Tải bản đầy đủ (.docx) (28 trang)

Ôn thi môn Luật Hiến Pháp 2

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (207.81 KB, 28 trang )

CÂU HỎI ÔN TẬP HIẾN PHÁP II
1. Cơ cấu tổ chức của Quốc hội?

Quốc hội là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước cao
nhất của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.Các cơ quan của Quốc hội gồm có:.
Ủy ban thường vụ Quốc hội: là cơ quan thường trực của Quốc hội, gồm có Chủ tịch,
các Phó Chủ tịch và các Ủy viên.
Hội đồng dân tộc và 9 Uỷ ban, gồm Uỷ ban pháp luật; Uỷ ban tư pháp; Uỷ ban kinh tế;
Uỷ ban tài chính, ngân sách; Uỷ ban quốc phòng và an ninh; Uỷ ban văn hoá, giáo dục,
thanh niên, thiếu niên và nhi đồng; Uỷ ban về các vấn đề xã hội; Uỷ ban khoa học, công
nghệ và môi trường; Uỷ ban đối ngoại;
Đại biểu Quốc hội: Quốc hội có không quá 500 đại biểu đại diện cho ý chí, nguyện vọng
của cử tri cả nước, trong đó có những đại biểu hoạt động chuyên trách và những đại biểu
hoạt động không chuyên trách. Số lượng đại biểu chuyên trách chiếm ít nhất 25% tổng số
đại biểu Quốc hội;
Đoàn đại biểu Quốc hội gồm các đại biểu Quốc hội được bầu trong một tỉnh hoặc thành
phố trực thuộc trung ương hợp thành;
Ủy ban Thường vụ Quốc hội là cơ quan thường trực của Quốc hội. Ủy ban Thường trực
Quốc hội gồm có: Chủ tịch Quốc hội, các Phó Chủ tịch Quốc hội và các Ủy viên do Chủ
tịch Quốc hội làm Chủ tịch, các Phó Chủ tịch Quốc hội làm Phó Chủ tịch. Số Phó Chủ
tịch Quốc hội và số Ủy viên Ủy ban Thường vụ Quốc hội do Quốc hội quyết định.
Hội đồng dân tộc và các Ủy ban của Quốc hội là những cơ quan của Quốc hội, làm việc
theo chế độ tập thể và quyết định theo đa số. Nhiệm kỳ của Hội đồng dân tộc và các Ủy
ban của Quốc hội theo nhiệm kỳ của Quốc hội.
Quốc hội thành lập Hội đồng dân tộc và các Ủy ban sau đây:
- Ủy ban pháp luật;
- Ủy ban kinh tế và ngân sách;
- Ủy ban quốc phòng và an ninh;
1



- Ủy ban văn hóa, giáo dục, thanh niên, thiếu niên và nhi đồng;
- Ủy ban về các vấn đề xã hội;
- Ủy ban khoa học, công nghệ và môi trường;
- Ủy ban đối ngoại
Hội đồng dân tộc là cơ quan thuộc Quốc hội có nhiệm vụ tham mưu cho Quốc hội về vấn
đề dân tộc. Nhiệm vụ của Hội đồng dân tộc là nghiên cứu và kiến nghị với Quốc hội
những vấn đề về dân tộc; thực hiện quyền giám sát việc thi hành chính sách dân tộc, các
chương trình, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội miền núi và vùng có đồng bào dân tộc
thiểu số. Trước khi ban hành các quyết định về chính sách dân tộc, Chính phủ phải tham
kháo ý kiến của Hội đồng dân tộc. Hội đồng dân tộc còn có những nhiệm vụ, quyền hạn
khác như các ủy ban của Quốc hội.
Các Ủy ban của Quốc hội có nhiệm vụ nghiên cứu, thẩm tra những vấn đề được Quốc hội
và Ủy ban thường vụ Quốc hội giao cho đồng thời đề xuất những sáng kiến giúp Quốc
hội và Ủy ban thường vụ Quốc hội giải quyết tốt các vấn đề quan trọng thuộc thẩm quyền
của mình. Quốc hội thành lập hai loại ủy ban: Ủy ban thường trực và ủy ban lâm thời.
Ủy ban thường trực của Quốc hội là những ủy ban hoạt động thường xuyên. Nhiệm vụ
của các ủy ban này là nghiên cứu, thẩm tra dự án luật, kiến nghị về luật, dự án pháp lệnh
và dự án khác, những báo cáo được Quốc hội hoặc Ủy ban thường vụ Quốc hội giao;
trình Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội ý kiến về chương trình xây dựng luật, pháp
lệnh.
Ủy ban lâm thời là những ủy ban được Quốc hội thành lập ra khi xét cần thấy cần thiết để
nghiên cứu thẩm tra một dự án hoặc điều tra về một vấn đề nhất định. Sau khi hoàn thành
nhiệm vụ, ủy ban này sẽ giải thể.
2.

Chứng minh Quốc hội là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất?

Quốc hội – cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất của nước công hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam qua các bản Hiến pháp.


2


Trong bộ máy nhà nước ta, Quốc hội chiếm vị trí đặc biệt quan trọng. Theo hiến
pháp năm 1992, ở nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam tất cả quyền lực nhà nước
thuộc về nhân dân (điều 2). Quyền lực nhà nước được xác định là thuộc về nhân dân
nhưng nhân dân không trực tiếp sử dụng quyền lực đó mà trao cho Quốc hội để thay mặt
mình sử dụng quyền lực nhà nước, chính vì vậy Quốc hội là cơ quan có quyền lực cao
nhất. Quyền lực của Quốc hội là quyền lực của nhân dân - những người làm chủ đất nước
trao cho, Quốc hội nhận quyền lực trực tiếp từ nhân dân. Hơn nữa, nhà nước cộng hòa xã
hội chủ nghĩa Việt Nam được tổ chức theo nguyên tắc quyền lực nhà nước là tập trung
thống nhất, tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân, do đó Quốc hội chính là cơ
quan đại biểu cao nhất của nhân dân quyền lực nhà nước cao nhất của nước cộng hòa xã
hội chủ nghĩa Việt Nam. Quyền lực tập trung vào quốc hội, quốc hội giao quyền cho các
cơ quan khác như chính phủ, tòa án nhân dân tối cao, viện kiểm sát nhân dân tối cao,…
Chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của Quốc hội được Hiến pháp quy định. Trong
Hiến pháp năm 1946, điều 22 quy định “Nghị viện nhân dân là cơ quan có quyền cao
nhất của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa”, thẩm quyền của Quốc hội được quy định
chung tại Điều 23 là “Nghị viện nhân dân giải quyết mọi vấn đề chung cho toàn quốc,
đặt ra các pháp luật, biểu quyết ngân sách, chuẩn y các hiệp ước mà Chính phủ ký với
nước ngoài”. Ngoài quy định chung tại Điều 23, nhiệm vụ và quyền hạn của Nghị viện
còn được thể hiện tại Điều 25 “Nghị viện không chỉ thay mặt cho địa phương mình mà
còn thay mặt cho toàn thể nhân dân”; Nghị viện nhân dân có quyền bỏ phiếu bầu Chủ
tịch nước tại Điều 45; bầu cử Thủ tướng và các bộ trưởng tại Điều 47 và chế độ trách
nhiệm của Thủ trưởng, bộ trưởng trước Nghị viện nhân dân tại Điều 54.
Hiến pháp năm 1959 khẳng định “Quốc hội là cơ quan quyền lực Nhà nước cao nhất
của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa”. Như vậy, so với Hiến pháp năm 1946, Hiến pháp
năm 1959 đã có bước phát triển mới qua việc khẳng định “Quốc hội là cơ quan quyền lực
nhà nước cao nhất; là cơ quan duy nhất có quyền lập pháp của nước Việt Nam dân chủ
cộng hòa”.

Hiến pháp năm 1980 tiếp tục khẳng định vị trí của Quốc hội là “cơ quan quyền lực
Nhà nước cao nhất” của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam như Hiến pháp năm
3


1959 đã quy định. So với hai bản Hiến pháp trước đây, điểm mới thứ nhất rất quan trọng
là lần đầu tiên, Hiến pháp năm 1980 quy định chức năng đại diện của Quốc hội, theo đó
“Quốc hội là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân”. Đây chính là căn cứ pháp lý quan
trọng để cụ thể hóa chức năng đại diện của Quốc hội trong Luật tổ chức Quốc hội năm
1981.
Điểm mới thứ hai là mở rộng phạm vi thẩm quyền của Quốc hội trong việc thực hiện
chức năng quyết định những vấn đề quan trọng của đất nước. Theo Điều 82 của Hiến
pháp năm 1980, “Quốc hội quyết định những chính sách cơ bản về đối nội và đối ngoại,
những mục tiêu phát triển kinh tế và văn hóa, những quy tắc chủ yếu về tổ chức và hoạt
động của bộ máy nhà nước, về quan hệ xã hội và hoạt động của công dân”. Như vậy, về
mặt pháp lý, thẩm quyền của Quốc hội trong lĩnh vực này là rất rộng và được quy định
khá rõ ràng hơn so với Hiến pháp năm 1959.
Điểm mới thứ ba là lần đầu tiên, Hiến pháp năm 1980 đã xác định tính chất và đặc
điểm chức năng giám sát của Quốc hội là “giám sát tối cao đối với toàn bộ hoạt động của
Nhà nước” Quy định này là căn cứ pháp lý quan trọng để phân định rõ hoạt động giám
sát của Quốc hội với các hình thức giám sát khác việc thi hành pháp luật ở nước ta. Điểm
mới này cũng gián tiếp khẳng định vai trò là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất của
nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Hiến pháp năm 1992 tiếp tục khẳng định vị trí của Quốc hội là cơ quan đại biểu cao
nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất của nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam. Quốc hội có ba chức năng cơ bản là lập pháp, quyết định các vấn đề
quan trọng của đất nước và giám sát tối cao đối với toàn bộ hoạt động của đất nước.
Điểm sửa đổi quan trọng trong Hiến pháp năm 1992 là bãi bỏ quy định Quốc hội có thể
định cho mình những nhiệm vụ và quyền hạn khác khi xét thấy cần thiết của Hiến pháp
năm 1980.

Đến năm 2001, Hiến pháp 1992 được sửa đổi, bổ sung, trong đó có một số quy định
mới điều chỉnh nhiệm vụ quyền hạn của Quốc hội nhằm khẳng định vai trò của Quốc hội
trong việc quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước. Cụ thể là ở Điều 84 của Hiến
pháp năm 1992 được sửa đổi, bổ sung theo Nghị quyết số 51/2001/QH10 quy định Quốc
4


hội: “phân bổ ngân sách trung ương”; “quyết định chính sách tôn giáo của Nhà nước”;
“phê chuẩn đề nghị của Chủ tịch nước về danh sách thành viên Hội đồng quốc phòng và
an ninh; bỏ phiếu tín nhiệm đối với những người giữ các chức vụ do Quốc hội bầu hoặc
phê chuẩn” và “phê chuẩn hoặc bãi bỏ điều ước quốc tế do Chủ tịch nước trực tiếp ký”.
Vai trò của Quốc hội còn được tăng cường trong việc xem xét và quyết định các vấn
đề về nhân sự cấp cao. Trước năm 2001, Hiến pháp năm 1980 và Hiến pháp năm 1992
đều giao cho cơ quan thường trực của Quốc hội là Hội đồng Nhà nước, Uỷ ban thường vụ
Quốc hội có quyền phê chuẩn đề nghị của Thủ tướng Chính phủ về việc bổ nhiệm, miễn
nhiệm, cách chức Phó Thủ tướng, bộ trưởng và các thành viên khác của Chính phủ và
báo cáo với Quốc hội tại kỳ họp gần nhất của Quốc hội. Điều khoản sửa đổi của Hiến
pháp năm 1992 đã bãi bỏ thẩm quyền này của Uỷ ban thường vụ Quốc hội để bảo đảm
Quốc hội là chủ thể duy nhất có quyền quyết định nhân sự cấp cao của nhà nước. Trong
Báo cáo trình Quốc hội về vấn đề này, Uỷ ban dự thảo sửa đổi, bổ sung một số điều của
Hiến pháp năm 1992 cho rằng đây là vấn đề quan trọng, phải thuộc thẩm quyền của Quốc
hội, không nên giao cho cơ quan khác thực hiện. Về mặt thời gian, mỗi năm Quốc hội
họp hai kỳ, thời gian giữa hai kỳ họp không dài. Do đó, việc bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách
chức những người giữ các chức danh này không nhất thiết phải tiến hành trong thời gian
Quốc hội không họp. Như vậy, việc bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm Chủ tịch nước, Phó Chủ
tịch nước, Chủ tịch Quốc hội, các Phó Chủ tịch Quốc hội và các ủy viên Uỷ ban thường
vụ Quốc hội, Thủ tướng Chính phủ, Chánh án Toà án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện
kiểm sát nhân dân tối cao; phê chuẩn đề nghị của Thủ tướng Chính phủ về việc bổ nhiệm,
miễn nhiệm, cách chức Phó Thủ tướng, Bộ trưởng và các thành viên khác của Chính phủ;
phê chuẩn đề nghị của Chủ tịch nước về danh sách thành viên Hội đồng quốc phòng và

an ninh sau khi Hiến pháp năm 1992 được sửa đổi vào năm 2001 là hoàn toàn thuộc thẩm
quyền của Quốc hội, thể hiện tinh thần và mục tiêu xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân.
Ngoài được thể hiện trong Hiến pháp ra nó còn được thể hiện trong Luật tổ chức
Quốc hội năm 2001. Cụ thể tại điều 1 của Luật tổ chức Quốc hội nêu rõ ‘‘Quốc hội là cơ

5


quan đại biểu cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất của nước
cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam’’.
II. Những biểu hiện thể hiện Quốc hội là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất
của nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
1. Chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của quốc hội.

Là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất, Quốc hội thay mặt nhân dân thực hiện
quyền lực Nhà nước thống nhất. Tính quyền lực nhà nước của Quốc hội thể hiện ở thẩm
quyền của Quốc hội và được cụ thể hoá thành các chức năng và nhiệm vụ, quyền hạn cụ
thể. Quốc hội vừa mang chủ quyền nhà nước vừa mang chủ quyền nhân dân. Quốc hội
nắm giữ quyền lực tối cao của nhà nước, thay mặt nhân dân thực hiện quyền làm chủ.
Quốc hội nước ta có ba chức năng: lập hiến, lập pháp; quyết định những vấn đề quan
trọng của đất nước và giám sát tối cao đối với toàn bộ hoạt động của Nhà nước. Các chức
năng trên của Quốc hội được cụ thể hóa thành các nhiệm vụ và quyền hạn của quốc hội.
1.1. Trong lĩnh vực lập hiến và lập pháp

Quốc hội là cơ quan duy nhất có quyền thông qua Hiến pháp và sửa đổi Hiến pháp, thông
qua Luật và sửa đổi Luật. Hiến pháp là đạo luật cơ bản của Nhà nước, qui định các vấn
đề quan trọng nhất về quyền lực Nhà nước và cách thức tổ chức quyền lực Nhà nước, về
chế độ chính trị, chế độ kinh tế, chế độ văn hoá - xã hội, về cơ cấu tổ chức bộ máy Nhà
nước, về quan hệ giữa Nhà nước và cá nhân, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân…

Hiến pháp và Luật thể hiện đường lối cơ bản và những chủ trương lớn của Đảng đã được
Nhà nước thể chế hoá và có hiệu lực thi hành trên toàn lãnh thổ nước ta. Luật là văn bản
có hiệu lực pháp lý cao sau Hiến pháp. Các văn bản qui phạm pháp luật khác do các cơ
quan nhà nước ban hành phải căn cứ vào Hiến pháp, Luật, Nghị quyết của Quốc hội và
không được trái với tinh thần, nội dung của Hiến pháp, Luật và Nghị quyết của Quốc hội.
1.2. Trong lĩnh vực quyết định những vấn đề quan trọng của đất nước

Quốc hội quyết định những chính sách cơ bản về đối nội và đối ngoại, nhiệm vụ kinh tế xã hội, quốc phòng, an ninh của đất nước, qui định những nguyên tắc chủ yếu về tổ chức

6


và hoạt động của bộ máy Nhà nước, về quan hệ xã hội và hoạt động của công dân. Những
vấn đề quan trọng của đất nước do Quốc hội quyết định gồm có:
Về tổ chức và hoạt động của các cơ quan nhà nước ở trung ương: Quốc hội bầu, miễn
nhiệm Chủ tịch nước, Phó Chủ tịch nước, Chủ tịch và các Phó Chủ tịch Quốc hội, thành
lập Chính phủ, bầu Chánh án Toà án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân
dân tối cao; quyết định thành lập, bãi bỏ các bộ và các cơ quan ngang bộ; thành lập mới,
nhập, chia, điều chỉnh địa giới tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương...
Về lĩnh vực kinh tế- ngân sách: Quốc hội quyết định kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội
của đất nước, chính sách tài chính, tiền tệ quốc gia; quyết định dự toán ngân sách nhà
nước và phân bổ ngân sách trung ương; chính sách dân tộc, chính sách tôn giáo, quyết
định đại xá;
Vấn đề chiến tranh và hoà bình, Quốc hội quy định về tình trạng khẩn cấp, các biện pháp
đặc biệt khác bảo đảm quốc phòng và an ninh quốc gia;
Về đối ngoại, Quốc hội phê chuẩn hoặc bãi bỏ các điều ước quốc tế mà nước ta là thành
viên theo tờ trình của Chủ tịch nước.
1.3. Trong lĩnh vực giám sát tối cao của Quốc hội

Quốc hội thực hiện quyền giám sát tối cao đối với toàn bộ hoạt động của Nhà nước

nhằm đảm bảo cho mọi hoạt động của Nhà nước đúng pháp luật vì mục tiêu dân giàu,
nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Đối tượng giám sát của Quốc hội là
việc tuân theo Hiến pháp, luật và nghị quyết của Quốc hội; hoạt động của các cơ quan
Nhà nước ở trung ương là Chủ tịch nước, Uỷ ban thường vụ Quốc hội, Chính phủ, Toà án
nhân dân tối cao và Viện kiểm sát nhân dân tối cao. Các cơ quan này chịu trách nhiệm và
báo cáo công tác trước Quốc hội.
Quốc hội hoạt động theo chế độ hội nghị và quyết định theo đa số. Các vấn đề được
Quốc hội quyết định đều phải được tập thể các đại biểu Quốc hội xem xét và chỉ được
thông qua khi có quá nửa tổng số đại biểu Quốc hội biểu quyết đồng ý, trừ trường hợp
sửa đổi Hiến pháp là phải có hai phần ba tổng số đại biểu tán thành.

7


Hiến pháp năm 1992 quy định nguyên tắc tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước,
trong đó phải kể đến nguyên tắc tập trung dân chủ mà nội dung của nguyên tắc này là
quyền lực nhà nước phải được triển khai thống nhất, xuyên suốt... và quyền lực đó phải
chịu sự giám sát của nhân dân hay của các cơ quan đại diện.
Cụ thể hóa quy định Quốc hội có quyền giám sát tối cao đối với toàn bộ hoạt động
của nhà nước, điều khoản sửa đổi của Hiến pháp năm 1992 quy định Uỷ ban thường vụ
Quốc hội chỉ có quyền trực tiếp hủy bỏ những văn bản trái với pháp lệnh, nghị quyết của
Uỷ ban thường vụ Quốc hội còn những văn bản trái với Hiến pháp, luật, nghị quyết của
Quốc hội thì chỉ có quyền đình chỉ và trình lên Quốc hội xem xét việc hủy bỏ trong kỳ
họp gần nhất (Điều 91 khoản 5 Hiến pháp năm 1992 đã được sửa đổi, bổ sung năm
2001). Chức năng giám sát tối cao của Quốc hội còn được quy định chi tiết hơn trong
Luật về hoạt động giám sát của Quốc hội (2003), theo đó, quyền giám sát tối cao của
Quốc hội được thực hiện qua các cơ quan của Quốc hội và của đại biểu Quốc hội.
Điểm mới so với trước đây là quy định Quốc hội có quyền bỏ phiếu tín nhiệm đối với
những người giữ các chức vụ do Quốc hội bầu hoặc phê chuẩn. Căn cứ để Uỷ ban thường
vụ Quốc hội xem xét và trình Quốc hội bỏ phiếu tín nhiệm là phải có kiến nghị của ít

nhất hai mươi phần trăm (20%) tổng số đại biểu Quốc hội hoặc kiến nghị của Hội đồng
dân tộc, Uỷ ban của Quốc hội về việc bỏ phiếu tín nhiệm đối với những người giữ chức
vụ do Quốc hội bầu hoặc phê chuẩn.
2.

Quốc hội với chủ tịch nước, chính phủ, các cơ quan quyền lực nhà nước ở địa
phương.
Trong cơ chế tổ chức quyền lực nhà nước, mối quan hệ giữa Quốc hội và các thiết

chế nhà nước khác được xác định ở chỗ Quốc hội có quyền bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm
những người đứng đầu các cơ quan khác của nhà nước; nhiệm kỳ hoạt động của các cơ
quan nhà nước do Quốc hội thành lập là theo nhiệm kỳ của Quốc hội. Do được Quốc hội
bầu và có thể bị Quốc hội bãi miễn, nên có thể thấy rằng sự tồn tại của chính các cơ quan
khác của nhà nước ở trung ương là phụ thuộc vào sự tín nhiệm của Quốc hội và của nhân
dân. Mặt khác, mỗi cơ quan nhà nước khi được thành lập có phạm vi thẩm quyền nhất

8


định và có tính độc lập trong việc tổ chức thực hiện những nhiệm vụ, quyền hạn được
giao trong phạm vi thẩm quyền đó.
Chủ tịch nước do Quốc hội bầu và phải chịu trách nhiệm trước Quốc hội. Chính phủ
là cơ quan chấp hành của quốc hội. Quốc hội có thể miễn nhiệm, bãi nhiệm các chức vụ
cao nhất của bộ máy nhà nước như chủ tịch nước, phó chủ tịch nước, thủ tướng chính
phủ, phê chuẩn các quyết định bổ nhiệm các chức vụ chánh án tòa án nhân dân tối cao,
viện trưởng viện kiểm sát nhân dân tối cao,…
Hội đồng nhân dân chính là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương. Hội đồng
nhân dân cùng với Quốc hội hợp thành hệ thống cơ quan quyền lực nhà nước, thay mặt
nhân dân sử dụng quyền lực nhà nước và là gốc của chính quyền nhân dân. Hội đồng
nhân dân nhận quyền lực trực tiếp từ Quốc hội do Quốc hội ủy nhiệm bằng hình thức văn

bản. Trong khi Quốc hội sử dụng quyền lực nhà nước trên phạm vi toàn lãnh thổ thì hội
đồng nhân dân chỉ thay mặt nhân dân địa phương sử dụng quyền lực nhà nước trong
phạm vi địa phương mình.
III. Thực trạng hoạt động của Quốc hội.
Từ quá trình hình thành, phát triển và hoạt động của Quốc hội nước ta 60 năm qua, có thể
thấy rằng: Thứ nhất, sự ra đời và phát triển của Quốc hội là kết quả của quá trình đấu
tranh cách mạng và gắn liền với sự phát triển của đất nước ta trong suốt 60 năm qua.
Trong quá trình phát triển, Quốc hội ngày càng thực sự thể hiện là cơ quan kết hợp chặt
chẽ và hài hòa hình thức dân chủ đại diện và hình thức dân chủ trực tiếp, là hiện thân của
sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc. Thứ hai, từ ngày thành lập đến nay, Quốc hội đã thể
hiện hai thuộc tính đặc biệt mà chỉ duy nhất Quốc hội mới có, đó là: cơ quan đại biểu cao
nhất của nhân dân và cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất. Nhân dân thông qua Quốc
hội và các đại biểu Quốc hội do mình bầu ra để thực thi các quyền lực của mình, do đó
Quốc hội là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân. Quốc hội là nền tảng chính trị - pháp
lý của sự tồn tại và phát triển của hệ thống tổ chức quyền lực chính trị và tổ chức quyền
lực Nhà nước. Quốc hội với ba chức năng cơ bản là: lập pháp (cơ quan duy nhất có quyền
ban hành Hiến pháp và luật), quyết định những vấn đề quan trọng nhất của đất nước và
thực hiện quyền giám sát tối cao. Thông qua ba chức năng này, Quốc hội đã thể hiện là
9


cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất và thực
hiện ngày càng có hiệu quả các chức năng của mình thông qua việc không ngừng hoàn
thiện và đổi mới tổ chức cũng như phương thức hoạt động. Quốc hội ngày càng xứng
đáng với niềm tin và ý chí của toàn dân, xứng đáng với vị trí là cơ quan quyền lực nhà
nước cao nhất. Thứ ba, mô hình tổ chức một viện của Quốc hội nước ta đã phản ánh đúng
truyền thống, lịch sử hình thành và yêu cầu của sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta.
Ngay từ khi thành lập sau cuộc Tổng tuyển cử ngày 6-1-1946, Quốc hội nước ta với hình
thức tổ chức theo cơ cấu một viện là nhằm bảo đảm cho Quốc hội thật sự trở thành một tổ
chức tập trung quyền lực của Nhà nước, thống nhất ý chí, nguyện vọng của các tầng lớp

nhân dân. Bên cạnh những kết quả đã đạt được, Quốc hội cũng không thể tránh khỏi một
số thiếu sót. Trong lĩnh vực xây dựng pháp luật còn một số tồn đọng, hạn chế nhất là về
vấn đề trình độ xây dựng pháp luật của các đại biểu cần phải chú trọng hơn.Trong quyết
định một số vấn đề quan trọng liên quan đến an ninh quốc gia, chủ quyền lãnh thổ cần
nhanh nhạy, dứt khoát hơn. Trong lĩnh vực giám sát của quốc hội: Luật Hoạt động giám
sát của Quốc hội có hiệu lực đã hơn năm năm, nhưng cho tới nay vẫn còn thiếu văn bản
hướng dẫn thi hành, nhất là về quy trình, thủ tục giám sát đối với từng chủ thể giám sát;
về bỏ phiếu tín nhiệm đối với các chức danh do Quốc hội bầu hoặc phê chuẩn; hậu quả
pháp lý của giám sát… Hoạt động chất vấn và trả lời chất vấn của Quốc hội khá sôi nổi,
có nhiều khởi sắc, bước đầu đạt được những kết quả đáng khích lệ, được cử tri đánh giá
cao, nhưng vẫn còn đó những câu hỏi chưa được chuẩn bị nghiêm túc, dài dòng, hỏi để
được cung cấp thông tin và những câu trả lời chung chung, tránh né trách nhiệm. Đại
biểu Quốc hội nước ta phần lớn là kiêm nhiệm và theo cơ cấu thành phần, vùng Miền,
chất lượng không đồng đều; vị trí công tác khác nhau, nên việc tham gia hoạt động Quốc
hội nói chung, hoạt động giám sát nói riêng bị hạn chế, kết quả đạt được chưa cao. Trong
hoạt động giám sát của đại biểu Quốc hội, Đoàn đại biểu Quốc hội nơi này, nơi khác còn
có sự nể nang, ngại va chạm với lãnh đạo chủ chốt của chính quyền địa phương; thiếu
kiên quyết trong tranh luận giữa người giám sát và đối tượng chịu sự giám sát.
3. Các hình thức hoạt động của Quốc hội?

10


Từ Quốc hội khoá I năm 1946 đến Quốc hội khoá XI hiện nay quan thực tiễn hoạt động
đã rót ra hình thức hoạt động sau đây.
Thứ nhất: Kỳ họp Quốc hội là hình thức hoạt động quan trọng nhất, nơi biểu hiện trực
tiếp và tập trung nhất quyền lực nhà nước của cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất, trí
tuệ của tập thể đại biểu Quốc hội và quyền giám sát của Quốc hội đối với hoạt động của
các nhà nước.
So với các hình thức tổ chức hoạt động khác của Quốc hội thì kỳ họp là hình thức hoạt

động có ưu thế hơn cả. Chỉ có kỳ họp mới thông qua được những quyết định chính thức
của mình, các văn bản pháp luật kể cả Hiến pháp và các nghị quyết khác.
Thứ hai: Hoạt động của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội là hình thức hoạt động thường
xuyên của Quốc hội.
Thứ ba: Hình thức hoạt động của Hội đồng dân tộc và các uỷ ban chuyên môn của Quốc
hội là hình thức hoạt động thường xuyên của Quốc hội.
Các hình thức hoạt động nói trên hiện nay được quy định tại "Điều 4 Luật tổ chức Quốc
hội năm 2001”.
KỲ HỌP QH LÀ HÌNH THỨC HOẠT ĐỘNG QUAN TRỌNG NHẤT CỦA QH
Theo quy định hiện nay Quốc hội họp định kỳ (mỗi năm 02 kỳ, không quy định cụ
thể nh trước đây là vào cuối tháng 6 và cuối tháng 12 hàng năm). Mà chỉ quy định chung
mỗi năm hai kỳ. Đây là sự đổi mới trong hoạt động của Quốc hội hiện nay nhằm bảo đảm
cho công tác chuẩn bị những nội dung liên quan đến kỳ họp được đầy đủ, chu đáo để
nâng cao hiệu quả của kỳ họp.
Trước đây quy định mỗi năm họp 02 kỳ vào cuối tháng 6 và cuối tháng 12. Đây là
luật vì vậy phải tổ chức họp nếu không họp là vi phạm pháp luật, nhưng các văn bản chưa
chuẩn bị đầy đủ, chưa kiểm tra kỹ cang cho nên các văn bản nếu tính khả thi. Cho nên
hiẹn nay muốn văn bản có tính khả thi cao phải khảo sát lấy ý kiến của nhân dân những
vấn đề liên quan đến nội dung của kỳ họp, như vậy nội dung sẽ được chuẩn bị tốt. Bên
cạnh đó ở Việt Nam thời tiết luôn luôn có dự thay đổi vì vậy cần tổ chức kỳ họp cho phù
hợp với tình hình thực tiễn, bởi phần lớn các vị đaị biểu Quốc hội đều là lãnh đạo các địa
phương nếu bão lũ xảy ra đều phải trực tiếp chỉ đạo giải quyết. Vì vậy việc quy định
11


chung như hiện nay là rất khoa học, phù hợp với tình hình thực tiễn ở Việt Nam.
Ngoài các kỳ họp chính thức theo quy định của Quốc hội cần tổ chức các cuộc
họp bất thường trong các trường hợp sau đây.
Một là: Theo sáng kiến của uỷ ban Thường vụ Quốc hội.
Hai là: Theo dề nghị của Thủ tướng Chính phủ.

Ba là: Theo đề nghị Ýt nhất một phần ba tổng số Đại biểu Quốc hội.
HOẠT ĐỘNG CỦA UỶ BAN THƯỜNG VỤ QUỐC HỘI.
Đây là hình thức hoạt động thường xuyên của Quốc hội, Quốc hội nước ta mỗi
năm họp hai kỳ không hoạt động thường xuyên vì vậy để đảm bảo việc duy trì hoạt động
của Quốc hội một cách liên tục sự cần thiết phải thành lập các cơ quan Thường trực của
Quốc hội, uỷ ban thường vụ Quốc hội chính là cơ quan thường trực đó, thay mặt Quốc
hội giữa hai kỳ họp để thực hiện một phần nhiệm vụ quyền hạn của Quốc hội.
HOẠT ĐỘNG CỦA HỘI ĐỒNG DÂN TỘC VÀ CÁC UỶ BAN CHUYÊN MÔN
CŨNG LÀ NHỮNG HÌNH THỨC HOẠT ĐỘNG THƯỜNG XUYÊN CỦA QUỐC
HỘI.
Hoạt động của Quốc hội nh phần trên đã phân tích đòi hỏi Quốc hội phải giải
quyết nhiều vấn đề trong nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội khác nhau. Để quyết định
của Quốc hội có hiệu lực trên thực tế, công việc chuẩn bị, xem xét, nghiên cứu khởi thảo
các dự án có ý nghĩa rất quan trọng. Đồng thời có những nhiệm vụ, quyền hạn của Quốc
hội nếu được giải quyết một cách tập trung tất cả những đại biểu Quốc hội, nhiều khi
không những không có hiệu quả mà còn tốn kém, do đó Quốc hội thành lập các bộ phận
chuyên sâu bao gồm các đại biểu có những chuyên môn nghiệp vụ để nghiên cứu trước
các dự án. Đó là hội đồng dân tộc và các uỷ ban Quốc hội.
Riêng các uỷ ban Quốc hội có rất nhiều các uỷ ban khác nhau và mỗi uỷ ban lại có
một chức năng nhiệm vụ, theo Luật tổ chức Quốc hội, Quốc hội được thành lập bẩy uỷ
ban thường trực.
- Ủy ban pháp luật.
- Ủy ban kinh tế và ngân sách.
- Ủy ban quốc phòng và an ninh.
12


- Ủy ban giáo dục, thanh niên, thiếu niên và nhi đồng.
- Ủy ban về các vấn đề xã hội.
- Ủy ban khoa học, công nghệ và môi trường.

- Ủy ban đối ngoại.
Thành phần các uỷ ban gồm có: Chủ nhiện các phó chủ nhiệm và các uỷ viên, theo
luật tổ chức Quốc hội cho phép một số chủ nhiệm và phó chủ nhiệm và các uỷ viên hoạt
động chuyên trách. Khi xét thấy cần thiết Quốc hội thành lập ra uỷ ban lâm thời để
nghiên cứu, thẩm tra một dự án, điều tra về một vấn đề nào đó.
HOẠT ĐỘNG CỦA ĐẠI BIỂU QH VÀ ĐOÀN ĐẠI BIỂU QH Ở ĐỊA PHƯƠNG.
Đây cũng là hính thức hoạt động thường xuyên của Quốc hội, sau các kỳ họp Đại
biểu Quốc hội hoạt động không chuyên trách trở về các địa phương để làm nhiệm vụ
chuyên môn của mình, bên cạnh đó vẫn phải thực hiện nhiệm vụ của đại biểu và tham
gia sinh hoạt với đoàn đại biểu Quốc hội ở địa phương.
Hiện nay các đoàn đại biểu được thành lập theo các đơn vị hành chính cấp tỉnh. Tất cả
các đại biểu bầu ra ở tỉnh nào hoặc thành phố trực thuộc trung ương hợp thành một đại
biểu Quốc hội, trong đó có trưởng đoàn và phó đoàn, Ýt nhất mỗi đoàn đại biểu Quốc hội
có trụ sở làm việc, đây là những quy định mới nhằm điều kiện cho các đại biểu hoạt động
có hiệu quả hơn.

4. Thẩm quyền của Chủ tịch nước ?
5. Cơ cấu tổ chức của chính phủ?

Điều 2. Cơ cấu tổ chức và thành viên của Chính phủ
1. Chính phủ gồm Thủ tướng Chính phủ, các Phó Thủ tướng Chính phủ, các Bộ trưởng
và Thủ trưởng cơ quan ngang bộ. Cơ cấu số lượng thành viên Chính phủ do Thủ tướng
Chính phủ trình Quốc hội quyết định.
2. Cơ cấu tổ chức của Chính phủ gồm các bộ, cơ quan ngang bộ.
Việc thành lập, bãi bỏ bộ, cơ quan ngang bộ do Chính phủ trình Quốc hội quyết định.

13


(trích: Luật tổ chức Chính phủ ngày 19/6/2015)

6. Các hình thức hoạt động của Chính phủ?

1. Thông qua phiên họp Chính phủ
Các phiên họp của Chính phủ là hình thức hoạt động tập thể chủ yếu, quan trọng
nhất có ý nghĩa quyết định đến toàn bộ hoạt động của Chính phủ. Vì vậy, Điều 32 Luật tổ
chức chính phủ năm 2011 quy định: “Chính phủ làm việc theo chế độ kết hợp trách nhiệm
của tập thể với việc đề cao quyền hạn và trách nhiệm cá nhân của Thủ tướng và của mỗi
thành viên Chính phủ”. Có thể hiểu, phiên họp là nơi tập trung trí tuệ của cả tập thể Chính
phủ với sự tham gia ý kiến của các cơ quan Nhà nước, các tổ chức xã hội để giải quyết
phần lớn nhiệm vụ, quyền hạn của Chính phủ Việt Nam.
2. Thông qua hoạt động của Thủ tướng Chính phủ
Thủ tướng Chính phủ là người đứng Chính phủ, người lãnh đạo, điều hành và chịu
trách nhiệm về mọi hoạt động của Chính phủ. Khắc phục những hạn chế trong quy định về
quyền hạn của người đứng đầu Chính phủ mà Hiến pháp 1983 đã quy định, Hiến pháp 1992
và Luật Tổ chức Chính phủ năm 2001 đã đưa ra những quy định nhằm tăng cường vai trò
của người đứng đầu Chính phủ. Với những quy định này, quyền hạn đã được phân định rõ
ràng hơn giữa tập thể Chính phủ với cá nhân Thủ tướng. Quyền hạn của Thủ tướng Chính
phủ được quy định khá cụ thể, rõ ràng và có phần mở rộng, nhiều quyền hạn trước đây giao
cho tập thể Hội đồng Bộ trưởng này giao cho cá nhân Thủ tướng.
Để thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình, Thủ tướng Chính phủ căn cứ vào
Hiến pháp, Luật, Nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, Nghị quyết của Ủy ban thường vụ
Quốc hội; Lệnh, quyết định của Chủ tịch nước, Nghị quyết, Nghị định của Chính phủ. Thủ
tướng Chính phủ ra quyết định, chỉ thị và kiểm tra việc thực hiện văn bản đó. Văn bản của
Thủ tướng Chính phủ ban hành có hiệu lực thi hành trong phạm vi cả nước và đồng thời,
Thủ tướng hướng dẫn, kiểm tra việc thi hành các văn bản đó đối với các ngành, các địa
phương và các cơ sở.
Cơ chế trách nhiệm của các Phó thủ tướng, Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ
trước thủ trưởng còn chưa được cụ thể hóa.

14



Với tất cả những quy định trên, ta thấy rằng quyền hạn của Thủ tướng Chính phủ đã
có thay đổi. Đặc biệt là thẩm quyền ban hành văn bản đã có sự cải thiện đáng kể. Hình thức
văn bản đã phù hợp với vai trò, quyền hạn của Thủ tướng và qua hình thức văn bản có thể
phân biệt giữa văn bản của Chính phủ với văn bản của Thủ tướng Chính phủ ban hành,
tránh được sự chồng chéo về thẩm quyền. Hơn thế, thẩm quyền của Thủ tướng Chính phủ
đã quy định rõ ràng và cụ thể điều kiện thuận lợi cho Thủ tướng Chính phủ hoàn thành tốt
nhiệm vụ, quyền hạn của mình, là cơ sở cho các chính sách của Đảng và Nhà nước Việt
Nam được thực hiện trên thực tế.
3. Thông qua hoạt động của Bộ trưởng và Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ.
Ngoài hoạt động của phiên họp, hoạt động của Thủ tướng và phó Thủ tướng, hoạt
động của Bộ trưởng và Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ đóng vai trò khá quan trọng trong
hoạt động của Chính phủ. Bộ trưởng và Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ thực hiện chức năng
quản lý Nhà nước đối với ngành hoặc lĩnh vực công tác trong phạm vi cả nước.
Bộ trưởng và Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ là thành viên Chính phủ, lãnh đạo
công tác của Bộ và cơ quan ngang Bộ, phụ trách một số công tác của Chính phủ. Bộ trưởng
chịu trách nhiệm trước Thủ tướng và trước Quốc hội về hoạt động quản lý Nhà nước trong
phạm vi ngành , lĩnh vực được phân công.
Trong Chính phủ, các Bộ trưởng hoạt động với hai tư cách : Thứ nhất: là thành
viên của Chính phủ, cùng tập thể Chính phủ giải quyết công việc chung của Chính phủ
thông qua các phiên họp; Thứ hai: là người đứng đầu một Bộ, ngành hoặc lĩnh vực thực
hiện lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành hoạt động của Bộ, ngành, lĩnh vực. (Điều 23 Luật tổ chức
Chính phủ).
Để thực hiện nhiệm vụ quyền hạn của mình, pháp luật hiện hành quy định Bộ
trưởng có quyền ban hành gồm quyết định, chỉ thị, thông tư. Bộ trưởng căn cứ vào Hiến
pháp, Luật và Nghị Quyết của Quốc hội; Pháp lệnh, nghị quyết của Ủy ban thường vụ
Quốc hội; Lệnh, Quyết định của Chủ tịch nước, các văn bản của Chính phủ , Thủ tướng
Chính phủ để ra các văn bản trên và hướng dẫn , kiểm tra việc thi hành các văn bản đó.
.

Về trách nhiệm của Chính phủ, Điều 109 Hiến pháp năm 1992 quy định: “ Chính
phủ chịu trách nhiệm trước Quốc hội và báo cáo công tác với Quốc hội, Ủy ban thường vụ
15


Quốc hội, Chủ tịch nước”. Cơ chế trách nhiệm mới này cho thấy vai trò của Chính phủ,
Thủ tướng Chính phủ do Quốc hội lập ra với tư cách là cơ quan chấp hành của Quốc hội,
cơ quan Hành chính nhà nước cao nhất và chỉ chịu trách nhiệm trước Quốc hội. Quy định
Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ báo cáo công tác trước Ủy ban thường vụ Quốc hội và
Chủ tịch nước là để đảm bảo sự giám sát của các cơ quan này – với tư cách là những cơ
quant ham gia thực hiện quyền giám sát đối với bộ máy hành chính Nhà nước.
Điều 117 Hiến pháp cũng quy định rõ: “Bộ trưởng và các thành viên khác của
Chính phủ chịu trách nhiệm trước Thủ tướng Chính phủ, trước Quốc hội về lĩnh vực,
ngành mình phụ trách”. Như vậy, các thành viên của Chính phủ (Bộ trưởng và Thủ trưởng
cơ quan ngang Bộ) vừa chịu trách nhiệm về ngành, lĩnh vực mình phụ trách (giống như quy
định tại các Hiến pháp trước) vừa phải chịu trách nhiệm trước Thủ tướng Chính phủ. Quy
định như vậy của Hiến pháp 1992 là nhằm mục đích tăng cường vai trò điều hành của Thủ
tướng Chính phủ đối với các thành viên khác trong chính phủ.
4. Một số giải pháp về hoàn thiện các hình thức hoạt động của chính phủ Việt
Nam theo pháp luật hiện hành:
Thứ nhất là, Để đảm bảo hiệu quả cho phiên họp của chính phủ ngoài việc hoàn
thiện các quy định của pháp luật, sự cần thiết phải mở rộng thành phần phiên họp, làm tốt
công tác chuẩn bị (đặc biệt là chuẩn bị dự án và các nội dung đưa ra phiên họp). Phiên họp
cần tập trung giải quyết tốt những nhiệm vụ quan trọng của Chính phủ. Ngoài ra hiện nay ở
nước ta do đặc thù của nền kinh tế chuyển đổi rất nhiều quy định mang tính chất kĩ thuật về
chính sách kinh tế - xã hội cần phải thông qua một cách nhanh chóng dứt khoát không cần
phải chờ đến phiên hợp thường kì của Chính phủ. Vì vậy, việc tổ chức một cơ cấu bên
trong Chính Phủ, có đủ các thành phần thay mặt cho Chính phủ có thể đưa ra quy định
nhanh chóng, kịp thời đáp ứng đòi hỏi của xã hội,
Thứ hai là, Thực hiện đúng, có sự kết hợp hiệu quả nguyên tắc tập thể và đề cao

trách nhiệm cá nhân người đứng đầu nguyên tắc thủ trưởng. Nguyên tắc tập thể kết hợp với
trách nhiệm người đứng đầu là một nguyên tắc cơ bản của bất cứ Chính phủ nào trong các
nhà nước hiện đại. Việc kết hợp hai mặt của nguyên tắc tập thể - cá nhân Thủ trưởng là
động lực thúc đẩy hoạt động của Chính phủ. Chính phủ của nước cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam là một tập thể thống nhất dưới sự lãnh đạo của Thủ tướng Chính phủ.
16


Thứ ba là, Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức của Chính phủ.Đáp ứng
yêu cầu chuẩn hóa đội ngũ cán bộ công chức cần đào tạo, bố trí sử dụng cán bộ. ban hành
các quy định pháp luật về đánh giá cán bộ công chức thật sự khoa học đúng người đúng
việc. Bảo đảm chính sách và lợi ích vật chất hợp lý động viên tinh thần đối với cán bộ,
công chức trong bộ máy hành chính.
Thứ tư là, Chính phủ Việt Nam hiện nay cần phải coi trọng vấn đề tham nhũng,
tham nhũng có thể xảy ra ở tất cả các cơ quan trong bộ máy nhà nước, những năm gần
đây Chính phủ Việt Nam cũng đã xác định tham nhũng là vẫn nạn, nó kìm hãm sự phát
triển kinh tế, nhưng kết quả chống tham nhũng ở Việt Nam còn ở mức độ hạn chế.
Để duy trì và thực hiện có hiệu quả công tác phòng, chống tham nhũng Chính phủ
tiếp tục triển khai thực hiện đồng bộ các luật, nghị quyết của Chính phủ và cần triển khai kế
hoạch thanh tra, kiểm tra, kiểm toán có trọng tâm trọng điểm đối với tất cả các lĩnh vực.
Tập trung chỉ đạo điểu tra làm rõ là xử lý đúng pháp luật nhũng vụ việc tham nhũng đã
được phát hiện, nhất là tham nhũng lớn mà xã hội đặc biệt quan tâm. Ngoài ra để công tác
này đạt được hiệu quả cao, thực hiện phòng, chống tham nhũng phải kết hợp chặt chẽ với
cải cách hành chính ở từng cơ quan, địa phương, đơn vị và gắn với thực hành tiết kiệm,
chống lãng phí, quan liêu.

7. Nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân theo pháp luật hiện hành?

Điều 103 Hiến pháp năm 2013 quy định các nguyên tắc cơ bản tổ chức và hoạt động của
Tòa án nhân dân. Đó là:…

Theo quy định trên thì Hiến pháp năm 2013 đã kế thừa và có bổ sung cho chính xác, phù
hợp với thực tiễn và tinh thần cải cách tư pháp một số nguyên tắc tổ chức và hoạt động
của Tòa án nhân dân - cơ quan xét xử, thực hiện quyền tư pháp ở nước ta. Đó là:
- Nguyên tắc xét xử có hội thẩm tham gia
Theo Hiến pháp năm 2013 thì Hội thẩm chỉ tham gia trong xét xử ở cấp sơ thẩm; còn
việc xét xử ở cấp phúc thẩm là không bắt buộc. Sự sửa đổi này cũng xuất phát từ thực
tiễn xét xử những năm qua.

17


- Nguyên tắc thẩm phán và hội thẩm xét xử độc lập
Nguyên tắc này có một bổ sung quan trọng trong Hiến pháp năm 2013. Đó là “Cấm cơ
quan, tổ chức, cá nhân can thiệp vào việc xét xử của Thẩm phán, Hội thẩm”. Bổ sung này
nhấn mạnh tầm quan trọng cũng như thái độ dứt khoát của Nhà nước ta đối với việc can
thiệp vào hoạt động xét xử của Tòa án, bảo đảm quan trọng cho việc thực hiện nguyên
tắc này trên thực tế.
- Nguyên tắc xét xử tập thể
Để thực hiện cải cách tư pháp, nâng cao hiệu quả của việc xét xử, bảo đảm cho việc xét
xử nhanh chóng, kịp thời, tiết kiệm, Hiến pháp năm 2013 quy định ngoại lệ cho phép Tòa
án xét xử bằng một Thẩm phán trong trường hợp áp dụng thủ tục rút gọn
- Nguyên tắc xét xử công khai
Thay cho quy định trường hợp ngoại lệ do luật định trong Hiến pháp năm 1992, Hiến
pháp năm 2013 quy định cụ thể điều kiện cho phép Tòa án xét xử kín. Đó là “Trong
trường hợp đặc biệt cần giữ bí mật nhà nước, thuần phong, mỹ tục của dân tộc, bảo vệ
người chưa thành niên hoặc giữ bí mật đời tư theo yêu cầu chính đáng của đương sự” thì
Toà án phải xét xử kín;
- Nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của bị can, bị cáo, quyền bảo vệ lợi ích hợp pháp
của đương sự
Để thực hiện nhiệm vụ bảo vệ quyền con người một cách toàn diện, công bằng, Hiến

pháp năm 2003 ngoài việc quy định quyền bào chữa của bị can, bị cáo, còn bổ sung việc
bảo đảm quyền bảo vệ lợi ích hợp pháp của các đương sự khác như người bị hại, nguyên
đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong hoạt động xét xử
của Tòa án.
Đồng thời, Hiến pháp năm 2013 bổ sung một số nguyên tắc quan trọng, bảo đảm sự phù
hợp với tinh thần Cải cách tư pháp, bảo vệ quyền con người và thông lệ quốc tế. Các
nguyên tắc được bổ sung là:
- Nguyên tắc tranh tụng trong xét xử được bảo đảm
18


Đây là nguyên tắc thể hiện nội dung rất quan trọng trong Cải cách tư pháp ở nước ta. Sự
thật chỉ được xác định, công lý chỉ được thiết lập khi có sự tranh tụng giữa các bên trong
tố tụng tư pháp, nhất là trong xét xử các vụ án;
- Chế độ xét xử sơ thẩm, phúc thẩm được bảo đảm
Nguyên tắc hai cấp xét xử là nguyên tắc xuyên suốt của hệ thống tư pháp của bất kỳ một
quốc gia nào; được ghi nhận trong các văn kiện quốc tế về quyền con người và pháp luật
của mọi quốc gia. Thực hiện hai cấp xét xử là một trong những biện pháp bảo vệ quyền
con người hữu hiệu; đồng thời bảo đảm cho hoạt động tư pháp thận trọng nhưng có điểm
dừng, tránh kéo dài, chậm trễ.
Khác với Hiến pháp năm 1992, Hiến pháp năm 2013 không quy định nguyên tắc Toà án
nhân dân bảo đảm cho công dân nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam thuộc các
dân tộc quyền dùng tiếng nói và chữ viết của dân tộc mình trước Toà án. Đây là một quy
định rất quan trọng, nhưng không chỉ trong lĩnh vực tư pháp, mà cả trong mọi lĩnh vực
của đời sống xã hội. Tinh thần quan trọng này đã được Hiến pháp năm 2013 quy định tại
khoản 3 Điều 5 “Các dân tộc có quyền dùng tiến nói, chữ viết… của mình”, nên không
cần quy định lặp lại ở chương về Tòa án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân nữa.
Hiến pháp năm 2013 không quy định nguyên tắc xét xử trực tiếp, nguyên tắc xét xử liên
tục vì không đặc trưng cho hoạt động xét xử và phù hợp với thực tiễn hoạt động tư pháp
ngày càng phức tạp, thường xuyên kéo dài hiện nay. Đồng thời, tạo điều kiện để Toà án

hoạt động có hiệu quả về mặt thời gian, chi phí vật chất; sử dụng công nghệ kỹ thuật số
hiện đại; bảo đảm an toàn cho những người tham gia tố tụng khi cần thiết.
8. Nhiệm vụ, quyền hạn của Viện Kiểm sát nhân dân theo pháp luật hiện hành?

Theo Điều 107 Hiến pháp năm 2013 Viện kiểm sát nhân dân thực hành quyền
công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp.Điều 1 Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm
2002, Viện kiểm sát nhân dân có chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát các
hoạt động tư pháp.

19


Viện kiểm sát nhân dân có nhiệm vụ bảo vệ pháp luật, bảo vệ quyền con người,
quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và
lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân, góp phần bảo đảm pháp luật được chấp hành
nghiêm chỉnh và thống nhất.
Viện kiểm sát nhân dân tối cao thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư
pháp, góp phần bảo đảm cho pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất. Các
Viện kiểm sát nhân dân địa phương thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư
pháp ở địa phương mình. Các Viện kiểm sát quân sự thực hành quyền công tố và kiểm sát
các hoạt động tư pháp theo quy định của pháp luật.
Điều 3 Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2002 quy định Viện kiểm sát
nhân dân thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình bằng những công tác sau đây.
1. Thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc điều
tra các vụ án hình sự của các cơ quan điều tra và các cơ quan khác được giao nhiệm vụ
tiến hành một số hoạt động điều tra;
2. Điều tra một số loại tội xâm phạm hoạt động tư pháp mà người phạm tội là cán
bộ thuộc các cơ quan tư pháp;
3. Thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc xét xử
các vụ án hình sự;

4. Kiểm sát việc giải quyết các vụ án dân sự, hôn nhân và gia đình, hành chính,
kinh tế, lao động và những việc khác theo quy định của pháp luật;
5. Kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc thi hành bản án, quyết định của
Toà án nhân dân;
6. Kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc tạm giữ, tạm giam, quản lý và giáo
dục người chấp hành án phạt tù.

20


Viện kiểm sát nhân dân là cơ quan duy nhất được giao chức năng thực hành
quyền công tố. Hoạt động thực hành quyền công tố chỉ diễn ra trong hai giai đoạn của tố
tụng hình sự là giai đoạn điều tra các vụ án hình sự và giai đoạn xét xử các vụ án hình sự.
Hoạt động công tố được thực hiện ngay từ khi khởi tố vụ án hình sự và trong suốt quá
trình tố tụng hình sự nhằm bảo đảm không bỏ lọt tội phạm và người phạm tội, không làm
oan người không có tội.
Theo quy định tại Điều 13 Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2002, khi
thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra, Viện kiểm sát nhân dân có những
nhiệm vụ và quyền hạn sau đây:
1. Khởi tố vụ án hình sự, khởi tố bị can; Yêu cầu cơ quan điều tra khởi tố hoặc
thay đổi quyết định khởi tố vụ án hình sự, khởi tố bị can;
2. Đề ra yêu cầu điều tra và yêu cầu cơ quan điều tra tiến hành điều tra; trực tiếp
tiến hành một số hoạt động điều tra theo quy định của pháp luật;
3. Yêu cầu Thủ trưởng cơ quan điều tra thay đổi Điều tra viên theo quy định của
pháp luật; nếu hành vi của Điều tra viên có dấu hiệu tội phạm thì khởi tố về hình sự;
4. Quyết định áp dụng, thay đổi, huỷ bỏ biện pháp bắt, tạm giữ, tạm giam và các
biện pháp ngăn chặn khác, phê chuẩn, không phê chuẩn các quyết định của cơ quan điều
tra theo quy định của pháp luật;
5. Huỷ bỏ các quyết định trái pháp luật của cơ quan điều tra;
6. Quyết định việc truy tố bị can; quyết định đình chỉ hoặc tạm đình chỉ điều tra,

đình chỉ hoặc tạm đình chỉ vụ án.
Khi thực hành quyền công tố trong giai đoạn xét xử các vụ án hình sự, Điều 17
Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2002 quy định Viện kiểm sát nhân dân có
những nhiệm vụ và quyền hạn sau đây:

21


1. Đọc cáo trạng, quyết định của Viện kiểm sát nhân dân liên quan đến việc giải
quyết vụ án tại phiên toà;
2. Thực hiện việc luận tội đối với bị cáo tại phiên toà sơ thẩm, phát biểu quan
điểm về việc giải quyết vụ án tại phiên toà phúc thẩm; tranh luận với người bào chữa và
những người tham gia tố tụng khác tại phiên toà sơ thẩm, phúc thẩm;
3. Phát biểu quan điểm của Viện kiểm sát nhân dân về việc giải quyết vụ án tại
phiên toà giám đốc thẩm, tái thẩm.
Theo Hiến pháp năm 2013 và Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2002,
Viện kiểm sát nhân dân chỉ thực hiện hoạt động kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong
các hoạt động tư pháp. Hoạt động kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong các hoạt động
tư pháp của Viện kiểm sát nhân dân được thực hiện thông qua các hoạt động kiểm sát cụ
thể như sau:
Thứ nhất, công tác kiểm sát điều tra các vụ án hình sự, bao gồm các hoạt
động kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động điều tra của các cơ quan điều tra
và các cơ quan khác được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra.
Thứ hai, kiểm sát xét xử các vụ án hình sự, bao gồm các hoạt động: Kiểm sát việc
tuân theo pháp luật trong hoạt động xét xử của Toà án nhân dân; kiểm sát việc tuân theo
pháp luật của những người tham gia tố tụng; kiểm sát các bản án và quyết định của Toà
án nhân dân theo quy định của pháp luật; yêu cầu Toà án nhân dân cùng cấp và cấp dưới
chuyển hồ sơ những vụ án hình sự để xem xét, quyết định việc kháng nghị.
Thứ ba, kiểm sát việc giải quyết của Tòa án đối với các vụ việc dân sự, hôn nhân
và gia đình, kinh tế, lao động, các vụ án hành chính và những việc khác theo quy định

của pháp luật.
Thứ tư, kiểm sát thi hành án, bao gồm các hoạt động: Kiểm sát việc tuân theo pháp
luật của Toà án nhân dân, cơ quan thi hành án, Chấp hành viên, cơ quan, tổ chức, đơn vị
và cá nhân có liên quan trong việc thi hành bản án, quyết định về hình sự, dân sự đã có
22


hiệu lực pháp luật và những bản án, quyết định được thi hành ngay theo quy định của
pháp luật
Thứ năm kiểm sát việc tạm giữ, tạm giam, quản lý và giáo dục người chấp hành án
phạt tù, bao gồm các hoạt động kiểm sát việc tuân theo pháp luật của các cơ quan, đơn vị
và người có trách nhiệm trong việc tạm giữ, tạm giam, quản lý và giáo dục người chấp
hành án phạt tù.

9. Mối quan hệ giữa Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân với các cơ quan nhà

nước ở Trung ương? ( Luật tổ chức chính quyền địa phương năm 2015)
Điều 6. Hội đồng nhân dân
1. Hội đồng nhân dân gồm các đại biểu Hội đồng nhân dân do cử tri ở địa phương bầu ra,
là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương, đại diện cho ý chí, nguyện vọng và quyền
làm chủ của Nhân dân, chịu trách nhiệm trước Nhân dân địa phương và cơ quan nhà
nước cấp trên.
Điều 8. Ủy ban nhân dân
1. Ủy ban nhân dân do Hội đồng nhân dân cùng cấp bầu, là cơ quan chấp hành của Hội
đồng nhân dân, cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương, chịu trách nhiệm trước Nhân
dân địa phương, Hội đồng nhân dân cùng cấp và cơ quan hành chính nhà nước cấp trên.
2. Ủy ban nhân dân gồm Chủ tịch, Phó Chủ tịch và các Ủy viên, số lượng cụ thể Phó Chủ
tịch Ủy ban nhân dân các cấp do Chính phủ quy định.

10. Nguyên tắc tổ chức và hoạt động của chính quyền địa phương theo Luật Tổ chức


chính quyền địa phương năm 2015?
Điều 5. Nguyên tắc tổ chức và hoạt động của chính quyền địa phương
1. Tuân thủ Hiến pháp và pháp luật, quản lý xã hội bằng pháp luật; thực hiện nguyên tắc
tập trung dân chủ.

23


2. Hiện đại, minh bạch, phục vụ Nhân dân, chịu sự giám sát của Nhân dân.
3. Hội đồng nhân dân làm việc theo chế độ hội nghị và quyết định theo đa số.
4. Ủy ban nhân dân hoạt động theo chế độ tập thể Ủy ban nhân dân kết hợp với trách
nhiệm của Chủ tịch Ủy ban nhân dân.

6. Về cơ cấu tổ chức và hoạt động của Hội đồng nhân dân
Kế thừa các nội dung hợp lý của Luật năm 2003; đồng thời bổ sung những điểm mới
nhằm quy định chi tiết hơn về tổ chức và hoạt động của HĐND, kỳ họp HĐND, Thường
trực HĐND, các Ban của HĐND và đại biểu HĐND (về giám sát của HĐND do Luật
hoạt động giám sát của Quốc hội và HĐND quy định cụ thể). Theo đó, cơ cấu tổ chức và
hoạt động của HĐND có những nội dung mới sau:
- Thứ nhất, quy định tiêu chuẩn, số lượng đại biểu HĐND các cấp (chuyển từ Luật Bầu
cử đại biểu HĐND hiện nay sang quy định tại Luật này), trong đó có việc tăng thêm số
lượng đại biểu HĐND ở thành phố Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh từ 95 lên 105 đại
biểu.
- Thứ hai, tăng cường vai trò của Thường trực HĐND, bảo đảm hoạt động thường xuyên
giữa 2 kỳ họp HĐND; quy định rõ Thường trực HĐND họp thường kỳ mỗi tháng 1 lần.
- Thứ ba, thay chức danh Ủy viên Thường trực HĐND cấp tỉnh, cấp huyện bằng chức
danh Phó Chủ tịch HĐND; mở rộng thành viên Thường trực HĐND cấp tỉnh, cấp huyện
gồm Chủ tịch, các Phó Chủ tịch và các Ủy viên là Trưởng Ban của HĐND; Thường trực
HĐND cấp xã vẫn gồm Chủ tịch và Phó Chủ tịch HĐND.

- Thứ tư, ở HĐND thành phố trực thuộc trung ương thành lập thêm Ban đô thị; ở HĐND
cấp xã thành lập thêm 2 ban là Ban Pháp chế và Ban Kinh tế - Xã hội. Thành viên các
Ban HĐND cấp xã hoạt động kiêm nhiệm.
- Thứ năm, quy định đại biểu HĐND hoạt động chuyên trách. Theo đó, Chủ tịch HĐND,
Trưởng Ban của HĐND cấp tỉnh, cấp huyện có thể là đại biểu HĐND hoạt động chuyên
trách; Phó Chủ tịch HĐND, Phó Trưởng Ban của HĐND cấp tỉnh, cấp huyện là đại biểu
HĐND hoạt động chuyên trách; ở cấp xã, quy định Phó Chủ tịch HĐND cấp xã là đại
24


biểu HĐND hoạt động chuyên trách; Trưởng Ban, Phó Trưởng Ban và Ủy viên của các
Ban của HĐND xã hoạt động kiêm nhiệm.
- Thứ sáu, quy định khi có từ 10% trở lên trong tổng số cử tri trên địa bàn cấp xã yêu cầu,
Thường trực HĐND cấp xã có trách nhiệm xem xét tổ chức kỳ họp HĐND để bàn về nội
dung kiến nghị của cử tri.
- Thứ bảy, HĐND cấp tỉnh, cấp huyện thành lập Tổ đại biểu HĐND; HĐND cấp xã
không thành lập Tổ đại biểu HĐND.
7. Về cơ cấu tổ chức và hoạt động của Ủy ban nhân dân
Kế thừa các nội dung hợp lý của Luật năm 2003; đồng thời bổ sung những điểm mới
nhằm quy định chi tiết hơn về số lượng, cơ cấu thành viên UBND, nguyên tắc hoạt động
của UBND; phiên họp UBND; phạm vi, trách nhiệm giải quyết công việc của các thành
viên UBND; mối quan hệ phối hợp công tác của UBND; các cơ quan chuyên môn thuộc
UBND. Theo đó, cơ cấu tổ chức và hoạt động của UBND có những nội dung mới sau:
- Thứ nhất, quy định thành viên UBND cấp tỉnh, cấp huyện gồm Chủ tịch, các Phó Chủ
tịch và các Ủy viên là người đứng đầu cơ quan chuyên môn thuộc UBND, Ủy viên phụ
trách quân sự, Ủy viên phụ trách công an để bảo đảm nguyên tắc làm việc tập thể của
UBND bao quát đầy đủ các lĩnh vực chuyên môn, tạo điều kiện thực hiện việc giám sát
của HĐND và lấy phiếu tín nhiệm đối với người đứng đầu cơ quan chuyên môn thuộc
UBND và cơ quan quân sự, công an ở địa phương; quy định thành viên UBND cấp xã
gồm Chủ tịch, các Phó Chủ tịch và Ủy viên phụ trách quân sự, Ủy viên phụ trách công

an.
- Thứ hai, quy định số lượng Phó Chủ tịch UBND các cấp theo phân loại đơn vị hành
chính, cụ thể như sau:
+ Đối với cấp tỉnh: thành phố Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh có không quá 05 Phó
Chủ tịch UBND; các thành phố trực thuộc trung ương còn lại và các tỉnh loại I có không
quá 04 Phó Chủ tịch UBND; tỉnh loại II và loại III có không quá 03 Phó Chủ tịch UBND.
+ Đối với cấp huyện: Loại I có không quá 03 Phó Chủ tịch UBND; loại II và loại III có
không quá 02 Phó Chủ tịch UBND.
+ Đối với cấp xã: Loại I có không quá 02 Phó Chủ tịch UBND; Loại II và loại III có 01
Phó Chủ tịch UBND.
25


×