Tải bản đầy đủ (.doc) (105 trang)

LV hoàn thiện cơ chế quản lý tài chính tại công ty CP cơ khí và xây lắp số 7

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.46 MB, 105 trang )

1

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Sau hơn một năm Việt Nam gia nhập tổ chức thương mại lớn nhất hành tinh
WTO (World Trade Organnization), đất nước ta nói chung, các doanh nghiệp Việt
Nam nói riêng đang có nhiều cơ hội cũng như thách thức trong quá trình hội nhập
với nền kinh tế thế giới. Những luật lệ trong kinh doanh không những bị ràng buộc
bởi các chính sách của Chính phủ Việt Nam mà còn phải phù hợp với các quy ước,
thông lệ quốc tế mà Việt Nam đã ký tham gia.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng, qua hơn 20 năm đổi mới và phát triển theo định
hướng xã hội chủ nghĩa, đất nước ta đã đạt được những thành tựu quan trọng, đó là
từng bước nâng cao đời sống kinh tế, chính trị, văn hoá của nhân dân. Đưa đất
nước lên một tầm cao mới, có vị thế nhất định về kinh tế – chính trị trong khu vực
cũng như trên thế giới. Để có được những thành tựu đó, việc chuyển các doanh
nghiệp Nhà nước sang mô hình công ty cổ phần nhằm thúc đẩy nền kinh tế đất
nước phát triển phù hợp với nền kinh tế thị trường là một chủ trương đúng đắn của
Đảng và Nhà nước ta. Tăng cường sự thích nghi của các doanh nghiệp, tạo cơ hội
cho các doanh nghiệp có thể cạnh tranh với các đối tác nước ngoài trong bối cảnh
hội nhập nền kinh tế Việt Nam với thế giới ngày càng sâu sắc và mạnh mẽ. Mặt
khác cũng là để các doanh nghiệp chủ động hơn trong việc huy động nguồn vốn và
chủ động SXKD trong nền kinh tế thị trường. Để chủ trương lớn này thành hiện
thực, cần phải được cụ thể hoá bằng các thể chế và chính sách phù hợp áp dụng cho
các doanh nghiệp nhà nước chuyển sang mô hình Công ty cổ phần, thành lập các
tập doàn kinh tế nhà nước đủ mạnh để có khả năng cạnh tranh với các doanh
nghiệp trong và ngoài nước. Một trong những chính sách có tác động lớn nhất, có
vị trí đặc biệt nhất đó là các chính sách về quản lý tài chính.
COMA7 là một trong những doanh nghiệp Nhà nước được chuyển đổi sang
Công ty cổ phần theo đúng chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước ta. Qua quá trình
nghiên cứu tôi lựa chọn đề tài : Phân tích và đề xuất giải pháp hoàn thiện cơ chế
quản lý tài chính tại Công ty CP cơ khí và xây lắp số 7 để nghiên cứu nhằm giải


quyết một vấn đề vừa mang tính lý luận vừa mang tính thực tiễn.
2. Mục đích nghiên cứu của đề tài
- Phân tích thực trạng của cơ chế quản lý tài chính của Công ty CP cơ khí và
xây lắp số 7.


2

- Nêu giải pháp nhằm hoàn thiện cơ chế quản lý tài chính của Công ty CP cơ
khí và xây lắp số 7.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài
3.1. Đối tượng nghiên cứu: Công ty CP cơ khí và xây lắp số 7.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
- Nghiên cứu những nội dung cơ bản về cơ chế quản lý tài chính của
doanh nghiệp.
- Nghiên cứu cơ chế quản lý tài chính của cơ khí và xây lắp số 7 với tư
cách là một Công ty Nhà nước chuyển đổi sang hoạt động theo mô hình công
ty cổ phần, mang nét đặc thù là công ty CP có sự chi phối vốn của nhà nước.
4. Cơ sở lý luận và các phương pháp nghiên cứu
- Lý luận của học thuyết Mác - Lênin, các quan điểm của Đảng, chủ trương
chính sách của Nhà nước, đồng thời kết hợp với những lý thuyết về quản trị hiện
đại vận dụng vào điều kiện thực tế của các Công ty cổ phần nói chung và COMA7
nói riêng.
- Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu cơ bản như phân tích dữ
liệu, tổng hợp, thống kê, so sánh.
5. Những đóng góp của đề tài
Một là, phân tích vai trò, đặc điểm, nội dung của cơ chế quản lý tài chính,
những cơ chế, chính sách quản lý hiện hành đối với các Công ty cổ phần nói chung
và đối với công ty nhà nước chuyển sang cổ phần nói riêng.
Hai là, phân tích thực trạng của cơ chế quản lý tài chính, những mặt tích cực

cũng như những hạn chế còn tồn tại trong cơ chế quản lý tài chính của Công ty CP
cơ khí và xây lắp số 7 để từ đó đưa ra các biện pháp khắc phục.
Ba là, Đề xuất một số giải pháp nhằm hoàn thiện cơ chế quản lý tài chính
tại Công ty CP cơ khí và xây lắp số 7.
6. Giới thiệu bố cục của đề tài
Ngoài Lời nói đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo, Luận văn được
chia thành 3 chương lớn:
Chương I: Cơ sở lý luận về cơ chế quản lý tài chính đối với công ty cổ
phần.


3

Chương II: Thực trạng cơ chế quản lý tài chính tại Công ty CP cơ khí và
xây lắp số 7 .
Chương III: Đề xuất giải pháp hoàn thiện cơ chế quản lý tài chính tại
Công ty CP cơ khí và xây lắp số 7.
Qua đây tôi xin được tỏ lòng biết ơn đến các Thầy giáo, Cô giáo, các
chuyên gia kinh tế, các anh, chị, bạn bè, đồng nghiệp và gia đình đã giúp đỡ tôi
trong suốt khoá học và giúp tôi hoàn thành luận văn này. Đặc biệt tôi xin được
gửi lời cám ơn chân thành đến cô giáo Tiến sỹ Trần Thị Bích Ngọc, người đã
trực tiếp hướng dẫn, động viên và giúp đỡ tôi hoàn thành luận văn; Các Thầy
giáo, Cô giáo khoa Kinh tế và Quản lý, Viện đào tạo sau Đại học - Trường Đại
học Bách khoa Hà Nội.


4

CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CƠ CHẾ QUẢN LÝ TÀI CHÍNH ĐỐI VỚI CÔNG

TY CỔ PHẦN
1.1. Khái niệm và vai trò của cơ chế quản lý tài chính trong các công ty cổ
phần
1.1.1. Khái niệm về cơ chế quản lý tài chính
Thuật ngữ “ cơ chế quản lý tài chính” đã được sử dụng rộng rãi trong nhiều
văn bản, tài liệu, sách báo và trong đời sống hàng ngày. Ngoài ra cụm từ “cơ chế tài
chính” cũng được sử dụng trong thực tế để hàm ý nói đến cơ chế quản lý tài chính.
Cơ chế là những cách thức, những phương thức và công cụ qua đó người ta
thực hiện quá trình hoạt động của mình.
Cơ chế quản lý là một hệ thống các nguyên tắc, hình thức, phương pháp
quản lý trong những giai đoạn phát triển khác nhau của nền sản xuất xã hội.
Cơ chế quản lý tài chính là những phương thức và công cụ qua đó quá trình
quản lý tài chính được thực hiện.
Cơ chế quản lý nói chung và cơ chế quản lý tài chính nói riêng, đều là những
phạm trù lịch sử, gắn với những giai đoạn phát triển khác nhau của nền kinh tế xã
hội.
Cơ chế quản lý tài chính đối với doanh nghiệp được thể hiện bằng một tổng
thể các phương pháp, các hình thức và công cụ được vận dụng để quản lý các hoạt
động tài chính của doanh nghiệp trong những điều kiện cụ thể nhằm tạo được
những mục tiêu nhất định.
Hình thức biểu hiện của cơ chế quản lý tài chính là những văn bản Luật,
Pháp lệnh, Nghị định, Thông tư và những văn bản khác có liên quan. Cơ chế quản
lý tài chính của doanh nghiệp còn được thể hiện qua các quy chế, quy định của
doanh nghiệp đối với các hoạt động tài chính của doanh nghiệp đó. Những quy chế,
quy định này phải tuân theo những văn bản pháp quy của Nhà nước có liên quan
đến tài chính doanh nghiệp, không trái pháp luật và là bước cụ thể hoá các cơ chế
của Nhà nước đối với hoạt động tài chính của các doanh nghiệp.
Đối với các doanh nghiệp, cơ chế quản lý tài chính bao gồm những nội
dung chủ yếu sau đây:



5

- Cơ chế huy động vốn của doanh nghiệp: bao hàm các phương pháp, hình
thức và các công cụ huy động các nguồn vốn của doanh nghiệp.
- Cơ chế quản lý tài sản của doanh nghiệp: bao hàm nội dung và các
phương pháp quản lý tài sản của doanh nghiệp nhằm đạt hiệu quả mong muốn.
- Cơ chế thu nhập và phân phối lợi nhuận của doanh nghiệp: bao gồm
phương thức quản lý chi phí, doanh thu và lợi nhuận của doanh nghiệp; các vấn
đề về hình thành và sử dụng quỹ chuyên dùng của doanh nghiệp.
- Chế độ kế toán, thống kê, kiểm toán và kế hoạch tài tài chính trong đó
trọng tâm là hệ thống kiểm soát nội bộ và hệ thống thông tin tài chính.
Những nội dung của cơ chế quản lý tài chính có thể giúp liên hệ trong quá
trình nghiên, phân tích những đặc điểm và điều kiện cụ thể của doanh nghiệp.
Như vậy, cơ chế quản lý tài chính của một doanh nghiệp là sự kết hợp các
mối quan hệ tài chính cần được giải quyết giữa Nhà nước với doanh nghiệp và mối
quan hệ trong nội bộ doanh nghiệp đó. Đối với công ty thì cơ chế quản lý tài chính
là sự kết hợp các mối quan hệ tài chính cần được giải quyết giữa Nhà nước với
công ty, mối quan hệ giữa công ty với các xí nghiệp thành viên trong công ty với
nhau.
1.1.2. Vai trò của cơ chế quản lý tài chính
Cơ chế quản lý tài chính có vai trò rất quan trọng đối với hoạt động SXKD
của doanh nghiệp nói chung, nó tác động trực tiếp đến hiệu quả hoạt động SXKD
của doanh nghiệp. Điều đó được thể hiện qua việc : tài chính doanh nghiệp có phát
huy tác dụng tích cực hay không là phụ thuộc vào cơ chế quản lý, phụ thuộc vào
người quản lý.
Tài chính doanh nghiệp là hệ thống các luồng chuyển dịch giá trị, các luồng
vận động của những nguồn tài chính trong quá trình tạo lập hoặc sử dụng các quỹ
tiền tệ hoặc vốn hoạt động của doanh nghiệp, nhằm đạt được mục tiêu doanh lợi
trong khuôn khổ của pháp luật. Tài chính doanh nghiệp phản ánh các mối quan hệ

kinh tế đa dạng trong quá trình đó của hoạt động kinh doanh ở doanh nghiệp. Khi
có một cơ chế hợp lý thì tài chính doanh nghiệp sẽ có những tác động tích cực đối
với hoạt động SXKD của doanh nghiệp. Những tác động đó được biểu hiện ở các
điểm sau:
- Kích thích thu hút các nguồn tài chính nhằm đảm bảo nhu cầu đầu tư phát
triển của doanh nghiệp : Để thực hiện quá trình SXKD, trước hết doanh nghiệp
phải có một yếu tố tiền đề là vốn kinh doanh. Trong cơ chế quản lý bao cấp trước


6

đây, vốn của các doanh nghiệp Nhà nước hầu như là do Nhà nước cấp hoàn toàn.
Vì thế việc khai thác, thu hút vốn không được đặt ra như một nhu cầu cấp bách, có
tính sống còn của doanh nghiệp. Việc khai thác, đảm bảo vốn cho kinh doanh của
doanh nghiệp trở nên thụ động. Cơ chế phân phối, bao cấp vốn của Nhà nước chỉ
được thu hẹp trên hai kênh Ngân sách và Ngân hàng nhà nước. Điều đó một mặt đã
hạn chế tính chủ động của các doanh nghiệp, một mặt tạo ra sự cân đối giả tạo về
cung và cầu trên nền kinh tế. Đây là lý do chủ yếu để lý giải tại sao trong cơ chế
quản lý bao cấp lại vắng mặt thị trường vốn.
Chuyển sang nền kinh tế thị trường đa dạng hoá thành phần, công ty cổ phần
là một bộ phận cùng song song tồn tại với hàng loạt các doanh nghiệp thuộc các
thành phần kinh tế khác. Nhu cầu vốn để đảm bảo cho SXKD, cho sự tồn tại trong
cạnh tranh, cho việc đầu tư phát triển những ngành nghề mới nhằm thu được lợi
nhuận cao... đã trở thành động lực và là một đòi hỏi bức bách đối với tất cả các
doanh nghiệp trong nền kinh tế. Trong nền kinh tế thị trường, khi đã có nhu cầu về
vốn, tất yếu nảy sinh vấn đề cung ứng vốn, thị trường vốn tất yếu phải được hình
thành và qui luật cung cầu sẽ có môi trường để hoạt động. Trong môi trường đó,
các doanh nghiệp có đầy đủ điều kiện và khả năng để chủ động khai thác, thu hút
các nguồn vốn trên thị trường nhằm phục vụ cho các mục tiêu kinh doanh và phát
triển của mình. Vấn đề là ở chỗ người quản lý phải xác định chính xác nhu cầu vốn,

cân nhắc lựa chọn các phương án đầu tư vốn sao cho có hiệu quả cao; lựa chọn các
hình thức thu hút vốn thích hợp; sử dụng các đòn bẩy kinh tế như lãi suất, lợi tức cổ
phần... để đủ sức huy động vốn; sử dụng linh hoạt các nguồn vốn và cân đối khả
năng thanh toán, trang trải các nguồn tài trợ...
- Kích thích sử dụng vốn một cách tiết kiệm, hiệu quả: Cũng như đảm bảo
vốn, việc tổ chức, sử dụng vốn một cách tiết kiệm và hiệu quả được coi là điều kiện
tồn tại và phát triển của mỗi doanh nghiệp. Trong cơ chế quản lý kinh tế mới, yêu
cầu của các quy luật kinh tế đã đặt ra trước mọi doanh nghiệp những chuẩn mực
hết sức khắt khe: Sản xuất không phải với bất kỳ loại sản phẩm nào; bán với bất kỳ
giá nào mà phải sản xuất những mặt hàng mà thị trường cần; với giá cả phù hợp.
Để đáp ứng được nhu cầu đó, người quản lý phải có chiến lược sản phẩm hợp lý,
đồng thời phải sử dụng vốn một cách tiết kiệm và có hiệu quả; một mặt phải bảo
toàn được vốn, mặt khác phải sử dụng các biện pháp quay nhanh vòng vốn, nâng
cao khả năng sinh lời của vốn kinh doanh.
- Kích thích và điều tiết SXKD: Khác với cơ chế quản lý bao cấp, trong cơ
chế quản lý kinh tế thị trường, các mối quan hệ về tài chính của các doanh nghiệp
được mở ra trên phạm vi rất rộng và có liên quan đến vấn đề phân phối, điều hoà


7

lợi ích đối với nhiều chủ thể kinh tế khác nhau trong nền kinh tế. Dựa vào khả năng
đó và trên điểm tựa các lợi ích, người quản lý có thể sử dụng tổng hợp các chức
năng của tài chính để kích thích hoặc điều tiết SXKD của doanh nghiệp thông qua
các hoạt động tài chính. Tác động kích thích hoặc điều tiết của tài chính doanh
nghiệp được thể hiện đậm nét nhất ở việc tạo ra ‘‘sức mua’’ hợp lý để thu hút vốn
đầu tư, lao động... đồng thời cũng xác định ‘‘giá bán’’ hợp lý khi phát hành cổ
phiếu, bán hàng hoá, dịch vụ. Bằng việc xây dựng giá mua, giá bán hợp lý sẽ có tác
động tích cực để SXKD, vốn được quay vòng nhanh, hệ số sinh lời lớn. Khả năng
kích thích hoặc điều tiết của tài chính doanh nghiệp cũng có thể phát huy tác dụng

ngay trong quá trình điều hành SXKD thông qua các hoạt động phân phối thu nhập,
thực hiện các hợp đồng kinh tế.
Tác động trên đây của tài chính doanh nghiệp sẽ trở nên tích cực, kích thích
sản xuất khi người quản lý biết vận dụng một cách sáng tạo, hợp quy luật các chức
năng của tài chính và ngược lại.
- Tạo cơ chế kiểm tra các hoạt động SXKD của doanh nghiệp: Trong cơ chế
quản lý quan liêu bao cấp, vấn đề hạch toán kinh tế không được coi trọng một cách
thực sự. Trong cơ chế thị trường, thông qua các chỉ tiêu tài chính như: hệ số nợ,
hiệu suất và hiệu quả sử dụng vốn, cơ cấu vốn... có thể dễ dàng nhận thấy thực
trạng tốt xấu trong các khâu của quá trình SXKD. Với khả năng đó, người quản lý
có thể kịp thời phát hiện, điều chỉnh, giám sát quá trình SXKD của doanh nghiệp
nhằm đạt tới mục tiêu đã dự định.
Vai trò quan trọng của cơ chế quản lý tài chính đối với hoạt động của Công
ty nói riêng thể hiện ở chỗ: cơ chế quản lý tài chính hợp lý là hành lang pháp lý, là
điểm tựa vững chắc trong công tác quản lý tài chính, đóng góp thúc đẩy hoạt động
SXKD của Công ty. Một cơ chế quản lý tài chính hợp lý vừa tập trung sức mạnh
của Công ty, vừa phát huy được tính chủ động của các xí nghiệp thành viên, nhất là
trong hoạt động quản lý, huy động và sử dụng vốn.
1.2. Cơ chế quản lý tài chính trong các công ty cổ phần.
Quản lý tài chính có tính pháp chế và tính chính sách mạnh nhất trong
công tác quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp. Nhà nước đã ban hành hệ
thống các quy định pháp luật về hoạt động tài chính của doanh nghiệp để bảo
đảm nguồn thu ngân sách của nhà nước cũng như bảo vệ quyền của các nhà đầu
tư. Các hệ thống luật nhà nước đã ban hành như Luật doanh nghiệp, Luật kế
toán, Luật chứng khoán, Luật tín dụng, luật thuế GTGT, Luật thuế thu nhập
doanh nghiệp, các chuẩn mực kế toán.... có tính quy phạm điều chỉnh hoạt động


8


tài chính của doanh nghiệp trên nhiều phương diện khác nhau. Đồng thời, trên
cơ sở đó, công ty cổ phần cũng thiết lập nên hàng loạt quy định về quản lý tài
chính để bảo đảm quản lý và sử dụng vốn và tài sản của công ty đạt hiệu quả
cao.
Công tác quản lý tài chính của công ty cổ phần phải tuân thủ các quy định
của pháp luật. Do đó, ban lãnh đạo công ty và nhân viên kế toán đều phải nắm
được những quy định pháp luật về tài chính doanh nghiệp. Có như vậy mới thực
hiện tốt mối quan hệ tài chính giữa doanh nghiệp với nhà nước, giữa doanh
nghiệp với doanh nghiệp, giữa doanh nghiệp với nhân viên... Mặt khác, công ty
cũng cần phải vận dụng quy định của nhà nước để bảo vệ quyền lợi hợp pháp
của mình.
Để hoạt động tài chính có hiệu quả, công ty cổ phần phải xây dựng
phương pháp quản lý tài chính cụ thể để đạt được mục tiêu quản lý.
Các bước thực hiện cơ bản trong của công tác quản lý tài chính gồm:
- Lập kế hoạch tài chính: Là các bước thực hiện của hoạt động tài chính
được thiết lập căn cứ vào mục tiêu nghiên cứu và dự đoán quyết sách kết hợp
với thực tế sản xuất kinh doanh của công ty.
Lập kế hoạch tài chính có thể tạo nên mục tiêu phấn đấu cụ thể cho các bộ
phận của công ty, thúc đẩy hoạt động tài chính doanh nghiệp được tiến hành có
trình tự, đồng thời đưa ra chuẩn mực và căn cứ để thực hiện và đánh giá thành
quả hoạt động tài chính của công ty.
Kế hoạch tài chính của công ty chủ yếu bao gồm: kế hoạch huy động vốn,
kế hoạch đầu tư, kế hoạch chi phí giá thành, kế hoạch doanh thu, kế hoạch lợi
nhuận...
- Tổ chức thực hiện: là bước cụ thể hóa trên cở sở kế hoạch đã lập.
- Kiểm soát hoạt động tài chính: là các hoạt động giám sát, kiểm tra
trong quá trình thực hiện kế hoạch tài chính. Kiểm soát hoạt động tài chính là
một hệ thống quá trình hoạt động.
Kiểm soát hoạt động tài chính là công tác cần được quản lý nhiều nhất,
thường xuyên nhất và đồng thời cũng khó khăn nhất trong quản lý tài chính. Bởi

vì kiểm soát hoạt động tài chính đề cập hầu hết các bộ phận và mắt xích của
doanh nghiệp. Kiểm soát hoạt động tài chính yêu cầu sự tham gia, ủng hộ, phối
hợp của toàn thể nhân viên. Nội dung kiểm soát hoạt động tài chính rất rộng


9

nhưng quan trọng nhất là kiểm soát chi phí giá thành và khống chế các khoản
chi tiền mặt.
Kế hoạch tài chính là căn cứ của kiểm soát tài chính, kiểm soát tài chính
là sự bảo đảm thực hiện kế hoạch tài chính. Kế hoạch tài chính và kiểm soát
hoạt động tài chính cùng tác động tạo nên nội dung chính của quản lý tài chính
doanh nghiệp. Kế hoạch tài chính và kiểm soát hoạt động tài chính tốt hay
không sẽ trực tiếp ảnh hưởng đến thành quả hoạt động tài chính của công ty.
1.3. Nội dung cơ chế quản lý tài chính trong công ty cổ phần.
Để tiến hành bất kỳ một quá trình SXKD nào cũng cần phải có vốn. Trong
cơ chế thị trường, vốn là tiền đề, là yếu tố cơ bản nhất của quá trình SXKD. Vốn có
ý nghĩa quyết định đến sự phát triển của doanh nghiệp. Do đó, bất kỳ doanh nghiệp
nào cũng đều phải quan tâm đến vấn đề tạo vốn, quản lý và sử dụng vốn.
Vốn cũng như bất kỳ một loại hàng hoá nào đều có chủ sở hữu đích thực,
người sở hữu chỉ nhượng quyền sở hữu vốn với các điều kiện nhất định, thông
thường chủ sở hữu thu về giá của quyền sử dụng vốn (lợi nhuận) và một số quyền
nhất định đối với doanh nghiệp. Nhờ có sự tách rời quyền sử dụng làm cho vốn có
khả năng lưu thông và sinh lời. Vốn của doanh nghiệp được tạo lập bởi nguồn vốn
ban đầu và nguồn vốn bổ sung. Thường thì vốn đầu tư ban đầu do chủ sở hữu bỏ ra
để thành lập doanh nghiệp, vốn bổ sung được huy động từ nhiều nguồn khác nhau:
từ lợi nhuận để lại, từ phát hành cổ phiếu hoặc trái phiếu, vay vốn tín dụng... thuộc
các nguồn trong nước và nước ngoài. Vốn được chu chuyển và giao dịch phục vụ
nhu cầu của doanh nghiệp thông qua nhiều kênh khác nhau, xoay quanh thị trường
vốn. Chính sách đầu tư, huy động và sử dụng vốn là một trong những nội dung cực

kỳ quan trọng của chính sách tài chính doanh nghiệp. Chính sách huy động và quản
lý vốn đúng đắn sẽ có tác dụng khơi thông các nguồn vốn ở dạng tiềm năng nhàn
rỗi trong công ty, kích thích sử dụng các nguồn vốn có hiệu quả vào SXKD.
1.3.1. Cơ chế huy động vốn và sử dụng vốn
a. Cơ chế huy động vốn
Cơ chế huy động vốn trong môi trường có điều tiết của Chính phủ: Biểu hiện
đặc trưng của cơ chế này là sự mở rộng hơn các kênh thu hút vốn cho doanh nghiệp
và đa dạng hoá các hình thức huy động vốn với các công cụ tài chính khác nhau.
Tuy nhiên, các doanh nghiệp phải tuân thủ các quy định chặt chẽ của Chính phủ và
bị kiểm soát tương đối chặt chẽ của các cơ quan chức năng của Chính phủ như: Bộ
tài chính, Ngân hàng Nhà nước, Kiểm toán Nhà nước, cơ quan chủ quản... Hoạt


10

động huy động vốn của doanh nghiệp bị kiểm soát một số mặt như : Phương thức
huy động vốn, công cụ tài chính và cơ chế báo cáo.
Cơ chế huy động vốn của doanh nghiệp trong điều kiện thị trường cạnh
tranh: Đây là kiểu cơ chế hoàn toàn dựa vào các động lực kinh tế và cung cầu về
vốn trên thị trường để định hướng cho các doanh nghiệp trong quá trình thu hút các
nguồn tài chính nhằm tối đa hoá lợi nhuận. Một xu thế đang nổi lên là quá trình phi
điều tiết hoá (deregulation) đối với hoạt động thu hút tài chính của các doanh
nghiệp. Nhìn chung, hiện nay hầu hết các nước công nghiệp phát triển đang áp
dụng phổ biến mô hình này. Tuy nhiên, mức độ tự do hoá và kiểm soát của Chính
phủ ở các quốc gia có những sắc thái khác nhau.
Như vậy, mức độ phi điều tiết trong cơ chế huy động vốn phụ thuộc vào
một số yếu tố cụ thể của mỗi nền kinh tế: Hệ thống tài chính và thị trường tài
chính; hệ thống luật pháp và vai trò can thiệp vĩ mô của nhà nước đối với các
hoạt động kinh tế.
Như đã đề cập ở trên, cơ chế huy động vốn là một bộ phận quan trọng của

cơ chế quản lý tài chính và có quan hệ mật thiết với các yếu tố khác của cơ chế
quản lý kinh tế. Các mối quan hệ đó thể hiện những liên hệ biện chứng giữa các
yếu tố của một hệ thống quản lý kinh tế trong một nền kinh tế nhất định. Do đó, khi
nghiên cứu, đánh giá và thực hiện đổi mới cơ chế huy động vốn cần xem xét các
nhân tố ảnh hưởng tác động, trong đó quan trọng nhất là quan hệ sở hữu về tư liệu
sản xuất.
Nhà nước cho phép các Công ty tự chủ động, linh hoạt trong quá trình huy
động vốn. Huy động vốn để kinh doanh dưới hình thức phát hành trái phiếu, tín
phiếu, kỳ phiếu công ty; vay vốn của tổ chức ngân hàng, tín dụng và các tổ chức tài
chính khác, của cá nhân, tổ chức ngoài công ty; vay vốn của người lao động và các
hình thức huy động vốn khác theo quy định của pháp luật.
Việc huy động vốn để kinh doanh thực hiện theo nguyên tắc tự chịu trách
nhiệm hoàn trả, bảo đảm hiệu quả sử dụng vốn huy động.
- Cơ chế phát hành cổ phiếu và trái phiếu
Phát hành trái phiếu và cổ phiếu là những phương thức huy động vốn được
áp dụng phổ biến trong kinh tế thị trường. Về cơ bản, cơ chế phát hành những công
cụ tài chính này ở các doanh nghiệp là giống nhau. Quá trình phát hành trái phiếu
hoặc cổ phiếu là quá trình đưa ra thị trường công cụ tài chính nhằm mục đích huy
động vốn. Tuy nhiên, về bản chất phát hành trái phiếu và phát hành cổ phiếu có sự
khác nhau do bắt nguồn từ đặc điểm khác nhau giữa cổ phiếu và trái phiếu.


11

Trái phiếu Công ty là tờ giấy ghi nợ do doanh nghiệp phát hành nhằm huy
động vốn trung và dài hạn với các điều kiện về mệnh giá, lãi suất và thời hạn xác
định. Khi công ty phát hành trái phiếu tức là công ty đó thực hiện một quan hệ tín
dụng thông qua việc bán các công cụ tài chính ra thị trường chứng khoán.
Cổ phiếu là tờ giấy xác nhận sự tham gia góp vốn của một chủ thể (gọi là cổ
đông) vào một công ty, tức là xác nhận cổ đông có quyền sở hữu một phần đối với

công ty đó theo tỷ lệ phần trăm cổ phiếu của cổ đông đó.
Một trong những vấn đề quan trọng nhất đối với quyết định lựa chọn loại
công cụ nào để phát hành huy động vốn là xem xét phân tích các đặc tính của mỗi
loại công cụ tài chính, dự tính các ảnh hưởng khi phát hành các giấy tờ đó để huy
động vốn.
Cơ chế quản lý đối với quá trình phát hành trái phiếu và cổ phiếu phải hình
thành trên cơ sở tính đến các yếu tố ảnh hưởng. Đối với trái phiếu và cổ phiếu, khi
phát hành ra thị trường cần chú ý một số tác động sau:
Thứ nhất: Trái phiếu không làm thay đổi quan hệ sở hữu trong công ty,
không làm ảnh hưởng đến quyền quản lý và kiểm soát công ty, do đó nó được coi
là biện pháp an toàn về mặt sở hữu để huy động vốn. Tuy nhiên, nó có liên quan
mật thiết với khả năng tín dụng của công ty. Khi phát hành thêm trái phiếu mà
không thay đổi vốn của chủ sở hữu thì tỷ lệ giữa vốn chủ sở hữu với vốn vay sẽ
giảm, phản ánh độ tin cậy tín dụng.
Thứ hai: Chi phí của việc phát hành trái phiếu bao gồm lợi tức trái phiếu
phải trả cho người mua trái phiếu và các chi phí phát hành. Chi phí này thuộc nhóm
chi phí lãi vay và được hạch toán vào chi phí SXKD của doanh nghiệp; do đó có lợi
cho doanh nghiệp về phương diện thuế TNDN.
Thứ ba: Đối với công ty, sử dụng công cụ cổ phiếu thì tính linh hoạt thấp
hơn so với trái phiếu vì trái phiếu có thời gian xác định và có thể điều chỉnh khối
lượng phát hành tuỳ theo yêu cầu về vốn và tình hình thực tế. Tuy nhiên, khi phát
hành cổ phiếu, các cổ đông lại tham gia chia sẻ rủi ro cùng với doanh nghiệp vì họ
là những người chủ đồng sở hữu của công ty; các trái chủ thì được công ty bảo đảm
quyền được nhận lợi tức trái phiếu một cách ổn định, không phụ thuộc vào hiệu
quả kinh doanh của công ty.
Thứ tư: Việc phát hành trái phiếu hay cổ phiếu đều phải tính đến hàng loạt
các yếu tố khác như: các quy định, điều kiện phát hành, thị trường tài chính, lãi
suất...



12

Cơ chế quản lý Nhà nước đối với việc phát hành trái phiếu và cổ phiếu:
Ở các nước có thị trường chứng khoán, thông qua các cơ quan chuyên trách,
Chính phủ đều thực hiện một cơ chế quản lý và kiểm soát các hoạt động phát hành
trái phiếu và cổ phiếu. Các nước thường có Uỷ ban chứng khoán quốc gia hoặc Uỷ
ban quốc gia về chứng khoán và hối đoái.
Cơ chế quản lý Nhà nước đối với việc phát hành trái phiếu và cổ phiếu gồm
một số nội dung chủ yếu như :
Quy trình thủ tục phát hành cổ phiếu, trái phiếu.
Các quy định cụ thể về hình mẫu, nội dung của cổ phiếu, trái phiếu.
Quy định về thẩm quyền duyệt và cho phép phát hành, các điều kiện mà
doanh nghiệp phải đảm bảo khi phát hành.
Các quy định về nghiệp vụ kế toán tài chính liên quan đến quá trình phát
hành trái phiếu, cổ phiếu và thanh toán. Thông thường, các quy định này do các
hiệp hội kế toán, kiểm toán ở các nước quy định.
Các yếu tố pháp lý và các giao dịch liên quan đến việc phát hành cổ phiếu,
trái phiếu, ...
- Cơ chế khai thác nguồn vốn nội bộ
Tự tài trợ bằng nguồn vốn nội bộ là một phương thức tạo nguồn vốn của các
doanh nghiệp được áp dụng khá phổ biến, nhờ đó các công ty phát huy được nguồn
lực của chính mình, giảm bớt sự phụ thuộc vào bên ngoài, nhất là khi có biến động
trên thị trường tài chính. Nhiều công ty coi trọng biện pháp tái đầu tư từ lợi nhuận
để lại; trong kế hoạch hàng năm công ty đặt ra mục tiêu tỷ lệ phần trăm (%) vốn tái
đầu tư cần đạt được nhằm tự đáp ứng nhu cầu vốn ngày càng tăng. Tuy nhiên, đối
với các công ty cổ phần thì việc để lại lợi nhuận có liên quan tới một số yếu tố nhạy
cảm. Khi công ty để lại một phần lợi nhuận trong năm cho tái đầu tư, tức là không
dùng số lợi nhuận đó để chia lãi cổ phần, các cổ đông không được nhận lãi cổ phần,
nhưng bù lại họ có quyền sở hữu số vốn cổ phần tăng lên của công ty. Như vậy, trị
giá ghi sổ của các cổ phiếu sẽ tăng lên cùng với việc tự tài trợ bằng nguồn vốn nội

bộ.
Trong một số doanh nghiệp và công ty nước ngoài, nguồn tài chính nội bộ
có thể chiếm tỷ trọng rất cao từ 40% đến 50%, thậm chí đến 70% trong tổng nguồn
vốn của công ty.
- Nguồn vốn tín dụng và các nguồn vốn khác


13

Trong nền kinh tế thị trường, trên cơ sở mở rộng quyền chủ động cho doanh
nghiệp, ngoài vốn đăng ký kinh doanh do các cổ đông đóng góp, chính sách và cơ
chế quản lý tài chính khuyến khích các doanh nghiệp tự huy động vốn trong và
ngoài nước để đáp ứng nhu cầu SXKD và chịu trách nhiệm trả nợ cho phần vốn đó.
Nhà nước cho phép các doanh nghiệp vay các tổ chức tín dụng ngân hàng, tổ chức
tài chính, thuê mua tài chính, ... theo lãi suất thị trường, Nhà nước không quy định
mức vốn vay mà chỉ cần doanh nghiệp đáp ứng đủ yêu cầu của ngân hàng thương
mại và các tổ chức tín dụng.
Trong số các quan hệ tín dụng của doanh nghiệp thì nguồn vốn tín dụng
ngân hàng giữ vị trí quan trọng nhất. Do các ngân hàng thương mại là tổ chức
chuyên môn hoá hoạt động trong lĩnh vực kinh doanh tiền tệ, có khả năng đáp ứng
rộng rãi nhu cầu đa dạng về vốn của các doanh nghiệp và cá nhân. Tính đa dạng,
mức độ an toàn, thuận lợi và hiệu quản đã làm cho nguồn vốn tín dụng ngân hàng
chiếm vị trí quan trọng nhất đối với các công ty trong nước cũng như các doanh
nghiệp trên thế giới.
b. Cơ chế sử dụng nguồn vốn
Từ trước tới nay, quản lý nguồn vốn của doanh nghiệp luôn được coi là
một vấn đề phức tạp. Ở nước ta, Chính phủ và các cơ quan chức năng đã thực
hiện một số chính sách đổi mới với những biện pháp tăng cường hiệu quả quản
lý nguồn vốn tại doanh nghiệp như mở rộng quyền chủ động sáng tạo cho các
doanh nghiệp, tăng cường cơ chế hạch toán kinh doanh xã hội chủ nghĩa, giao

vốn và bảo toàn vốn, sắp xếp lại các doanh nghiệp, v.v... Những giải pháp đổi
mới quản lý doanh nghiệp nhà nước vẫn đang được tiếp tục thực hiện.
Về quyền sở hữu của nhà nước đối với vốn và tài sản của doanh nghiệp,
theo Luật doanh nghiệp năm 2005 quy định nhà nước chỉ thực hiện quyền chủ
sở hữu vốn với vai trò là người đầu tư vốn, trên nguyên tắc bảo toàn và phát
triển vốn; tách biệt thực hiện quyền chủ sở hữu với quyền chủ động kinh doanh
của doanh nghiệp và tôn trọng quyền kinh doanh của doanh nghiệp.
Trong các công ty cổ phần có vốn chi phối nhà nước, vấn đề đảm bảo
quyền quản lý của Nhà nước với tư cách chủ sở hữu là một vấn đề then chốt.
Một trong những khó khăn lớn nhất hiện nay này là vừa phải giữ vững vai trò
kiểm soát vĩ mô của nhà nước, vừa đảm bảo sở hữu tài sản của nhà nước tại
doanh nghiệp nhưng không gây cản trở, ách tắc đối với hoạt động sản xuất kinh
doanh của doanh nghiệp. Việc xác định đúng mức độ can thiệp và phương thức
kiểm soát có hiệu quả là một trong những mục tiêu chủ yếu mà cơ chế quản lý


14

mới cần đạt được. Sự kết hợp một cách hợp lý mức độ kiểm soát tài chính của
Nhà nước với tư cách là chủ sở hữu chi phối với các phương thức và biện pháp
kiểm soát bên trong sẽ tạo điều kiện giải phóng năng lực sản xuất của các công
ty cổ phần có vốn do nhà nước chi phối.
Mặc dù đã có một số chính sách và biện pháp để giải quyết vấn đề này
nhưng trên thực tế vẫn còn những khó khăn cần được tiếp tục nghiên cứu giải
quyết. Tính chất khó khăn của việc xác định một cơ chế tối ưu giải quyết mối
quan hệ giữa sở hữu, quản lý và sử dụng nguồn vốn trong các công ty cổ phần
do nhà nước chi phối là do một số yếu tố có liên quan phải được giải quyết, bao
gồm:
* Thứ nhất: Đối với nguồn vốn chủ sở hữu do nhà nước chi phối tại
doanh nghiệp:

- Quản lý được cơ chế phân phối lợi nhuận và trích lập các quỹ của doanh
nghiệp, tránh tình trạng phân phối lợi nhuận theo ý chủ quan của doanh nghiệp.
- Quản lý được việc luân chuyển và sử dụng vốn trong doanh nghiệp
- Đối với việc phát hành cổ phiếu: Căn cứ luật chứng khoán, chính phủ
thực hiện một cơ chế quản lý và kiểm soát các hoạt động phát hành cổ phiếu
gồm:
+ Quy trình thủ tục phát hành cổ phiếu.
+ Các quy định cụ thể về hình mẫu, nội dung của cổ phiếu.
+ Quy định về thẩm quyền duyệt và cho phép phát hành, các điều kiện mà
doanh nghiệp phải đảm bảo khi phát hành.
+ Các quy định về nghiệp vụ kế toán tài chính liên quan đến quá trình
phát hành cổ phiếu và thanh toán.
+ Các yếu tố pháp lý và các giao dịch liên quan đến việc phát hành cổ
phiếu.
* Thứ hai: Đối với nguồn vốn được huy động từ nguồn vốn vay
- Phát hành trái phiếu: Cơ chế quản lý tương tự như cổ phiếu đã trình bày
ở trên.
- Nguồn vốn tín dụng và các nguồn vốn khác: Đối với các doanh nghiệp
cơ chế quản lý nguồn vốn tín dụng bao hàm một số nội dung như:


15

+ Cơ chế kiểm soát nội bộ của doanh nghiệp đối với quá trình huy động
vốn tín dụng.
+ Các quy trình, thủ tục cụ thể đối với doanh nghiệp tiến hành vay vốn
+ Phương thức kiểm soát của nhà nước đối với quan hệ tín dụng của các
doanh nghiệp.
Hiện nay, doanh nghiệp được quyền chủ động trong việc vay vốn và sử
dụng vốn phù hợp với chiến lược phát triển của doanh nghiệp. Để sử dụng được

hiệu quả nguồn vốn, doanh nghiệp cần xây dựng cơ chế kiểm soát để giữ tính
chủ động, linh hoạt, hiệu quả và sự an toàn về tài chính. Một số biện pháp
thường được các doanh nghiệp áp dụng bao gồm:
+ Tăng cường hệ thống kiểm soát nội và hệ thống kiểm soát quản trị của
doanh nghiệp.
Thiết lập các giới hạn tín dụng và các chỉ tiêu kiểm tra nhằm ngăn ngừa
việc vay vốn không có hiệu quả hoặc không an toàn.
+ Hệ thống quản lý toàn bộ quy trình tín dụng của doanh nghiệp bao gồm
việc xây dựng luận chứng, vay vốn và sử dụng vốn một cách có hiệu quả.
c. Cơ chế quản lý tài sản
- Cơ chế quản lý tài sản cố định
Tài sản cố định là những tư liệu lao động có giá trị lớn và thời gian sử
dụng lâu dài, tham gia vào nhiều chu kỳ kinh doanh nhưng vẫn giữ nguyên hình
thái vật chất ban đầu của nó.
Trong chế độ quản lý, sử dụng và trích khấu hao tài sản cố định (Quyết
định số 206/QĐ-BTC ngày 12/12/2003 của Bộ trưởng Bộ Tài chính về việc ban
hành chế độ quản lý, sử dụng và trích khấu hao TSCĐ), tài sản cố định phải thoả
mãn đồng thời cả bốn tiêu chuẩn dưới đây:
(1) Có thời gian sử dụng từ 1 năm trở lên;
(2) Có giá trị từ 10.000.000 (mười triệu đồng) trở lên;
(3) Nguyên giá của tài sản phải được xác định một cách đáng tin cậy;
(4) Chắc chắn thu được lợi ích kinh tế trong tương lai từ việc sử dụng tài
sản đó;
Tài sản cố định bao gồm: Tài sản cố định hữu hình, tài sản cố định thuê
tài chính và tài sản cố định vô hình.


16

Các tư liệu lao động không thoả mãn các tiêu chuẩn của tài sản cố định thì

được xếp vào nhóm công cụ dụng cụ.
Việc phân loại tư liệu lao động thành tài sản cố định và công cụ dụng cụ
như nói trên là rất cần thiết trong cơ chế quản lý tài chính. Việc xác định một tư
liệu lao động thuộc tài sản cố định hay tài sản lưu động có ảnh hưởng trực tiếp
đến nghiệp vụ kế toán chi phí và báo cáo tài chính của doanh nghiệp.
Việc quản lý khấu hao tài sản cố định trong quá trình sử dụng, xét về mặt
hình thái vật chất và về giá trị, các tài sản cố định bị hao mòn dần, sự suy giảm
năng lực sản xuất và hiệu năng hoạt động là một quy luật hoàn toàn tự nhiên.
Việc tài sản cố định bị giảm sút giá trị như vậy được gọi là hao mòn tài sản cố
định, bao gồm hao mòn hữu hình và hao mòn vô hình của tài sản cố định, còn
khấu hao tài sản cố định là biểu hiện bằng tiền của hao mòn tài sản cố định, việc
trích hay không trích khấu hao là tuỳ thuộc vào mục đích sử dụng và yêu cầu
quản lý của doanh nghiệp.
Như trên đã phân tích, việc áp dụng phương pháp và tỷ lệ khấu hao có
quan hệ trực tiếp đến hạch toán và xác định thuế thu nhập doanh nghiệp. Trong
một thời kỳ xác định, nếu mức độ khấu hao tăng tương đối (tỷ lệ khấu hao tăng)
thì sẽ dẫn đến tăng tương đối chi phí sản xuất và giảm lãi trước thuế; do đó số
thuế TNDN phải nộp sẽ giảm. Nếu doanh nghiệp đẩy nhanh tốc độ khấu hao
trong những năm đầu của tài sản cố định và rút ngắn thời gian tính khấu hao tài
sản cố định thì doanh nghiệp có lợi về thuế.
Do tầm quan trọng của chế độ khấu hao, nên ở các nước đều có cơ chế thể
hiện qua các quy định kiểm soát việc tính khấu hao tài sản cố định của các
doanh nghiệp. Nội dung của các quy định Nhà nước về khấu hao thường bao
gồm một số điểm như sau :
Quá trình thực hiện khấu hao tài sản cố định tạo ra một kết quả là: Trong
cấu thành của doanh thu bán hàng có chi phí khấu hao tài sản cố định, số tiền
khấu hao đó được cộng dồn lại gọi là khấu hao luỹ kế. Qua các thời kỳ, số khấu
hao luỹ kế hình thành một nguồn vốn của doanh nghiệp.
Trước đây, ở nước ta chế độ tài chính nhà nước quản lý rất chặt chẽ đối
với số khấu hao luỹ kế gọi là quỹ khấu hao của doanh nghiệp. Doanh nghiệp nhà

nước phải nộp một phần hoặc toàn bộ khấu hao cơ bản vào ngân sách nhà nước.
Ngoài ra, trong cơ chế bao cấp doanh nghiệp phải sử dụng quỹ khấu hao theo
đúng mục đích được Nhà nước quy định. Các quy định đó nhằm đảm bảo nguồn
vốn cho ngân sách nhà nước để đầu tư tập trung theo kế hoạch của Nhà nước.


17

Song, chính các quy định quá chặt chẽ trước đây đã gây một số khó khăn đối với
doanh nghiệp, không kích thích các doanh nghiệp đầu tư đổi mới trang thiết bị,
làm hạn chế tính chủ động và hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp.
Tuy nhiên, cùng với sự đổi mới cơ chế quản lý tài chính, cơ chế quản lý
tài sản cố định cùng từng bước được sửa đổi, điều chỉnh. Trao quyền tự chủ cho
doanh nghiệp trong việc quản lý, sử dụng số khấu hao tài sản cố định, làm tăng
tính linh hoạt và tính hiệu quả của việc sử dụng vốn trong doanh nghiệp.
- Cơ chế quản lý tài sản lưu động
Tài sản lưu động là các đối tượng lao động có hình thái vật chất cụ thể,
chỉ tham gia vào một chu kỳ sản xuất và không giữ nguyên hình thái vật chất
ban đầu, giá trị của nó được chuyển dịch toàn bộ một lần vào gía trị sản phẩm.
Tài sản lưu động bao gồm: Các loại vốn bằng tiền, các khoản phải thu
trong và ngoài doanh nghiệp, các khoản đầu tư ngắn hạn, các khoản thế chấp, ký
cược, ký quỹ ngắn hạn, vật tư, hàng hoá, sản phẩm,...
Tài sản lưu động tồn tại dưới dạng vật tư, hàng hoá và tiền tệ, sự luân
chuyển và chuyển hoá thường chịu ảnh hưởng của nhiều yếu tố tác động khách
quan và chủ quan, trong đó những yếu tố làm cho tài sản lưu động bị giảm sút,
đó là:
Hàng hoá bị ứ đọng, kém phẩm chất, mất phẩm chất hoặc không phù hợp
với yêu cầu thị trường, không tiêu thụ được hoặc tiêu thụ với giá bị hạ thấp, các
rủi ro bất thường xảy ra trong quá trình sản xuất; nền kinh tế lạm phát, giá cả
tăng nhanh dẫn đến tài sản lưu động bị trượt giá;Tài sản lưu động bị chiếm dụng

lẫn nhau kéo dài với số lượng lớn.
Vì vậy, để khắc phục được những yếu tố này, cần phải có các biện pháp
cụ thể như: Định kỳ tiến hành kiểm kê, đánh giá lại toàn bộ tài sản lưu động để
xác định giá trị hiện tại và đối chiếu với sổ sách để điều chỉnh hợp lý. Những vật
tư, hàng hoá tồn đọng lâu ngày không thể sử dụng được do kém hoặc mất phẩm
chất hoặc không phù hợp với yêu cầu sản xuất thì phải chủ động giải quyết
thanh lý, phần chênh lệch thiếu phải xử lý kịp thời để bù đắp lại. Những khoản
vốn trong thanh toán, vốn bị chiếm dụng cần có biện pháp đôn đốc và giải quyết
tích cực để thu tiền về nhanh chóng và sử dụng ngay vào SXKD nhằm tăng tốc
độ luân chuyển của vốn lưu động, đối với những khoản nợ khó đòi thực sự
không có khả năng đòi được, được cơ quan quản lý doanh nghiệp xem xét, thẩm
định hạch toán vào chi phí SXKD, doanh nghiệp phải tiếp tục theo dõi trên sổ kế


18

toán và đôn đốc thường xuyên để thu hồi, số thu được sau khi trừ chi phí thu nợ,
hạch toán vào thu nhập khác của doanh nghiệp.
Đối với doanh nghiệp thua lỗ kéo dài cần có biện pháp khắc phục, một
trong những biện pháp đó là sử dụng kỹ thuật mới vào sản xuất để hạ giá thành,
tăng vòng quay của vốn lưu động.
Trong điều kiện có lạm phát, khi phân phối lợi nhuận cần phải dành ra
một phần để hình thành quỹ dự phòng tài chính nhằm bù đắp số hao hụt do lạm
phát.
Chính sách, cơ chế quản lý vốn và tài sản được tiếp tục đổi mới theo hướng
tăng quyền tự chủ cho doanh nghiệp, Nhà nước trao thêm nhiều quyền như được sử
dụng linh hoạt số vốn kinh doanh và được quyền thay đổi cơ cấu tài sản phù hợp
với yêu cầu SXKD của doanh nghiệp, được cầm cố, thế chấp, cho thuê, nhượng
bán tài sản thuộc quyền quản lý và sử dụng hợp pháp của doanh nghiệp, được huy
động vốn từ các nguồn vốn trong và ngoài nước dưới các hình thức vay tín dụng,

phát hành trái phiếu, liên doanh liên kết... để đầu tư chiều sâu, đổi mới công nghệ,
mở rộng sản xuất, được đầu tư ra ngoài doanh nghiệp. Để bảo toàn và phát triển
vốn, doanh nghiệp thực hiện biện pháp mua bảo hiểm tài sản, trích quỹ dự phòng
tài chính để bù đắp rủi ro mất vốn, được sử dụng lợi nhuận sau thuế để bù lỗ.
1.3.2. Cơ chế xác định doanh thu.
Doanh thu được thực hiện sau quá trình sản xuất và cung ứng sản phẩm,
giúp cho doanh nghiệp thu hồi vốn, xác định kết quả và tái SXKD các kỳ tiếp theo.
Doanh thu đóng vai trò quan trọng đồng thời chịu sự tác động của nhiều yếu tố
như: Khách hàng, thời hạn thanh toán, các điều kiện thanh toán, phương thức thanh
toán… Vấn đề đặt ra đối với các nhà quản lý là phải có những phương thức thực
hiện doanh thu như thế nào để đảm bảo khả năng thu hồi vốn một cách nhanh nhất
và đạt hiệu quả cao. Hiện nay, ngoài phương thức thực hiện doanh thu truyền
thống, người ta còn sử dụng một số phương thức mới để không những nâng cao
được doanh thu cho doanh nghiệp mà còn tạo thuận lợi cho khách hàng và kích
thích nhu cầu tiêu thụ sản phẩm như áp dụng phương pháp “ tín dụng thương mại”
tạo ra sự linh động về thời hạn thanh toán với điều kiện lãi suất mà hai bên thoả
thuận.
Doanh nghiệp phải quản lý chặt chẽ mọi khoản thu bao gồm: Doanh thu từ
hoạt động kinh doanh là toàn bộ tiền bán sản phẩm, hàng hoá, cung cấp dịch vụ
trên thị trường sau khi đã trừ hết các khoản chiết khấu bán hàng, giảm giá hàng
bán, hàng bán bị trả lại (nếu có chứng từ hợp lệ); doanh thu từ hoạt động tài chính


19

và hoạt động khác gồm có: các khoản thu từ hoạt động đầu tư ra ngoài doanh
nghiệp, thu từ hoạt động mua bán tín phiếu, cổ phiếu, thu từ cho thuê tài sản, thu từ
hoạt động liên doanh, liên kết, góp vốn cổ phần, thu lãi tiền gửi, tiền lãi cho vay,
các khoản thu tiền phạt, nợ đã xoá nay thu hồi được, thu do hoàn nhập các khoản
dự phòng đã trích năm trước nhưng không sử dụng và các khoản thu khác. Các sản

phẩm, hàng hoá, dịch vụ đem đi biếu tặng, cho hoặc tiêu dùng ngay trong nội bộ
doanh nghiệp cũng phải được hạch toán để xác định doanh thu.
Thời điểm để xác định doanh thu là khi người mua đã thanh toán hoặc chấp
nhận thanh toán.
Cơ chế quản lý doanh thu giúp cho doanh nghiệp chủ động trong phương án
kinh doanh, xác định kết quả kinh doanh trong từng thời kỳ cụ thể của quá trình sản
xuất kinh doanh.
1.3.3. Cơ chế quản lý chi phí.
Để tiến hành hoạt động SXKD, doanh nghiệp phải có đủ các yếu tố cơ bản
đó là lao động, tư liệu lao động, đối tượng lao động. Sự tham gia của các yếu tố này
vào quá trình SXKD của doanh nghiệp có sự khác nhau và hình thành nên các
khoản chi phí trong kỳ.
Dưới góc độ doanh nghiệp, để tạo ra sản phẩm, dịch vụ thì doanh nghiệp
phải bỏ ra chi phí nhất định như khấu hao tài sản cố định, tiêu hao nguyên liệu,
nhiên liệu, tiền lương và chi phí khác. Đó là các chi phí thực tế mà doanh nghiệp
phải bỏ ra.
Thực chất, chi phí sản xuất ở các doanh nghiệp là sự chuyển dịch vốn của
doanh nghiệp vào đối tượng tính giá nhất định, nó là phần vốn của doanh nghiệp
bỏ vào quá trình SXKD.
Để đảm bảo hoạt động SXKD có hiệu quả thì việc tính toán chính xác kết
quả hoạt động SXKD đòi hỏi cơ chế tập hợp chi phí phải được xem là vấn đề quan
trọng ở các doanh nghiệp.
Các doanh nghiệp được chủ động lựa chọn các phương án SXKD thích hợp
với thị trường, thực hiện hạch toán kinh doanh và chịu trách nhiệm về hiệu quả
SXKD của mình. Doanh nghiệp chủ động trong việc xây dựng đơn giá tiền lương,
định mức vật tư, lao động... và báo cáo hoặc xin phê duyệt của cơ quan Nhà nước
hoặc cấp có thẩm quyền. Doanh nghiệp được quyền hạch toán chi phí theo định
mức được duyệt và được chi trả các khoản lương, thưởng ... theo kết quả hoạt động



20

kinh doanh sau khi được phê duyệt, được lựa chọn phương án tính khấu hao tài sản
cố định sau khi đăng ký với cơ quan có thẩm quyền theo qui định.
Doanh nghiệp phải hạch toán đầy đủ các khoản chi phí phát sinh trong năm
tài chính và theo nguyên tắc quản lý chặt chẽ từng khoản chi phí của doanh nghiệp.
Trên cơ sở định mức được duyệt làm căn cứ cấp phát, quản lý việc tiêu
hao vật tư, cuối năm doanh nghiệp phải quyết toán việc tiêu hao vật tư so với
định mức và so với kỳ trước để xác định rõ trách nhiệm việc quản lý và sử dụng
vật tư của từng bộ phận và cá nhân trong doanh nghiệp.
Doanh nghiệp tự xây dựng và đăng ký định mức lao động cho cá nhân, bộ
phận và định mức tổng hợp theo hướng dẫn của Bộ lao động thương binh và xã
hội. Tổng quỹ lương của công nhân viên chức trong doanh nghiệp (bao gồm cả
Hội đồng quản trị, Ban kiểm soát nếu có) phải căn cứ vào đơn giá tiền lương và
kết quả kinh doanh của doanh nghiệp (khối lượng sản phẩm hoặc hoạt động dịch
vụ thực tiễn). Trường hợp doanh nghiệp gặp khó khăn trong hoạt động kinh
doanh thì vẫn phải đảm bảo mức lương tối thiểu cho công nhân viên chức trong
doanh nghiệp.
Doanh nghiệp được chi quảng cáo, tiếp thị, khuyến mại cho các hoạt động
kinh doanh, các khoản chi phí giao dịch, tiếp khách, đối ngoại, hội nghị doanh
nghiệp phải có cơ chế quản lý và công khai các khoản chi nói trên. Giám đốc
doanh nghiệp quyết định các khoản chi và chịu trách nhiệm trước pháp luật về
quyết định của mình. Các khoản chi này không được vượt quá tỷ lệ quy định
(theo từng thời điểm) so với tổng chi phí thực tế trong kỳ. Việc tính giá thành
sản phẩm nhập kho thực hiện theo quy định, chỉ tính chi phí vật tư, lao động trực
tiếp và chi phí sản xuất chung. Chi phí bán hàng và chi phí quản lý doanh nghiệp
được kết chuyển toàn bộ cho sản phẩm hàng hoá, dịch vụ bán ra trong kỳ.
Doanh nghiệp được phép hạch toán vào chi phí các khoản chi phí bảo
hành sản phẩm, phí bảo hiểm tài sản, các khoản chi hoa hồng môi giới, doanh
nghiệp phải công khai tỷ lệ chi hoa hồng đại lý và môi giới. Giám đốc doanh

nghiệp quy định tỷ lệ này và chịu trách nhiệm trước pháp luật.
Ngoài ra, chế độ quản lý chi phí còn quy định những khoản không được
tính vào chi phí kinh doanh của doanh nghiệp như các khoản tiền phạt do tập
thể, cá nhân vi phạm pháp luật, các khoản chi trợ cấp khó khăn cho người lao
động trong doanh nghiệp, chi ủng hộ địa phương, đoàn thể, chi phí đi công tác
nước ngoài vượt định mức. Những khoản chi không đúng, người quyết định chi
phải bồi thường.


21

1.3.4. Cơ chế phân phối lợi nhuận.
Lợi nhuận của Công ty gồm lợi nhuận phát sinh từ hoạt động kinh doanh
trực tiếp tại Công ty và lợi nhuận được chia từ doanh nghiệp khác có vốn của
công ty đầu tư. Trường hợp doanh nghiệp đã nộp thuế thu nhập doanh nghiệp
trước khi chia lợi nhuận, thì công ty không phải nộp thuế thu nhập đối với khoản
lợi nhuận được chia từ các doanh nghiệp này.
Lợi nhuận của công ty cổ phần được phân phối theo quyết định của Đại
hội đồng cổ đông. Lợi nhuận thực hiện của công ty sau khi bù đắp lỗ năm trước
theo quy định của Luật thuế thu nhập doanh nghiệp và nộp thuế thu nhập doanh
nghiệp được phân phối như sau:
- Cổ tức trả cho cổ phần ưu đãi được thực hiện theo các điều kiện áp dụng
riêng cho mỗi loại cổ phần ưu đãi.
- Cổ tức trả cho cổ phần phổ thông được xác định căn cứ vào số lợi nhuận
ròng đã thực hiện và khoản chi trả cổ tức được trích từ nguồn lợi nhuận giữ lại
của công ty. Công ty cổ phần chỉ được trả cổ tức cho cổ đông khi công ty đã
hoàn thành nghĩa vụ thuế và các nghĩa vụ tài chính khác theo quy định của pháp
luật; trích lập các quỹ công ty và bù đắp đủ lỗ trước đó theo quy định của pháp
luật và Điều lệ công ty; ngay sau khi trả hết số cổ tức đã định, công ty vẫn phải
bảo đảm thanh toán đủ các khoản nợ và nghĩa vụ tài sản khác đến hạn.

Cổ tức có thể được chi trả bằng tiền mặt, bằng cổ phần của công ty hoặc
bằng tài sản khác quy định tại Điều lệ công ty. Nếu chi trả bằng tiền mặt thì phải
được thực hiện bằng đồng Việt Nam và có thể được thanh toán bằng séc hoặc
lệnh trả tiền gửi bằng bưu điện đến địa chỉ thường trú của cổ đông.
Cổ tức có thể được thanh toán bằng chuyển khoản qua ngân hàng khi
công ty đã có đủ chi tiết về ngân hàng của cổ đông để có thể chuyển trực tiếp
được vào tài khoản ngân hàng của cổ đông. Nếu công ty đã chuyển khoản theo
đúng các thông tin chi tiết về ngân hàng như thông báo của cổ đông thì công ty
không chịu trách nhiệm về các thiệt hại phát sinh từ việc chuyển khoản đó.
Hội đồng quản trị phải lập danh sách cổ đông được nhận cổ tức, xác định
mức cổ tức được trả đối với từng cổ phần, thời hạn và hình thức trả chậm nhất
ba mươi ngày trước mỗi lần trả cổ tức. Thông báo về trả cổ tức phải được gửi
bằng phương thức bảo đảm đến được địa chỉ đăng ký tất cả cổ đông chậm nhất
mười lăm ngày trước khi thực hiện trả cổ tức. Thông báo phải ghi rõ tên công ty;
họ, tên, địa chỉ thường trú, quốc tịch, số Giấy chứng minh nhân dân, Hộ chiếu
hoặc chứng thực cá nhân hợp pháp khác của cổ đông là cá nhân; tên, địa chỉ


22

thường trú, quốc tịch, số quyết định thành lập hoặc số đăng ký kinh doanh của
cổ đông là tổ chức; số lượng cổ phần từng loại của cổ đông; mức cổ tức đối với
từng cổ phần và tổng số cổ tức mà cổ đông đó được nhận, thời điểm và phương
thức trả cổ tức; họ, tên, chữ ký của Chủ tịch hội đồng quản trị và người đại diện
theo pháp luật của công ty.
Trường hợp cổ đông chuyển nhượng cổ phần của mình trong thời gian
giữa thời điểm kết thúc lập danh sách cổ đông và thời điểm trả cổ tức thì người
chuyển nhượng là người nhận cổ tức từ công ty.
- Quản lý sử dụng các quỹ: Việc trích lập các quỹ trong doanh nghiệp
nhằm các mục đích bù đắp những tổn thất, thiệt hại về tài sản, công nợ không

đòi được xảy ra trong quá trình kinh doanh; bù đắp khoản lỗ của công ty theo
quyết định của Hội đồng quản trị ; để bổ sung vốn điều lệ cho công ty; thưởng
cuối năm hoặc thường kỳ trên cơ sở năng suất lao động và thành tích công tác
của mỗi cán bộ, công nhân viên;
Việc sử dụng các quỹ do Hội đồng quản trị hoặc Giám đốc quyết định sau
khi tham khảo ý kiến của công đoàn công ty.
1.3.5. Cơ chế hạch toán kế toán, kiểm soát nội bộ và kiểm toán báo cáo tài
chính.
a/ Cơ chế hạch toán kế toán
Hạch toán kế toán là một công cụ quản lý của quá trình sản xuất kinh
doanh, nó cần thiết đối với doanh nghiệp trong mọi cơ chế quản lý.
Nhà nước tiến hành quản lý hạch toán bằng cách ban hành các quy định
pháp luật về kế toán thống kê. Các doanh nghiệp phải xây dựng Điều lệ hoạt
động, trong đó quy định công tác tổ chức kế toán và kiểm soát để quản lý các
hoạt động của công ty, phù hợp với các văn bản quy định của Nhà nước.
Kết thúc năm tài chính (bắt đầu từ 1/1, kết thúc 31/12 năm dương lịch)
doanh nghiệp phải lập đúng thời hạn các báo cáo tài chính và báo cáo thống kê
theo mẫu, gửi đúng thời hạn theo quy định hiện hành cho các cơ quan có thẩm
quyền và chịu sự thanh tra kiểm soát của các cơ quan tài chính, thống kê. Báo
cáo tài chính năm được các Công ty kiểm toán độc lập kiểm toán.
Hàng năm doanh nghiệp phải công khai kết quả kinh doanh, tài sản, vốn,
công nợ của doanh nghiệp trước Đại hội đồng cổ đông nhằm giúp cho cổ đông
trong doanh nghiệp biết được tình hình tài chính, hiệu quả hoạt động SXKD,
mức thu nhập và các quyền lợi khác. Nhằm thực hiện quyền làm chủ và tham


23

gia giám sát bộ máy lãnh đạo của doanh nghiệp phát triển, giúp cơ quan quản lý
Nhà nước có căn cứ đánh giá tình hình và hiệu quả hoạt động SXKD của doanh

nghiệp, để có biện pháp tăng cường quản lý doanh nghiệp.
Nhà nước thông qua các cơ quan chức năng để điều hành quản lý tài
chính doanh nghiệp. Bộ Tài chính có chức năng xây dựng các chính sách, chế độ
quản lý tài chính đối với doanh nghiệp và chính sách quản lý thu, chi. Bộ Tài
chính có các cơ quan chuyên môn thực hiện công tác quản lý tài chính đối với
doanh nghiệp. Hiện nay, Tổng công ty đầu tư và kinh doanh vốn Nhà nước sẽ
từng bước đảm nhiệm vai trò quản lý đại diện chủ sở hữu vốn Nhà nước tại
doanh nghiệp và chức năng đầu tư tài chính.
b/ Cơ chế kiểm soát nội bộ
Hệ thống kiểm soát nội bộ thực chất là các hoạt động, biện pháp, kế
hoạch, quan điểm, nội quy chính sách và nỗ lực của mọi thành viên trong doanh
nghiệp để đảm bảo cho doanh nghiệp đó hoạt động hiệu quả và đạt được mục
tiêu đặt ra một cách hợp lý. Nói các khác, đây là tập hợp tất cả những việc mà
một công ty cần làm để có được những kết quả mong muốn và tránh những rủi
ro không đáng có. Hệ thống này không đo đếm kết quả dựa trên con số tăng
trưởng, mà chỉ giám sát nhân viên, chính sách, hệ thống, phòng ban của công ty
đang vận hành ra sao và nếu vẫn giữ nguyên cách làm đó thì khả năng hoàn
thành kế hoạch không.
Xây dựng một hệ thống kiểm soát nội bộ chính là xác lập một cơ chế
giám sát mà ở đó việc quản lý không phải bằng lòng tin mà bằng những quy
định rõ ràng nhằm giảm bớt nguy cơ rủi ro tiềm ẩn trong kinh doanh; bảo vệ tài
sản khỏi bị hư hỏng, mất mát, hao hụt, gian lận; đảm bảo tính chính xác của các
số liệu kế toán và báo cáo tài chính; đảm bảo mọi thành viên tuân thủ nội quy
của công ty cũng như các quy định của luật pháp; đảm bảo sử dụng tối ưu các
nguồn lực và mục tiêu đề ra; bảo vệ quyền lợi của nhà đầu tư, cổ đông và gây
dựng lòng tin với họ.
Hệ thống kiểm soát nội bộ có nhiệm vụ tìm hiểu hệ thống quản lý của
công ty, bao gồm cả những hoạt động chính thức hoặc không chính thức, nhằm
đưa ra quy định, hướng dẫn về các nhân tố có thể tác động đến hoạt động kinh
doanh.

Khi cơ chế kiểm soát nội bộ được vận hành một cách hữu hiệu (thông qua
việc thực hiện nghiêm ngặt các quy chế quản lý) thì các rủi ro của doanh nghiệp cũng
sẽ được ngăn chặn hoặc phát hiện một cách đầy đủ, kịp thời và chính xác.


24

- Những yếu tố không thể thiếu trong việc xây dựng hệ thống kiểm
soát nội bộ .
Một là, môi trường kiểm soát: Là những yếu tố của công ty ảnh hưởng
đến hoạt động của hệ thống kiểm soát nội bộ và là các yếu tố tạo ra môi trường
mà trong đó toàn bộ thành viên của công ty nhận thức được tầm quan trọng của
hệ thống kiểm soát nội bộ. Ví dụ, nhận thức của cán bộ quản lý về liêm chính và
đạo đức nghề nghiệp, việc cần thiết phải tổ chức bộ máy hợp lý; việc phân công,
ủy nhiệm rõ ràng; về việc ban hành bằng văn bản các nội quy, quy chế, quy trình
kinh doanh ... Một môi trường kiểm soát tốt sẽ là nền tảng cho sự hoạt động hiệu
quả của hệ thống kiểm soát nội bộ.
Hai là, biện pháp xác định rủi ro: Dù cho quy mô, cấu trúc, loại hình hay
vị trí địa lý khác nhau, nhưng bất kỳ công ty nào cũng có thể bị tác động bởi các
rủi ro xuất hiện từ các yếu tố bên trong hoặc bên ngoài. Do đó, cơ chế kiểm soát
nội bộ cần có phần xác định rủi ro.
Ba là, các yếu tố bên trong: Đó là sự quản lý thiếu minh bạch, không coi
trọng đạo đức nghề nghiệp, chất lượng nguồn nhân lực thấp, sự cố hỏng hóc của
hệ thống máy tính, trang thiết bị, hạ tầng cơ sở, tổ chức và cơ sở hạ tầng không
theo kịp với sự phát triển, mở rộng của sản xuất, chi phí quản lý cao, thiếu kiểm
tra đầy đủ do xa công ty mẹ hoặc do thiếu quan tâm ...
Bốn là, các yếu tố bên ngoài: Đó là những tiến bộ công nghệ làm thay
đổi quy trình vận hành; thói quen của người tiêu dùng về sản phẩm dịch vụ, xuất
hiện yếu tố cạnh tranh không mong muốn ảnh hưởng đến giá cả và thị phần; các
chính sách mới ban hành...

Để tránh bị thiệt hại do tác động từ các yếu tố bên ngoài lẫn bên trong,
cần phải thường xuyên đánh giá mức độ rủi ro hiện hữu và tiềm ẩn, phân tích
ảnh hưởng của chúng, kể cả tần xuất xuất hiện, từ đó vạch ra các biện pháp quản
lý và giảm thiểu tác hại của chúng. Tổ chức hệ thống thông tin và truyền thông
nội bộ có thể đảm bảo tính chính xác, kịp thời, đầy đủ, xác thực, dễ nắm bắt và
đến đúng người có trách nhiệm.
Năm là, yếu tố giám sát và thẩm định: Đây là quá trình theo dõi và đánh
giá chất lượng thực hiện việc kiểm soát nội bộ để đảm bảo nó được triển khai,
điều chỉnh khi môi trường thay đổi, cũng như được cải thiện khi có khuyết điểm.
Các bước cụ thể trong việc tăng cường thực hiện cơ chế kiểm soát:


25

- Quyền phê duyệt: Kiểm soát quyền phê duyệt các nghiệp vụ được phát
sinh đã phù hợp với quy chế chính sách của công ty chưa. Cụ thể là việc phê
duyệt cần phải tuân thủ: quy định về cấp phê duyệt, quy định về dấu hiệu của
phê duyệt, quy định về cơ sở để phê duyệt, quy định về cấp ủy quyền phê duyệt.
- Thủ tục báo cáo bất thường: Tất cả các cá nhân, các bộ phận trong công
ty phải có trách nhiệm cáo cáo về những trường hợp bất thường, về các vấn đề
bất hợp lý mà họ phát hiện ra ở mọi nơi và mọi lúc. Các trường hợp được coi là
bất thường trong cơ chế quản lý là các nghiệp vụ không theo đúng quy trình,
quy định. Các nghiệp vụ ngoại lệ, những bất hợp lý, những vấn đề chưa từng
xảy ra, đã xảy ra nhưng lại có sự ảnh hưởng lớn. Những bất thường này là
những đóng góp rất có giá trị cho công ty để có những điều chỉnh kịp thời, hạn
chế những tổn thất có thể xảy ra.
- Thủ tục bảo vệ tài sản: là xây dựng các quy định và kiểm soát tất cả các
hoạt động nhằm giảm thiểu tài sản bị mất mát, lãng phí, lạm dụng, hư hỏng, phá
hoại.
- Thủ tục sử dụng chỉ tiêu: Kiểm soát tất các các chỉ tiêu bao gồm các chỉ

tiêu tài chính và các chỉ tiêu đánh giá hoạt động của công ty. Các chỉ tiêu phải
có tính khả thi. Thiết lập một hệ thống tính toán định kỳ báo cáo tình hình thực
hiện các chỉ tiêu. Chỉ rõ ai là người chịu trách nhiệm khi không đạt các chỉ tiêu,
định kỳ theo dõi và chấn chỉnh kịp thời.
- Thủ tục đối chiếu: Các nghiệp vụ phát sinh thường liên quan đến nhiều
cá nhân, nhiều phòng ban bộ phận trong công ty. Đối chiếu tổng hợp giữa các cá
nhân, các phòng ban, bộ phận khác nhau về cùng một nghiệp vụ. Mục đích của
việc đối chiếu là phát hiện và ngăn ngừa các gian lận sai sót trong ghi chép hay
xử lý nghiệp vụ.
- Thủ tục kiểm tra và theo dõi : Đây có thể coi là cơ chế “ kiểm soát sự
kiểm soát” nhằm giúp khám phá những sai sót lớn, nghiêm trọng. Tạo hiệu ứng
có lợi cho môi trường kiểm soát đó là các công việc nhân viên làm luôn có
người kiểm tra, theo dõi và đánh giá.
c/ Cơ chế kiểm toán báo cáo tài chính.
Kiểm toán là việc kiểm tra và xác nhận của kiểm toán viên và doanh
nghiệp kiểm toán về tính trung thực và hợp lý của các tài liệu, số liệu kế toán và
bào cáo tài chính của các doanh nghiệp, tổ chức (gọi chung là đơn vị được kiểm
toán) khi có yêu cầu của đơn vị này. (Trích trong quy chế về kiểm toán độc lập


×