Tải bản đầy đủ (.doc) (91 trang)

LV quản lý rủi ro TD techcombank hải dương

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (769.86 KB, 91 trang )

1

MỤC LỤC


2

DANH SÁCH CÁC KÝ HIỆU, CHỮ VIẾT TẮT
1.

Techcombank Việt Nam:

Ngân hàng Thương mại Cổ phần Kỹ Thương
Việt Nam

2.

Techcombank Hải Dương:

Ngân hàng Thương mại Cổ phần Kỹ Thương
Việt Nam – chi nhánh Hải Dương

3.

NHNN:

Ngân hàng Nhà nước

4.

NHTM:



Ngân hàng thương mại

5.

NHTMVN:

Ngân hàng thương mại Việt Nam

6.

DPRR:

Dự phòng rủi ro


3

DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU, SƠ ĐỒ
BẢNG BIỂU
Bảng 1.1. Những biểu hiện của một khoản tín dụng xấu và một chính sách tín dụng
kém hiệu quả..............................................................................................................14
Bảng 1.2. Tỷ lệ trích lập dự phòng theo các nhóm nợ.............................................32
Bảng 2.1. Thẩm quyền phê duyệt tín dụng đối với chi nhánh cấp 1 của
Techcombank.............................................................................................................51
Bảng 2.2. Xếp hạng tín dụng khách hàng doanh nghiệp...........................................53
Bảng 2.3. Chỉ tiêu thang điểm...................................................................................53
Bảng 2.4. Xếp hạng tín dụng khách hàng cá nhân....................................................55
Bảng 2.5. Phân tích dư nợ cho vay của Techcombank Hải Dương theo thời hạn cho
vay..............................................................................................................................59

Biểu đồ 2.1. Phân tích dư nợ cho vay của Techcombank Hải Dương theo thời hạn
cho vay........................................................................................................................59
Bảng 2.6. Phân tích dư nợ cho vay của Techcombank Hải Dương theo ngành nghề
....................................................................................................................................
....................................................................................................................................60
Biểu đồ 2.2. Phân tích dư nợ cho vay của Techcombank Hải Dương theo ngành
nghề............................................................................................................................61
Bảng 2.7. Phân tích dư nợ cho vay của Techcombank theo đối tượng khách hàng và
loại hình doanh nghiệp...............................................................................................61
Biểu đồ 2.3. Phân tích dư nợ cho vay của Techcombank Hải Dương theo đối tượng
khách hàng và loại hình doanh nghiệp......................................................................62
Bảng 2.8. Phân tích chất lượng dư nợ cho vay của Techcombank Hải Dương.......63
Biểu đồ 2.4. Chất lượng dư nợ cho vay của Techcombank Hải Dương...................63
Bảng 2.9. Một số chỉ tiêu phản ánh chất lượng dư nợ..............................................64
Bảng 2.10. Mức trích lập dự phòng rủi ro tín dụng theo các nhóm nợ.....................66
Biểu đồ 2.5. Quy mô tổng dư nợ và tỷ lệ nợ xấu qua các năm.................................68
SƠ ĐỒ
Sơ đồ 1.1. Quy trình tín dụng...................................................................................19
Sơ đồ 2.1. Sơ đồ tổ chức bộ máy hoạt động tại Techcombank Hải Dương..............39


4

Sơ đồ 2.2. Quy trình tín dụng.....................................................................................44


5

LỜI MỞ ĐẦU
I. Sự cần thiết của đề tài

Thực tiễn hoạt động của các NHTMVN trong những năm vừa qua cho chúng
ta thấy tình trạng khó khăn về tài chính của một ngân hàng thường phát sinh từ
những khoản cấp tín dụng khó đòi. Hơn nữa, thông qua kết cấu tài sản của các
NHTMVN chúng ta nhận thấy: tài sản sinh lời là các khoản cấp tín dụng luôn
chiếm tỷ trọng khá lớn 60%-70% tài sản có, thậm chí có một số NHTM tỷ lệ này
lên đến 80%.
Chính vì vậy, tín dụng luôn được đánh giá là một trong các loại nghiệp vụ
ngân hàng phức tạp và có độ rủi ro cao, và vấn đề quản lý rủi ro tín dụng là vấn đề
luôn được các NHTMVN quan tâm hàng đầu.
Với mục tiêu hướng tới xây dựng mô hình một NHTM đạt tiêu chuẩn quốc tế,
hiện đại và vững mạnh, Ngân hàng Thương mại cổ phần Kỹ thương Việt Nam nói
chung và Ngân hàng Thương mại cổ phần Kỹ thương Việt Nam chi nhánh Hải
Dương nói riêng trong quá trình chuyển đổi của mình luôn quan tâm và đặt lên
hàng đầu đối với vấn đề kiểm soát tốt các loại rủi ro, trong đó đặc biệt là rủi ro tín
dụng.
Đó cũng là lý do tác giả chọn đề tài “Quản lý rủi ro tín dụng tại Ngân hàng
Thương mại cổ phần Kỹ thương Việt Nam Chi nhánh Hải Dương”.
II. Mục tiêu của đề tài
Đề tài nghiên cứu muốn hướng đến các mục tiêu:
- Góp phần làm rõ hơn các lý luận về hoạt động tín dụng và rủi ro trong
hoạt động tín dụng.
- Phân tích thực trạng hoạt động tín dụng và các nguyên nhân dẫn đến rủi ro
tín dụng tại Ngân hàng Thương mại Cổ phần Kỹ thương Việt Nam chi nhánh Hải
Dương.
- Trên cơ sở lý luận, phân tích thực trạng và nguyên nhân, đề tài nêu ra một số
giải pháp nhằm hạn chế rủi ro cho hoạt động tín dụng tại Ngân hàng Thương mại
Cổ phần Kỹ thương Việt Nam chi nhánh Hải Dương nói riêng và các NHTMVN


6


nói chung.
III. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài
Đối tượng nghiên cứu của đề tài: Hoạt động tín dụng, rủi ro trong hoạt động tín
dụng và công tác quản lý rủi ro tín dụng tại Ngân hàng Thương mại Cổ phần Kỹ
thương Việt Nam chi nhánh Hải Dương.
Trong các hình thức của tín dụng thì cho vay (tín dụng bằng tiền) là hoạt động
quan trọng nhất và chiếm tỷ trọng lớn nhất tại các NHTM. Nên tác giả chỉ tập trung
nghiên cứu tín dụng và quản lý rủi ro tín dụng đối với hình thức cho vay.
Phạm vi nghiên cứu:
- Về không gian: Tác giả nghiên cứu đối tượng tại Ngân hàng Thương mại Cổ
phần Kỹ thương Việt Nam chi nhánh Hải Dương.
- Về thời gian: Tác giả nghiên cứu dữ liệu trong khoảng thời gian 3 năm từ năm
2010 đến năm 2012.
IV. Phương pháp nghiên cứu của đề tài
Để thực hiện đề tài này, tác giả sử dụng một số phương pháp nghiên cứu sau:
- Phương pháp nghiên cứu lý thuyết;
- Phương pháp phân tích tổng hợp;
- Phương pháp lịch sử và phương pháp lôgic.
Cụ thể: cùng với việc nghiên cứu các lý luận thuộc chuyên ngành kinh tế, tài
chính, ngân hàng, đề tài nghiên cứu đã được thực hiện trên cơ sở:
- Thu thập, tổng hợp các số liệu thực tế về hoạt động tín dụng tại
Ngân hàng Thương mại Cổ phần Kỹ thương Việt Nam chi nhánh Hải Dương.
- Trao đổi kinh nghiệm với các cán bộ tín dụng công tác tại Ngân hàng Thương
mại Cổ phần Kỹ thương Việt Nam chi nhánh Hải Dương, và các cán bộ công tác
trong ngành tài chính, ngân hàng nói chung.
- Trên cơ sở lý luận, các số liệu thực tế tổng hợp được, kết quả các mẫu điều
tra, và các ý kiến nhận định của các cán bộ tín dụng, tác giả sử dụng các phương



7

pháp thống kê, đối chiếu, so sánh để phân tích, đánh giá thực trạng hoạt động tín
dụng của Ngân hàng Thương mại Cổ phần Kỹ thương Việt Nam chi nhánh Hải
Dương, tìm hiểu các nguyên nhân dẫn đến rủi ro tín dụng và đưa ra giải pháp nhằm
hạn chế rủi ro tín dụng.
V. Cấu trúc nội dung nghiên cứu của đề tài
Ngoài phần mở đầu và kết luận, đề tài nghiên cứu được tác giả trình bày gồm
ba chương:
- Chương 1: Cơ sở lý luận về rủi ro tín dụng và quản lý rủi ro trong hoạt động
tín dụng của các NHTM
- Chương 2: Thực trạng về hoạt động quản lý rủi ro tín dụng tại Ngân hàng
Thương mại Cổ phần Kỹ thương Việt Nam chi nhánh Hải Dương.
- Chương 3: Một số giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý rủi ro tín dụng tại
Ngân hàng Thương mại Cổ phần Kỹ thương Việt Nam chi nhánh Hải Dương.
VI. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài nghiên cứu
Đề tài góp phần làm rõ hơn cơ sở lý luận về rủi ro tín dụng và quản lý rủi ro tín
dụng tại các NHTM.
Qua việc nghiên cứu các nguyên nhân dẫn đến rủi ro trong hoạt động tín dụng
và đề xuất giải pháp nhằm hạn chế rủi ro, tác giả mong muốn những suy nghĩ, đề
xuất và những gì mình học hỏi được sẽ giúp ích cho công việc thực tế, từ đó góp
phần nâng cao mức độ hiệu quả và an toàn trong hoạt động tín dụng tại Ngân hàng
Thương mại Cổ phần Kỹ thương Việt Nam chi nhánh Hải Dương. Và xa hơn nữa,
tác giả mong muốn đề tài nghiên cứu sẽ được áp dụng trong hoạt động của các
NHTMVN.


8

CHƯƠNG 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ RỦI RO TÍN DỤNG VÀ QUẢN LÝ

RỦI RO TÍN DỤNG CỦA CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1. Những vấn đề cơ bản về tín dụng ngân hàng
1.1.1. Khái niệm tín dụng ngân hàng
Tín dụng là mối quan hệ kinh tế trong đó các chủ thể chuyển cho nhau quyền
sử dụng về một lượng giá trị hoặc hiện vật với những điều kiện mà hai bên thoả
thuận như số lượng, thời hạn, lãi suất... theo nguyên tắc hoàn trả cả gốc và lãi.
Tín dụng ngân hàng là việc ngân hàng thảo thuận để khách hàng sử dụng một
tài sản (bằng tiền, tài sản thực hay uy tín) với nguyên tắc có hoàn trả bằng các
nghiệp vụ cho vay, chiết khấu (tái chiết khấu), cho thuê tài chính, bảo lãnh ngân
hàng và các nghiệp vụ khác. (PGS.TS. Nguyễn Văn Tiến 2010, tr 350)
Đối tượng vay mượn có thể là tiền hoặc tài sản. Nguyên tắc hoàn trả khẳng
định người cho vay chỉ nhường quyền sử dụng tiền hoặc tài sản của mình cho người
đi vay trong một khoảng thời gian nhất định. Hết thời hạn đó người đi vay sẽ phải
hoàn trả cho người cho vay một số tiền hay tài sản nhất định theo thoả thuận. Thông
thường giá trị khoản hoàn trả sẽ lớn hơn giá trị khoản cho vay.
Với cùng bản chất như vậy, tín dụng Ngân hàng là quan hệ vay mượn lẫn nhau
giữa một bên là ngân hàng và bên kia là các chủ thể kinh tế khác như các đơn vị
kinh tế, các tổ chức xã hội, cá nhân dựa trên nguyên tắc có hoàn trả cả gốc và lãi
trong một khoảng thời gian nhất định. Việc hoàn trả có thể thực hiện một lần hay
nhiều lần tuỳ theo thoả thuận giữa hai bên.
Một ngân hàng khi tham gia vào các quan hệ tín dụng có thể đóng vai trò là
người đi vay hoặc người cho vay. Khi ngân hàng nhận tiền gửi, phát hành trái
phiếu, kỳ phiếu để huy động vốn, vay vốn từ Ngân hàng Trung Ương, từ các tổ
chức tín dụng khác thì nó đóng vai trò là người đi vay. Còn khi ngân hàng thực hiện
việc cho vay trực tiếp, chiết khấu thương phiếu... thì nó đóng vai trò là người cho
vay. Tuy nhiên, trong thực tế do tính phức tạp của hoạt động cho vay so với hoạt
động đi vay và cũng là do thói quen nên khi nói đến tín dụng Ngân hàng người ta
thường chỉ đề cập đến hoạt động cho vay mà ít khi đề cập đến hoạt động đi vay.



9

1.1.2. Phân loại tín dụng Ngân hàng
Các khoản cho vay của Ngân hàng có thể được phân loại theo nhiều tiêu thức
khác nhau. Tuỳ vào mục đích nghiên cứu mà người ta có thể phân loại tín dụng
ngân hàng theo mục đích sử dụng tiền vay, theo thời hạn trong quan hệ tín dụng,
theo tính chất bảo đảm hoặc theo thành phần kinh tế.
-

Căn cứ vào mục đích sử dụng tiền vay, tín dụng được chia thành:
+ Tín dụng tiêu dùng: là hình thức cho vay phục vụ cho nhu cầu tiêu dùng cá
nhân.
+ Tín dụng nông nghiệp: là hình thức cho vay phục vụ cho mục đích sản xuất
kinh doanh trong lĩnh vực nông nghiệp.
+ Tín dụng công nghiệp: là hình thức cho vay phục vụ cho mục đích sản xuất
kinh doanh trong lĩnh vực công nghiệp.
+ Tín dụng xuất nhập khẩu: là hình thức cho vay nhằm tài trợ cho hoạt động
xuất nhập khẩu.

-

Căn cứ vào tính chất bảo đảm, tín dụng có thể chia thành:
+ Tín dụng có bảo đảm là hình thức cho vay có cầm giữ các vật thế chấp cụ thể
nào đó như xe cộ hoặc một hình thức nào đó về tài sản cá nhân.
+ Tín dụng không có bảo đảm: khác với tín dụng có bảo đảm, tín dụng không
có bảo đảm được dựa trên cơ sở uy tín, tình hình tài chính của người vay, lợi tức có
thể thu được trong tương lai và tình hình trả nợ trước đây.

-


Căn cứ vào thời hạn trong quan hệ tín dụng có thể chia thành:
+ Tín dụng ngắn hạn: là những khoản tín dụng có thời hạn dưới 1 năm nhằm
đáp ứng nhu cầu vốn ngắn hạn của người vay như nhu cầu về vốn lưu động.
+ Tín dụng trung hạn: là những khoản tín dụng có thời hạn từ 1 đến 5 năm
phục vụ nhu cầu sửa chữa, nâng cấp tài sản cố định của các doanh nghiệp, cải tiến
kỹ thuật hoặc xây dựng những công trình loại nhỏ, thời hạn thu hồi vốn không dài.


10

+ Tín dụng dài hạn: là những khoản tín dụng có thời hạn trên 5 năm, phục vụ
nhu cầu trang bị tài sản cố định cho sản xuất kinh doanh, hay xây dựng những công
trình lớn, thời hạn thu hồi vốn lâu hơn.
Căn cứ vào thành phần kinh tế có thể chia thành:

-

+ Tín dụng kinh tế quốc doanh: là những khoản tín dụng cung cấp cho các
doanh nghiệp thuộc sở hữu Nhà nước, các khoản tín dụng này có thể được thực hiện
trực tiếp giữa Ngân hàng với các doanh nghiệp hoặc theo kế hoạch Nhà nước.
+ Tín dụng kinh tế ngoài quốc doanh: là những khoản tín dụng cung cấp cho
các doanh nghiệp thuộc sở hữu tư nhân như các công ty TNHH, công ty cổ phần...
1.2. Rủi ro tín dụng trong hoạt động của các NHTM
1.2.1. Tổng quan về rủi ro tín dụng
Rủi ro tín dụng (credit risk), theo khái niệm cơ bản nhất, là khả năng xảy ra
những tổn thất mà ngân hàng phải chịu do khách hàng vay không trả đúng hạn,
không trả hoặc không trả đầy đủ vốn và lãi. (PGS.TS. Phan Thị Thu Hà 2009, tr
154)
Từ đó, có nhiều tiêu chí phản ảnh rủi ro tín dụng của NHTM như:
- Nợ xấu và tỷ lệ nợ xấu trên tổng dư nợ.

- Tỷ lệ nợ xấu trên vốn chủ sở hữu.
- Tỷ lệ nợ xấu trên quĩ dự phòng tổn thất.
- Nợ đáng nghi ngờ (nợ có vấn đề) - có khả năng chuyển thành nợ xấu cao.
- Nợ không có tài sản đảm bảo.
Nhiều ngân hàng phân loại nợ theo khách hàng để phân tích và đánh giá rủi ro
tín dụng. Nợ của khách hàng nhóm A (loại 1) được coi có rủi ro thấp nhất còn nợ
khách hàng nhóm D, E (loại 4-5) được coi là có khả năng mất vốn cao nhất. Để
cách phân loại này phản ảnh chính xác rủi ro tín dụng phải có tiêu chuẩn để xếp
hạng tín nhiệm đúng.


11

1.2.2. Đặc điểm của rủi ro tín dụng
1.2.2.1. Rủi ro tín dụng có tính chất đa dạng và phức tạp
Đặc điểm này biểu hiện ở sự đa dạng và phức tạp của các nguyên
nhân dẫn đến rủi ro, cũng như các hậu quả do rủi ro gây ra. Nhận thức và vận
dụng đặc điểm này, khi thực hiện phòng ngừa và hạn chế rủi ro cần áp dụng đồng
bộ nhiều biện pháp, không chủ quan với bất cứ một dấu hiệu rủi ro nào. Bên
cạnh đó, trong quá trình xử lý hậu quả rủi ro cần xuất phát từ nguyên nhân, bản
chất và hậu quả của rủi ro để đưa ra biện pháp phù hợp.
1.2.2.2. Rủi ro tín dụng có tính tất yếu
Theo nhận định của các chuyên gia kinh tế, hoạt động kinh doanh
ngân hàng thực chất là quản lý rủi ro ở mức độ phù hợp để đạt được mức lợi
nhuận tương ứng. Trong từng nghiệp vụ ngân hàng có rất nhiều nguyên nhân chủ
quan và khách quan dẫn đến rủi ro. Việc tiềm ẩn nguy cơ rủi ro đối với từng
hoạt động ngân hàng là điều mang tính tất yếu.
1.2.2.3. Rủi ro tín dụng có thể dự báo trước hoặc không thể dự báo
Các rủi ro có thể dự báo trước: danh mục cho vay hay đầu tư của
một NHTM luôn luôn có một số khoản thất thoát tiềm tàng chưa được xác định.

Tuy nhiên, nếu giả định rằng các đặc điểm chung của danh mục cho vay nhìn
chung vẫn giống nhau trong một giai đoạn hợp lý thì các NHTM có thể dự báo
các khoản thất thoát này với một mức độ tương đối chính xác bằng cách nghiên
cứu các đặc điểm diễn biến của danh mục cho vay theo thời gian.
Các rủi ro không thể dự báo trước: có nhiều sự kiện nằm ngoài tầm kiểm
soát của các NHTM, các cú sốc ngoại sinh do các điều kiện chưa phát sinh tại
thời điểm ký kết một thỏa thuận kinh doanh,...là những nguyên nhân có thể dẫn
đến rủi ro mà các NHTM không thể dự báo trước.
1.2.3. Biểu hiện của rủi ro tín dụng
Khi tiến hành cấp tín dụng, các ngân hàng thương mại đều mong muốn khoản
tín dụng được hoàn trả đầy đủ và đúng thời hạn như đã thoả thuận. Chính vì thế, sau
khi cấp tín dụng cho khách hàng NHTM thực hiện theo dõi, giám sát việc sử dụng


12

vốn vay của họ. Nếu thấy có biểu hiện sử dụng vốn sai mục đích hoặc có sự khác
thường có thể dẫn đến việc không hoàn trả được vốn vay của khách hàng, NHTM
phải tìm biện pháp ngăn ngừa, can thiệp kịp thời. Các biểu hiện thường gặp của rủi
ro tín dụng là:
Thứ nhất, sự chậm trễ bất thường và không có lý do trong việc cung cấp các
báo cáo tài chính và trả nợ theo lịch đã thỏa thuận; hoặc chậm trễ trong việc liên lạc
với cán bộ tín dụng.
Thứ hai, đối với tín dụng doanh nghiệp, bất cứ sự thay đổi bất thường nào
trong khấu hao, kế hoạch trả lương và phụ cấp, giá trị hàng tồn kho, tài khoản thuế
và thu nhập.
Thứ ba, đối với tín dụng doanh nghiệp, việc cơ cấu lại nợ hay hạn chế thanh
toán cổ tức, hoặc có sự thay đổi vị trí xếp hạng tín nhiệm.
Thứ tư, giá cổ phiếu của công ty thay đổi bất lợi.
Thứ năm, thu nhập ròng giảm trong một hay nhiều năm, đặc biệt là các chỉ tiêu

như tỷ lệ sinh lời trên tổng tài sản (ROA), tỷ lệ sinh lời trên vốn cổ phần (ROE),
hay lợi tức trước thuế và lãi suất (EBIT).
Thứ sáu, những thay đổi bất lợi trong cơ cấu nguồn vốn (chỉ tiêu vốn cổ phần
trên nợ vay), thanh khoản (chỉ tiêu thanh khoản hiện thời), hay mức độ hoạt động
(chỉ tiêu doanh thu trên hàng tồn kho).
Thứ bảy, độ lệch của doanh thu hay lưu chuyển tiền tệ so với kế hoạch khi mà
tín dụng đã được cấp.
Thứ tám, những thay đổi bất ngờ không dự kiến và không có lý do đối với số
dư tiền gửi của khách hàng tại ngân hàng.
Từ những đặc điểm trên của rủi ro tín dụng, ta có thể đưa ra những biểu hiện
của một khoản tín dụng xấu và một chính sách tín dụng kém hiệu quả như sau:


13

Bảng 1.1. Những biểu hiện của một khoản tín dụng xấu
và một chính sách tín dụng kém hiệu quả
Các biểu hiện của tín dụng có vấn

Các biểu hiện của một chính sách tín

đề

dụng kém hiệu quả
1. Trả nợ vay không đúng kỳ hạn

hoặc thất thường.
2. Thường xuyên sửa đổi thời hạn,
xin gia hạn tín dụng.


1. Sự lựa chọn khách hàng không đúng
với cấp độ rủi ro của họ.
2. Chính sách cho vay phụ thuộc vào
những sự kiện có thể xảy ra trong tương lai
(ví dụ sự hợp nhất).

3. Có hồ sơ đảo nợ (mỗi lần vay
mới thì nợ gốc giảm xuống).
4. Lãi suất tín dụng cao không bình
thường (để bù đắp rủi ro tín dụng).
5. Tài khoản phải thu hay hàng tồn
kho tăng không bình thường.

3. Cho vay trên cơ sở lời hứa của khách
hàng duy trì số dư tiền gửi lớn.
4. Thiếu kế hoạch rõ ràng để thanh lý
từng khoản tín dụng.
5. Tỷ lệ tín dụng cao cho khách hàng có
trụ sở ngoài lãnh địa hoạt động của ngân
hàng.

6. Tỷ lệ “nợ/vốn chủ sở hữu” tăng
(hệ số đòn bẩy tăng).
7. Thất lạc hồ sơ (đặc biệt là các báo
cáo tài chính của khách hàng).

6. Hồ sơ tín dụng không đầy đủ, thiếu
sót và không đồng bộ.
7. Tỷ lệ cho vay nội bộ cao (cán bộ công
nhân viên, hội đồng quản trị, ban tổng giám

đốc, các cổ đông,…).

8. Chất lượng bảo đảm tín dụng
thấp.

8. Có xu hướng thái quá trong cạnh
tranh (cấp tín dụng xấu để giữ chân khách
hàng).

9. Dựa vào đánh giá lại tài sản để

9. Cho vay hỗ trợ các mục đích đầu cơ.

tăng vốn chủ sở hữu của khách hàng.
10. Thiếu báo cáo lưu chuyển luồng
tiền hay dự báo luồng tiền.
11. Khách hàng dựa vào nguồn thu
bất thường để trả nợ (ví dụ bán nhà
xưởng hay máy móc thiết bị).

10. Không nhạy cảm với sự thay đổi các
điều kiện môi trường kinh tế.


14

(PGS. TS. Nguyễn Văn Tiến 2010, tr 409)
1.2.4. Nguyên nhân của rủi ro tín dụng
1.2.4.1. Nguyên nhân khách quan từ phía nền kinh tế và các cơ quan quản lý
Nhà Nước

- Xuất phát từ hệ thống thông tin:
Thông tin tín dụng bao gồm thông tin lịch sử, thông tin hiện tại và xu
hướng phát triển của khách hàng trong tương lai (gồm cả thông tin về tài chính và
phi tài chính) và đặc biệt là các thông tin thống kê về các chỉ tiêu trung bình
ngành phục vụ cho việc xếp loại khách hàng vay.
Hiện nay, các NHTM không chỉ quan tâm đến việc hỏi tin về xếp hạng
doanh nghiệp nhằm đánh giá khách hàng có quan hệ tín dụng mà còn sử dụng
thông tin vào những mục đích khác như mở rộng đối tượng cho vay, thực hiện
công tác marketing đến khách hàng truyền thống, khách hàng tiềm năng, và mở
rộng thị phần trên thị trường. Tuy nhiên, một hệ thống thông tin bất cân xứng,
chưa có cơ chế công bố thông tin đầy đủ sẽ là một trở ngại lớn cho các NHTM
định mức tín nhiệm doanh nghiệp. Nếu các NHTM cố gắng chạy theo thành tích,
mở rộng tín dụng trong điều kiện môi trường thông tin bất cân xứng thì sẽ gia
tăng nguy cơ nợ xấu.
- Xuất phát từ hệ thống văn pháp quy:
Về cơ bản, hoạt động tín dụng của các NHTM đã được Luật hóa trong các
văn bản pháp quy của Chính Phủ, NHNN. Tuy nhiên, qua nghiên cứu, phân tích,
đúc kết từ những trường hợp rủi ro trong thực tế hoạt động của các NHTM cho
thấy vẫn còn những “lỗ hỏng” khá nguy hiểm, đó vừa là những nguyên nhân sâu
xa, vừa là những nguyên nhân ảnh hưởng trực tiếp đến rủi ro tín dụng của các
NHTM.
Hoạt động tín dụng của các NHTM hiện nay chịu sự điều chỉnh, chi phối
của khá nhiều luật, văn bản dưới luật chồng chéo, không rõ ràng, không hợp lý,
thiếu tính chặt chẽ và chưa thật sự hoàn chỉnh.
Chính Phủ thường xuyên ban hành mới các chính sách về thuế, về xuất nhập


15

khẩu, hoặc các quy định về đất đai, nhà ở…Khi một chính sách bị thay đổi đột

ngột sẽ ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất, kinh doanh, ảnh hưởng đến kế
hoạch, cũng như khả năng dự báo sức tiêu thụ trên thị trường của các doanh
nghiệp. Việc định hướng chiến lược sản xuất, kinh doanh không phù hợp, không
chính xác sẽ dẫn đến sản xuất cung vượt cầu, hàng hóa khó tiêu thụ, giá bán hạ,
thua lỗ, khách hàng sẽ không đảm bảo nguồn tiền trả nợ cho các NHTM.
- Xuất phát từ công tác kiểm tra, thanh tra:
Hiện nay, bên cạnh những kết quả đạt được, hoạt động thanh tra, kiểm tra,
giám sát của NHNN đối với các NHTM chưa thật sự có hiệu quả:
+ Năng lực cán bộ thanh tra, giám sát chưa đáp ứng được yêu cầu, thậm chí
một số nghiệp vụ kinh doanh và công nghệ mới thanh tra còn chưa nắm bắt kịp
thời.
+ Nội dung và phương pháp thanh tra, giám sát còn lạc hậu, chậm được đổi
mới, hoạt động một cách thụ động theo kiểu xử lý vụ việc đã phát sinh, ít có khả
năng ngăn chặn, phòng ngừa rủi ro và vi phạm.
- Xuất phát từ các cơ quan ban ngành liên quan:
Hoạt động của các cơ quan ban ngành có liên quan đến hoạt động tín dụng của
các NHTM hiện nay có thể nói còn nhiều vấn đề cần bàn luận:
+ Quản lý doanh nghiệp còn lỏng lẻo, cấp phép tràn lan.
+ Công chứng tài sản thế chấp sai pháp luật.
+ Sự kém hiệu quả của cơ quan pháp luật cấp địa phương.
+ Sự can thiệp không chính thức của các cơ quan công quyền trong việc cho
vay, cản trở việc đánh giá khách hàng của các NHTM. Có thể phân tích ở hai
khía cạnh đó là: các NHTM không thể từ chối cho vay nên việc thẩm định các
khoản vay, đánh giá năng lực thật sự của khách hàng chỉ mang tính thủ tục; và do
có sự can thiệp của các cấp chính quyền trong việc cấp tín dụng. Điều đó đã làm
giảm chất lượng công tác thẩm định, khoản cấp tín dụng vì vậy mang nhiều rủi ro,
làm tăng nợ xấu.


16


1.2.4.2. Nguyên nhân chủ quan từ phía các NHTM
- Xuất phát từ cán bộ quản lý, cán bộ tín dụng:
Đạo đức của cán bộ tín dụng là một trong những yếu tố quan trọng để giải
quyết vấn đề hạn chế rủi ro tín dụng. Một cán bộ hạn chế về năng lực có thể
được bồi dưỡng thêm để nâng cao trình độ, nhưng một cán bộ tha hóa về đạo
đức mà lại giỏi về mặt nghiệp vụ thì thật sự nguy hiểm khi được bố trí trong
công tác tín dụng. Điều này có thể nhận thấy qua các vụ án kinh tế lớn trong thời
gian vừa qua có liên quan đến hoạt động ngân hàng đều có sự tiếp tay của những
cán bộ tín dụng cùng với khách hàng hoặc bản thân cán bộ tín dụng cố ý:
+ Thực hiện trái với qui trình tín dụng.
+ Trực tiếp thu nợ nhưng không nộp mà dùng cho mục đích cá nhân.
+ Lập hồ sơ giả để vay tiền cá nhân, nhờ người vay hộ,…
+ Tẩy xóa, sửa chữa chứng từ có giá để thế chấp vay tiền.
+ Định giá TSBĐ không đúng giá trị thực do thông đồng với khách hàng.
Bên cạnh vấn đề đạo đức, năng lực, trình độ, kinh nghiệm của một bộ phận cán
bộ tín dụng hiện nay chưa đáp ứng nhu cầu công việc. Điều này có thể thấy trong
thực tế qua việc bố trí công việc chưa phù hợp với trình độ chuyên môn, bản thân
từng cán bộ chưa có ý thức tự nâng cao nghiệp vụ. Ngoài ra có thể nhận thấy rõ nét
nhất là công tác phân công cán bộ tín dụng quản lý khách hàng của các NHTM
hiện nay không theo chuyên ngành kinh tế. Cán bộ tín dụng làm việc theo kiểu đa
năng, không chuyên sâu vào một ngành nghề cụ thể nào nên không có nhiều kiến
thức chuyên ngành. Khách hàng khi cung cấp các dự án, có nhiều thông số kỹ thuật
máy móc chuyên ngành hoàn toàn xa lạ với cán bộ tín dụng. Thuê chuyên gia đánh
giá đòi hỏi chi phí cao nên chủ yếu mà các ngân hàng thường làm trong những
trường hợp này là tự tìm hiểu thông tin thông qua sách, báo, tạp chí chuyên ngành,
qua mạng internet. Nếu cán bộ tín dụng không có kiến thức chuyên môn về chuyên
ngành cần thẩm định sẽ đưa ra những đánh giá sai, gây bức xúc cho khách hàng
hoặc ngược lại, khách hàng thông tin sai mà không biết, gây ra những quyết định
sai lầm trong cho vay.



17

Ngoài ra, sự gắn bó, nỗ lực với công việc của một bộ phận cán bộ tín dụng
cũng chưa được phát huy do chính sách tuyển dụng, sử dụng, phân công, bố trí
công việc và vấn đề đãi ngộ của các NHTM chưa đủ sức thu hút.
- Xuất phát từ chính sách, quy trình tín dụng và sự vận dụng chính sách, quy
trình tín dụng chưa nghiêm túc:
Nhân tố đầu tiên ảnh hưởng đặc biệt quan trọng đến chất lượng tín dụng của
các NHTM đó là chính sách tín dụng. Tuy nhiên, chính sách tín dụng chỉ phát huy
tác dụng khi được xây dựng trên cơ sở khách quan và sự nghiêm túc của việc
ban hành và vận dụng. Thực tế, vẫn còn nhiều nguyên nhân khác nhau dẫn đến
chính sách tín dụng chưa thật sự hợp lý:
+ Chính sách tín dụng của các NHTM hiện nay phần lớn đều chưa đạt tầm
chiến lược, chưa theo nguyên tắc thị trường, thậm chí còn bị cuốn theo các hội
chứng, phong trào, khẩu hiệu phát triển kinh tế và theo chủ nghĩa thành tích.
+ Các NHTM hầu như chưa xây dựng được chính sách tín dụng khoa học,
phù hợp thể hiện được quan điểm và chiến lược riêng.
+ Ngoài ra, các NHTM không có chiến lược phát triển rõ nét hay nói cách
khác chưa quản lý về danh mục cho vay theo lĩnh vực sở trường.
+ Chính sách tín dụng với vấn đề lãi suất vẫn còn khá nhiều bất cập.
+ Mô hình thích hợp cho việc lượng hóa mức độ rủi ro của khách hàng để từ
đó xác định phần bù rủi ro và giới hạn tín dụng an toàn tối đa đối với một khách
hàng cũng như để trích lập dự phòng rủi ro hầu như chưa được các NHTM
đầu tư xây dựng.
Quy trình tín dụng thông thường được xác lập trên những quy định chung của
những văn bản pháp quy về ngân hàng và những đặc thù trong hoạt động của
riêng mỗi ngân hàng. Quy trình tín dụng có thể tổng hợp theo sơ đồ sau:
Sơ đồ 1.1. Quy trình tín dụng

THIẾT LẬP
HỒ SƠ
KHÁCH HÀNG VAY

THẨM ĐỊNH
HỒ SƠ
KHÁCH HÀNG VAY

GIẢI NGÂN VÀ THU NỢ
RA QUYẾT ĐỊNH
VÀ KÝ HỢP ĐỒNG

THANH LÝ HỢP ĐỒNG
VÀ XỬ LÝ TRANH CHẤP

Quy trình
tín dụng nếu
không

phát


18

huy được tác dụng sẽ ảnh hưởng đến chất lượng quản lý rủi ro tín dụng. Trên
thực tế, không phải quy trình tín dụng của các NHTM luôn đảm bảo tính hợp lý và
chặt chẽ, biểu hiện như:
+ Thông tin cần phải thực hiện trong các bước của quy trình không được quy
định chi tiết và đầy đủ, cũng như mối quan hệ giữa các bước chưa được nhận
thức đúng đắn.

+ Trên thực tế, việc phân định rõ giữa khâu thẩm định và cho vay ở nhiều
NHTM vẫn chưa thật sự tách biệt. Các NHTM cần tiến hành triển khai, áp dụng
quy trình tín dụng mới với việc phân chia độc lập giữa ba chức năng: quan hệ
khách hàng, quản lý rủi ro và quản lý nợ.
+ Do sức ép cạnh tranh trong việc mở rộng thị phần tín dụng, trong quá trình
vận dụng không ít NHTM đã bỏ qua các bước của quy trình, hạ thấp tiêu chuẩn
đánh giá khách hàng, không chú ý đúng mức đến tình hình tài chính, năng lực sản
xuất kinh doanh, khả năng trả nợ, nguồn trả nợ của khách hàng vay nên nảy sinh
nhiều sai phạm về điều kiện vay vốn, về việc lập hồ sơ vay vốn, về việc kiểm
tra, quản lý nợ vay, về cơ cấu lại thời hạn trả nợ (điều chỉnh kỳ hạn trả nợ, gia hạn
nợ gốc và lãi).
Việc nhận thức chưa đầy đủ và vận dụng chưa thật sự nghiêm túc của cán bộ
tín dụng đối với các chính sách và quy trình tín dụng cũng ảnh hưởng đến chất
lượng tín dụng của các NHTM vì nếu nhận thức đầy đủ, thực hiện nghiêm túc các
quy định, nhất là thẩm tra chặt chẽ khả năng tài chính, hiệu quả của phương án
sản xuất kinh doanh, các điều kiện về bảo đảm tiền vay của khách hàng rồi mới
quyết định đầu tư thì khả năng thu hồi vốn là rất lớn. Ngược lại, nếu buông lỏng
quản lý hoặc thẩm tra chưa đầy đủ đã quyết định đầu tư thì mức độ rủi ro sẽ gia
tăng, thậm chí có khi mất vốn.
- Xuất phát từ công tác thẩm định:
Đánh giá uy tín, năng lực quản lý, năng lực tài chính của khách hàng:
+ Đánh giá uy tín của khách hàng là vấn đề thật sự khó khăn đối với các cán
bộ thực hiện công tác thẩm định trong việc tiếp cận thông tin về khách hàng khi


19

nguồn thông tin và khả năng phát tín hiệu của khách hàng còn hạn chế. Hiện nay,
công tác đánh giá uy tín của khách hàng chủ yếu dựa vào cảm tính và chủ quan
của các cán bộ nghiệp vụ, như dựa vào các quan hệ trong quá khứ: khách hàng

vay trả đúng hạn được xem là khách hàng có uy tín, còn đối với khách hàng mới
quan hệ thì chủ yếu dựa vào ý kiến chủ quan của cán bộ tín dụng khi tiếp xúc với
khách hàng, hoặc qua một số thông tin thu thập được. Trong khi đó đối tượng
khách hàng được xem là chiến lược phục vụ của ngân hàng là khu vực kinh tế tư
nhân thì còn quá non trẻ, chủ yếu là các doanh nghiệp vừa và nhỏ, chưa có danh
tiếng trên thị trường, ý thức của doanh nghiệp trong việc xây dựng uy tín và
thương hiệu chưa cao. Các hiệp hội ngành thì chưa phát huy vai trò của mình, chưa
hỗ trợ nhiều cho các doanh nghiệp thành viên phát triển, nhất là việc giới thiệu các
thành viên cho thị trường nên đã dẫn đến việc thu thập thông tin để đánh giá đối
với khu vực kinh tế trên là rất khó khăn.
+ Đánh giá năng lực của khách hàng:
* Về năng lực quản lý: nguồn nhân lực là yếu tố quan trọng quyết định sự
thành bại của một doanh nghiệp và cũng có ý nghĩa quyết định đến hiệu quả đồng
vốn của ngân hàng. Việc đánh giá nguồn nhân lực, nhất là bộ phận lãnh đạo của
khách hàng cần dựa trên những cơ sơ khoa học chứ không chỉ dựa trên bằng cấp và
số năm công tác.
* Về năng lực tài chính: công việc đánh giá được thực hiện chủ yếu dựa vào
việc phân tích số liệu trên các báo cáo tài chính do khách hàng cung cấp. Các
NHTM dù biết kiểm toán báo cáo tài chính là tốt nhưng cũng không dám đề nghị
khách hàng thực hiện vì sợ mất khách hàng. Từ những số liệu chưa thực sự tin cậy
nên việc phân tích báo cáo tài chính sẽ không phản ánh đúng thực chất năng lực tài
chính của khách hàng.
Đánh giá hiệu quả phương án/dự án vay:
Đánh giá hiệu quả phương án/dự án vay là khâu quan trọng, ảnh hưởng lớn
nhất đến khả năng thu hồi vốn của các NHTM. Tuy nhiên, do có nhiều nhân tố
chủ quan và khách quan tác động nên đã dẫn đến chất lượng đánh giá phương
án/dự án vay chưa thật sự hiệu quả. Khi nhận một dự án, cán bộ thẩm định sẽ phải


20


tiến hành thẩm định các khía cạnh như yếu tố thị trường, kỹ thuật, công nghệ và cả
các yếu tố kinh tế, xã hội của dự án.
Ngoài ra, hệ thống pháp luật và cơ chế chính sách của một số quốc gia
thường xuyên thay đổi, không có tính minh bạch và không có tính dự báo cũng có
thể gây ra nhiều rủi ro cho dự án, như: các chiến lược phát triển vùng, ngành; các
quy định liên quan đến xuất nhập khẩu; các tiêu chuẩn về môi trường, …
Kết quả là việc đánh giá dự án không mang tính khả thi, nhất là trong điều
kiện trình độ cán bộ thẩm định còn chưa được chuyên sâu.
- Xuất phát từ tài sản bảo đảm:
Quản lý danh mục TSBĐ là yêu cầu cần thiết trong công tác quản lý rủi ro tín
dụng, và là mắt xích quan trọng trong quy trình cho vay thu hồi nợ, xử lý các khoản
nợ có vấn đề. Tuy nhiên, việc giám sát, quản lý, đánh giá, phân loại, dự báo,
cảnh báo về danh mục các TSBĐ mà một NHTM lựa chọn, xét ưu tiên nhận làm
bảo đảm tiền vay chưa được làm thường xuyên, chưa có tính hệ thống mà chỉ
dừng ở mức kiểm tra trên hồ sơ pháp lý, định kỳ đánh giá lại giá trị để điều chỉnh
mức dư nợ cho vay hoặc yêu cầu khách hàng bổ sung.
Việc xác định giá trị TSBĐ tiền vay do các bên thỏa thuận, hoặc thuê tổ
chức tư vấn, tổ chức chuyên môn xác định trên cơ sở giá thị trường tại thời điểm
xác định, có tham khảo đến các loại giá như giá quy định của Nhà nước (nếu có),
giá mua, giá trị còn lại trên sổ sách kế toán và các yếu tố khác về giá. Tuy nhiên,
trên thực tế, trừ những động sản có giá trị lớn hàng tỷ đồng, các NHTM mới thuê
tổ chức tư vấn, tổ chức chuyên môn định giá, còn lại đa số việc định giá đều do các
bên thỏa thuận, và như vậy cho thấy giá trị TSBĐ được định giá còn mang tính chủ
quan và thiếu tính khoa học.
Ngoài ra, về phương pháp định giá đối với từng loại tài sản chưa được các
NHTM sử dụng một cách thích hợp, dẫn đến việc: nếu định giá thấp, khách hàng
không hài lòng, nhưng nếu định giá cao, NHTM sẽ khó đảm bảo khả năng thu
hồi nợ vay và lãi vay trong trường hợp khách hàng mất khả năng thanh toán, khi
đó buộc NHTM phải thanh lý tài sản thế chấp, cầm cố.



21

Đối với vấn đề bảo hiểm tài sản, cán bộ tín dụng thường không chú ý đôn
đốc, kiểm tra việc khách hàng có mua bảo hiểm đúng định kỳ để đến khi phương
tiện bị tai nạn, việc trục vớt, sửa chữa phải bỏ thêm rất nhiều vốn, gây khó khăn
lâu dài về khả năng thanh toán khoản nợ vay…
Thông tin bất cân xứng về giá trị thực của TSBĐ giữa khách hàng và
NHTM cũng là vấn đề cần được quan tâm. Khi thế chấp, cầm cố tài sản chỉ có
khách hàng biết rõ về hiện trạng của tài sản như sự hỏng hóc trong các dây
chuyền sản xuất, máy móc, thiết bị, hoặc ngôi nhà rất khó bán do một số đặc
điểm đặc biệt. Trong khi đó trình độ của cán bộ thường không đáp ứng đầy đủ
chuyên môn trong tất cả các lĩnh vực nên không thể đánh giá được chính xác
hiện trạng của máy móc thiết bị cũng như nắm được những thông tin không tốt về
đất đai, nhà ở; điều này ảnh hưởng rất lớn đến giá trị mua bán của tài sản. Vì vậy,
khi xảy ra rủi ro, việc phát mãi tài sản để thu hồi nợ gặp không ít khó khăn.
Cuối cùng là các vấn đề liên quan đến quá trình xử lý, phát mãi TSBĐ đã gây
cản trở không ít cho các NHTM như:
* Việc các ngân hàng phải đối mặt với những khó khăn trong thời gian trước
khi bán đấu giá tài sản.
* Trong việc phát mãi TSBĐ, các NHTM chưa có thực quyền trong việc bán,
quản lý và khai thác tài sản thuộc quyền tiếp quản.
* Sự phối hợp giữa cơ quan công an, viện kiểm soát, tòa án, các sở, ban,
ngành, chính quyền địa phương trong việc xử lý TSBĐ còn nhiều hạn chế, chưa
đồng bộ, chặt chẽ và kịp thời.
* Việc xác định quyền sở hữu thực sự của khách hàng đối với tài sản cũng là
vấn đề khó khăn.
* Vướng mắc khi NHTM nhận lại TSBĐ từ cơ quan thi hành án.
* Thủ tục chuyển quyền sở hữu, quyền sử dụng cho người mua, người nhận

tài sản của các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền còn quá nhiêu khê.
- Xuất phát từ thông tin tín dụng:
Các NHTM thiếu sự phối hợp hỗ trợ cung cấp thông tin từ các cơ quan chức


22

năng như cơ quan thuế, chi cục thống kê, hay các cơ quan chủ quản.
Bên cạnh các nguyên nhân khách quan, bản thân các NHTM đôi khi cũng lệ
thuộc khá nhiều vào các số liệu của khách hàng cung cấp mà chưa chủ động tìm
kiếm thông tin hay nói cách khác có tình trạng thông tin bất cân xứng giữa các
NHTM và khách hàng vay.
Việc thu thập thông tin của mỗi ngân hàng về khách hàng, về ngành nghề, về
môi trường kinh tế mà khách hàng đang hoạt động, về các văn bản mới được ban
hành, về tình hình diễn biến giá cả thị trường trong và ngoài nước, đặc biệt là
những cảnh báo về các ngành hàng ngân hàng đang và sẽ đầu tư chưa được thực
hiện một cách thường xuyên và có tính hệ thống.
- Xuất phát từ hoạt động kiểm soát nội bộ:
Hiện nay, các NHTM đều có bộ phận kiểm soát nội bộ. Tuy nhiên, ở một số
ngân hàng, bộ phận này chưa thật sự hoạt động có hiệu quả, nhất là tình trạng
thiếu nhân sự, cũng như trình độ của cán bộ chưa đáp ứng cả về nghiệp vụ lẫn
kinh nghiệm nên không thể phát hiện các sai phạm để có những khuyến cáo kịp
thời nhằm chấn chỉnh và tư vấn cho ban điều hành về những rủi ro tín dụng có
thể xảy ra.
Kiểm soát nội bộ có một số ưu thế hơn so với việc thanh tra, kiểm tra của
NHNN do:
+ Xét về thời gian, công tác kiểm soát nội bộ của các NHTM xử lý kịp thời,
nhanh chóng các vấn đề ngay khi vừa phát sinh.
+ Xét về tính sâu sát của người kiểm soát viên, do việc kiểm tra được thực
hiện thường xuyên cùng với công việc kinh doanh nên mọi vấn đề được hiểu

đúng với bản chất của nó.
1.2.4.3. Nguyên nhân từ phía khách hàng đi vay
- Đối với khách hàng là doanh nghiệp:
Trong hoạt động kinh doanh, ngoài nguồn vốn tự có của mình, các doanh
nghiệp luôn phải sử dụng một nguồn vốn bên ngoài, đó chủ yếu là vốn vay từ
các tổ chức tín dụng, đặc biệt là từ các NHTM. Đây là nhu cầu vay vốn rất cần


23

thiết nhằm đảm bảo cho các doanh nghiệp thực hiện nhiệm vụ hoạt động sản xuất,
kinh doanh một cách ổn định. Tùy đặc điểm và tính chất hoạt động của từng loại
hình doanh nghiệp, việc sử dụng vốn vay của các NHTM cũng có sự khác nhau.
Rủi ro tín dụng xuất phát từ phía khách hàng là doanh nghiệp thường do:
+ Mục đích sử dụng vốn vay của khách hàng không được thực hiện đúng.
+ Khách hàng không thật sự nỗ lực trong việc sử dụng vốn vay có hiệu quả.
+ Khách hàng chưa có thiện chí trong vấn đề cung cấp thông tin đầy đủ và
chính xác cho ngân hàng để phục vụ cho việc cấp tín dụng.
+ Một bộ phận khách hàng không có thiện chí trong việc trả nợ.
+ Công tác quản lý, điều hành của một số các doanh nghiệp chưa thật sự hiệu
quả.
+ Sự hạn chế của đội ngũ nhân viên của doanh nghiệp.
+ Tình hình tài chính của hầu hết các doanh nghiệp thiếu sự minh bạch, trung
thực, chưa đáp ứng yêu cầu.
+ Công nghệ, quy trình sản xuất không tạo ra được những sản phẩm mang tính
cạnh tranh.
+ Sự tác động của các nhân tố khách quan như môi trường pháp lý, môi trường
kinh tế - xã hội làm cho các khách hàng gặp nhiều khó khăn trong sản xuất, kinh
doanh.
- Đối với khách hàng là cá nhân:

Mặc dù quan hệ tín dụng giữa ngân hàng với khách hàng cá nhân thủ tục đơn
giản hơn nhiều so với khách hàng doanh nghiệp. Song tron g thực tế, số lượng
khách hàng cá nhân lại rất lớn nên việc tìm hiểu các nguyên nhân từ phía khách
hàng cá nhân có ý nghĩa rất quan trọng.
Với khách hàng cá nhân, nguyên nhân rủi ro có thể là:
+ Hoạt động kinh doanh không gặp thuận lợi, khả năng quản lý tình hình tài
chính yếu kém.


24

+ Nguồn hoàn trả chính từ thu nhập cơ bản bị mất hoặc suy giảm do mất việc,
chuyển sang công việc kém hơn hoặc không còn khả năng lao động.
+ Cá nhân gặp những chuyện bất thường trong cuộc sống, vì vậy, họ phải sử
dụng một số tiền lớn nên ảnh hưởng khả năng hoàn trả cho ngân hàng.
+ Đạo đức cá nhân không tốt: cố tình lừa đảo ngân hàng, sử dụng vốn sai mục
đích...
1.2.4.4. Nguyên nhân khác
Sự biến động quá nhanh, và khó có thể dự đoán được trên các mặt kinh tế,
chính trị, xã hội trong và ngoài nước cũng ảnh hưởng đến chất lượng các khoản
cấp tín dụng của các NHTM. Biểu hiện rõ nét nhất là tình hình biến động giá cả
các mặt hàng mà các NHTM đang thực hiện cấp tín dụng cho khách hàng tiến
hành sản xuất kinh doanh.
Bên cạnh đó, quá trình tự do hóa tài chính và hội nhập kinh tế quốc tế cũng tác
động không nhỏ đến hoạt động cấp tín dụng của các NHTM. Với môi trường hội
nhập, các doanh nghiệp, những khách hàng thường xuyên của ngân hàng phải
đối mặt với sự cạnh tranh gay gắt của thị trường, nguy cơ thua lỗ là điều có thể xảy
ra. Bản thân các NHTM trong môi trường hội nhập kinh tế cũng gặp phải những
nguy cơ rủi ro khi phải cạnh tranh với các NHTM nước ngoài vốn mạnh hơn về
mọi mặt.

Cuối cùng là do sự ổn định của nền kinh tế quốc gia, khi chính sách quản lý
kinh tế vẫn có những thay đổi đột ngột, hành lang pháp lý chưa thật sự an toàn,
điều chỉnh quy hoạch các ngành, các vùng chưa phù hợp…
Như vậy, rủi ro tín dụng có thể phát sinh do rất nhiều nguyên nhân từ các
nguyên nhân khách quan do nền kinh tế và các cơ quan quản lý Nhà nước đến
các nguyên nhân chủ quan của chính bản thân các NHTM, và các nguyên nhân từ
phía khách hàng vay vốn,... Các biện pháp phòng chống rủi ro có thể nằm trong
tầm tay của các NHTM nhưng cũng có những biện pháp vượt ngoài khả năng
của riêng từng ngân hàng. Tuy nhiên, trong phạm vi tầm tay của các NHTM, rủi
ro tín dụng phụ thuộc vào năng lực của bộ phận tín dụng trong việc phát hiện và


25

hạn chế rủi ro từ lúc xem xét quyết định cho vay cũng như trong suốt thời gian
vay. Năng lực cấp tín dụng phụ thuộc vào chuyên môn của cán bộ quản lý, cán bộ
tín dụng và các nguồn lực của ngân hàng về nhân sự cũng như về cơ sở vật chất.
Do vậy biện pháp phòng ngừa rủi ro tín dụng sâu sắc nhất vẫn là các biện pháp liên
quan đến việc đào tạo, bố trí cán bộ và cơ chế kiểm tra, giám sát hành vi của cán
bộ trong quá trình xử lý công việc.
1.2.5. Ảnh hưởng của rủi ro tín dụng
1.2.5.1. Ảnh hưởng đối với hoạt động kinh doanh của các NHTM
Khi gặp rủi ro tín dụng, các NHTM chẳng những không thu hồi được vốn tín
dụng đã cấp và lãi từ hoạt động cho vay, mà còn phải trả vốn và lãi cho khoản
tiền huy động khi đến hạn, điều này làm cho các ngân hàng mất cân đối trong
việc thu chi. Hay nói cách khác, các ngân hàng rơi vào tình trạng mất khả năng
thanh khoản, mất lòng tin của người gửi tiền, từ đó ảnh hưởng đến uy tín của cả
ngân hàng. Và không thu được nợ, vòng quay vốn tín dụng của các NHTM sẽ
giảm từ đó làm cho hoạt động kinh doanh của các ngân hàng không đạt hiệu quả
như mong muốn.

Tóm lại, rủi ro tín dụng xảy ra ở những mức độ khác nhau: các NHTM sẽ bị
giảm lợi nhuận khi không thu hồi được lãi cho vay, hoặc các NHTM không thu
được cả vốn và lãi, nợ thất thu với tỷ lệ cao sẽ dẫn đến bị lỗ và mất vốn. Nếu tình
trạng này kéo dài không khắc phục được, các NHTM có thể sẽ bị phá sản, gây
hậu quả nghiêm trọng cho nền kinh tế nói chung và hệ thống ngân hàng nói
riêng. Chính vì vậy, đòi hỏi các nhà quản lý ngân hàng phải hết sức thận trọng và
có những biện pháp thích hợp nhằm giảm thiểu rủi ro trong cho vay.
1.2.5.2. Ảnh hưởng đối với nền kinh tế nói chung
Khi một NHTM gặp phải rủi ro tín dụng hay bị phá sản thì người gửi tiền ở
khắp mọi nơi sẽ rơi vào tâm trạng hoang mang, lo sợ, khi đó sẽ xảy ra tình trạng
mọi người ồ ạt đến rút tiền ở tất cả các ngân hàng, việc làm này sẽ tác động xấu
đến toàn hệ thống ngân hàng.
Hoạt động ngân hàng liên quan đến hoạt động của các doanh nghiệp, vì vậy


×