Tải bản đầy đủ (.pdf) (41 trang)

KHỦNG HOẢNG TÀI CHÍNH, SUY THOÁI KINH TẾ TOÀN CẦU VÀ VIỆC CHỦ ĐỘNG ỨNG PHÓ CỦA VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (459.78 KB, 41 trang )

VIỆN NGHIÊN CỨU QUẢN LÝ KINH TẾ TRUNG ƯƠNG
TRUNG TÂM THÔNG TIN - TƯ LIỆU
------------------------------------------------------------------------------

KHỦNG HOẢNG TÀI CHÍNH, SUY THOÁI KINH TẾ TOÀN CẦU
VÀ VIỆC CHỦ ĐỘNG ỨNG PHÓ CỦA VIỆT NAM
MỤC LỤC
I. KHỦNG HOẢNG TÀI CHÍNH, SUY THOÁI KINH TẾ TOÀN CẦU

1. Diễn biến của cuộc khủng hoảng
2. Nguyên nhân của cuộc khủng hoảng
3. Tính chất và đặc điểm của cuộc khủng hoảng
4. Hợp tác chống khủng hoảng
4.1. Các giải pháp nhằm cứu ngành ngân hàng
4.2. Các gói kích thích kinh tế
5. Triển vọng của cuộc khủng hoảng
5.1. Cuộc khủng hoảng sẽ kéo dài đến bao giờ?
5.2. Thế giới trong và sau khủng hoảng có thay đổi gì?
II. TÁC ĐỘNG CỦA KHỦNG HOẢNG TOÀN CẦU ĐẾN VIỆT NAM VÀ
CHỦ ĐỘNG ỨNG PHÓ CỦA VIỆT NAM

1. Tác động của khủng hoảng đến các lĩnh vực kinh tế - xã hội của
Việt Nam
1.1. Những khó khăn bên trong của nền kinh tế Viêt Nam
1.2. Tác động của khủng hoảng đến thương mại
1.3. Tác động của khủng hoảng đến đầu tư
1.4. Tác động của khủng hoảng đến hệ thống ngân hàng - tài
chính
1.5. Tác động của khủng hoảng đến tăng trưởng kinh tế
CIEM – Trung tâm Thông tin – Tư liệu


1


1.6. Tác động của khủng hoảng đến xã hội
2. Các chính sách và biện pháp của Việt Nam nhằm ứng phó với cuộc
khủng hoảng
3. Một số kiến nghị về giải pháp bổ sung cho năm 2009 và 2010
3.1. Một số chủ trương và định hướng giải pháp lớn
3.2. Kiến nghị một số biện pháp cụ thể
TÀI LIỆU THAM KHẢO

CIEM – Trung tâm Thông tin – Tư liệu

2


I. KHỦNG HOẢNG TÀI CHÍNH, SUY THOÁI KINH TẾ TOÀN CẦU

Nền kinh tế thế giới bước vào năm 2009 với vô vàn khó khăn, trắc trở ở
phía trước sau khi đã trải qua một năm 2008 đầy sóng gió. Theo đánh giá mới
nhất của Ngân hàng Thế giới (WB), tăng trưởng kinh tế thế giới năm 2008 chỉ
đạt 2,5%, thấp nhất trong nhiều năm trở lại đây. Tổ chức này cũng dự báo trong
năm 2009 các nền kinh tế hàng đầu thế giới như Mỹ, Nhật Bản, Liên minh châu
Âu (EU) sẽ tăng trưởng âm, kéo theo nền kinh tế toàn cầu chỉ tăng 0,9%. Có
nhiều yếu tố tác động khiến WB đưa ra dự báo trên, nhưng có lẽ nhân tố quan
trọng nhất, được bàn đến nhiều nhất và thu hút sự quan tâm nhiều nhất chính là
cuộc khủng hoảng tài chính khởi nguồn từ nước Mỹ cách đây hơn một năm,
không ngừng lan rộng, kéo theo suy thoái kinh tế toàn cầu và đến nay chưa cho
thấy có dấu hiệu kết thúc.
1. Diễn biến của cuộc khủng hoảng

Cuộc khủng hoảng tài chính tồi tệ "hàng trăm năm mới có một lần", theo
lời ông Alan Greenspan, cựu Chủ tịch Cục Dự trữ Liên bang (FED), đã được dự
báo từ năm 2006. Tuy nhiên, dự đoán cũng như phân tích của nhiều nhà kinh tế
đã không đủ sức thuyết phục để các cơ quan tài chính quyền lực nhất tại Mỹ và
châu Âu có biện pháp đề phòng. Nguyên nhân trực tiếp của cơn địa chấn tài
chính bắt nguồn từ khủng hoảng tín dụng và nhà đất tại Mỹ. Bong bóng bất động
sản càng lúc càng phình to đã đặt thị trường nhà đất và tiếp đó là tín dụng tại Mỹ
cũng như nhiều quốc gia châu Âu vào thế nguy hiểm. Cho vay dưới chuẩn tăng
mạnh là khởi điểm cho quả bong bóng tại thị trường nhà đất. Các ngân hàng cho
vay cầm cố bất động sản mà không quan tâm tới khả năng chi trả của khách
hàng. Dư nợ trong lĩnh vực này tăng mạnh từ 160 tỷ USD năm 2001 lên 540 tỷ
USD vào năm 2004 và bùng nổ thành 1.300 tỷ USD vào năm 2007. Theo ước
tính vào cuối quý III năm 2008, hơn một nửa giá trị thị trường nhà đất Mỹ là tiền
đi vay với một phần ba các khoản này là nợ khó đòi. Trước đó, để đối phó với
lạm phát, FED đã liên tiếp tăng lãi suất từ 1% vào giữa năm 2004 lên 5,25% vào
giữa năm 2006 khiến lãi vay phải trả trở thành áp lực quá lớn với người mua
nhà. Họ không thể trả được nợ vay và nhà thì bị tịch biên. Thị trường bất động
sản bắt đầu đóng băng và giá nhà đất sụt giảm mạnh. Cuộc khủng hoảng từ đó
lan từ thị trường bất động sản sang thị trường tín dụng và cuối cùng dẫn đến
khủng hoảng tài chính tại Mỹ và tràn sang nhiều nước châu Âu, khiến nhiều
công ty lớn phá sản.
Nạn nhân đầu tiên của cơn bão tài chính là Countrywide Financial, tập
đoàn tài chính từng nắm giữ 20% thị trường cho vay bất động sản Mỹ, chỉ trong
vài tháng, đã bị đẩy đến sát bờ vực phá sản do nợ khó đòi vào tháng 8/2007. Đến
CIEM – Trung tâm Thông tin – Tư liệu

3


tháng 1/2008, ngân hàng lớn nhất nước Mỹ về giá trị vốn hóa và tiền gửi, Bank

of America, đã mua lại Country Financial với giá 4 tỷ USD. Sau đó một tháng,
đến lượt Northern Rock, ngân hàng lớn thứ năm tại Anh, sau khi mất thanh
khoản nghiêm trọng do thua lỗ từ cho vay thế chấp bất động sản, đã phải cầu
cứu Ngân hàng Trung ương Anh. Nhà đầu tư ùn ùn kéo đến rút tiền khiến Chính
phủ buộc phải tiếp quản tập đoàn ngân hàng này; và đến ngày 17/2/2008,
Nothern Rock chính thức bị quốc hữu hóa. Sự kiện Country Financial và
Nothern Rock là dấu hiệu báo trước cơn bão sắp đổ xuống thị trường tài chính
toàn cầu cũng như làn sóng sáp nhập, phá sản, và bị Chính phủ tiếp quản của các
định chế tài chính.
Đến ngày 28/2/2008, Ngân hàng DZ Bank của Đức được đưa vào danh
sách các nạn nhân của cuộc khủng hoảng cho vay dưới chuẩn với tổng giá trị tài
sản mất giá là 1,36 tỷ Euro. Chưa đầy một tháng sau, chính xác là ngày
17/3/2008, sự sụt giá không kiểm soát nổi của các khoản đầu tư tài chính- bất
động sản đã buộc Tập đoàn môi giới chứng khoán Bear Stearns của Mỹ tê liệt và
chấm dứt hoạt động sau 85 năm tồn tại. Bear Stearns phải chấp nhận bán lại cho
đối thủ JP Morgan Chase với giá 240 triệu USD, bao gồm cả trụ sở của hãng
này. Tại thời điểm đó, giá mỗi cổ phiếu của Bear Stearns là 2 USD, trong khi giá
trước đó một năm là 170 USD.
Chưa dừng lại ở đó, đến ngày 29/4/2008, Deutsche Bank lần đầu tiên
trong 5 năm công bố một khoản thua lỗ trước thuế sau khi buộc phải trích lập dự
phòng 4,2 tỷ USD cho các khoản nợ xấu và các chứng khoán được đảm bảo bởi
các khoản thế thấp bất động sản. Đến ngày 31/7/2008, ngân hàng này công bố
khoản trích lập dự phòng tiếp theo là 3,6 tỷ USD, nâng tổng số tiền ngân hàng
này mất lên 11 tỷ USD, và Deutsche Bank trở thành một trong 10 nạn nhân lớn
nhất của cuộc khủng hoảng tín dụng toàn cầu. Trước đó, ngày 11/7/2008, Chính
quyền liên bang Mỹ đoạt quyền kiểm soát Ngân hàng IndyMac Bancorp. Đây là
một trong những vụ đóng cửa ngân hàng lớn nhất từ trước tới nay sau khi những
người gửi tiền đã rút ra hơn 1,3 tỷ USD trong vòng 11 ngày.
Cơn địa chấn tài chính thực sự nổ ra vào ngày 7/9/2008 khi hai Tập đoàn
chuyên cho vay cầm cố khổng lồ của Mỹ là Freddie Mac và Fannie Mae buộc

phải được Chính phủ tiếp quản để tránh khỏi nguy cơ phá sản. Sự kiện này tiếp
tục châm ngòi cho vụ đổ vỡ với những tên tuổi lớn khác. Ngày 15/9/2008, Ngân
hàng đầu tư lớn thứ tư nước Mỹ Lehman Brothers sau 158 năm tồn tại đã tuyên
bố phá sản. Đúng 10 ngày sau, Washington Mutual Inc., một trong những ngân
hàng lớn nhất Mỹ, đã tạo nên vụ phá sản ngân hàng lớn nhất trong lịch sử với
tổng giá trị tài sản thiệt hại lên tới 307 tỷ USD. Ngoài ra, do khủng hoảng tài
CIEM – Trung tâm Thông tin – Tư liệu

4


chính, Ngân hàng đầu tư số một nước Mỹ, Merill Lynch bị thâu tóm bởi Bank of
America. Chính phủ đã buộc phải bơm 85 tỷ USD vào AIG, Tập đoàn bảo hiểm
lớn nhất thế giới, để tránh cho thị trường tài chính nước này một kết cục tồi tệ
hơn.
Tháng 9 và 10/2008 trở thành giai đoạn đen tối với phố Wall khi chỉ số
Dow Jones sụt tới 25% giá trị chỉ sau một tháng kể từ ngày 15/9/2008. Biến
động tại phố Wall trở nên khó lường hơn với nhiều kỷ lục cả tăng và giảm tồn
tại trong hàng chục năm đã bị phá. Không chỉ ở phố Wall, tuần lễ từ 15 đến
21/9/2008 thị trường chứng khoán của cả thế giới chao đảo, từ Tôkyô đến
Thượng Hải, Seoul và Hồng Kông, các chỉ số chứng khoán đều tuột dốc mạnh.
Tại châu Âu, các thị trường chứng khoán Paris, Luân Đôn, Franfurt, Amsterdam
cùng chung số phận. Thị trường chứng khoán Matxcơva cũng lâm vào tình trạng
hoảng loạn đến nỗi phải tạm đóng cửa để chờ cho cơn bão đi qua.
Xen giữa những sự kiện trên, 9 tháng đầu năm 2008 chứng kiến các cơn
sốt giá dầu, lương thực, và lạm phát làm khuynh đảo nền kinh tế toàn cầu. Đặc
biệt là giá dầu, từ mức 90 USD một thùng vào đầu năm 2008 đã leo lên trên 100
USD vào 20/2/2008 và lập kỷ lục trên 147 USD một thùng vào 11/7/2008. Giá
dầu leo thang kéo giá hàng hóa cơ bản và lương thực lên theo. Trong đó, vàng
lập kỷ lục trên 1.000 USD một ounce vào ngày 17/3/2008. Còn giá lương thực

đắt đỏ lại tạo ra căng thẳng thực sự tại nhiều nơi, thậm chí cả ở các quốc gia
xuất khẩu lương thực. Nạn lạm phát từ đó cũng xảy ra tràn lan tại nhiều quốc
gia. Tuy nhiên, sau khi đạt đỉnh vào tháng 7/2008, giá dầu bất ngờ lao dốc
không phanh. Nguyên nhân của hiện tượng trên là nhu cầu sử dụng dầu tại nhiều
quốc gia, đặc biệt Trung Quốc và Ấn Độ, sụt giảm mạnh do khó khăn về kinh tế.
Hiện giá loại nhiên liệu này chỉ còn khoảng 40 USD một thùng, mất hơn 100
USD, tương ứng gần 70%, so với mức giá kỷ lục trước đó vài tháng, bất chấp
những nỗ lực cắt giảm sản lượng của OPEC.
Quay trở lại với diễn biến của khủng hoảng tài chính, tình trạng thị trường
tài chính đóng băng ngày càng tồi tệ đã khiến Ngân hàng Trung ương Mỹ, Anh,
Nhật, EU và nhiều quốc gia khác phải cắt giảm lãi suất hàng loạt để khơi thông
dòng vốn. Mỹ kể từ đầu năm 2008 đến nay đã 8 lần cắt giảm lãi suất, từ đó lãi
suất cơ bản từ 5% đã xuống chỉ còn 0,25%. Không dừng lại ở các điều chỉnh tài
khóa, các quốc gia trên cũng tích cực bơm tiền nhằm hỗ trợ thanh khoản cho các
tập đoàn tài chính, cũng như kích thích hoạt động tiêu dùng và cho vay. Trong
đó, FED quyết định dùng 700 tỷ USD để mua lại nợ xấu của các ngân hàng.
Trước khi được thông qua vào ngày 1/10/2008, kế hoạch hỗ trợ lớn chưa từng có
trong lịch sử đã vấp phải không ít phản đối tại Quốc hội Mỹ. Đặc biệt tại vòng
CIEM – Trung tâm Thông tin – Tư liệu

5


bỏ phiếu vào ngày 29/9/2008, Hạ viện bất ngờ không thông qua kế hoạch trên
tạo ra một cú sốc thực sự với phố Wall, khiến chỉ số Dow Jones trải qua ngày
giảm điểm tồi tệ nhất trong lịch sử. Không lâu sau khi kế hoạch trên được thông
qua, vào các ngày 13-14/10/2008, các quốc gia châu Âu đã công bố gói giải
pháp hỗ trợ kinh tế khổng lồ có trị giá lên tới 2.300 tỷ USD.
Bước vào quý IV/2008, suy thoái kinh tế toàn cầu biểu hiện rõ sau khi các
trung tâm kinh tế lớn nhất như Mỹ, Nhật Bản và EU cùng lần lượt rơi vào suy

thoái. Kinh tế Mỹ lâm vào suy thoái với tốc độ nhanh, khoảng âm 0,3% trong
quý III/2008. Mức chi tiêu của người tiêu dùng, vốn đóng góp tới hai phần ba
vào sự tăng trưởng kinh tế Mỹ, suy giảm mạnh nhất kể từ năm 1980. Thâm hụt
ngân sách liên bang trong năm tài khóa 2008 tăng mạnh tới mức kỷ lục 454,8 tỷ
USD, cao gấp ba lần mức thâm hụt 161,5 tỷ USD trong tài khóa năm 2007, chủ
yếu do chi phí quốc phòng tăng mạnh, nhất là phục vụ cho hai cuộc chiến tranh
tại Iraq và Afghanistan. Dự báo thâm hụt ngân sách liên bang trong tài khóa năm
2009 có thể lên tới 1.000 tỷ USD. Theo Bộ Lao động Mỹ, tỷ lệ thất nghiệp hiện
nay của nước này lên đến 6,5% cao nhất trong 14 năm qua. Theo dự báo, kinh tế
Mỹ tiếp tục suy thoái trong năm 2009, tỷ lệ thất nghiệp có thể lên 8%, trong khi
các khoản tiền dự trữ và giá trị bất động sản giảm mạnh, chỉ số lòng tin của
người dân Mỹ giảm xuống tới mức kỷ lục. Ðiều này càng làm cho nền kinh tế số
một thế giới lâm vào suy thoái trầm trọng hơn.
Tiếp theo Mỹ, nền kinh tế lớn thứ hai thế giới là Nhật Bản đã chính thức
công bố lâm vào suy thoái kinh tế ngày 18/11/2008 sau khi tăng trưởng âm liên
tiếp trong hai quý II và III/2008. Như vậy, đây là lần đầu tiên kể từ năm 2001,
kinh tế Nhật Bản rơi vào suy thoái. Trước đó, khu vực đồng tiền chung Euro
cũng lần đầu tiên rơi vào suy thoái kể từ khi hình thành năm 1999. Số liệu thống
kê cho thấy GDP của 15 nước sử dụng đồng tiền chung Euro đã tăng trưởng âm
liên tiếp trong quý II và quý III/2008. Đức là nền kinh tế lớn nhất châu Âu và
đứng thứ ba thế giới chính thức rơi vào cuộc suy thoái lớn nhất trong vòng 12
năm qua, kinh tế Anh cũng lâm vào suy thoái, theo dự báo năm 2009 sẽ chịu
mức sút giảm mạnh nhất kể từ gần hai thập niên qua, số người thất nghiệp có thể
lên tới 3 triệu người vào năm 2010. Số liệu thống kê của Italia cho biết nền kinh
tế nước này đang rơi vào cuộc suy thoái nặng nề nhất kể từ năm 1992.
Khủng hoảng tài chính cũng tràn qua Trung Quốc, Nga, Ấn Ðộ, Braxin...
là những nơi được dự đoán là ít chịu tác động nhất. Kinh tế Trung Quốc vốn
được coi là một động lực tăng trưởng của kinh tế thế giới, sau nhiều năm tăng
trưởng ở mức hai con số, đã giảm chỉ còn 9% trong quý III/2008. Ngân hàng
Thế giới cho biết tăng trưởng GDP của Trung Quốc chỉ đạt 7,5% trong năm

CIEM – Trung tâm Thông tin – Tư liệu

6


2008, mức thấp nhất trong vòng 19 năm qua. Tốc độ tăng trưởng công nghiệp đã
giảm sút nghiêm trọng từ 16% trong tháng 6 xuống còn 8,2% trong tháng
10/2008, thấp nhất trong 7 năm qua. Xuất khẩu suy giảm do khủng hoảng tài
chính, theo dự báo sẽ còn khó khăn hơn trong năm 2009, kéo theo sự sụt giảm
nhiều ngành sản xuất khác và làm tăng tỷ lệ thất nghiệp.
Khủng hoảng tài chính tại Nga đang ngày càng trầm trọng khi đồng Rúp
mất giá mạnh, Chính phủ đã phải chi 58 tỷ USD để giữ giá đồng tiền này. Trong
khi đó, nguy cơ thâm hụt ngân sách của Nga rất lớn và kinh tế khó khăn, bởi
thời kỳ thịnh vượng nhờ giá dầu lửa cao đã chấm dứt. Nền kinh tế Nga vốn ổn
định và mạnh lên trong thời gian khá dài nhờ xuất khẩu dầu lửa được giá, nhưng
hiện đứng trước nhiều khó khăn do khủng hoảng tài chính và giá dầu thế giới
giảm mạnh, xuống dưới 50 USD/thùng - đây là mức thấp nhất trong 4 năm qua.
Nga đang thực hiện các giải pháp nhằm thoát ra khỏi cuộc khủng hoảng tài
chính ngày càng nghiêm trọng hiện nay. Chính phủ dự định chi khoảng 190 tỷ
USD nhằm hỗ trợ hệ thống tài chính và ngân hàng, các ngành kinh tế then chốt
cũng như cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Hầu hết các nền kinh tế lớn ở Ðông - Nam Á đều định hướng xuất khẩu
và phụ thuộc nhiều vào thương mại quốc tế và đầu tư nước ngoài. Do vậy, dù ở
mức độ khác nhau các nước trong khu vực Ðông - Nam Á dễ bị tác động của xu
hướng giảm sút thương mại và đầu tư trên thế giới hiện nay. Trước mắt, lĩnh vực
xuất khẩu, thị trường chứng khoán và thị trường tiền tệ khu vực đang chịu ảnh
hưởng mạnh của cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu. Singapore là quốc gia
đầu tiên ở Ðông - Nam Á rơi vào suy thoái trong năm 2008, ba lĩnh vực trụ cột
của kinh tế nước này là xuất khẩu hàng công nghiệp chế tạo, dịch vụ tài chínhngân hàng và du lịch đều bị ảnh hưởng nặng nề của cuộc khủng hoảng tài chính
toàn cầu, dự báo tốc độ tăng trưởng kinh tế cả năm khoảng 3%. Chính phủ đã

phải tạm thời đình chỉ kế hoạch từng bước tăng giá đồng nội tệ SGD. Các biện
pháp kích thích cả gói có thể làm cho thâm hụt ngân sách năm 2008 tăng lên gấp
ba lần. Kinh tế Hàn Quốc cũng báo động đỏ khi đồng Won mất giá hơn 40% kể
từ đầu năm và hiện ở mức thấp nhất kể từ cuộc khủng hoảng tài chính năm
1997. Chính phủ Hàn Quốc đã phải thực hiện một số biện pháp khẩn cấp như cắt
giảm lãi suất và bơm tiền vào hệ thống tài chính. Thái Lan cũng có những biểu
hiện của suy thoái kinh tế. Trong bối cảnh đó Pakistan là nước châu Á đầu tiên
kêu gọi IMF trợ giúp 6,5 tỷ USD.
Tình trạng đóng băng của hệ thống tài chính tiếp tục dẫn đến sự giảm sút
trong các hoạt động sản xuất của doanh nghiệp cũng như chi tiêu của người dân.
Hệ quả của tình trạng trên là nhiều doanh nghiệp phá sản và đẩy tỷ lệ thất
CIEM – Trung tâm Thông tin – Tư liệu

7


nghiệp tại nhiều quốc gia tăng cao, chỉ số lòng tin của người tiêu dùng rơi xuống
mức thấp nhất trong nhiều năm. Trong 3 tháng, tính tới đầu quý IV/2008, đã có
hơn 30.000 doanh nghiệp Mỹ phá sản.
Chưa dừng lại ở đó, mọi chuyện còn có thể tồi tệ hơn nữa nếu ba nhà sản
xuất xe hơi hàng đầu là Ford, General Motors (GM), và Chrysler phá sản. Kể từ
đầu năm đến nay, ngành công nghiệp xe hơi của Mỹ đã bị khủng hoảng tài chính
"quật" cho tơi tả. Với việc doanh số bán xe trong tháng 10/2008 của Mỹ tụt
xuống mức thấp nhất trong vòng 25 năm qua, và dự đoán sẽ tồi hơn do khủng
hoảng tài chính, ba đại gia trên đang phải đối mặt với rất nhiều khó khăn, mà
trước mắt là cạn kiệt tiền mặt. Chrysler từ ngày 18/12/2008 đã ngừng hoàn toàn
hoạt động sản xuất tại khu vực Bắc Mỹ. Chính phủ Mỹ đang cân nhắc kế hoạch
cho GM và Chrysler, hai tập đoàn nguy ngập nhất, vay gấp 14 tỷ USD trong thời
gian ngắn, được trích từ nguồn hỗ trợ 700 tỷ USD dành cho việc mua nợ xấu của
các ngân hàng. Tuy nhiên, khoản tiền trên có lẽ chỉ như một liều thuốc tạm thời,

đủ để hai hãng "sống sót" đến hết quý I/2009. Các kế hoạch dài hơi hơn nhằm
giải quyết khó khăn của ngành công nghiệp xe hơi khi đó được chuyển giao cho
Chính phủ mới của Tổng thống Barack Obama. Theo ước tính của các chuyên
gia kinh tế, nếu các công ty được coi là biểu tưởng của nền công nghiệp xe hơi
Mỹ phá sản, sẽ có thêm khoảng 2,5 triệu lao động mất việc làm. Tỷ lệ thất
nghiệp tại Mỹ từ đó cũng sẽ leo thang với tốc độ chóng mặt.
Lãnh đạo kinh tế Mỹ và châu Âu chưa hết khốn đốn vì khủng hoảng tài
chính và suy thoái kinh tế, thì đến ngày 11/12/2008, cả thế giới chấn động khi
các nhà chức trách Mỹ bắt giữ cựu Chủ tịch Thị trường Chứng khoán Nasdaq
Mỹ, đồng thời là một nhà giao dịch chứng khoán huyền thoại của nước này, ông
Bernard Madoff. Ông Chủ tịch Công ty Chứng khoán Bernard L. Madoff
Investment Securities LLC này đã dùng những thủ đoạn tinh vi để thu hút vốn
của các nhà đầu tư, rồi thua lỗ tới 50 tỷ USD. Danh sách “nạn nhân” của ông
“trùm lừa” này trải dài từ Mỹ, sang châu Âu và cả châu Á. Trong số những “nạn
nhân” lớn nhất trong vụ này phải kể tới Công ty Quản lý tài sản Fairfield
Greenwich Group của Mỹ với thiệt hại 7,3 tỷ USD, Ngân hàng Banco Santander
với mức thiệt hại 3,6 tỷ USD, Công ty Kế toán và Tư vấn tài chính Ascot
Partners với thiệt hại 1,8 tỷ USD… Vụ scandal trên hiện vẫn chưa có hồi kết với
những câu hỏi lớn xoay quanh vai trò của hệ thống giám sát tài chính Mỹ cũng
như sự dính líu của quan chức tại Washington với Bernard Madoff.
Theo dự báo của các chuyên gia, kinh tế Mỹ nói riêng và thế giới sẽ tiếp
tục đi xuống cho tới giữa năm 2009. Cường quốc số một thế giới và nhiều nền
kinh tế lớn khác có xu hướng dần chuyển từ lạm phát sang giảm phát, trạng thái
CIEM – Trung tâm Thông tin – Tư liệu

8


báo hiệu sự suy giảm kéo dài của nền kinh tế, biểu hiện ở sự đi xuống của thị
trường tín dụng, nhà đất, lao động và hoạt động tiêu dùng. Một điều gây quan

ngại cho cả thế giới là đói nghèo đang gia tăng trên phạm vi toàn thế giới.
Nửa đầu năm nay, trong bối cảnh thị trường dầu thô liên tiếp lập kỷ lục và
thiếu chút nữa chinh phục mốc 150 USD/thùng, lạm phát là nỗi lo canh cánh của
cả thế giới. Tuy nhiên, càng về cuối năm, nỗi lo này càng giảm bớt cùng với sự
đi xuống nhanh chưa từng có của giá nhiên liệu. Mặc dù vậy, thế giới lại phải
đương đầu với một mối đe dọa mới là giảm phát - một vấn đề đáng ngại không
kém gì lạm phát. Tại Mỹ, trong tháng 11/2008, CPI giảm với tốc độ kỷ lục 1,7%
sau khi đã giảm 1% trong tháng 10/2008. Từ đầu năm 2008 tới tháng 11/2008,
CPI ở nước này chỉ tăng có 0,7%, so với mức tăng 4,1% trong cả năm 2007. Tại
châu Âu, lạm phát cũng đang giảm mạnh. Cơ quan Thống kê EU (Eurostat) cho
hay, lạm phát trong tháng 11/2008 của khu vực đồng Euro đã giảm xuống còn
2,1% trong tháng 11/2008- mức thấp nhất trong vòng 14 tháng trở lại đây - từ
mức 3,2% trong tháng 10/2008. Tại Trung Quốc- nền kinh tế hồi đầu năm còn
đặt nhiệm vụ hàng đầu là “giảm nhiệt” tăng trưởng- lạm phát tháng 11/2008
cũng đã giảm xuống mức thấp nhất trong vòng 22 tháng qua.
Tầng lớp dân nghèo của thế giới là một trong những đối tượng hứng chịu
nhiều tác động nặng nề của sự biến động giá cả và khủng hoảng tài chính. Tính
toán của Tổ chức Nông lương Liên hợp quốc (FAO) cho thấy, giá lương thực
tăng cao và kinh tế suy thoái đã làm số người bị đói năm 2008 tăng thêm 40
triệu, nâng tổng số người thiếu đói toàn cầu lên 960 triệu người. Nếu như lạm
phát tất yếu đe dọa nghiêm trọng cuộc sống của họ, thì giảm phát cũng có khả
năng gây tác động tai hại không kém, vì giá cả lương thực giảm, dẫn tới hạn chế
đầu tư phát triển diện tích trồng trọt, nguồn cung eo hẹp.
2. Nguyên nhân của cuộc khủng hoảng
Nguyên nhân trực tiếp và rõ ràng nhất của cuộc khủng hoảng tài chính lần
này là sự suy sụp của thị trường bất động sản. Có ba yếu tố chính đã tạo nên
bong bóng trong thị trường bất động sản ở Mỹ, bao gồm:
- Thứ nhất, bắt đầu từ năm 2001, để giúp nền kinh tế thoát khỏi trì trệ,
Cục Dự trữ liên bang Mỹ (FED) đã liên tục hạ thấp lãi suất, dẫn đến việc các
ngân hàng cũng hạ lãi suất cho vay tiền mua bất động sản . Vào giữa năm 2000

thì lãi suất cơ bản của FED là trên 6% nhưng sau đó lãi suất này liên tục được
cắt giảm, cho đến giữa năm 2003 thì chỉ còn 1%.
- Thứ hai, về phương diện sở hữu nhà cửa, chính sách chung của Chính
phủ hồi đầu những năm 2000 là khuyến khích và tạo điều kiện cho dân nghèo và
CIEM – Trung tâm Thông tin – Tư liệu

9


các nhóm dân da màu được vay tiền dễ dàng hơn để mua nhà. Việc này phần lớn
được thực hiện thông qua hai tập đoàn được bảo trợ bởi Chính phủ là Fannie
Mae và Freddie Mac. Hai tập đoàn này giúp đổ vốn vào thị trường bất động sản
bằng cách mua lại các khoản cho vay của các ngân hàng thương mại, biến chúng
thành các loại chứng từ được bảo đảm bằng các khoản vay thế chấp (mortgagebacked securities - MBS), rồi bán lại cho các nhà đầu tư ở Phố Wall, đặc biệt là
các ngân hàng đầu tư khổng lồ như Bear Stearns và Merrill Lynch.
- Thứ ba, vì có sự biến đổi các khoản cho vay thành các công cụ đầu tư,
cho nên thị trường tín dụng để phục vụ cho thị trường bất động sản không còn là
sân chơi duy nhất của các ngân hàng thương mại hoặc các công ty chuyên cho
vay thế chấp bất động sản nữa. Nó đã trở nên một sân chơi mới cho các nhà đầu
tư, có khả năng huy động dòng vốn từ khắp nơi đổ vào, kể cả dòng vốn ngoại
quốc.
Điểm đặc biệt ở đây là bởi vì việc hình thành, mua bán, và bảo hiểm MBS
là vô cùng phức tạp cho nên nó diễn ra gần như là ngoài tầm kiểm soát thông
thường của Chính phủ. Bởi vì thiếu sự kiểm soát cần thiết cho nên lòng tham và
tính mạo hiểm đã trở nên phổ biến ở các nhà đầu tư. Bên cạnh đó, do có thể bán
lại phần lớn các khoản vay để các công ty khác biến chúng thành MBS, cho nên
các ngân hàng thương mại đã trở nên mạo hiểm hơn trong việc cho vay, bất chấp
khả năng trả nợ của người vay.
Vì dễ vay cho nên nhu cầu mua nhà lên rất cao, kéo theo việc lên giá bất
động sản liên tục. Giá nhà bình quân đã tăng đến 54% chỉ trong vòng bốn năm

từ 2001 (năm bắt đầu cắt mạnh lãi suất) đến 2005. Việc này cũng dẫn đến vấn đề
đầu cơ và ỷ lại là giá nhà sẽ tiếp tục lên. Hệ quả là người ta sẵn sàng mua nhà
với giá cao, bất kể giá trị thực và khả năng trả nợ sau này vì họ nghĩ nếu cần sẽ
bán lại để trả nợ ngân hàng mà vẫn có lời. Do đó, một bong bóng đã thành hình
trên thị trường bất động sản.
Cho đến trước khi bong bóng bất động sản bị nổ, thị trường tài chính Mỹ
vẫn được coi là nơi kiếm tiền an toàn nhất. Vì vậy, những nhà đầu tư có tiền ở
nhiều nơi trên thế giới đều mua MBS của Mỹ, trong đó có cả những nhà đầu tư
đến từ các nước Đông Nam Á vừa thoát khỏi khủng hoảng tài chính năm 1997.
Các nhà đầu tư Trung Quốc cũng bỏ trên 400 tỷ USD để tham gia vốn vào Tập
đoàn Fannie Mae. Do lãi suất thấp, ngoại tệ ở các nơi khác tiếp tục đổ về, các
công ty đầu tư tài chính của Mỹ lại nảy ra nhiều sáng kiến như: họ mang vốn ra
đầu tư, thay vì chỉ làm nghiệp vụ trung gian; hoặc là đi vay thêm tiền ở bên
ngoài để đầu tư thêm với tỷ số nợ gấp hàng chục lần vốn có thực trong tay…
CIEM – Trung tâm Thông tin – Tư liệu

10


Cho đến giữa năm 2006, khi FED tăng lãi suất để đề phòng lạm phát, tiền
hết rẻ, thì bong bóng bất động sản bắt đầu vỡ vì nhiều người vay tiền mua nhà
không có khả năng trả nợ, nhà bị tịch biên. Khi đó, người ta mới khám phá ra
rằng trong những gói nợ đang lưu hành, có nhiều khoản nợ xấu, nhưng xấu đến
cỡ nào thì không ai biết. Giá bất động sản sụt giảm mạnh, thị trường bất động
sản đóng băng. Và cuộc khủng hoảng bắt đầu lan từ thị trường bất động sản sang
thị trường tín dụng và cuối cùng dẫn đến khủng hoảng tài chính và suy thoái
kinh tế toàn cầu.
Có thể nói rằng, những nguyên nhân nêu trên đây là mang tính trực tiếp
và rõ rệt. Còn theo nhận định của một số chuyên gia kinh tế, nguyên nhân sâu xa
của cuộc khủng hoảng là ở hai điểm. Lý do cơ bản thứ nhất là dường như hiện

nay không có thể chế phù hợp để quản lý hệ thống tiền tệ và tài chính toàn cầu,
các định chế IMF, WB đã bất cập. Lý do thứ hai là lý do về kết cấu kinh tế. Kết
cấu kinh tế của phương Tây hiện nay cơ bản vẫn dựa trên nền tảng công nghiệp
với kỹ thuật lạc hậu. Tại các nước phát triển, tuy rằng đã xuất hiện công nghệ
cao nhưng lĩnh vực này mới chỉ chiếm khoảng 5- 7% GDP. Như vậy, nếu đầu tư
vào công nghiệp thì gặp vấn đề là năng suất, hiệu quả ngày càng thấp, đầu tư
vào công nghệ cao thì nhân loại chưa có đủ trí tuệ trong khi ngay cả ở các nước
tiên tiến, công nghệ cao cũng chiếm phần nhỏ. Vậy tiền vốn đầu tư phải đổ vào
bất động sản, và đến một mức độ nào đó bong bóng bất động sản bùng nổ, dẫn
đến khủng hoảng. Cho nên, một khi cơ cấu kinh tế chưa thay đổi để có thể tạo ra
hướng đầu tư có hiệu quả cao, thì lối thoát cho cuộc khủng hoảng này chưa rõ.
3. Tính chất và đặc điểm của cuộc khủng hoảng
Cần đặc biệt chú ý đến một điểm nổi bật sau đây:
- Thứ nhất, cuộc khủng hoảng lần này nổ ra tại nước Mỹ, là đầu tàu kinh
tế thế giới, vì vậy rất dễ lan truyền ra toàn cầu. Khi nước Mỹ dùng tới cả tiền tiết
kiệm của thế giới để giải quyết vấn đề khủng hoảng của mình, rõ ràng khủng
hoảng sẽ lan rộng và tăng cấp.
Theo Joseph E. Stiglitz, nguyên Kinh tế gia trưởng của WB và là người đã
đạt giải Nobel kinh tế năm 2001, Mỹ đã xuất khẩu món nợ dưới chuẩn độc hại
của mình đi khắp thế giới, dưới dạng các loại giấy tờ có giá được đảm bảo bằng
tài sản. Mỹ đã xuất khẩu triết lý kinh tế thị trường tự do ở mức mà ngay cả vị "tu
sỹ" cao cấp nhất của trường phái đó là Alan Greenspan giờ cũng phải thừa nhận
là sai lầm. Mỹ đã xuất khẩu một thứ văn hoá doanh nghiệp vô trách nhiệm đối
với xã hội mà rõ nhất là việc mua bán quyền chọn cổ phiếu một cách thiếu minh
bạch, thứ văn hoá đã khuyến khích người ta làm sai lệch sổ sách kế toán doanh
CIEM – Trung tâm Thông tin – Tư liệu

11



nghiệp, mà đỉnh điểm là những vụ scandal như Enron hay Worldcom mấy năm
trước đây. Và cuối cùng, Mỹ đã xuất khẩu cả sự suy thoái kinh tế đi bốn
phương.
Cũng do nổ ra tại Mỹ, nên có nhiều ý kiến cho rằng cuộc khủng hoảng
này đánh dấu sự suy yếu vị thế kinh tế - tài chính của Mỹ, cùng với những khó
khăn và thách thức khác đang làm giảm vị thế và hình ảnh của Mỹ trên trường
quốc tế. Điều này sẽ đẩy nhanh sự chuyển dịch kinh tế thế giới sang một hệ
thống đa cực hơn, thúc đẩy xu hướng dần hình thành thế giới đa cực trong thời
gian tới.
- Thứ hai, cuộc khủng hoảng tài chính lần này tiến triển bất ngờ, nhanh và
không được dự báo trước. Trong thời gian hơn một năm vừa qua, tất cả các cơ
quan dự báo uy tín trên thế giới cũng như các nước phát triển và đang phát triển,
thậm chí là ở Mỹ- một quốc gia được coi có thông tin tương đối công khai và
chính xác, cũng dự báo sai về sự tiến triển và hậu quả của cuộc khủng hoảng.
Cho đến nay, vẫn chưa có cơ quan nào có thể đưa ra dự báo tương đối chắc chắn
về diễn biến của cuộc khủng hoảng trong tương lai, đặc biệt là khi nào nó kết
thúc, khi nào đà suy thoái của nền kinh tế thế giới chấm dứt và bắt đầu hồi phục.
- Thứ ba, cuộc khủng hoảng lần này có mức độ ảnh hưởng sâu và rộng.
Không chỉ lan nhanh từ Mỹ ra toàn cầu, cuộc khủng hoảng còn lan mạnh sang
nhiều lĩnh vực như: từ tài chính sang kinh tế, từ kinh tế ảo sang kinh tế thực, từ
kinh tế sang xã hội, từ thực tiễn sang chính sách, từ chính sách sang chủ
thuyết… Sự suy thoái kinh tế toàn cầu đã dẫn đến thất nghiệp gia tăng ở khắp
mọi nơi trên thế giới, gây bất ổn về mặt xã hội, thậm chí ở một số nơi còn xảy ra
khủng hoảng chính trị.
Khủng hoảng tài chính không chỉ dẫn tới khủng hoảng về các mặt kinh tế,
chính trị, xã hội,… một số nhà kinh tế hàng đầu thế giới cho rằng nó còn dẫn tới
sự phá sản của mô hình chủ nghĩa tư bản với kinh tế thị trường tự do mới mà
định hướng chủ yếu là đẩy mạnh hoạt động của thị trường tự do, khuyến khích
tư nhân hóa và hạn chế sự can thiệp kiểm soát của nhà nước. Quay trở lại quá
khứ, cuộc đại khủng hoảng kinh tế 1929- 1933 đã đánh dấu sự sụp đổ của tư

tưởng tự do kinh tế, lý thuyết kinh tế tự điều chỉnh với "bàn tay vô hình" là thị
trường bị thất bại, dẫn đến sự ra đời của lý thuyết kinh tế "chủ nghĩa tư bản có
điều tiết" của John Maynard Keynes năm 1936, với chủ trương nhà nước can
thiệp, điều tiết nền kinh tế. Sau cuộc khủng hoảng kinh tế 1974- 1975, với
những căn bệnh trầm trọng của chủ nghĩa tư bản như lạm phát gắn với suy thoái,
khủng hoảng cơ cấu đã làm cho học thuyết của J. Keynes rơi vào khủng hoảng.
CIEM – Trung tâm Thông tin – Tư liệu

12


Suốt trong thời gian dài từ những năm 80 của thế kỷ 20 đến nay, lý thuyết
chi phối sự vận hành của nền kinh tế Mỹ bắt nguồn từ lý thuyết kinh tế thị
trường tự do mới của Ronald Reagan và Magaret Thatcher. Cuộc khủng hoảng
tài chính trầm trọng lần này tại chính nước Mỹ đã khiến ông Greenspan sau hơn
18 năm làm chủ tịch FED, một người vốn tin tưởng tuyệt đối vào điều tiết của
thị trường tự do, đã thừa nhận sự thất bại của mô hình chủ nghĩa tư bản kinh tế
thị trường tự do mới. Ông đề nghị Chính phủ Mỹ xem xét ban hành các quy định
quản lý kinh tế chặt chẽ hơn, để các định chế tài chính không thể mạo hiểm bỏ
vốn vào các khoản đầu tư rủi ro, sau đó chính phủ lại phải đứng ra cứu trợ, thiếu
sự kiểm soát của nhà nước trong hoạt động của thị trường tài chính sẽ tiềm ẩn
nguy cơ và dẫn đến khủng hoảng.
GS. Joseph E. Stiglitz cũng thừa nhận thực tế nêu trên khi phát biểu rằng:
“Thế giới dường như đang tỏ ra không còn mặn mà với chủ nghĩa tự do mới,
một chiếc túi chứa đầy những ý tưởng dựa trên nền tảng cơ bản là thị trường
luôn luôn tự điều tiết, phân bổ hiệu quả các nguồn lực và phục vụ lợi ích
chung”. Theo ông, sau một phần tư thế kỷ thử nghiệm ở các nước đang phát
triển, đã xuất hiện nhiều trường hợp thất bại: không chỉ các nước áp dụng chính
sách tự do mới thất bại trong cuộc chạy đua thúc đẩy tăng trưởng, mà ngay cả
khi đã đạt được tăng trưởng thì lợi ích từ kết quả này lại được phân chia một

cách không công bằng, chủ yếu tập trung vào những người giàu. Trong một thế
giới thừa thãi, vẫn có hàng triệu người ở các nước đang phát triển không được
hưởng khẩu phần dinh dưỡng tối thiếu. Đang tồn tại một khoảng cách rất lớn
giữa lợi ích xã hội và lợi ích của cá nhân. Nếu hai lợi ích này không hài hòa,
kinh tế thị trường không thể phát triển. Và ông nhận định thêm: “Tư tưởng tự do
mới là một học thuyết chính trị phục vụ cho lợi ích của cá nhân, nó không dựa
trên nền tảng của một học thuyết kinh tế. Nó cũng không dựa trên một kinh
nghiệm lịch sử nào. Đây là bài học duy nhất cần rút ra từ mối đe dọa đang đè
nặng lên nền kinh tế thế giới hiện nay.” Và đây chính là sự cáo chung của chủ
nghĩa tự do mới.
- Thứ tư, đúng như lời ông Alan Greenspan nhận định, đây là cuộc khủng
hoảng tài chính tồi tệ "hàng trăm năm mới có một lần", với hậu quả thực sự nặng
nề, thậm chí có thể tương đương về quy mô so với đại khủng hoảng 1929-1933
đã kéo lùi nền kinh tế thế giới thụt lùi khoảng 40 năm. Tính sơ bộ từ mùa hè
năm 2007 đến cuối năm 2008, cuộc khủng hoảng đã thiêu rụi khoảng 35.000 tỷ
USD vốn liếng của loài người. Xem xét giải pháp của các nước đưa ra để cứu
nền kinh tế cho thấy quy mô cũng chưa từng có. Chẳng hạn Mỹ cho đến nay đã
chi 1.300 tỷ USD (9,3% GDP), EU chi số tiền 200 tỷ Euro (chiếm 1,5% GDP),
CIEM – Trung tâm Thông tin – Tư liệu

13


Trung Quốc bỏ ra 585 tỷ USD (chiếm 20% GDP)… để cứu vãn tình hình kinh
tế. Tuy nhiên, những số tiền này mới chỉ như “muối bỏ biển” vì tỷ lệ nợ xấu của
thế giới có thể lên tới hàng trăm nghìn tỷ USD. Các gói giải pháp cứu hộ nêu
trên thực tế cũng chưa đụng đến được nguyên nhân sâu sa của khủng hoảng là
vấn đề thể chế (tài chính, tiền tệ...) và kết cấu kinh tế… Với ảnh hưởng sâu, rộng
và đang diễn biến hết sức phức tạp, chưa có dấu hiệu cho thây sự chấm dứt, chắc
chắn cuộc khủng hoảng còn gây những tác động mang tính tàn phá đối với nền

kinh tế thế giới và xã hội loài người.
4. Hợp tác chống khủng hoảng
Để chống đỡ lại tác động tiêu cực của cuộc khủng hoảng tài chính dẫn đến
suy thoái kinh tế, chính phủ các nước trên thế giới có sự hợp tác chặt chẽ và
hành động có tính chất tập thể. Tại cuộc họp các bộ trưởng tài chính và các chủ
tịch ngân hàng trung ương từ 20 nền kinh tế chủ chốt của thế giới ở Sao Paulo,
Braxin cuối tuần đầu của tháng 11/2008, cả Chủ tịch WB Robert Zoellick và
Tổng giám đốc IMF Dominique Strauss-Kahn đều cho rằng, thế giới hoàn toàn
có thể tránh được một cuộc “Đại suy thoái” toàn cầu nếu các quốc gia phát triển
và đang phát triển cùng nỗ lực giải quyết vấn đề. Tại Hội nghị thượng đỉnh tài
chính G20 diễn ra tại Washington ngày 15/11/2008, lãnh đạo các nước đã ủng
hộ một kế hoạch hành động nhanh đối với cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu,
nhất trí về việc cần phải có các biện pháp thúc đẩy tăng trưởng, có các quy định
về thị trường tài chính tốt hơn và trao vai trò lớn hơn cho các nước đang nổi lên.
Trước đó, vào cuối tháng 10/2008, Hội nghị thượng đỉnh Á-Âu (ASEM7)
tại Bắc Kinh, Trung Quốc, đã ra tuyên bố chung kêu gọi chính phủ các nước
thực hiện các chính sách chỉnh đốn tài chính tiền tệ ổn định, có trách nhiệm,
tăng cường các biện pháp giám sát minh bạch, rõ ràng, đẩy mạnh hoàn thiện cơ
chế xử lý khủng hoảng, bảo đảm sự phát triển ổn định nền kinh tế tài chính của
nước mình. Các đại biểu tham dự cũng cam kết thực hiện việc cải cách hiệu quả
và toàn diện các hệ thống tài chính tiền tệ quốc tế, tổ chức thảo luận với các tổ
chức tài chính quốc tế có liên quan và đưa ra các đề nghị thích đáng. IMF và các
tổ chức tài chính quốc tế khác cần phát huy thiết thực vai trò, trách nhiệm trong
hệ thống tài chính thế giới, giúp đỡ ổn định tình hình tài chính quốc tế. Các nhà
lãnh đạo đồng ý tận dụng đầy đủ các cơ chế hợp tác khu vực như Hội nghị
thượng đỉnh Á-Âu để trao đổi thông tin, giao lưu chính sách và hợp tác chặt chẽ
trong việc giám sát quản lý tài chính; ngăn chặn và ứng phó hiệu quả đối với
những rủi ro, đảm bảo sự tăng trưởng kinh tế liên tục và bền vững.
Mới đây, từ ngày 28/1 đến ngày 1/2/2009, tại Diễn đàn Kinh tế Thế giới
(WEF) tổ chức ở Davos, Thụy Sỹ, hơn 2.500 đại biểu đến từ 96 nước trên thế

CIEM – Trung tâm Thông tin – Tư liệu

14


giới, trong đó có hơn 40 nguyên thủ Nhà nước và Quốc gia, 60 Bộ trưởng tài
chính, ngoại giao, thương mại và năng lượng, các nhà lãnh đạo của hơn 30 tổ
chức quốc tế, các nhà lãnh đạo kinh doanh và khoảng 1.000 đại diện các công ty
lớn trên toàn thế giới đã nhất trí phối hợp, hợp tác quốc tế nhằm tìm ra giải pháp
thoát khỏi cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu hiện nay. Đồng thời, Diễn đàn
cũng kêu gọi điều chỉnh cơ cấu tài chính quốc tế, thiết lập trật tự kinh tế mới với
những quy định quốc tế chặt chẽ hơn.
Hội nghị các nước công nghiệp phát triển (G-7) diễn ra tại Rome (Ý) nhấn
mạnh việc phải khẩn cấp tìm ra các biện pháp chống lại tác động tiêu cực của
cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu. Nhiều đại biểu cảnh báo dấu hiệu bảo hộ
mậu dịch đang trở lại tại một số cường quốc trong khi những nước này thực hiện
kế hoạch cả gói kích thích nền kinh tế. Hội nghị xác định tương lai kinh tế thế
giới còn ảm đạm, châu Âu đang lún sâu vào suy thoái, cuộc khủng hoảng tài
chính sẽ còn tiếp tục hoành hành ít nhất là đến hết năm nay. Các bộ trưởng kinh
tế G-7 nhấn mạnh rằng việc ổn định nền kinh tế toàn cầu và thị trường tài chính
hiện nay là ưu tiên cao nhất của cả khối. Các bộ trưởng kinh tế G-7 cam kết khối
này sẽ không do dự khi cần phải thực hiện những biện pháp bổ sung mạnh mẽ
hơn để giải cứu nền kinh tế toàn cầu. Hội nghị thừa nhận cuộc khủng hoảng tài
chính hiện nay bộc lộ điểm yếu cơ bản của hệ thống tài chính quốc tế và, vì thế,
cần khẩn cấp củng cố Quĩ Tiền tệ Quốc tế (IMF). Bên cạnh đó, các bộ trưởng tài
chính và Thống đốc ngân hàng Trung ương G-7 vừa đạt được một thỏa thuận
mạnh mẽ về việc bài trừ chủ nghĩa bảo hộ mậu dịch.
Về những giải pháp cụ thể, sau khi tiến hành cứu trợ một số ngân hàng
đứng trước bờ vực phá sản để tránh hiệu ứng dây chuyền, chính phủ các nước đã
thực hiện các gói kích thích kinh tế nhằm cứu nền kinh tế thoát khỏi nguy cơ suy

thoái nghiêm trọng.
4.1. Các giải pháp nhằm cứu ngành ngân hàng
Trước tiên, biện pháp hạ lãi suất đã được hàng loạt Ngân hàng Trung
ương (NHTƯ) của các nền kinh tế lớn trên thế giới thực hiện:
- Tại Mỹ, sau khi liên tục cắt giảm lãi suất hai lần chỉ trong vòng chưa đầy
1 tháng (hồi tháng 10/2008), FED đã lại quyết định cắt giảm lãi suất thêm một
lần nữa vào ngày 17/12/2008. Theo đó, mức lãi suất từ 1% giảm xuống mức gần
0%- mức thấp kỷ lục trong vòng 50 năm qua ở Mỹ.
- Tại châu Âu, ECB giảm lãi suất xuống còn 3,75%, nước Anh tuyên bố
giảm lãi suất xuống còn 4,5%, trong khi các NHTƯ Thụy Sỹ, Thụy Điển,…
cũng có những hành động tương tự.
CIEM – Trung tâm Thông tin – Tư liệu

15


- Tại châu Á, Nhật Bản dù trước đây không nới lỏng tỷ lệ lãi suất ở mức
0,5% của mình mà chỉ tuyên bố ủng hộ mạnh mẽ chính sách cắt giảm lãi suất
của các chính phủ khác, song đến ngày 19/12/2008 NHTƯ Nhật Bản (BOJ)
cũng đã quyết định giảm lãi suất cơ bản xuống còn 0,1% để nỗ lực kích thích
nền kinh tế. NHTƯ Hàn Quốc cũng mới quyết định cắt giảm tỷ lệ lãi suất cơ bản
tới 75 điểm phần trăm- mức cắt giảm lớn nhất trong lịch sử nước này. NHTƯ
Trung Quốc cũng thông báo giảm lãi suất 0,27%...
Bên cạnh việc cắt giảm lãi suất, chính phủ các nước áp dụng nhiều biện
pháp khác để cứu ngành ngân hàng của mình:
- Tại Anh, Chính phủ đã công bố kế hoạch có tổng giá trị 875 tỷ USD
nhằm quốc hữu hóa một phần đối với 8 ngân hàng thương mại lớn của nước này
để ngăn chặn một sự đổ vỡ hệ thống, đồng thời nâng cao trần bảo hiểm tiền gửi
từ mức 35.000 Bảng lên 50.000 Bảng (tương đương 88.300 USD) nhằm ngăn
chặn dòng tiền chảy sang Ailen sau khi nước này chính thức công bố chương

trình bảo hiểm tiền gửi đặc biệt kéo dài hai năm dành cho khách hàng gửi tiết
kiệm và chủ nợ của các ngân hàng.
- Tại Đức, Chính phủ và các tổ chức tài chính đã đạt được thỏa thuận về
một gói cứu trợ trị giá 50 tỷ Euro (tương đương 68 tỷ USD) dành cho ngân hàng
cho vay địa ốc hàng đầu ở Đức là Hypo Real Estate Holding AG với hy vọng
ngân hàng này thoát khỏi bờ vực vỡ nợ. Ngoài ra, Chính phủ Đức còn tuyên bố
sẽ đảm bảo toàn bộ tài khoản tiền gửi tiết kiệm cá nhân trong các ngân hàng của
nước này nhằm xoa dịu những lo ngại về hệ thống ngân hàng. Cho đến nay, các
tài khoản tiết kiệm cá nhân, bao gồm cả tài khoản của các công ty tư nhân quy
mô nhỏ, đã được đảm bảo ở 180 ngân hàng tại Đức. Chính sách bảo hiểm này
bảo đảm 90% số dư tài khoản, với số tiền bảo hiểm tối đa là 20.000 Euro. Kế
hoạch bảo lãnh toàn diện cho những người gửi tiết kiệm ở Đức có tổng trị giá
lên tới 568 tỷ Euro (770 tỷ USD).
- Tại Hà Lan, Chính phủ đã thông báo bơm khẩn cấp 10 tỷ Euro (13,4 tỷ
USD) vào ngân hàng ING- là ngân hàng lớn nhất nước này và là một trong Top
20 ngân hàng hàng đầu thế giới. Trước đó, Chính phủ Hà Lan cũng đã phải chi
ra 16,8 tỷ Euro để cứu Tập đoàn ngân hàng Fortis, một liên doanh giữa Hà Lan
và Bỉ.
- Tại Khu vực các nước sử dụng đồng tiền chung châu Âu (Eurozone)
trong cuộc họp thượng đỉnh diễn ra giữa tháng 10/2008, lãnh đạo các nước này
đã thống nhất kế hoạch hành động chung bảo lãnh tiền vay liên ngân hàng và
chính phủ, đưa thêm vốn giúp các định chế tài chính gặp khó khăn. Trước đó,
CIEM – Trung tâm Thông tin – Tư liệu

16


FED, ECB, BOJ, NHTƯ Anh (BOE) và NHTƯ Thụy Sỹ (SNB) đều công bố các
kế hoạch hành động trong nỗ lực chung đảm bảo khả năng thanh khoản cho hệ
thống ngân hàng toàn cầu đang bị căng thẳng bởi sự đổ vỡ tín dụng có nguy cơ

lan rộng. Theo đó, FED cùng 4 ngân hàng trên thực hiện kế hoạch điều phối các
cuộc đấu giá tín dụng nhằm hỗ trợ tiền mặt cho các ngân hàng thương mại đến
hết năm 2008. FED sẽ bơm 620 tỷ USD vào hệ thống ngân hàng và các thỏa
thuận “chuyển đổi” với nhóm các NHTƯ mạnh trên thế giới.
Bên cạnh đó, ECB cũng công bố kế hoạch phối hợp hành động với các
NHTƯ khác để mở rộng cho vay bằng đồng USD đối với các ngân hàng thương
mại đang kẹt tiền mặt. Trong đó có tăng số tiền cho vay bằng đồng USD dành
cho các ngân hàng thương mại khu vực Eurozone và đưa số tiền cho vay từ ECB
lên 160-170 tỷ USD cho các thời hạn vay từ 1 ngày tới 84 ngày. Tiếp đó, ECB
đã bơm thêm 50 tỷ USD vào thị trường trong khi BOE và SNB mỗi ngân hàng
rót thêm 10 tỷ USD nhằm làm dịu bớt sự căng thẳng tín dụng trong hệ thống
ngân hàng.
- Tại châu Á, trong cuộc họp diễn ra hai ngày trước khi khai mạc Hội nghị
Thượng đỉnh Á-Âu (ASEM) lần thứ 7 tại Bắc Kinh, Trung Quốc (tháng
10/2008), lãnh đạo 13 nước châu Á (gồm 10 nước ASEAN và ba nước Trung
Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản) đã nhất trí dành khoảng 80 tỷ USD thành lập một
Quỹ Dự trữ ngoại hối chung trong nửa đầu năm 2009 nhằm bảo vệ đồng tiền của
mình khỏi ảnh hưởng của khủng hoảng tài chính.
- Tại Hàn Quốc, Chính phủ đã thông qua kế hoạch cứu thị trường tài
chính trị giá 100 tỷ USD nhằm giúp tăng thanh khoản cho các ngân hàng và đảm
bảo nguồn ngoại tệ, giúp các ngân hàng có thể cho vay và nâng dự trữ vốn.
- Tại Nhật Bản, BOJ đã bơm một khoản tiền kỷ lục 4.000 tỷ Yên (khoảng
39 tỷ USD) vào thị trường tiền tệ trong chiến dịch khẩn cấp hỗ trợ thị trường tín
dụng liên ngân hàng.

4.2. Các gói kích thích kinh tế
Bên cạnh việc đưa ra các giải pháp nhằm cứu vãn ngành ngân hàng, chính
phủ các nước cũng công bố và thực hiện hàng loạt gói kích thích kinh tế:
- Tại Mỹ, Ngày 11/02/2009 Quốc hội và Nhà Trắng đã đi đến đồng thuận
về gói giải pháp kích thích nền kinh tế. Ngày 12/02/2009, lưỡng viện đã thông

qua gói giải pháp này. Giá trị cuối cùng của kế hoạch này là 789 tỷ USD (giảm
CIEM – Trung tâm Thông tin – Tư liệu

17


30 tỷ so với gói kích thích kinh tế được Thượng viện thông qua), gói giải pháp
này đưa ra các biện pháp kích thích tiêu dùng nhằm vực dậy nền kinh tế Mỹ.
Theo dự tính, khoảng 3,5 triệu việc làm sẽ được tạo ra nhờ gói kích thích kinh tế
này, hơn một phần ba giá trị của gói giải pháp này sẽ dành để cắt giảm thuế và
hỗ trợ cho lớp người Mỹ có thu nhập trung bình. Bên cạnh đó, cũng hướng tới
hỗ trợ cho các nạn nhân của suy thoái, dưới dạng trợ cấp thất nghiệp, trợ cấp
lương thực, thực phẩm, chăm sóc sức khỏe... Tổng thống Obama đã ký dự luật
này. Ngoài ra, Bộ Tài chính còn xây dựng kế hoạch tài chính 350 tỷ USD. Cục
Dự trữ liên bang (FED) có hẳn 2 chương trình trị giá 1.000 tỷ USD, một nhằm
hỗ trợ ngân hàng tăng cường cho vay tiêu dùng, 1.000 tỷ kia dùng để mua lại trái
phiếu và các tài sản có liên quan tới những khoản vay tiêu dùng.
- Tại Nhật Bản, Thủ tướng Taro Aso công bố kế hoạch kích thích kinh tế
cả gói mới trị giá 5.000 tỷ Yên (51 tỷ USD) nhằm thúc đẩy nền kinh tế. Đây là
kế hoạch kích thích kinh tế thứ hai của Nhật Bản tính từ tháng 8/2008, bao gồm
việc cắt giảm thuế, cung cấp trợ cấp trực tiếp cho các hộ gia đình và tăng cường
bảo lãnh các khoản tín dụng cho những doanh nghiệp nhỏ.
- Chính phủ Trung Quốc đã công bố gói giải pháp kinh tế trị giá 586 tỷ
USD nhằm ngăn chặn tác động của cuộc khủng hoảng tài chính. Khoản tiền này
được dành cho 10 lĩnh vực, trong đó có cơ sở hạ tầng, an sinh xã hội từ nay đến
năm 2010, tiêu dùng của người dân, đặc biệt là nhà ở giá rẻ, y tế, giáo dục…
Một phần của gói kích thích kinh tế được dành cho khu vực tư nhân.
- Chính phủ Ôxtrâylia đã công bố gói kích thích kinh tế 10,4 tỷ AUD
(7,25 tỷ USD) để đối phó với sự tăng trưởng chậm lại của nền kinh tế. Kế hoạch
này nhằm chủ yếu vào những người hưởng lương hưu, các gia định có thu nhập

thấp và trung bình và những người mua nhà lần đầu.
- Tại châu Âu, chính phủ các nước công bố chi tiết về các gói kích thích
kinh tế đã được thông qua. Ngày 26/11/2008, lần đầu tiên EC thông qua gói kích
thích trị giá 200 tỷ Euro (tương đương 1,5% GDP của EU) cho toàn EU. Kế
hoạch này bao gồm khoản chi thêm 5 tỷ Euro cho ngành công nghiệp ô tô châu
Âu. Gói biện pháp này được thông qua với mục tiêu đưa nền kinh tế EU gồm 27
nước thành viên thoát khỏi nguy cơ suy thoái, bất chấp một số khác biệt giữa các
nước thành viên về cách thức kiểm soát đà suy giảm kinh tế.
Chính phủ Anh thông báo sẽ bơm 20 tỷ bảng (29,7 tỷ USD) vào nền kinh
tế trong giai đoạn từ nay đến năm 2010, trong đó có các khoản cắt giảm thuế và
3 tỷ bảng chi tiêu cho trang thiết bị. Số tiền này tương đương khoảng 1% GDP

CIEM – Trung tâm Thông tin – Tư liệu

18


của Anh và bao gồm việc giảm thuế VAT từ 17,5% xuống 15% bắt đầu từ ngày
1/12/2008 đến hết năm 2009.
Chính phủ Pháp công bố gói kích thích kinh tế trị giá 26 tỷ Euro (tương
đương 1,3% GDP) và cho biết sẵn sàng bơm thêm tiền vào nền kinh tế trong
năm 2009. Gói biện pháp này dự kiến sẽ tạo ra 80.000-110.000 việc làm mới, bù
đắp cho khoảng 90.000 việc làm dự kiến sẽ bị mất trong năm 2009.
Tại Đức, Hạ viện nước này đã thông qua gói giải pháp trị giá 31 tỷ Euro,
qua đó sẽ tạo ra những khoản đầu tư và các hợp đồng mới trị giá 50 tỷ Euro
trong hai năm tới. Một chương trình cho vay mới trị giá 15 tỷ Euro sẽ được đưa
ra giúp Ngân hàng Phát triển Đức (KFW) tăng cường các hoạt động cho vay.
Đồng thời, Quốc hội Đức cũng đã thông qua quyết định tăng mức đi vay ròng
mới từ 10,5 tỷ Euro lên 18,5 tỷ Euro vào năm 2009.
Tại Hungary, Chính phủ nước này đã công bố gói kích thích kinh tế trị giá

1.400 tỷ Forint (tương đương 6,9 tỷ USD), có thời hạn hai năm, nhằm thúc đẩy
tăng trưởng kinh tế. Trong đó 680 tỷ Forint sẽ được sử dụng để bảo lãnh tiền
cho vay chủ yếu cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ và 260 tỷ Forint tạo thanh
khoản cho hoạt động cho vay.
Chính phủ Italia thông qua gói biện pháp có giá tri 80 tỷ Euro để hỗ trợ
các hộ gia đình và những doanh nghiệp bị ảnh hưởng bởi khủng hoảng tài chính
toàn cầu, bao gồm việc tạm ngừng kế hoạch điều chỉnh tăng giá năng lượng và
phí đường bộ đã được thông qua, và 2,4 tỷ Euro tiền miễn giảm thuế cho các gia
đình khó khăn.
Chính phủ Hà Lan công bố một kế hoạch tăng tính thanh khoản trị giá
khoảng 6 tỷ Euro, trong đó có việc cho phép các công ty cắt, giảm khoản đầu tư
sớm hơn thường lệ.
Chính phủ Bồ Đào Nha đã đưa ra gói kích thích kinh tế có giá trị gần 2,2
tỷ Euro nhằm thúc đẩy nền kinh tế. Gói biện pháp này sẽ tâp trung đầu tư vào
những dự án xây dựng trường học, thúc đẩy phát triển ngành công nghệ và năng
lượng thay thế.
Tại Tây Ban Nha, trong 6 tháng qua Chính phủ đã thông báo một loạt biện
pháp nhằm hạn chế tác động của đà suy giảm tăng trưởng kinh tế và tình hình
thất nghiệp gia tăng, trong đó có gói kích thích kinh tế trị giá 38 tỷ Euro. Gói
biện pháp này bao gồm 6 tỷ Euro tiền cắt giảm thuế và 4 tỷ Euro tạo thanh
khoản cho các gia đình và các công ty đang khát tín dụng. Chính phủ Tây Ban
Nha cho biết sẽ chi thêm 11 tỷ Euro cho các công trình công cộng cũng như các
CIEM – Trung tâm Thông tin – Tư liệu

19


biện pháp kích thích khác nhằm tạo ra 300.000 việc làm mới trong năm 2009.
Kế hoạch này bao gồm 800 triệu Euro hỗ trợ cho ngành ô tô trong nước.
Tại Thụy Điển, Chính phủ nước này đưa ra các biện pháp kích thích trị

giá gần 15 tỷ Crown (tương đương 1,8 tỷ USD) để giúp đối phó với khủng
hoảng tài chính toàn cầu.
5. Triển vọng của cuộc khủng hoảng
5.1. Cuộc khủng hoảng sẽ kéo dài đến bao giờ?
Đây là câu hỏi đang được đề cập đến ở nhiều diễn đàn khác nhau. Rất khó
có thể đưa ra câu trả lời chính xác, tuy nhiên nhiều tổ chức và chuyên gia có uy
tín đều đưa ra dự báo rằng thế giới chưa thể ra khỏi khủng hoảng trong năm
2009, bởi lẽ khủng hoảng đang ngày càng lan rộng, thấm sâu vào từng nền kinh
tế. Nhiều ý kiến còn cho rằng năm 2009 còn khó khăn hơn nhiều so với năm
2008.
Theo WB, kinh tế thế giới tăng trưởng ở mức 2,5% trong năm 2008 và
0,9% trong năm 2009. Triển vọng ảm đạm nhất sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến các
nước thu nhập cao như Mỹ, Nhật Ban và EU với mức tăng trưởng chung của các
nước này dự kiến giảm xuống còn 0,1%, trong khi mức tăng trưởng của các
nước đang phát triển sẽ giảm từ 7,9% trong năm 2008 xuống 4,5% trong năm
2009.
Theo dự báo của OECD, năm 2009, tăng trưởng kinh tế Mỹ sẽ là 0,9%,
trong khi đó Nhật Bản dưới 0,1% và các nước thuộc khu vực đồng tiền chung
châu Âu dưới 0,5%. Đồng thời, tốc độ tăng trưởng cũng chậm lại ở các thị
trường đang nổi như Braxin, Ấn Độ và Trung Quốc.
IMF thừa nhận kinh tế thế giới sẽ tồi tệ hơn trong năm 2009 khi đưa ra dự
báo tốc độ tăng trưởng kinh tế toàn cầu thấp hơn so với dự kiến. Theo dự báo
mới nhất của IMF, tốc độ tăng trưởng kinh tế toàn cầu trong năm 2009 chỉ là
0,5%, thấp hơn so với mức dự báo 2,2% công bố ngày 6/11/2008. Cũng theo
IMF, GDP Mỹ sẽ giảm 1,6%, 16 quốc gia sử dụng đồng Euro giảm 2% (trong
đó Đức và Pháp giảm lần lượt là 2,5% và 1,9%), Anh giảm 2,8% và Nhật Bản
giảm 2,6%. Mức tăng trưởng của các nền kinh tế đang phát triển chỉ đạt 3,3% so
với mức 6,3% năm 2008. Các nền kinh tế đang trỗi dậy như Trung Quốc, Ấn
Độ, Braxin sẽ bị ảnh hưởng nặng, với tỷ lệ tăng trưởng kinh tế chậm lại một
cách đáng kể.

Sự suy giảm kinh tế thế giới có thể gây ra một cuộc khủng hoảng việc làm
trên phạm vi toàn cầu. Theo đánh giá của Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO) tại
CIEM – Trung tâm Thông tin – Tư liệu

20


Báo cáo về xu hướng việc làm toàn cầu công bố hồi tháng 1/2009, có 3 kịch bản
về số người sẽ bị mất việc làm năm 2009. Theo kịch bản “tươi sáng” nhất, thế
giới sẽ mất 18 triệu việc làm trong năm nay, nâng tỷ lệ thất nghiệp của thế giới
lên mức 6,1%. Ở một con số thực tế hơn, ILO cho rằng, trong trường hợp khủng
hoảng tài chính tiếp tục hoành hành qua năm nay, số người mất việc của thế giới
trong năm sẽ là 30 triệu người, đưa tỷ lệ thất nghiệp của thế giới lên 6,5% so với
mức 6% ở cuối năm 2008 và 5,7% ở cuối năm 2007. Còn trong trường hợp xấu
nhất, báo cáo của ILO dự báo sẽ có 51 triệu người mất việc trong năm 2009 và
tỷ lệ thất nghiệp toàn cầu cuối năm sẽ ở mức 7,1%.
Với những nhận định và dự báo nêu trên, có thể khẳng định rằng nền kinh
tế thế giới chưa thể vượt ra khỏi khủng hoảng trong năm 2009. Tuy vậy, tại
WEF 2009, mặc dù chất chứa nhiều bi quan về triển vọng kinh tế thế giới trong
năm 2009 nhưng phần lớn đại biểu là lãnh đạo quốc gia và lãnh đạo các doanh
nghiệp hàng đầu thế giới đều bày tỏ lạc quan rằng, nền kinh tế toàn cầu sẽ phục
hồi vào năm 2010. Hay nói cách khác, khủng hoảng tài chính sẽ lên đến đỉnh
điểm vào một thời điểm nào đó trong năm 2009, sau đó sẽ lắng xuống và mở
đường cho sự hồi phục kinh tế của các quốc gia và thế giới vào năm 2010.
5.2. Thế giới trong và sau khủng hoảng có thay đổi gì?
Chắc chắn sẽ có thay đổi, bởi lẽ sự thay đổi là yêu cầu khách quan và bắt
buộc để hướng tới một thế giới phát triển bền vững hơn. Tại WEF 2009, với chủ
đề chính thức là “Định hình thế giới sau khủng hoảng”, các đại biểu đã làm việc
với chương trình nghị sự gồm 6 phần để hướng đến sự thay đổi, bao gồm: (1)
thúc đẩy sự ổn định trong hệ thống tài chính và phục hồi tốc độ tăng trưởng kinh

tế toàn cầu; (2) đảm bảo việc điều hành có hiệu quả ở các cấp quốc gia, khu vực
và toàn cầu; (3) giải quyết những thách thức về bền vững và phát triển; (4) định
hình các giá trị và các nguyên tắc lãnh đạo cho một thế giới sau khủng hoảng;
(5) tạo ra đợt sóng phát triển mới thông qua đổi mới, khoa học và kỹ thuật; và
(6) hiểu biết những hàm ý về các mô hình kinh doanh công nghiệp.
Theo ông Klaus Schwab, người sáng lập và cũng là Chủ tịch của WEF,
cuộc khủng hoảng hiện nay nên được coi như một lời thức tỉnh để cải tổ các
định chế, các hệ thống toàn cầu cũng như những cách suy nghĩ trước đây. Theo
Tổng Giám đốc IMF Dominique Strauss-Kahn, nếu không tái cấu trúc hệ thống
ngân hàng, thì toàn bộ số tiền được sử dụng cho chương trình kích thích kinh tế
sẽ chỉ rơi xuống một cái hố đen. Ông tán thành đề nghị thành lập một ngân hàng
đặc biệt quy tụ nhiều tỷ USD nợ khó đòi của các ngân hàng ở Mỹ. Thủ tướng
Anh Gordon Brown cũng nhấn mạnh tới việc cải tổ các thể chế tài chính quốc tế
để có thể theo kịp với những đổi thay của thế giới, cũng như tránh các ẩn hoạ có
CIEM – Trung tâm Thông tin – Tư liệu

21


thể xảy ra trong thời gian tới. Ông Gordon Brown cho rằng, WB và IMF đã lỗi
thời, không xứng tầm để có thể giải quyết tốt những vấn đề toàn cầu đang diễn
ra hiện nay, do đó cần cải tổ để tạo dựng một xã hội toàn cầu. Thủ tướng Đức
Angela Merkel đã kiến nghị về việc thành lập Hội đồng Kinh tế Liên hợp quốc
theo mô hình của Hội đồng bảo an Liên hợp quốc. Thủ tướng Nhật Bản Taro
Aso đã kêu gọi các quốc gia khác nhanh chóng thực thi các biện pháp kích cầu
nội nhu giống như Nhật Bản (chi 75.000 tỷ Yên), đồng thời cam kết sẽ dành gói
viện trợ phát triển trị giá 1.500 tỷ Yên (17 tỷ USD) cho các dự án nâng cấp cơ sở
hạ tầng tại các quốc gia châu Á để giúp các nước khu vực thúc đẩy phát triển.
Thủ tướng Nga Vladimir Putin kêu gọi thế giới cần tránh rơi vào chủ nghĩa biệt
lập hay "ích kỷ kinh tế"; thế giới cần có một loạt đồng tiền dự trữ và có chính

sách cởi mở hơn ở các nước phát hành chúng; và các nước cũng cần tránh "tin
tưởng mù quáng" rằng nhà nước có thể giải quyết mọi vấn đề…
Trước đó, hồi tháng 11/2008, tại Hội nghị thượng đỉnh tài chính G20 tổ
chức ở Washington, Mỹ, các nhà lãnh đạo của các cường quốc công nghiệp
hàng đầu đã đề ra những cam kết chung quan trọng nhằm khôi phục tăng trưởng
kinh tế toàn cầu, gồm:
(1) Cải tổ các thể chế tài chính như WB và IMF.
(2) Đạt một thỏa thuận vào cuối năm 2008, dẫn tới một cam kết thương
mại tự do toàn cầu thành công.
(3) Cải tổ sự minh bạch của thị trường, và bảo đảm sự công khai hoàn
toàn và chính xác của các điều kiện tài chính của các công ty.
(4) Bảo đảm rằng các sáng kiến của các thế chế tài chính và ngân hàng
“ngăn chặn hành động rủi ro quá đà”.
(5) Yêu cầu các bộ trưởng tài chính lập nên một danh sách các thể chế tài
chính mà sự sụp đổ có thể làm nguy hại tới hệ thống kinh tế toàn cầu.
(6) Củng cố các cơ chế giám sát tài chính của các nước.
(7) Có “cái nhìn mới” về các điều luật khống chế việc thao túng và lừa
đảo trên thị trường.
Những cam kết nêu trên cũng như những cam kết được nêu ra tại WEF
2009 hy vọng sẽ được thúc đẩy mạnh mẽ hơn tại Hội nghị thượng đỉnh G-20 sẽ
được tổ chức ở Luân Đôn, Anh, vào tháng 4/2009.
Trở lại với thực tế cuộc khủng hoảng đang diễn ra, rõ ràng cuộc khủng
hoảng này đánh dấu sự suy yếu vị thế kinh tế - tài chính của Mỹ, cùng với
CIEM – Trung tâm Thông tin – Tư liệu

22


những khó khăn và thách thức khác đang làm giảm vị thế và hình ảnh của Mỹ
trên trường quốc tế, điều này đẩy nhanh sự chuyển dịch kinh tế thế giới sang

một hệ thống đa cực hơn, thúc đẩy xu hướng dần hình thành thế giới đa cực
trong thời gian tới. So sánh lực lượng giữa các nước lớn, giữa các trung tâm
kinh tế và chính trị thế giới tiếp tục thay đổi sâu sắc. Sự trỗi dậy mạnh mẽ của
một số nền kinh tế đang phát triển, trong đó nổi bật nhất là Trung Quốc, Nga,
Ấn Ðộ, Braxin tạo thành nhóm "tứ cường" BRIC thể hiện sự thay đổi sâu sắc
trong cục diện kinh tế toàn cầu. Trong nhóm đó phải kể đến sự phát triển nhanh
chóng của Trung Quốc, sau 30 năm thực hiện chính sách cải cách mở cửa, năm
2007 lần đầu tiên đóng góp của Trung Quốc vào tăng trưởng toàn cầu đã vượt
Mỹ tính theo giá thị trường (17% so với 14%), nền kinh tế có quy mô đứng thứ
4 thế giới, với dự trữ ngoại tệ 1.900 tỷ USD. Xu thế chuyển dịch của kinh tế thế
giới sẽ tiến đến nền kinh tế đa cực trong đó các nền kinh tế lớn vừa hợp tác, vừa
kiềm chế và cạnh tranh quyết liệt với nhau hơn.
II. TÁC ĐỘNG CỦA KHỦNG HOẢNG TOÀN CẦU ĐẾN VIỆT NAM VÀ
CHỦ ĐỘNG ỨNG PHÓ CỦA VIỆT NAM

1. Tác động của khủng hoảng đến các lĩnh vực kinh tế - xã hội của
Việt Nam
Không là một ngoại lệ, Việt Nam cũng chịu tác động tiêu cực của khủng
hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu, rõ nét nhất là trong các lĩnh vực
như: thương mại; đầu tư nước ngoài; tài chính – tiền tệ; xã hội và các lĩnh vực
khác. Đặc biệt, trong bối cảnh nền kinh tế còn không ít khó khăn nội tại, thì
dường như những tác động của khủng hoảng còn trầm trọng hơn.
1.1. Những khó khăn bên trong của nền kinh tế Viêt Nam
- Thứ nhất, về tăng trưởng kinh tế: Tốc độ tăng trưởng kinh tế năm 2008
sụt giảm so với nhiều năm trước, chất lượng tăng trưởng và hiệu quả tăng trưởng
vẫn chưa có sự cải thiện rõ rệt. Năng suất, chất lượng, hiệu quả và khả năng
cạnh tranh của nền kinh tế, của doanh nghiệp và của sản phẩm còn thấp.
- Thứ hai, lạm phát cao ảnh hưởng tiêu cực đến sản xuất- kinh doanh và
đời sống nhân dân: Các doanh nghiệp, đặc biệt là doanh nghiệp nhỏ và vừa, hết
sức khó khăn trong việc tiếp cận nguồn vốn tín dụng của các ngân hàng thương

mại vì không đủ sức gánh chịu lãi suất vay quá cao. Sản xuất- kinh doanh của
nhiều doanh nghiệp bị đình đốn, một số lâm vào tình trạng phá sản. Đời sống
của nhiều tầng lớp dân cư, chủ yếu là những người làm công ăn lương, nông
dân, đồng bào vùng thiên tai bão lụt và đồng bào các dân tộc vùng sâu, vùng xa
gặp nhiều khó khăn do lạm phát.
CIEM – Trung tâm Thông tin – Tư liệu

23


- Thứ ba, xuất khẩu chưa bền vững, nhập siêu cao: Giá trị nhập siêu ở
mức cao đe dọa đến sự ổn định kinh tế vĩ mô, nhất là cung cầu ngoại tệ và tỷ giá
hối đoái. Tình trạng nhập siêu gia tăng thể hiện sự yếu kém căn bản của một nền
kinh tế dựa chủ yếu vào khai thác tài nguyên và nguồn nhân lực chất lượng
không cao với việc xuất khẩu các sản phẩm thô và gia công cho nước ngoài,
ngành công nghiệp phụ trợ yếu kém.
- Thứ tư, đầu tư trực tiếp nước ngoài tăng cao nhưng vốn giải ngân thấp:
Đầu tư nước ngoài vào Việt Nam tăng cao, thể hiện lòng tin của các doanh
nghiệp nước ngoài với môi trường kinh doanh ở Việt Nam. Tuy nhiên, vẫn còn
nhiều vần đề cần chú ý như: tỷ trọng vốn giải ngân so với vốn đăng ký chưa
được cải thiện nhiều; vốn đăng ký vào các dự án bất động sản (văn phòng cho
thuê, khu vui chơi giải trí, nhà ở, sân golf...) chiếm tỷ trọng khá cao so với đầu
tư vào khu vực sản xuất; nông, lâm, ngư nghiệp vẫn là lĩnh vực kém hấp dẫn các
nhà đầu tư nước ngoài. Ngoài các yếu tố thuộc về các nhà đầu tư nước ngoài,
các nút thắt đối với việc thực hiện vốn đầu tư (kết cấu hạ tầng, chất lượng nguồn
nhân lực và thủ tục hành chính) vẫn chưa có sự cải thiện rõ rệt.
- Thứ năm, thị trường chứng khoán sụt giảm trong khi thị trường bất động
sản trầm lắng: Thị trường chứng khoán có những biến động bất thường, ngoài
tác động của sự biến động thị trường tài chính quốc tế và tình trạng suy thoái
kinh tế của nhiều nước công nghiệp phát triển, thì những biến động kinh tế vĩ

mô trong nước và những khó khăn trong sản xuất- kinh doanh của các doanh
nghiệp đã ảnh hưởng mạnh tới sự biến động của thị trường chứng khoán Việt
Nam. Chỉ số chứng khoán liên tục giảm sút trong những tháng gần đây. Tuy
chưa đóng vai trò là thước đo phản ánh trạng thái của nền kinh tế, song sự sụt
giảm mạnh của chỉ số chứng khoán cũng cho thấy những khó khăn lớn của nền
kinh tế.
Cùng với sự sụt giảm của chỉ số chứng khoán, sự đóng băng của thị
trường bất động sản tiềm ẩn những nguy cơ gây nên bất ổn định kinh tế vĩ mô.
Theo báo cáo của các ngân hàng thương mại, tổng dư nợ vốn cho vay đầu tư bất
động sản trong cả nước đã lên đến trên 115.000 tỷ đồng, chiếm 9,5% tổng dư nợ
của toàn bộ nền kinh tế. Số vốn đầu tư vào bất động sản lớn tập trung chủ yếu tại
Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh (khoảng 75% tổng dư nợ cho vay bất động
sản của cả nước). Về lý thuyết, tỷ trọng này chưa phải đáng lo ngại, nhưng tình
trạng khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu và nguy cơ suy giảm
kinh tế trong nước là những cảnh báo về những nguy cơ có thể xảy ra từ tình
trạng đóng băng của thị trường bất động sản, nhất là khi thị trường bất động sản
chứa đựng yếu tố đầu cơ, chứ không phản ánh trung thực quan hệ cung cầu.
CIEM – Trung tâm Thông tin – Tư liệu

24


- Thứ sáu, các doanh nghiệp gặp nhiều khó khăn: Các doanh nghiệp, đặc
biệt là các doanh nghiệp nhỏ và vừa, gặp nhiều khó khăn do những biến động
bất lợi của môi trường kinh tế vĩ mô. Các doanh nghiệp Việt Nam chủ yếu có
quy mô vừa và nhỏ, năng lực cạnh tranh còn thấp kém. Trong điều kiện khó
khăn chung của cả nền kinh tế, các doanh nghiệp phải đối mặt với hàng loạt khó
khăn chồng chất: giá cả các yếu tố đầu vào tăng cao, hàng hóa sản xuất ra khó
tiêu thụ, sản xuất- kinh doanh của nhiều doanh nghiệp bị thu hẹp, không có khả
năng thanh toán các khoản nợ đến hạn... Để giữ vững sản xuất- kinh doanh, các

doanh nghiệp có nhu cầu vốn lớn, nhưng việc tiếp cận đến nguồn vốn tín dụng
từ các ngân hàng thương mại càng khó khăn hơn so với trước đây. Theo báo cáo
của các ngân hàng thương mại, chỉ khoảng một nửa số doanh nghiệp nhỏ và vừa
tiếp cận được với nguồn vốn tín dụng từ các ngân hàng thương mại. Để góp
phần kiềm chế lạm phát, thực hiện chính sách thắt chặt tiền tệ, các ngân hàng
thương mại phải tăng lãi suất huy động và tỷ lệ dự trữ bắt buộc, dẫn đến tăng lãi
suất cho vay, khiến nhiều doanh nghiệp không chịu nổi. Theo Hiệp hội doanh
nghiệp nhỏ và vừa, nhóm doanh nghiệp bị tác động mạnh bởi lạm phát, đang hết
sức khó khăn, bị phá sản hoặc đứng trước nguy cơ phá sản lên tới 20% tổng số
các doanh nghiệp. Với khả năng nội tại còn hạn chế, các doanh nghiệp không dễ
vượt qua được những trở ngại của sự biến động kinh tế vĩ mô. Khó khăn của các
doanh nghiệp không chỉ ảnh hưởng trực tiếp đến sự tăng trưởng chung của nền
kinh tế, mà còn có những hậu quả tiêu cực về mặt xã hội.
Không chỉ các doanh nghiệp công nghiệp và dịch vụ gặp nhiều khó khăn,
tình trạng tương tự cũng xảy ra đối với các cơ sở sản xuất nông nghiệp và người
nông dân. Trong những tháng cuối năm 2008, giá cả nhiều mặt hàng nông sản
xuất khẩu như cao su, cà phê, gạo giảm mạnh do nhu cầu nhập khẩu của thế giới
đi xuống, khiến cho người nông dân gặp nhiều khó khăn do chi phí đầu vào của
sản xuất tăng cao trong những tháng đầu năm. Mặc dù từ tháng 10/2008 đến
nay, giá một số sản phẩm đầu vào đã giảm nhưng vẫn chưa đủ bù đắp thiệt hại
của người nông dân. Ngành chăn nuôi trong nước gặp nhiều khó khăn do bệnh
dịch và giá thức ăn chăn nuôi tăng mạnh trong thời gian qua. Mặt khác, ngành
chăn nuôi Việt Nam lại đang phải cạnh tranh với hàng nhập khẩu từ nước ngoài
do quyết định giảm thuế nhập khẩu các sản phẩm chăn nuôi, khiến nhiều cơ sở
chăn nuôi trong nước phải đóng cửa.
- Thứ bẩy, tình trạng mất việc làm có xu hướng tăng lên: Theo số liệu
chính thức, hết năm 2008, cả nước có gần 30.000 lao động làm việc trong các
doanh nghiệp bị mất việc làm do suy giảm kinh tế. Dự báo, năm 2009 có thêm

CIEM – Trung tâm Thông tin – Tư liệu


25


×