với các yếu tố:
+ Sự tích lũy kinh nghiệm hiện thực ở trẻ.

9


+ Vai trò của cảm xúc, hành động đối với việc xây dựng hình ảnh tưởng tượng.
+ Ngơn ngữ với việc khơi phục hình ảnh tưởng tượng trong óc.
- Q trình hình thành tưởng tượng được phát triển theo qui luật phát triển
của các chức năng tâm lý cấp cao như sau:
+ Xây dựng và làm giàu hình ảnh tưởng tượng.

+ Tách rời hình ảnh tưởng tượng ra khỏi hình ảnh của thế giới hiện thực.
1.1.2. Nghiên cứu vấn đề sử dụng trị chơi đóng vai theo chủ đề phát triển
khả năng tưởng tượng cho trẻ 5-6 tuổi
Ở lứa tuổi mẫu giáo, vui chơi là hoạt động chủ đạo. Vì vậy việc sử dụng TC
nói chung và trị chơi ĐVTCĐ nói riêng là đặc biệt cần thiết khơng chỉ trong hoạt
động nhận thức mà cịn trong việc hình thành và phát triển nhân cách của trẻ lứa
tuổi mầm non hiện nay. Việc sử dụng trị chơi ĐVTCĐ có ý nghĩa hết sức quan
trọng đối với quá trình hình thành và phát triển trí tuệ cũng như hình thành nhân
cách trẻ. Chính vì vậy, trị chơi ĐVTCĐ từ lâu đã được các nhà nghiên cứu nhìn
nhận là trung tâm trong các hoạt động vui chơi của trẻ em mẫu giáo.
Các tác giả N.K.Krupxkaia, D.V.Mendgierinxkaia, X.L.Rubinstein, L.XVugotxki, P.G. Xamarucova...đã nghiên cứu một cách tồn diện về trị chơi
ĐVTCĐ của trẻ mẫu giáo.
Về ý nghĩa của trò chơi, các tác giả P.G. Xamarukova, A.A.Liublinxkaia
A.V.Cherkhop, T.E.Conhincova, V.P.Gialogina và P.V.Giaparogiet,I.G. Nherovich
đã thống nhất rằng trò chơi ĐVTCĐ là phương tiện hữu hiệu để giáo dục tồn diện
nhân cách trẻ. Qua trị chơi trẻ tích lũy những kinh nghiệm xã hội, những phẩm chất
đạo đức của con người, trên cơ sở đó hình thành mối quan hệ tích cực với các sự
kiện và nguyên tắc đạo đức xã hội. Mặt khác, trị chơi ĐVTCĐ có ảnh hưởng đến
sự hình thành tình cảm tập thể của trẻ, góp phần giáo dục thẩm mỹ, hình thành kinh
nghiệm vận động cho trẻ [9].
Trong những tác phẩm của mình, đơng đảo các nhà tâm lý học, giáo dục học
đã chỉ ra nội dung của trị chơi ĐVTCĐ chính là cuộc sống xã hội muôn màu muôn
vẻ của người lớn được trẻ em phản ánh trong khi chơi.

10


Các nhà nghiên cứu đã dành sự quan tâm nhất định đến việc tổ chức, hướng
dẫn chơi ĐVTCĐ ở các lứa tuổi, trong đó có lứa tuổi trẻ 5-6 tuổi. P.G. Xamarukova
đã chỉ ra các nhiệm vụ cơ bản trong chỉ đạo chơi ĐVTCĐ cho trẻ, đó là:

- Phát triển chơi ĐVTCĐ như một hoạt động.
- Sử dụng trò chơi vào mục đích giáo dục tập thể và giáo dục cá nhân.
- Phát triển tính tự lực và tự tổ chức trong trò chơi ĐVTCĐ, đặc biệt là đối
với trẻ 5-6 tuổi.
Các cơng trình nghiên cứu của Đ.V.Mendgierinxkaia, R.I.Giucopxkaia,
V.P.Gialogina và nhiều người khác đã bàn đến những phương pháp tổ chức, hướng
dẫn chơi cho trẻ, chúng được chia thành hai nhóm biện pháp chính [9]:
- Nhóm các biện pháp tác động gián tiếp (cung cấp kiến thức về cuộc sống,
tạo cơ sở vật chất và môi trường cần thiết phục vụ trò chơi…); tác giả T.Đ.Marcova,
N.Karpinxkaia... còn nêu ra một số biện pháp như: sử dụng các tác phẩm văn học
trẻ em, các tác phẩm hội họa… để mở rộng nội dung trị chơi...
- Nhóm các biện pháp tác động trực tiếp (cô hướng dẫn trẻ chơi, cô tham gia
vào quá trình chơi của trẻ…).
Ở Việt Nam, lý luận về trò chơi ĐVTCĐ và việc tổ chức, hướng dẫn chơi
ĐVTCĐ ln giữ vị trí nhất định trong các cơng trình nghiên cứu của các nhà Tâm
lý học và Giáo dục học.
Tác giả Nguyễn Ánh Tuyết, trong giáo trình “Tâm lý học trẻ em” [35] đã tìm
hiểu và phân tích cấu trúc của trò chơi ĐVTCĐ ở lứa tuổi mẫu giáo (bao gồm chủ
đề và nội dung chơi; vai chơi và hành động chơi; mối quan hệ qua lại của trẻ trong
khi chơi; đồ chơi và hoàn cảnh chơi...). Đồng thời bà đã chứng minh vai trò của
chơi ĐVTCĐ trong sự phát triển toàn diện nhân cách trẻ, cũng như quan tâm đến sự
phát triển trò chơi này ở các độ tuổi.
Trong giáo trình Giáo dục học Mầm non - Tập III [1] do Đào Thanh Âm chủ
biên, cũng trình bày về bản chất, đặc thù, ý nghĩa và sự phát triển của trò chơi
ĐVTCĐ, đồng thời đề xuất nhiệm vụ, biện pháp hướng dẫn chơi cho trẻ mẫu giáo.
Tuy nhiên, giáo trình mới chỉ dừng lại ở việc nói chung cho các độ tuổi.

11



Về vấn đề tổ chức hoạt động vui chơi cho trẻ mẫu giáo, tác giả Nguyễn Thị
Thanh Hà đã đề cập tới những nhiệm vụ và phương pháp tổ chức trò chơi ĐVTCĐ
ở từng độ tuổi cụ thể (3-4 tuổi; 4-5 tuổi; 5-6 tuổi) trong cuốn “Tổ chức cho trẻ vui
chơi ở trường mẫu giáo” [12].
Trong chương trình “Chăm sóc giáo dục mẫu giáo và hướng dẫn thực
hiện (5-6 tuổi)” của Bộ Giáo dục và Đào tạo (1994) [2] cũng đề ra khá cụ thể
các yêu cầu nội dung, phương pháp hướng dẫn chơi ĐVTCĐ (trong nhóm trị
chơi sáng tạo) cho trẻ MGL.
Từ năm học 2001 - 2002 Bộ Giáo dục và Đào tạo đã đưa vào thí nghiệm diện
hẹp tài liệu “Hướng dẫn thực hiện đổi mới hình thức tổ chức hoạt động giáo dục trẻ
Mẫu giáo 5-6 tuổi”, trong đó đề ra một số yêu cầu và nội dung chơi ĐVTCĐ theo
các chủ điểm lớn của năm học. Đến nay, chương trình này đã thể hiện được tính
hiệu quả trong việc tổ chức hoạt động vui chơi cho trẻ ở trường mầm non.
Trong luận án tiến sỹ Tâm lý học “Nghiên cứu những điều kiện tâm lý của
sự phát triển tính độc lập ở trẻ 5-6 tuổi trong trò chơi ĐVTCĐ”, Nguyễn Thị Mỹ
Trinh đã đề cập đến việc tổ chức, hướng dẫn chơi ĐVTCĐ theo chủ điểm cho trẻ
MGL trong giai đoạn hiện nay, nhưng chỉ dừng lại ở phạm vi phát triển tính độc
lập cho trẻ [32].
Trò chơi ĐVTCĐ và việc hướng dẫn chơi ĐVTCĐ được các nhà nghiên cứu
trong và ngoài nước đề cập khá toàn diện. Tuy nhiên, các nghiên cứu nhằm hướng
đến phát triển KNTT của trẻ 5-6 tuổi trong trò chơi ĐVTCĐ cịn chưa nhiều và
chưa sâu. Do vậy, cần có những nghiên cứu sâu sắc hơn về việc tổ chức và hướng
dẫn chơi ĐVTCĐ nhằm phát triển KNTT cho trẻ 5-6 tuổi.
1.2. Một số khái niệm cơ bản
1.2.1. Khái niệm "tưởng tượng" và "khả năng tưởng tượng của trẻ 5-6 tuổi"
1.2.1.1 Khái niệm "tưởng tượng"
Các nhà khoa học đã đưa ra nhiều khái niệm khác nhau về tưởng tượng.
Nhà tâm lý học người Nga L. X. Vưgôtxki cho rằng “Tưởng tượng là sự tái
hiện những ấn tượng hoặc hành động đã có trong kinh nghiệm và tạo nên những
hình tượng hoặc hành động mới” [45; 395].

Như vậy, Vưgôtxki đã khẳng định rằng tưởng tượng là một hoạt động tâm lí
cao cấp, nó được hình thành dần dần, phát triển từ những hình thức đơn giản đến

12


phức tạp ở mỗi độ tuổi, phụ thuộc trực tiếp vào những hình thức hoạt động, sự tích
lũy hiểu tượng thành kinh nghiệm của mỗi con người. Ông cho rằng: "Tưởng tượng
bao giờ cũng được nảy sinh từ những yếu tố lấy trong hiện thực và đã có trong kinh
nghiệm cũ của con người" [44; 113]. Theo ông hoạt động tưởng tượng luôn phụ
thuộc trực tiếp vào hiện thực khách quan đã được phản ánh trong kinh nghiệm của
cá nhân và như vậy kinh nghiệm càng phong phú đa dạng bao nhiêu thì chất liệu để
tạo nên tưởng tượng càng phong phú bấy nhiêu.
Trong các giáo trình biên soạn cho các trường đại học và cao đẳng sư phạm
của các tác giả Nguyễn Quang Uẩn, Trần Quốc Thành, Trần Hữu Luyến, …đều cho
rằng: “Tưởng tượng là một quá trình nhận thức phản ánh những cái chưa từng có
trong kinh nghiệm của cá nhân bằng cách xây dựng hình ảnh mới trên cơ sở những
biểu tượng đã có”, trong đó biểu tượng là “Hình thức của nhận thức cao hơn cảm
giác, cho ta hình ảnh của sự vật cịn giữ lại trong đầu óc sau khi tác động của sự vật
vào giác quan đã chấm dứt” [40].
Như vậy, tưởng tượng là một quá trình tạo ra những biểu tượng mới (hình
ảnh mới) dựa trên những biểu tượng đã có nhờ cảm giác, tri giác cùng những khái
niệm đã hình thành trong nhận thức, thơng qua q trình tư duy. Điều này nói lên
tưởng tượng có quan hệ mật thiết với quá trình cảm giác, tri giác và tư duy.
“Khi con người đứng trước một hồn cảnh có vấn đề - nguồn khởi đầu của
hoạt động - thì sẽ có hai hệ thống phản ánh đi trước của ý thức với kết quả của hoạt
động đó: hệ thống được tổ chức chặt chẽ của các hình ảnh và hệ thống được tổ chức
chặt chẽ của các khái niệm. Khả năng lựa chọn và kết hợp hình ảnh là cơ sở của
tưởng tượng, khả năng kết hợp những khái niệm theo một cách mới là cơ sở của tư
duy. Thường thì hoạt động này diễn ra cùng môt lúc ở cả hai “tầng”, bởi vì hệ thống

hình ảnh và khái niệm có liên quan mật thiết với nhau, ví dụ như sự lựa chọn một
phương thức hoạt động được thực hiện bằng những phán đốn lơgíc gắn liền với
những biểu tượng sáng rõ về hoạt động sẽ được thực hiện như thế nào” [45; 103].
Như vậy, tưởng tượng và tư duy là hai hoạt động tâm lý khác nhau. Trong đó cơ sở
của tưởng tượng là các hình ảnh, cịn cơ sở của tư duy là các khái niệm.
Vậy đứng trước một hoàn cảnh có vấn đề khi nào ta tư duy khi nào ta tưởng
tượng ? Điều này tùy thuộc vào tính bất định (khơng xác định, khơng rõ ràng) của
hồn cảnh vấn đề nhiều hay ít. Những tài liệu khởi đầu của nhiệm vụ, một vấn đề

13


khoa học rõ ràng, sáng tỏ thì quá trình giải quyết nhiệm vụ chủ yếu tuân theo những
quy luật của tư duy. Cịn khi hồn cảnh có vấn đề mang tính bất định lớn, những tài
liệu khởi đầu khó được phân tích một cách chính xác, thì q trình giải quyết nhiệm
vụ diễn ra theo cơ chế tưởng tượng. Tưởng tượng hoạt động ở giai đoạn nhận thức
khi mà tính bất định của hoàn cảnh quá lớn.
Giá trị của tưởng tượng có là ở chỗ: nó cho phép ta đi đến quyết định và tìm
ra lối thốt trong hồn cảnh có vấn đề ngay cả khi khơng có đủ tri thức cần thiết để
tư duy, nó cho ta “nhảy cóc” qua một vài giai đoạn nào đó của tư duy mà vẫn cứ
hình dung được kết quả cuối cùng”.
Đối với lứa tuổi mầm non, tưởng tượng của trẻ rất phong phú. Tưởng tượng
cho phép trẻ tìm ra lối thốt trong hồn cảnh có vấn đề ngay cả khi khơng có đủ tri
thức cần thiết để tư duy nên tưởng tượng ở lứa tuổi này sẽ tạo cho trẻ những bước
nhảy đột biến trong sự phát triển trí tuệ. Đồng thời được sự tác động của giáo dục sẽ
nhằm giúp cho trẻ phát huy được khả năng của bản thân, kích thích sự phát triển cả
tư duy và ngơn ngữ. Nếu như được sự tác động từ giáo dục thì năng lực tưởng
tượng của trẻ sẽ được phát triển hơn nữa.
Như vậy, các nhà tâm lý học Nga, Việt Nam đứng trên góc độ của mình
và đưa ra nhiều khái niệm khác nhau về tưởng tượng, nhìn chung các tác giả

điều đưa ra những nhận định cho rằng: tưởng tượng là một quá trình tạo ra
những biểu tượng mới dựa trên những biểu tượng đã có nhờ cảm giác, tri giác
đem lại và những khái niệm đã hình thành trong nhận thức. Tưởng tượng có
mối quan hệ mật thiết với tư duy.
Cấu trúc của hoạt động tưởng tượng:
+ Những hoạt động nhằm ghi nhớ trong óc hình ảnh ban đầu đã hình thành
+ Ấn định trong biểu tượng những biến đổi khác nhau của hình ảnh
+ Phụ thuộc vào yêu cầu bài toán
Cấu trúc này vận hành tự do và nhiều lần các hình tượng đã có. Hoạt động
này cịn được đặc trưng bởi: điều kiện đặc biệt xây dựng hình ảnh bên trong (tách
khỏi cơ sở trực quan). Nội dung của hoạt động là biến đổi những biểu tượng đã có.
Trình độ thực hiện hoạt động là biến đổi trong óc theo biểu tượng nhiều lần và có hệ
thống hoàn chỉnh.
1.2.1.2. Khái niệm "khả năng tưởng tượng của trẻ 5-6 tuổi"
* Khái niệm "khả năng"
Theo Từ điển tiếng Việt, 1992, Viện ngơn ngữ thì “Khả năng là cái có thể

14


xuất hiện, có thể xảy ra trong điều kiện nhất định” Ở đây khả năng dựa trên sự xuất
hiện, tồn tại của hiện tượng nào đó. Ngồi ra, trong cuốn Từ điển Tiếng Việt do
Hồng Phê chủ biên thì “Khả năng là cái có thể xuất hiện, có thể xảy ra trong điều
kiện nhất định”, vừa là “cái vốn có về vật chất và tinh thần để có thể làm được việc
gì” [25]. Khả năng được xem xét trên phương diện như là một năng lực, phẩm chất
của cá nhân.
Khả năng có những đặc điểm sau đây: Khả năng là đa chiều và chỉ có một số
khía cạnh của nó có thể đo được. Khả năng là sự kết hợp của những thiên hướng di
truyền cộng hưởng với môi trường, cá tính và các yếu tố theo ngữ cảnh. Khả năng
mang tính phát triển. Điều này có nghĩa rằng những gì được xem là khả năng cao

với trẻ nhỏ có thể sẽ là có sự khác biệt của trẻ qua những giai đoạn khác nhau. Khả
năng chỉ phát triển nếu như nó được ni dưỡng thơng qua các cơ hội hành động và
sự hỗ trợ.
Như vậy, khả năng là năng lực thực hiện một nhiệm vụ nào đó, được xem xét
cả về mặt thể chất cũng như tinh thần, thậm chí cả khả năng về mặt đáp ứng các
yêu cầu mang tính vật chất.
* Khái niệm "khả năng tưởng tượng của trẻ 5-6 tuổi"
Tưởng tượng là một quá trình tạo ra những biểu tượng mới dựa trên những
biểu tượng đã có nhờ cảm giác, tri giác đem lại và những khái niệm đã hình thành
trong nhận thức. Nhà tâm lý học A.N. Florina… đã khẳng định sự phát triển khả
năng tưởng tượng của trẻ trong các hoạt động vui chơi, tạo hình, múa hát, văn
học… các tác giả nhất trí cho rằng việc làm giàu vốn kinh nghiệm, tri thức cho trẻ
về thế giới hiện thực bằng hình ảnh của các loại hình nghệ thuật là con đường làm
giàu biểu tượng và phát triển khả năng tưởng tượng sáng tạo cho trẻ.
Khả năng tưởng tượng ở mỗi người là khác nhau, khơng hồn tồn là bẩm
sinh mà nó được hình thành và phát triển trong quá trình hoạt động của mỗi con
người. Sự khác biệt này là do vốn kinh nghiêm trong quá trình hoạt động của mỗi
con người. Nhà tâm lý học L.X. Vưgơtxky đã có nhiều nghiên cứu về sự phát triển
tưởng tượng ở trẻ. Trong tác phẩm “Trí tưởng tượng và sáng tạo lứa tuổi thếu nhi”
[45] ông cho rằng: “Tưởng tượng là một hoạt động phức tạp và phụ thuộc vào hàng

15


loạt những nhân tố khác nhau; nó được phát triển từ những hình thức sơ đẳng, đơn
giản nhất đến hình thức phức tạp ở mỗi độ tuổi, phụ thuộc trực tiếp vào sự hoạt
động và sự tích lũy kinh nghiệm”. Vì vậy ơng khẳng định: kinh nghiệm của trẻ em
nghèo hơn kinh nghiệm của người lớn rất nhiều, mối quan hệ của trẻ với mơi trường
ít phức tạp, tinh tế, đa dạng và khả năng kết hợp gắn liền kinh nghiệm đó, chất
lượng và sự đa dạng của những kết hợp ở trẻ cũng thua kém ở người lớn rất nhiều,

cho nên tưởng tượng của trẻ không phong phú hơn mà nghèo nàn hơn trí tưởng
tượng của người lớn [45].
Như vậy, khả năng tưởng tượng là năng lực tạo ra những biểu tượng mới
dựa trên những biểu tượng đã có.
*Biểu hiện của khả năng tưởng tượng
Nhà tâm lý học A.A. Lublinxkaia cho rằng: “Tưởng tượng của trẻ nảy sinh
khi trẻ có một chút vốn kinh nghiệm ở khoảng năm thứ 2-3, khi đứa trẻ biết học,
biết bắt chước gián tiếp, nhớ lại hành động của người lớn xung quanh có mang
những yếu tố hành động của người lớn xung quanh có mang theo những yếu tố mới
lạ. Như J. Piaget, Lublinxkaia nhấn mạnh vai trò của sự bắt chước đối với sự phát
triển các chức năng ký hiệu [24]. Bà cho rằng hình ảnh của tưởng tượng là sự phối
hợp độc đáo các hình ảnh của các sự vật đã được tri giác. Biểu tượng của trẻ về sự
vật và hiện tượng mà trẻ tích lũy được mang những đặc điểm ảnh hưởng đến tưởng
tượng của trẻ. Tưởng tượng của trẻ phát triển trong sự phụ thuộc vào mức độ phát
triển của các biểu tượng chính vì vậy theo Lublinxkaia, tưởng tượng của trẻ phát
triển dần theo lứa tuổi và mang một số đặc điểm sau:
+ Số lượng biểu tượng được tăng lên.
+ Biểu tượng ngày càng rõ ràng, chính xác, linh hoạt, dễ phân biệt và có tính
khái qt hơn.
+ Những biểu tượng trở nên có liên quan với nhau và có hệ thống (nhờ vậy
có thể hợp nhóm thành phạm trù hay bức tranh).
+ Tính linh hoạt, độc lập của các hình ảnh để có thể dùng vào các dạng hoạt
động khác nhau.
+ Các biểu tượng trở nên dễ hiểu hơn.
1.2.2. Khái niệm "trị chơi đóng vai theo chủ đề"

16


Trong từ điển Tâm lý học tác giả Henri Piéron đã định nghĩa “Trị chơi nói

chung là một khái niệm đề cập tới hoạt động có những thể lệ được quy định, thỏa
ước, ít nhiều có tính ngẫu nhiên, khơng có năng xuất thực nhưng ở đó người chơi
tìm cách để kiếm được một cái gì đó, dù cho mối lợi là tự nhiên”.
Theo tác giả Nguyễn Ánh Tuyết thì “Chơi là một hoạt động vô tư, người
chơi không nhằm vào lợi ích thiết thực nào cả, trong khi chơi các mối quan hệ của
con người với tự nhiên và với xã hội được mơ phỏng lại, nó mang đến cho người
chơi một trạng thái tinh thần vui vẻ, thoải mái, dễ chịu” [38].
Những nhận đinh trên cho thấy động cơ của trị chơi khơng nằm ở kết quả chơi
mà nằm ngay trong bản thân hành động chơi. Trò chơi thốt khỏi những phương thức
hành động bắt buộc hay nói cách khác nó mang tính tự do và tự nguyện. Trò chơi là
hoạt động tự lập của trẻ (trẻ tự lựa chọn trị chơi, bạn chơi và tìm kiếm các phương tiện
để thực hiện dự định chơi của mình…).
Nếu như trong hoạt động học tập và lao động, nhân tố dạy dỗ chủ yếu là
người lớn thì trị chơi được quan niệm như một hình thức của tính tự lập mang tính
tích cực của trẻ em. Trong trị chơi trẻ em có thể tự mình lựa chọn chủ đề và mở
rộng chủ đề theo những hướng khác nhau. Bằng những phương tiện phù hợp và vừa
sức với mình, trẻ vận dụng những tri thức, kỹ năng, kỹ xảo vốn có để giải quyết các
nhiệm vụ đã đặt ra trong trò chơi. Tất nhiên tính tự lập và tính tích cực của trẻ em là
khái niệm tương đối ở một lứa tuổi nhất đinh. Tuy vậy, vẫn cần phải dạy trẻ em
chơi, bởi nếu khơng có tác động sư phạm của người lớn thì trị chơi của trẻ em sẽ bị
kìm hãm trong sự phát triển của chính nó. Song cũng khơng nên hiểu sự phát triển
của trị chơi là kết quả của việc dạy dỗ. Những mô tả hiện thực bằng trò chơi mà trẻ
nắm được phải được trẻ khái qt hóa và vận dụng vào những hồn cảnh mới và
thay đổi sao cho phù hợp với kinh nghiệm cá nhân của trẻ cũng như phù hợp với
quan hệ của trẻ em đối với xung quanh. Trong trò chơi vai trị của người lớn khơng
bị loại bỏ mà ở đây chỉ thay chức năng dạy bằng chức năng tổ chức hướng dẫn. Trò
chơi được phân loại chủ yếu trong các nhóm sau:

17



- Nhóm trị chơi sáng tạo: Trị chơi đóng vai theo chủ đề, trị chơi đóng kịch,
trị chơi lắp ghép - xây dựng.
- Nhóm trị chơi với nội dung và luật chơi có sẵn: trị chơi học tập, trị chơi
vận động.
- Nhóm trị chơi dân gian
Trị chơi cuộc sống của người lớn, tại sao trẻ em, nhất là trẻ mẫu giáo lại
thích trị chơi, trẻ muốn tự mình làm mọi việc như người lớn, bắt đầu từ đây mà
hoạt động vui chơi, trung tâm là trò chơi ĐVTCĐ là loại trị chơi phổ biến nhất ở trẻ
mẫu giáo, nhưng đó là cấu trúc tương đối phức tạp. Việc phân tích cấu trúc trò chơi
này cho thấy rõ những đặc điểm hình thành nhân cách ban đầu của trẻ Mẫu Giáo.
Cấu trúc trị chơi đóng vai theo chủ đề gồm 4 phần:
* Chủ đề và nội dung chơi
Theo tác giả Nguyễn Ánh Tuyết thì "chủ đề chơi là các mảng hiện thực được
phản ánh vào trò chơi". Cùng với quan điểm này nhà tâm lí Đ.B. Elconin cho rằng:
“ chủ đề chơi là môi trường của hiện thực được thể hiện trong trò chơi” [9]. Chủ đề
trò chơi phụ thuộc vào thời đại, vào các hiện tượng xã hội lịch sử trong cuộc sống
và những điều kiện khác.
Chủ đề chơi phát triển tuân theo một quy luật nhất định. Từ những trò chơi
với chủ đề sinh hoạt chuyển sang những trò chơi có chủ đề lao động sản xuất, sau
đó là những trò chơi phản ánh những sự kiện, hiện tượng, và các mối quan hệ xã
hội. A.V.Giaparogiet cho rằng chủ đề của hoạt động chơi gồm ba yếu tố cơ bản:
hoàn cảnh, hành động và đối tượng. Một chủ đề chơi sẽ được thể hiện bởi nhiều nội
dung chơi khác nhau và sự phát triển nội dung chơi tỷ lệ thuận với sự phát triển tâm
lí của trẻ, “sự phát triển nội dung trò chơi thể hiện sự thâm nhập ngày càng sâu của
đứa trẻ vào cuộc sống của người lớn xung quanh”. Đ.B.Elconin đã chỉ ra “sự phát
triển trò chơi trẻ em đi từ nội dung phản ánh hoạt động với đối tượng của con người
đến phản ánh mối quan hệ giữa con người với con người” [9]. Nội dung chơi phát
triển từ đơn giản đến phức tạp, từ trị chơi mơ phỏng hành động của con người với
đồ vật đến trò chơi thể hiện mối quan hệ giữa con người với con người, và cuối


18


cùng là những trị chơi với nội dung chính là sự tuân thủ các quy tắc hành vi xã hội
và các quan hệ xã hội bên trong của con người.
* Vai chơi và hành động chơi
Vai chơi được coi là "trung tâm của trò chơi" (Đ.B. Elconin), "là phương
tiện để trẻ thực hiện chủ đề" [9; 153]. Trẻ đóng vai tức là trẻ tái tạo lại các hành
động của người lớn trong các mối quan hệ với đồ vật hay với xã hội, tức là thực
hiện chức năng xã hội của người lớn (thường là những chức năng mang tính
nghề nghiệp như dạy học, khám bệnh, bán hàng…). “Đóng vai là con đường giúp
trẻ thâm nhập vào cuộc sống”. Trong khi đóng vai trẻ khơng chỉ phản ánh trung
thành những ấn tượng đã tiếp nhận mà còn đưa vào trong vai chơi những kinh
nghiệm cá nhân của mình.
Theo Nguyễn Ánh Tuyết [37], vai chơi quy định hành động chơi của trẻ,
nó gồm hành động với đồ vật và hành động với các nhân vật khác. Hành động
chơi chỉ là hành động mơ phỏng và mang tính tượng trưng. Tính tượng trưng
của hành động chơi thể hiện ở chỗ: trẻ sử dụng vật thay thế tượng trưng cho vật
thật, dùng hành động chơi mô phỏng hành động thật, vai chơi là nhân vật có
thật trong cuộc sống xã hội.
Nhưng mặt khác, hành động chơi của trẻ lại mang tính hiện thực vì hành
động chơi được trẻ lấy từ cuộc sống thực và phương thức hành động là hồn tồn có
thực, tương ứng với đồ chơi. Ví dụ, một trẻ chơi trị chơi “Chăm sóc em bé” với búp
bê làm con, trẻ cũng trải nghiệm những hành động của người mẹ (cho con ăn, ru
con ngủ…) và những cảm xúc của người mẹ (yêu thương, lo lắng…).
Ngoài ra, hành động chơi của trẻ cịn mang tính khái qt, “Trong hành động
chơi trẻ mơ phỏng cái điển hình, cái chung”. Tính khái qt của hành động chơi cho
phép trẻ tiến hành trò chơi trong những điều kiện đồ chơi khác nhau. Ví dụ, trẻ có
thể làm đồn tàu với những chiếc ghế xếp thành dãy, hay với các hòn gạch xếp lại

thành hàng.
* Những mối quan hệ qua lại của trẻ trong trò chơi.
Trong trò chơi ĐVTCĐ chứa đựng hai mối quan hệ giữa những đứa trẻ tham
gia chơi: đó là quan hệ chơi và quan hệ thực.

19


+ Quan hệ chơi: là sự tác động qua lại giữa các vai chơi nhằm thể hiện mối
quan hệ xã hội của người lớn trong chủ đề chơi.
+ Quan hệ thực: là sự tác động qua lại của những đứa trẻ tham gia trò chơi
nhằm thỏa thuận, điều tiết việc thực hiện chủ đề chơi.
Mối quan hệ giữa các vai chơi (tức là quan hệ chơi) trong trò chơi ĐVTCĐ
là yếu tố quan trọng tạo nên bản chất xã hội của trị chơi [37]. Chính những mối
quan hệ này làm nảy sinh luật chơi, xác lập mối quan hệ của trẻ khi tham gia trò
chơi (tức là quan hệ thực).
* Đồ chơi và hoàn cảnh chơi.
Đồ chơi là cơ sở vật chất quan trọng để tiến hành trị chơi. Có hai loại đồ
chơi trong trò chơi ĐVTCĐ: đồ chơi do người lớn làm, mô phỏng theo những đồ
vật thật (gọi là đồ chơi hình tượng); và đồ chơi - đồ vật thay thế cho vật thực (còn
gọi là vật thay thế) …
Do tính tượng trưng của hành động chơi nên trẻ có thể sử dụng các vật thay
thế khác nhau, tuy nhiên đồ vật sử dụng làm vật thay thế phải giúp trẻ thực hiện
được thao tác chơi phù hợp.
Do đồ chơi là vật thay thế nên thao tác chơi của trẻ khơng trùng với hành
động của vai, đó là lí do làm nảy sinh tình huống chơi. Tình huống chơi là tình
huống trẻ tưởng tượng ra trong khi chơi, trẻ đặt mình vào đó để thực hiện hành
động chơi, góp phần tạo nên nội dung chơi. Dù chơi trong tình huống khơng có thực
nhưng thái độ tình cảm trẻ đặt ra trong tình huống là hết sức chân thực.
Như vậy, khái niệm về trị chơi ĐVTCĐ được trình bày rõ ràng trong nghiên

cứu của tác giả Nguyễn Thị Hòa trong "Giáo trình giáo dục học mầm non": Trị
chơi đóng vai theo chủ đề là một loại hoạt động trò chơi mà trẻ em mơ phỏng lại
một mảng nào đó của cuộc sống người lớn trong xã hội bằng việc nhập vào các vai,
tức là ướm mình vào một người nào đó để hành động theo chức năng của họ trong
mối quan hệ xã hội [16]. Bản chất của trò chơi trị chơi đóng vai theo chủ đề là một
mơ hình hố những quan hệ xã hội, mà trẻ chịu sự chi phối của chúng. Đó là quan

20


hệ giữa người lớn với nhau trong xã hội, cách cư xử, hành vi ứng xử, văn minh
được trẻ em quan tâm và trở thành đối tượng hành động của chúng.
1.2.3. Khái niệm "sử dụng trị chơi đóng vai theo chủ đề phát triển khả
năng tưởng tượng cho trẻ 5-6 tuổi"
Theo Từ điển tiếng Việt do Tạ Minh Ngọc chủ biên thì “Sử dụng là lấy làm
phương tiện để phục vụ một nhu cầu, mục đích nào đó”. Trong cuốn Từ điển tiếng
Việt, 1992, Viện ngơn ngữ thì “Sử dụng là dùng vào một việc nào đó”. Như vậy, sử
dụng là dùng một phương tiện, một đối tượng để phục vụ cho một nhiệm vụ, mục
đích nào đó.
Trị chơi đóng vai theo chủ đề là một loại hoạt động trò chơi mà trẻ em
mơ phỏng lại một mảng nào đó của cuộc sống người lớn trong xã hội bằng việc
nhập vào các vai, tức là ướm mình vào một người nào đó để hành động theo
chức năng của họ trong mối quan hệ xã hội. Bản chất của trò chơi trị chơi đóng
vai theo chủ đề là một mơ hình hoá những quan hệ xã hội, mà trẻ chịu sự chi
phối của chúng. Đó là quan hệ giữa người lớn với nhau trong xã hội, cách cư
xử, hành vi ứng xử, văn minh được trẻ em quan tâm và trở thành đối tượng
hành động của chúng. Trong khi đó, khả năng tưởng tượng là năng lực tạo ra
những biểu tượng dựa trên những biểu tượng đã có.
Như vậy, từ những khái niệm về "sử dụng", khái niệm về “trò chơi ĐVTCĐ”
và khái niệm “khả năng tưởng tượng của trẻ 5-6 tuổi” có thể hiểu khái niệm "sử

dụng trị chơi ĐVTCĐ phát triển KNTT cho trẻ 5-6" như sau: Sử dụng trò chơi
ĐVTCĐ phát triển KNTT cho trẻ 5-6 tuổi là cách tổ chức của giáo viên nhằm giúp
trẻ mô phỏng lại một mảng nào đó của cuộc sống người lớn trong xã hội bằng việc
nhập vào các vai chơi, nhằm hình thành năng lực tạo ra những biểu tượng mới.
Khái niệm thể hiện việc giáo viên là người tổ chức các trị chơi đóng vai theo chủ
đề, trẻ được nhập vào các vai chơi. Thông qua hoạt đông này, trẻ phát triển được
các năng lực tạo ra những biểu tượng mới trong vốn kinh nghệm của trẻ dựa trên
những biểu tượng đã có.
1.2.4. Khái niệm "quy trình sử dụng trị chơi đóng vai theo chủ đề phát
triển khả năng tưởng tượng cho trẻ 5-6 tuổi"

21


Theo Từ điển tiếng Việt do Tạ Minh Ngọc chủ biên thì “Quy trình là một
chuỗi hoạt động hay hành động có hệ thống dẫn tới một mục đích đặc biệt”. Quy
trình bao gồm các hành động khác nhau được sắp xếp một cách hệ thống. Ngoài ra,
trong cuốn Từ điển Tiếng Việt do Hồng Phê chủ biên thì “Quy trình là các bước
nghiêm ngặt cần thực hiện theo một trình tự nhất định”. Các bước trong quy trình
được thực hiện đúng trình tự một cách nghiêm ngặt [25].
Trị chơi đóng vai theo chủ đề là một loại hoạt động trị chơi mà trẻ em mơ
phỏng lại một mảng nào đó của cuộc sống người lớn trong xã hội bằng việc nhập
vào các vai, tức là ướm mình vào một người nào đó để hành động theo chức năng
của họ trong mối quan hệ xã hội. Bản chất của trò chơi trị chơi đóng vai theo chủ
đề là một mơ hình hố những quan hệ xã hội, mà trẻ chịu sự chi phối của chúng. Đó
là quan hệ giữa người lớn với nhau trong xã hội, cách cư xử, hành vi ứng xử, văn
minh được trẻ em quan tâm và trở thành đối tượng hành động của chúng.
Trong khi đó, khả năng tưởng tượng là năng lực tạo ra những biểu tượng mới
dựa trên những biểu tượng đã có.
Như vậy, quy trình sử dụng trị chơi ĐVTCĐ phát triển KNTT là các bước

có trình tự, hệ thống được thực hiện nghiêm ngặt giúp trẻ nhập vào các vai, tức là
ướm mình vào một người nào đó để hành động theo chức năng của họ trong mối
quan hệ xã hội; từ đó hình thành năng lực tạo ra những biểu tượng mới dựa trên
những biểu tượng đã có.
Q trình tổ chức trò chơi ĐVTCĐ phát triển KNTT cho trẻ 5-6 tuổi được
thực hiện theo một quy trình nghiêm ngặt các bước; đó là hệ thống các bước được
sắp xếp theo mơt trình tự, hệ thống nhất định yêu cầu người thực hiện phải tuân thủ
nghiêm ngặt quy trình này.
Các bước trong quy trình sử dụng trị chơi ĐVTCĐ phát triển KNTT cho trẻ
5-6 tuổi nhằm giúp trẻ nhập vào các vai chơi của mình cùng với các nội dung chơi
và hành động chơi phù hợp.
Từ việc giúp trẻ nhập vào vai chơi một cách hiệu quả tạo điều điện cho
KNTT của trẻ phát triển, tức là trẻ có khả năng tạo ra những biểu tượng mới dựa
trên những biểu tượng đã có trong kinh nghiệm của trẻ được thể hiện ngay trong khi
trẻ tham gia trò chơi và nhập vào vai chơi.
1.3. Đặc điểm tưởng tượng của trẻ 5-6 tuổi

22


1.3.1. Đặc điểm tưởng tượng của trẻ 5 – 6 tuổi
Trẻ mẫu giáo 5-6 tuổi đã bắt đầu đạt được những thành tựu quan trọng trong
phát triển tưởng tượng. Những đặc điểm tưởng tượng nổi bật mà trẻ có ở lứa tuổi
này bao gồm:
Xuất hiện tưởng tượng tích cực. Đây là một trong những thành tựu quan
trọng nhất trong sự phát triển tưởng tượng của trẻ mẫu giáo. Tưởng tượng của trẻ
bắt đầu mang tính độc lập, khơng phụ thuộc vào các hoạt động thực tiễn và bắt đầu
tham gia vào cải tổ các hoạt động đó. Chúng bắt đầu kết hợp với tư duy diễn ra
đồng thời trong quá trình giải quyết các nhiệm vụ nhận thức. Hình thành các hành
động tưởng tượng như : Xây dựng trước dự định dưới dạng mẫu, sơ đồ một cách

trực quan các đồ vật, hiện tượng, sự kiện và thực hiện việc xây dựng hình ảnh mới,
hồn thiện chúng bằng cách thêm các chi tiết, làm cho chúng trở nên cụ thể hơn.
Tưởng tượng của trẻ ngày càng phong phú, hợp lý hơn các lứa tuổi
trước do vốn kinh nghiệm của trẻ đã được mở rộng đáng kể. Sự hoàn thiện của
các q trình tri giác, trí nhớ làm cho vốn biểu tượng của trẻ ngày càng phát
triển phản ánh chọn vẹn thế giới hiện thực cho phép tưởng tượng của trẻ hồn
thiện hơn. Trẻ biết phân biệt, khơng nhầm lẫn giữa hình ảnh của tưởng tượng
với hiện thực. Tưởng tượng tích cực của trẻ được nảy sinh và phát triển trong
các trò chơi. Các nhà tâm lý học đều cho rằng trị chơi là mơi trường thuận lợi
nhất cho sự phát triển tưởng tượng tích cực.
Tưởng tượng của trẻ bắt đầu mang tính chất sáng tạo. Tưởng tượng của trẻ
bắt đầu gần với tưởng tượng sáng tạo của người lớn. Ở lứa tuổi này, khi trẻ tưởng
tượng trẻ không phải xây dựng hình ảnh tái tạo theo sự mơ tả của người lớn mà
hướng tới xây dựng dự định trước, sự sáng tạo cho mình. Tưởng tượng sáng tạo ở
lứa tuổi này có ý nghĩa to lớn đối với việc phát triển các hành động tưởng tượng,
chuẩn bị cho sự sáng tạo thực thụ trong tương lai.
Tưởng tượng của trẻ phần nào có tính mục đích, có chủ định rõ rệt. Trẻ mẫu
giáo lớn đã biết xây dựng dự định trò chơi trước khi chơi. Có ý nghĩa to lớn trong
quá trình lĩnh hội khả năng xây dựng dự định chơi, kế hoạch của trị chơi nằm trong
q trình thảo luận giữa trẻ với nhau. Khi đó trẻ bàn bạc, bổ sung cho nhau đó là
động lực thúc đẩy sự phát triển tưởng tượng của trẻ. Dự định của trẻ trước khi chơi

23


là sơ đồ của trò chơi và chi tiết của nó sẽ được phong phú hồn thiện hơn trong q
trình hoạt động chơi.
Tưởng tượng của trẻ gắn chặt với xúc cảm. Tưởng tượng và xúc cảm có mối
quan hệ chặt chẽ, qua lại với nhau. Xúc cảm càng sâu sắc thì tưởng tượng càng phù
hợp với tình cảm đó. Ngược lại, tưởng tượng giữ vai trò rất quan trọng trong quá

trình làm giàu kinh nghiệm cảm xúc của trẻ.
Tưởng tượng của trẻ gắn liền với ngôn ngữ. Ngôn ngữ là một trong những
nhân tố quan trọng góp phần phát triển tưởng tượng ở trẻ vì tưởng tượng được hình
thành và phát triển gắn chặt với sự hình thành và phát triển của ngơn ngữ. Nhờ có
ngơn ngữ mà trẻ hình dung ra những gì mà trẻ khơng nhìn thấy được. Mặt khác
ngơn ngữ kém phát triển thì tưởng tượng cũng kém phát triển.
Tưởng tượng được hình thành và phát triển trong hoạt động. Nếu hoạt động
(học tập, vui chơi, lao động) của trẻ được tổ chức hấp dẫn, phong phú, thu hút và lơi
cuốn thì trí tưởng tượng của trẻ có điều kiện phát triển hơn. Trẻ khơng có kỹ năng
hoạt động thì khơng thể nói đến sự phát triển của tưởng tượng. Qua hoạt động trẻ
tiếp thu tri thức, tích lũy biểu tượng kinh nghiệm… Đây là điều kiện quan trọng làm
cho tưởng tượng ở trẻ mẫu giáo 5-6 tuổi phát triển phong phú, đa dạng hơn các lứa
tuổi trước đó.
Như vậy, tưởng tượng tích cực ở trẻ ngày càng phát triển khi trẻ tham gia các
trị chơi đóng vai, phản ánh cuộc sống sinh hoạt của người lớn. Trong các trò chơi
này trẻ tự xây dựng dự định và thực hiện dự định kết hợp với việc sử dụng đồ chơi
như chỗ dựa bên ngoài. Dần dần tưởng tượng của trẻ thoát khỏi những hành động
thực đi vào hồn tồn thầm trong óc. Việc xuất hiện tưởng tượng tích cực trong
cuộc sống và trong các hoạt động khác dần dần chuyển sang các hoạt động như vẽ,
xếp hình…Nét đặc trưng của hình ảnh tưởng tượng là rõ ràng, giàu cảm xúc, dễ
dàng và nhanh xuất hiện. Những câu chuyện, những gì mà trẻ tự xây dựng nên ngày
càng trở nên có tổ chức, có trình tự, độc đáo hơn và thường có nội dung được kết
cục hợp lý. Chính đặc điểm này đã làm cho dự định và kết quả sáng tạo của trẻ
mang nét đặc trưng.
Tuy nhiên, tưởng tượng của trẻ ở lứa tuổi này bắt đầu có xu hướng thay đổi
hiện thực, hình thành một thế giới tưởng tượng trong đó trẻ dễ dàng thực hiện ước
muốn của mình. Tưởng tượng sẽ thường xuyên hơn, mang tính bay bổng và dễ vi

24



phạm hiện thực. Trẻ lâm vào tình trạng hoang tưởng, viển vông. Mặt khác tưởng
tượng của trẻ kết hợp với vốn kinh nghiệm ít ỏi sẽ làm cho tưởng tượng không
hướng vào thực tế ảnh hưởng đến sự phát triển nhân cách ở trẻ. Do vậy, cần có sự
kiểm tra hoạt động của trẻ và sự chỉ đạo định hướng của người lớn để phát triển
tưởng tượng ở trẻ một cách đúng hướng.
1.3.2. Các yếu tố tâm lý cơ bản ảnh hưởng đến khả năng tưởng tượng của
trẻ 5-6 tuổi
Ở tuổi mẫu giáo 5-6 tuổi những cấu tạo tâm lý đặc trưng của con người được
hình thành ở giai đoạn trước vẫn tiếp tục phát triển mạnh mẽ. Với sự giáo dục của
người lớn, những chức năng tâm lý đó sẽ được hoàn thiện một cách tốt đẹp về mọi
phương diện của hoạt động tâm lý (nhận thức, tình cảm, chú ý...). Đây chính là
những yếu tố tâm lý ảnh hưởng trực tiếp đến sự phát triển trí tưởng tượng của trẻ.
* Đặc điểm tri giác:
Tri giác của trẻ 5-6 tuổi phát triển mạnh cho phép trẻ định hướng vào những
mối liên hệ bên ngoài của sự vật hiện tượng.
Do tiếp xúc với nhiều đồ vật, hiện tượng, con người, con vật... ở nhiều dạng
loại, lứa tuổi khác nhau do vậy độ nhạy cảm phân biệt các dấu hiệu, thuộc tính bên
ngồi của chúng khá chính xác và đầy đủ.
Về tri giác khơng gian: trẻ 5-6 tuổi có thể nhận biết một cách chính xác các
hướng chủ yếu trogn khơng gian như: trên – dưới, phái – trái, trước – sau. Trẻ có
thể tri giác những bức tranh nghệ thuật, trẻ có thể nhận ra màu sắc, đường nét và cả
bố cục của bức tranh. Trẻ có thể tưởng tượng được những gì xảy ra trong tác phẩm.
Về tri giác thời gian: trẻ 5-6 tuổi nhận biết thời gian quá khứ, hiện tại và
tương lai trong những khoảng thời gian gần như: lúc nãy, bây giờ, lúc nữa, hay xa
hơn: hôm qua, hôm nay và ngày mai.
Khả năng quan sát của trẻ được phát triển, không chỉ số lượng đồ vật, mà cả chi tết,
dấu hiệu, thuộc tính, màu sắc qua các chi tiết tạo hình, tìm hiểu mơi trường xung quanh,...
Các loại tri giác như nhìn, nghe, sờ, nếm... phát triển ở mức độ tinh nhạy (độ nhạy cảm).
Như vậy, tri giác chính là sản phẩm của nhận thức cảm tính. Những biểu

tượng về thế giới khách quan xung quanh trẻ đều do nhận thức cảm tính đem lại.

25


×