Tải bản đầy đủ (.pdf) (116 trang)

Luận văn thạc sĩ THẾ GIỚI NGHỆ THUẬT TRONG TRUYỆN NGẮN TẠ DUY ANH

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (828.4 KB, 116 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI

TRƢƠNG THỊ ÁNH

THẾ GIỚI NGHỆ THUẬT
TRONG TRUYỆN NGẮN TẠ DUY ANH
Chuyên ngành:

Văn học Việt Nam hiện đại

Mã số:

60.22.01.21

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC NGỮ VĂN

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS. Nguyễn Văn Long

Hà Nội- 2014


Lêi c¶m ¬n
Em xin chân thành bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến PGS. Nguyễn Văn Long –
ngƣời đã tận tình hƣớng dẫn, quan tâm và giúp đỡ em trong quá trình thực
hiện và hoàn thành luận văn này.
Em xin cảm ơn các thầy giáo, cô giáo trong tổ văn học Việt Nam hiện
đại cùng tập thể các thầy cô giáo trong khoa Ngữ Văn - Trƣờng Đại học Sƣ
phạm Hà Nội đã nhiệt tình giảng dạy và giúp đỡ em trong quá trình học tập.
Nhân đây, tôi cũng xin gửi lời cảm ơn chân thành của mình đến gia
đình, bạn bè đã luôn động viên tôi trong suốt quá trình học tập và thực hiện


luận văn.
Hà Nội, tháng 7 năm 2014
Tác giả luận văn

Trƣơng Thị Ánh


MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU .............................................................................................. 1
1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI ................................................................................ 1
2. LỊCH SỬ VẤN ĐỀ ....................................................................................... 3
3. ĐỐI TƢỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU .............................................. 5
4. PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU................................................................. 6
CHƢƠNG 1. TRUYỆN NGẮN TẠ DUY ANH TRONG DÒNG CHẢY
TRUYỆN NGẮN THỜI KÌ ĐỔI MỚI .......................................................... 7
1.1. Truyện ngắn thời kì đổi mới ...................................................................... 7
1.1.1. Bối cảnh xã hội........................................................................................ 7
1.1.2. Sự phát triển của văn xuôi ....................................................................... 8
1.1.3. Sự phát triển của truyện ngắn thời kì đổi mới ...................................... 11
1.1.3.1.Sự chuyển đổi trong quan niệm nghệ thuật về hiện thực và con ngƣời .... 11
1.1.3.2. Sự đổi mới về cốt truyện, nghệ thuật trần thuật và ngôn ngữ ............ 14
1.1.3.3. Vài nét về thành tựu đạt đƣợc của truyện ngắn ................................. 15
1.2. Tạ Duy Anh- một hiện tƣợng đáng chú ý của truyện ngắn sau 1975 ...... 18
1.2.1. Những yếu tố tạo nên thế giới nghệ thuật Tạ Duy Anh ........................ 18
1.2.2. Truyện ngắn trong sự nghiệp văn học của Tạ Duy Anh. ...................... 21
CHƢƠNG 2: THẾ GIỚI NHÂN VẬT, KHÔNG GIAN NGHỆ THUẬT
VÀ THỜI GIAN NGHỆ THUẬT TRONG TRUYỆN NGẮN TẠ DUY
ANH ................................................................................................................ 28
2.1.Thế giới nhân vật....................................................................................... 28
2.1.1. Nhân vật mấp mé bên bờ vực của cái thiện, cái ác .... Error! Bookmark

not defined.
2.1.2. Nhân vật bị giam hãm trong thù hận, định kiến. .. Error! Bookmark not
defined.
2.1.3. Những nhân vật bị ám ảnh trong nỗi sự hãi .......................................... 29
2.1.4 .Nhân vật ngƣời phụ nữ - biểu tƣợng cho niềm khát khao cái đẹp ........ 34

1


2.1.2.3. ............................................................................................................. 40
2.1.2.4. ............................................................................................................. 45
2.2. Không gian nghệ thuật trong truyện ngắn Tạ Duy Anh .......................... 49
2.2.1. Giới thuyết chung về không gian nghệ thuật ....... Error! Bookmark not
defined.
2.2.2. Không gian nghệ thuật trong truyện ngắn Tạ Duy Anh ................ Error!
Bookmark not defined.
2.2.2.1. Không gian thiên nhiên. ..................................................................... 50
2.2.2.2. Không gian xã hội .............................................................................. 53
2.3. Thời gian nghệ thuật trong truyện ngắn Tạ Duy Anh .............................. 63
2.3.1. Giới thuyết chung về thời gian nghệ thuật ........... Error! Bookmark not
defined.
2.3.2. Thời gian nghệ thuật trong truyện ngắn Tạ Duy Anh Error! Bookmark
not defined.
2.3.2.1. Thời gian đan xen giữa quá khứ và hiện tại ....................................... 64
2.3.2.2. Thời gian kéo dài qua nhiều biến cố thăng trầm của sự kiện ............ 68
2.3.2.3. Thời gian tâm tƣởng ........................................................................... 69
CHƢƠNG 3: MỘT SỐ PHƢƠNG DIỆN NGHỆ THUẬT ĐẶC SẮC
TRONG THẾ GIỚI NGHỆ THUẬT TRUYỆN NGẮN TẠ DUY ANH . 71
3.1. Ngôn ngữ nghệ thuật ................................................................................ 71
3.1.1. Sự phối hợp đa dạng các sắc thái ngôn ngữ .......................................... 72

3.1.2. Các dạng ngôn ngữ................................................................................ 77
3.2. Nghệ thuật xây dựng cốt truyện. .............................................................. 82
3.2.1. Cốt truyện lắp ghép, phân mảnh ........................................................... 82
3.2.2. Cốt truyện tâm lý................................................................................... 86
3.3. Nghệ thuật trần thuật ................................................................................ 88
3.3.1. Điểm nhìn trần thuật.............................................................................. 89
3.3.2. Giọng điệu trần thuật ............................................................................. 96

2


3.3.2.1 Giọng điệu triết lí ................................................................................ 97
3.3.2.2. Giọng giễu nhại ................................................................................ 100
KẾT LUẬN .................................................................................................. 103
TÁC PHẨM TẠ DUY ANH ...................................................................... 105
TÀI LIỆU THAM KHẢO .......................................................................... 106

3


PHẦN MỞ ĐẦU
1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
1. “Thế giới nghệ thuật là khái niệm chỉ tính chỉnh thể của sáng tác
nghệ thuật”(Một tác phẩm, một loại hình tác phẩm, sáng tác của một tác giả,
một trào lƣu) [37;245]. Thế giới trong sáng tác nghệ thuật là một thế giới
riêng đƣợc sáng tạo ra theo các nguyên tắc tƣ tƣởng thẩm mĩ của tác giả và
cảm nhận của độc giả, nó không giống với thế giới thực tại vật chất hay thế
giới tâm lý của con ngƣời, mặc dù nó phản ánh các thế giới ấy. “ Nó mang
tính cảm tính có thể cảm thấy được và là một kiểu tồn tại đặc thù vừa trong
chất liệu vừa trong cảm nhận của người thưởng thức, là sự thống nhất của

mọi yếu tố đa dạng trong tác phẩm”.[66;47]
Thế giới nghệ thuật có không gian, thời gian riêng, có quy luật tâm lý
riêng, có quan hệ xã hội riêng, có quan hệ đạo đức, thang bậc giá trị riêng.
Cốt lõi để tạo nên thế giới nghệ thuật là mô hình về con ngƣời và thế giới
trong mối liên hệ nhất định với thực tại. Tìm hiểu tác phẩm văn học qua góc
nhìn thế giới nghệ thuật sẽ tránh đƣợc cách đánh giá theo lối đối chiếu giản
đơn giữa các yếu tố hình tƣợng với những sự thực đời sống riêng lẻ, mà phải
đánh giá trong chỉnh thể của tác phẩm, xem xét tính chân thực của chỉnh thể
tác phẩm so với chỉnh thể hiện thực. Hƣớng nghiên cứu này sẽ giúp chúng ta
khám phá đƣợc tính độc đáo riêng biệt của tác phẩm văn chƣơng từ nội dung
đến hình thức nghệ thuật - phân biệt nó với các loại hình nghệ thuật cũng nhƣ
các dạng văn bản ngôn từ khác.
2. Luồng gió của công cuộc đổi mới đã đem đến cho văn học bầu
không khí tự do dân chủ đó là đƣợc “nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự
thật, nói rõ sự thật” (Báo cáo chính trị Đại hội Đảng toàn quốc lầ thứ VI).
Bầu không khí đó trở thành nguồn cổ vũ lớn lao cho các văn nghệ sĩ, họ đƣợc
nhìn nhận cuộc sống theo cách của mình, từ đó đã làm xuất hiện nhiều hiện
tƣợng mới lạ gây sự chú ý của dƣ luận nhất là trong văn xuôi từ cuối những

1


năm 80 đến những năm 90. Những cây bút tạo đƣợc chú ý trên văn đàn thời
kỳ đó nhƣ: Nguyễn Huy Thiệp, Phạm Thị Hoài, Võ Thị Hảo, Nguyễn Bình
Phƣơng, Nguyễn Thị Thu Huệ, Nguyễn Ngọc Tƣ ... Trong số đó không thể
không nhắc đến tên tuổi của Tạ Duy Anh- một cây bút đƣợc xem là hiện
tƣợng nổi bật, với những thể nghiệm văn chƣơng
Tạ Duy Anh thực sự xuất hiện trên văn đàn, gây tiếng vang lớn bằng
truyện ngắn Bước qua lời nguyền. Cùng với Lũ vịt giời, ông đã giành đƣợc
giải trong cuộc thi viết về nông nghiệp nông thôn do tuần báo Văn Nghệ, báo

Nông nghiệp Việt Nam và Đài tiếng nói Việt Nam phối hợp tổ chức năm
1989. Giải C với tác phẩm Xưa kia chị đẹp nhất làng trong cuộc thi truyện
ngắn 1998-1999 của tạp chí Văn nghệ quân đội. Ông vẫn tiếp tục cần mẫn
trên con đƣờng văn chƣơng bằng sự xuất hiện của hàng loạt những tiểu thuyết
và truyện ngắn khác gây nhiều dƣ luận của bạn đọc và những nhà nghiên cứu.
Tạ Duy Anh đã thành công ở cả tiểu thuyết và truyện ngắn. Hai thể loại này
của ông đều có những tác phẩm tạo đƣợc sự quan tâm đặc biệt của công
chúng văn học. Một số tiểu thuyết tiêu biểu của ông nhƣ: Lão Khổ, Thiên
thần sám hối, Đi tìm nhân vật, Giã biệt bóng tối...từng gây ra nhiều tranh
luận, từng là đề tài cho các cuộc hội thảo.
Trong sáng tác của Tạ Duy Anh, thể loại tiểu thuyết gần đây gây tiếng
vang nhiều hơn, nhƣng truyện ngắn là thể loại bắt đầu khẳng định tài năng
của ông. Nó cũng là thể loại mà tác giả đạt đƣợc những thành tựu đáng kể
trong nỗ lực tìm tòi đổi mới cách viết của mình. Tuy số lƣợng tập truyện ngắn
không thật nhiều nhƣng Tạ Duy Anh đã tạo đƣợc những dấu ấn quan trọng ở
thể loại này. Đã có nhiều bài viết, công trình tìm hiểu nghiên cứu tiểu thuyết
Tạ Duy Anh, nhƣng với truyện ngắn của nhà văn vẫn chƣa có một công trình
nghiên cứu nào thật đầy đủ, vì vậy cần có một công trình tìm hiểu sâu và toàn
diện hơn để đánh giá đúng vị trí và đóng góp của nhà văn ở thể loại này. Xuất

2


phát từ những lí do trên, chúng tôi lựa chọn đề tài : Thế giới nghệ thuật trong
truyện ngắn Tạ Duy Anh
2. LỊCH SỬ VẤN ĐỀ
2.1 Những đánh giá chung về sáng tác của Tạ Duy Anh
Tạ Duy Anh bắt đầu sáng tác từ năm 1980, có truyện ngắn in báo đầu
tiên năm 1981. Nhƣng phải đến năm 1989, ông đã gây chấn động văn đàn bởi
truyện ngắn Bước qua lời nguyền, nhƣ một tín hiệu của dòng văn học mới,

dòng văn học bước qua lời nguyền (Hoàng Ngọc Hiến). Tiếp đó, Tạ Duy Anh
liên tiếp cho ra một số tập truyện, trong đó nhiều truyện có tiếng vang và đã
giành đƣợc khá nhiều giải thƣởng (giải thƣởng truyện ngắn nông thôn của
Báo Văn Nghệ, Nông nghiệp và Đài tiếng nói Việt Nam; giải thƣởng truyện
ngắn của tạp chí Văn nghệ Quân đội; giải thƣởng truyện viết cho thiếu nhi của
Nhà xuất bản Kim Đồng của báo Thiếu niên Tiền phong).
Về tiểu thuyết, sau tiểu thuyết đầu tay Khúc dạo đầu (1991) trình làng
không gây đƣợc tiếng vang thì đến năm 1992 tiểu thuyết Lão Khổ đƣợc một
số nhà phê bình có uy tín đánh giá cao.Trên tạp chí Văn học số 4/1995, Hoàng
Ngọc Hiến viết: “Tạ Duy Anh Bước qua lời nguyền để đi đến Lão Khổ. Đây là
một cuốn tiểu thuyết rất quan trọng… thêm một giả thuyết văn học về bản
chất và thân phận người nông dân Việt Nam”. Năm 2002 Đi tìm nhân vật
xuất bản rồi bị thu hồi và dƣờng nhƣ điều đó lại khiến cái tên Tạ Duy Anh
đƣợc nhắc tới nhiều hơn. Khi Thiên thần sám hối ra đời (năm 2004), Giã biệt
bóng tối (năm 2007) các ý kiến khen chê lại bùng lên sôi nổi nhƣ bài viết của
Hoàng Cẩm Giang – Lý Hoài Thu "Một cách nhìn về tiểu thuyết hậu hiện
đại ở Việt Nam", Phùng Gia Thế với bài viết " Sự bế tắc của một lối viết",
“Khuynh hướng lạ hóa trong tiểu thuyết Việt Nam đương đại – một số bình
diện tiêu biểu" của Nguyễn Thành... Đã xuất hiện công trình nghiên cứu có
quy mô, đầy đặn về tiểu thuyết nhƣ cuốn sách" Phi lý hậu hiện đại và trò
chơi" tập hợp ba luận văn của ba tác giả : Cao Tố Nga - Đoàn Thanh Liêm -

3


Phạm Thị Bình, đã giới thiệu ba trong nhiều cách đọc tác phẩm Tạ Duy Anh.
Ngoài ra còn một số luận văn thạc sĩ về tác phẩm Tạ Duy Anh, có thể kể nhƣ:
Nông thôn trong sáng tác của Tạ Duy Anh của Nguyễn Thị Mai Loan,
ĐHSPHN, 2004- nghiên cứu những đổi mới của Tạ Duy Anh về mặt tƣ tƣởng
và nghệ thuật trong những sáng tác về đề tài nông thôn; Thế giới nghệ thuật

tiểu thuyết Tạ Duy Anh của Nguyễn Thị Ninh, ĐHSP Hà Nội, 2005; " Yếu tố
nghịch dị trong tiểu thuyết Tạ Duy Anh" của Võ Thị Thanh Hải (ĐHSP Hà
Nội năm 2009)...
2.2 Những ý kiến đánh giá về truyện ngắn Tạ Duy Anh
Có thể nói tên tuổi của Tạ Duy Anh bắt đầu đƣợc biết đến sau khi hai
truyện ngắn Bước qua lời nguyền và Lũ vịt trời của nhà văn đƣợc đoạt giải.
Trong báo cáo tổng kết cuộc thi, nhà thơ Hòang Minh Châu đã đánh giá rất
cao Tạ Duy Anh, coi Bước qua lời nguyền "báo hiệu một tấm lòng lớn, một
tầm nhìn xa và một tài năng trẻ viết về số phận con người". Nhà nghiên cứu
Hoàng Ngọc Hiến đã đề cao tƣ tƣởng của tác phẩm, coi đó là: " Chủ đề tư
tưởng của tương lai". Nguyên Ngọc trong bài :Văn xuôi hôm nay, logic
quanh co của thể loại, những vấn đề đặt ra và triển vọng cho rằng: "Bước
qua lời nguyền của Tạ Duy Anh gói trọn trong mười trang cả một cuộc đời,
một kiếp sống, mấy kiếp người vừa là tác giả, vừa là nạn nhân của những bi
kịch xã hội đằng đẵng một thời”. Những nhận xét trên đây dƣờng nhƣ đã
đúng khi tiên đoán về sự xuất hiện của một tài năng sau một loạt những sáng
tác có giá trị của ông ra đời. Hoàng Ngọc Hiến trong bài bình luận đăng trên
báo Nông nghiệp, số 50, tháng 12/1989 đã đi đến khái quát: “Đọc truyện của
Tạ Duy Anh, một câu hỏi được đặt ra: giã từ thế kỉ XX bão táp và máu lửa
này và chuẩn bị bước vào thế kỉ XXI “lí trí và nhân bản”, những lời nguyền
nào là đáng nguyền rủa, những lời nguyền nào nhân loại trước sau phải bước
qua? Phải chăng truyện ngắn Tạ Duy Anh là tín hiệu của một dòng văn học
mới, dòng văn học “Bước qua lời nguyền”?

4


Ngoài những bài phê bình của nhà nghiên cứu thì truyện ngắn Tạ Duy
Anh còn trở thành đề tài của một số luận văn khoa học:" Đặc điểm truyện
ngắn Tạ Duy Anh " của Nguyễn Thị Phƣơng Thảo ĐH Vinh năm 2010; Khóa

luận :“Nghệ thuật trần thuật trong truyện ngắn chọn lọc của Tạ Duy Anh”
của Lê Thị Thanh Loan năm 2006. Khóa luận tốt nghiệp: Tạ Duy Anh- Từ
quan niệm nghệ thuật đến những đổi mới trong sáng tác của Nguyễn Thị
Hƣơng ĐH Sƣ phạm Hà Nội năm 2008.
Qua khảo sát cho thấy, dù đƣợc viết ra trong những mục đích khác nhau
nhƣng xuyên suốt các bài viết, bài nghiên cứu phê bình, luận văn các tác giả
đều thống nhất khi xác nhận những nỗ lực của Tạ Duy Anh trong việc đổi mới
văn xuôi đặc biệt là những thành công trong tiểu thuyết. Tuy nhiên, riêng về
mảng truyện ngắn, mặc dù một số truyện đƣợc các nhà phê bình đánh giá cao,
nhƣng chƣa có công trình nào nghiên cứu một cách toàn diện ngoại trừ một số
khóa luận, luận văn đi vào tiếp cận một số mặt, một số bình diện . Vì vậy ở
luận văn này chúng tôi muốn tiếp cận truyện ngắn của Tạ Duy Anh ở phƣơng
diện thế giới nghệ thuật để có cái nhìn bao quát, toàn diện, đặc sắc nhất trong
thế giới nghệ thuật của ông.
3. ĐỐI TƢỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU
3.1 Đối tƣợng nghiên cứu
Đề tài tập trung tìm hiểu toàn bộ truyện ngắn Tạ Duy Anh gồm hơn
mƣời tập truyện. Trong đó chủ yếu là các truyện ngắn đƣợc in trong tuyển
tập: Truyện ngắn chọn lọc Tạ Duy Anh và Người khác.
Trong quá trình nghiên cứu có đối chiếu với tiểu thuyết của Tạ Duy Anh
và truyện ngắn của một số tác giả khác.
3.2. Phạm vi nghiên cứu:
Đối tƣợng nghiên cứu của chúng tôi trong đề tài này là thế giới nghệ thuật
trong truyện ngắn Tạ Duy Anh đƣợc thể hiện qua các phƣơng diện: Thế giới
nhân vật, Không gian, thời gian nghệ thuật và một số phƣơng diện nghệ thuật

5


đặc sắc, từ đó khẳng định vị trí, những đóng góp của Tạ Duy Anh với truyện

ngắn đƣơng đại.
4. PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Để đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ nghiên cứu chúng tôi sử dụng một số
phƣơng pháp nghiên cứu sau:
- Phƣơng pháp phân tích: Đi vào thế giới nghệ thuật của tác giả, luận văn
sử dụng phƣơng pháp phân tích tác phẩm để tìm ra đặc điểm riêng, giá trị, ý
nghĩa của tác phẩm ở các cấp độ khác nhau, từ đó làm sáng tỏ những luận
điểm của luận văn.
- Phƣơng pháp hệ thống: Từ phân tích cụ thể coi sáng tác Tạ Duy Anh nhƣ
một hệ thống từ đó khái quát đặc điểm truyện ngắn Tạ Duy Anh trên các phƣơng
diện
- Phƣơng pháp so sánh: Để khẳng định nét tiêu biểu và những nét thuộc
phong cách truyện Tạ Duy Anh chúng tôi sử dụng phƣơng pháp đối chiếu, so
sánh để thấy điểm giống và khác của ông với các nhà văn cùng thời.
Cấu trúc luận văn:
Chƣơng 1: Truyện ngắn của Tạ Duy Anh trong bức tranh chung của
truyện ngắn thời kì đổi mới
Chƣơng2: Thế giới nhân vật , không gian, thời gian nghệ thuật trong
truyện ngắn Tạ Duy Anh
Chƣơng 3: Một số phƣơng diện nghệ thuật trong thế giới nghệ thuật
truyện ngắn Tạ Duy Anh

6


CHƢƠNG 1. TRUYỆN NGẮN TẠ DUY ANH TRONG DÒNG CHẢY
TRUYỆN NGẮN THỜI KÌ ĐỔI MỚI
1.1. Truyện ngắn thời kì đổi mới
1.1.1. Bối cảnh xã hội
Lịch sử đại thắng mùa xuân 1975 đất nƣớc hoàn toàn thống nhất, cả dân

tộc bƣớc vào công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội. Tuy nhiên, sau niềm vui
chiến thắng, dân tộc ta phải đối mặt với nhiều khó khăn thử thách đó là cuộc
khủng hoảng kinh tế- xã hội cùng với cơ chế quản lý quan liêu bao cấp, bộc lộ
nhiều bất cập. Do vậy, dù đất nƣớc đã hòa bình nhƣng lại phải đối mặt với
nhiều khó khăn và thách thức mới.
Với miền Bắc, nhiệm vụ khắc phục hậu quả chiến tranh, khôi phục kinh
tế cũng phải mất một thời gian khá dài. Mặt khác, sau niềm vui chiến thắng,
con ngƣời trở về với hiện thực đời thƣờng, họ phải đối mặt với những toan
tính của cuộc sống đời thƣờng vì miếng cơm manh áo. Ở miền Nam, chính
quyền cách mạng và các đoàn thể nhanh chóng đƣợc thành lập. Các hoạt động
văn hóa, giáo dục, y tế, xã hội cũng đƣợc tiến hành khẩn trƣơng.Thời cơ của
cả hai miền Nam- Bắc đều thuận lợi để đƣa đất nƣớc đi lên, nhƣng khó khăn
và thách thức thì rất nhiều và vô cùng phức tạp. Đó là hậu quả nặng nề của hai
cuộc chiến tranh ác liệt và kéo dài, đã tàn phá hầu hết các thành phố, đô thị và
hàng nghìn xóm làng, cùng các tuyến đƣờng giao thông, bến cảng. Bên cạnh
đó, hơn hai mƣơi năm đất nƣớc bị chia cắt, đã tồn tại sự đối lập về hệ tƣ
tƣởng, chính trị và những khác biệt về kinh tế, văn hóa. Nền kinh tế vốn lạc
hậu, thấp kém lại bị chiến tranh kéo dài, làm cho chúng ta càng kiệt quệ và tụt
hậu trong khu vực. Mặt khác, chúng ta còn rơi vào tình thế khó khăn bởi
chính sách cô lập, cấm vận Việt Nam của các thế lực đế quốc thù địch, bởi sự
khủng hoảng dẫn đến tan rã của hệ thống các nƣớc xã hội chủ nghĩa và sự sụp
đổ của Liên bang Xô Viết. Thêm vào đó, nƣớc ta còn phải chịu hậu quả của

7


những chủ trƣơng, chính sách kinh kế- xã hội nặng về duy ý chí, chủ quan
nóng vội cùng với cuộc chiến tranh giải phóng đã kết thúc, nhƣng tiếng súng
vẫn nổ ra ở biên giới phía Bắc và phía Tây Nam, máu vẫn chảy ở chiến
trƣờng Campuchia.

Tất cả tình hình đó đã đẩy đất nƣớc đến cuộc khủng hoảng kinh tế - xã
hội ngày càng nặng nề ở nửa đầu những năm 80. Từ đó, đời sống của đại bộ
phận quần chúng nhân dân gặp nhiều khó khăn, nhiều lao động chƣa có việc
làm, nhiều nhu cầu chính đáng và tối thiểu về vật chất và văn hóa chƣa đƣợc
đảm bảo. Mặt khác, các hiện tƣợng tiêu cực trong xã hội phát triển, công bằng
xã hội bị vi phạm. Những hành vi lộng quyền, tham nhũng của một số cán bộ
chƣa bị trừng trị nghiêm khắc, kịp thời. Thực trạng kinh tế, xã hội đó đã làm
lay động dữ dội tƣ tƣởng, tình cảm, niềm tin của mọi tầng lớp nhân dân, đúng
nhƣ nhận xét của nhà văn Nguyễn Khải: “Chiến tranh ồn ào, náo động mà lại
có cái yên tĩnh, giản dị của nó. Hòa bình yên tĩnh, thanh bình mà lại chứa
chấp những sóng ngầm, những gió xoáy bên trong”.[48;34]. Có thể nói, bối
cảnh lịch sử xã hội đất nƣớc sau hòa bình có nhiều phức tạp. Điều này đã tác
động không nhỏ đến nền văn học nƣớc nhà, đó là điều kiện thuận lợi cho các
nhà văn mở rông đề tài, đề cập đến nhiều vấn đề của đời sống hiện thực.
Mặt khác, bƣớc sang thế kỉ XXI, chúng ta có điều kiện để mở rộng giao
lƣu và hội nhập thế giới. Đúng với tinh thần “hòa nhập nhưng không hòa
tan”, nền văn hóa của ta đã tiếp thu có chọn lọc tinh hoa văn hóa nhân loại
đồng thời kết hợp hài hòa văn hóa truyền thống tạo nên một nền văn hóa tiên
tiến tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Vì vậy, nền văn hóa Việt Nam cũng ngày
một khởi sắc. Môi trƣờng văn hóa mở rộng đó chính là mảnh đất thuận lợi để
thúc đẩy văn học phát triển và thay đổi diện mạo. Sự phát triển mạnh mẽ của
khoa học kĩ thuật và công nghệ thông tin, đặc biệt sự ra đời của Internet đã đi
vào đời sống văn học làm rút ngắn khoảng cách giữa nhà văn và bạn đọc.
1.1.2. Sự phát triển của văn xuôi

8


Ở nội dung này chúng tôi đi vào tìm hiểu sự phát triển của văn xuôi giai
đoạn từ sau 1975 để từ đó có cái nhìn tổng thể, toàn vẹn truyện ngắn trong

giai đoạn này.
Trong bối cảnh đất nƣớc nhƣ đã nói ở trên, khoảng mƣời năm đầu sau
chiến tranh nền văn học bị chững lại do không tìm đƣợc định hƣớng. Nhiều
nhà văn rơi vào tình trạng hoang mang, bối rối, vì không tìm thấy phƣơng
hƣớng sáng tác. Trong tình hình chung đó, những nhà văn mẫn cảm với sự đổi
thay của đời sống xã hội đã có một số tìm tòi đổi mới, từ đó nền văn xuôi đã
bớt dần cảm hứng sử thi để chuyển mối quan tâm sang các vấn đề thế sự
thƣờng ngày. Dấu hiệu đó có thể nhận ra ở những sáng tác của Nguyễn Minh
Châu, Nguyễn Khải, Ma Văn Kháng, Dƣơng Thu Hƣơng… ở nửa đầu những
năm 80.
Văn xuôi thời kì đổi mới hình thành nhiều khuynh hƣớng khác nhau.
Khuynh hƣớng sử thi tiếp tục mạch chảy của nó trong sáng tác của nhiều nhà
văn, đặc biệt là đội ngũ nhà văn trƣởng thành trong kháng chiến. Tuy nhiên,
do bối cảnh xã hội đã thay đổi, càng về sau khuynh hƣớng sử thi càng co hẹp
lại, nhƣờng chỗ cho khuynh hƣớng thế sự. Lúc này, văn xuôi thực sự bƣớc
sang địa hạt của những vấn đề trong cuộc sống thƣờng nhật. Đứng trƣớc hiện
thực mới này đòi hỏi ngƣời nghệ sĩ phải thay đổi cách nhìn nhận, tiếp cận đời
sống. Nếu trong chiến tranh, mọi việc đều đƣợc nhận thức theo một chiều (
trắng- đen; tốt- xấu), ngay cả việc đánh giá con ngƣời cũng thông qua những
chuẩn mực chung của toàn dân tộc thì trong hòa bình con ngƣời cần phải xây
dựng những chuẩn mực mới. Trên mảnh đất sôi động của cuộc sống hiện thực
sau chiến tranh, văn xuôi có nhiều điều kiện để phát triển. Nguyễn Khải viết:
Tôi thích cái hôm nay, cái hôm nay ngổn ngang bề bộn, bóng tối và ánh sáng,
màu đỏ và màu đen, đầy rẫy những biến động, những bất ngờ, mới thật là một
mảnh đất phì nhiêu cho các cây bút thả sức khai vỡ [48;74,75]. Trong ngổn
ngang hiện thực đó, nổi lên những vấn đề đƣợc nhiều cây bút quan tâm nhƣ:

9



đạo đức xã hội, tiêu cực trong quản lí sản xuất, nhận thức lại những vấn đề
trong quá khứ. Những năm sau chiến tranh, xã hội bắt đầu tỏ rõ sự trì trệ, yếu
kém và có phần bế tắc. Những vấn đề bức xúc của đời sống kinh tế xã hội thời
kì khủng hoảng cũng là mảng hiện thực nóng bỏng đƣợc văn học nhìn lai,
phơi bày. Cảm hứng thế sự đời tƣ trong văn xuôi có khả năng đi sâu vào ngõ
ngách tâm hồn con ngƣời, suy nghĩ cặn kẽ về các trạng thái nhân thế, nhất là
trong hoàn cảnh một xã hội từ trong chiến tranh ba mƣơi năm bƣớc sang cuộc
sống hòa bình đầy phức tạp và thử thách. Con ngƣời đời thƣờng đƣợc miêu tả
sâu sắc, các tác phẩm văn xuôi đã tập trung miêu tả những con ngƣời bất hạnh
với những bi kịch trong cuộc đời họ.
Bƣớc sang thời kì đổi mới, khuynh hƣớng nhận thức lại đƣợc phát triển
mạnh mẽ trong văn chƣơng. Đáp ứng chủ trƣơng của Đảng là nhìn thẳng vào
sự thật, nhiều cây bút đã nhìn lại hiện thực của giai đoạn đã qua, phơi bày
những mặt trái còn khuất lấp, lên án những thế lực, tƣ tƣởng, thói quen làm
cản trở sự đi lên của xã hội. Bên cạnh cảm hứng phê phán trong giai đoạn
này, ở một số cây bút còn xuất hiện cảm hứng bi kịch, những đau xót trƣớc
số phận con ngƣời trƣớc hoàn cảnh lịch sử, xã hội đó. Các tác phẩm đều tập
trung và việc nhận thức lại quan hệ giữa cá nhân và xã hội, giữa con ngƣời và
hoàn cảnh, nhƣng quan trọng hơn cả là con ngƣời tự nhận thức lại chính mình
Võ Văn Trực từng viết: “Viết lại chuyện cũ, tôi hoàn toàn không có ý đồ xấu
xa moi móc những sai lầm chúng ta vấp phải để rồi đổ lỗi cho người này hay
người kia mà cốt để chúng ta đừng lặp lại những sai lầm ấy” [79;5]. Có thể
nói trên lối đi mới này, các nhà văn đã đem lại cho bạn đọc những kiến giải
thú vị, có khả năng thanh lọc tâm hồn con ngƣời. Từ sự phản ánh hiện thực
đó, nhiều cây bút đã nâng lên thành sự nghiền ngẫm, lí giải hiện thực, đề xuất
những tƣ tƣởng mới, cách nhìn mới, đó chính là sự gia tăng yếu tố triết luận
trong nhiều sáng tác của giai đoạn này.

10



Có thể nói, văn xuôi thế sự, đời tƣ đã phần nào đáp ứng yêu cầu phân
tích, lý giải, suy tƣ về con ngƣời, xã hội một thời đầy biến động. Đây là một
bƣớc phát triển của văn xuôi phù hợp với yêu cầu của hiện thực, của đối
tƣợng phản ánh. Do vậy văn xuôi sau 75 cũng gặt hái đƣợc những thành tựu
đáng kể
1.1.3. Sự phát triển của truyện ngắn thời kì đổi mới
Cùng với sự lên ngôi của thể loại tiểu thuyết trong văn xuôi Việt Nam
trong những năm đầu đổi mới thì truyện ngắn cũng nở rộ. Đây là thể loại mà
đặc điểm của nó đòi hỏi một sự khái quát cao độ đối với hiện thực. Nằm trong
mạch vận động chung của văn xuôi thời kì đổi mới, truyện ngắn đã có sự
chuyển đổi trên các phƣơng diện sau:
1.1.3.1.Sự chuyển đổi trong quan niệm nghệ thuật về hiện thực và con
người
Sau chiến tranh, tình hình xã hội đã biến đổi, điều đó kéo theo sự thay
đổi cái nhìn hiện thực trong truyện ngắn: “Cuộc sống được phản ánh trong
tác phẩm không chỉ là cái phần anh hùng cao cả mà còn thấm thía nỗi buồn
của con người thời hậu chiến, là cuộc sống với tất cả cái phần sôi động quyết
liệt của cuộc đấu tranh cũng như cái đời thường vừa nhân hậu ấm áp, vừa
nhếch nhác lấm lem” [56;13]. Nhƣ vậy văn chƣơng đã mở rộng biên độ của
sự phản ánh hiện thực, không chỉ là hiện thực cuộc sống sau chiến tranh mà
còn là hiện thực về cuộc sống của một cá nhân, một gia đình, một dòng họ,
với những mặt trái của đời sống xã hội, kinh tế thị trƣờng. Sự đổi mới trong
phản ánh hiện thực này đã giúp nhà văn có cái nhìn toàn vẹn hơn, chân thực
hơn. Truyện ngắn vƣợt qua tình trạng bị lệ thuộc vào đề tài, vào cái nhìn đã
định trƣớc để mở ra khả năng phong phú vô tận trong việc khám phá và thể
hiện đời sống. Nhà văn có thể đi đến những miền khuất, những mặt trái của
đời sống, đến với chiều sâu tâm tƣởng, tâm linh của con ngƣời. Những nơi mà
trƣớc đây họ ít có điều kiện để khai vỡ. Để phản ánh hiện thực đời thƣờng,


11


văn học giai đoạn này đã lấy những con ngƣời, những sự việc bình thƣờng
làm tiêu điểm. Truyện ngắn giai đoạn này, cũng hƣớng vào “những vui buồn
của đời người, là sự chiêm nghiệm về những gì được mất, là hồi ức về quá
khứ và dự cảm về tương lai, là trầm tư về lẽ tồn vong của con người trong
mối quan hệ xã hội, tự nhiên và vũ trụ”. [76 ;61]
Truyện ngắn Việt Nam thời kì đổi mới đã đối mặt với biết bao khó khăn,
thử thách với sự phức tạp bộn bề của cuộc sống thời hậu chiến đang diễn ra
theo nhiều chiều, nhiều hƣớng. Thực tế đó đã đòi hỏi phải có những tiếng nói
thể hiện nhu cầu phong phú, đa dạng, phức tạp trong đời sống tinh thần của
con ngƣời. Từ tâm lí tình cảm, đời sống riêng tƣ của từng cá nhân đến khát
vọng vƣơn tới trong xu hƣớng phát triển của xã hội Việt Nam thời hiện đại.
Tất cả những biểu hiện con ngƣời trong đời sống từ lĩnh vực kinh tế đến chính
trị, từ đạo đức xã hội đến phong tục tập quán, đến tình yêu hạnh phúc, đời
sống tâm linh đƣợc các nhà văn tập trung thể hiện. Vì vậy, từ một nền văn học
phản ánh con ngƣời trong mối quan hệ với cộng đồng, mang trong mình phẩm
chất anh hùng, kết tinh vẻ đẹp, sức mạnh của cộng đồng thì giờ đây truyện
ngắn đã thể hiện sự đổi mới trong cách thể hiện con ngƣời cụ thể là:
Thứ nhất : “Từ bỏ cách nhìn giản đơn, phiếm diện một chiều về con
người để đi đến cái nhìn con người trong tính phức tạp, đa chiều, luôn biến
động và khó nắm bắt” [55; 187]. Văn học trƣớc năm 1975 thƣờng có cái nhìn
về con ngƣời chia theo hai tuyến: thiện- ác, tốt- xấu, tiên tiến- lạc hậu,… đó là
cách nhìn con ngƣời mang tính tĩnh tại không có sự vận động, biến đổi. Đến
truyện ngắn thời kì đổi mới lại có cái nhìn mới đó là con ngƣời“ bất toàn”với
sự phức tạp, trong sự đan xen và xung đột giữa“ ánh sáng và bóng tối”, “rồng
phƣợng

lẫn


rắn

rết”,

“thiên

thần

lẫn

ác

quỷ”.

Thứ hai: Con người như một thực thể tự nhiên, con người trong tính cá thể
đơn nhất và trong tính nhân loại phổ quát [55;187]. Với sự đổi mới này,
truyện ngắn đã đề cao con ngƣời cá nhân, mỗi cá nhân là một thực thể xã hội

12


và có quan hệ xã hội nhất định nhƣng không vì vậy mà có thể quy tất cả vào
những “ mẫu số chung”. Giá trị con ngƣời đƣợc đo bằng chính nhân cách của
họ.Từ việc đề cao con ngƣời cá nhân, truyện ngắn sau 75 quan tâm đến con
ngƣời bản năng, đó là con ngƣời tự nhiên, có khi chống lại con ngƣời đạo lý,
tiếng nói của bản năng có khi mạnh hơn lý trí. Trong nội dung này của truyện
ngắn sau đổi mới đã đế cập đến phần tự nhiên, phần bản năng của con ngƣời
mà trƣớc đây văn học thƣờng bỏ qua và coi là thấp kém thì đến nay lại trở
thành một phần quan trọng trong quan niệm nghệ thuật về con ngƣời. Thứ ba:

con người không chỉ được biểu hiện ở ý thức, tư tưởng, mà còn được khám
phá cả trong chiều sâu tiềm thức, vô thức, tâm linh [55;187]. Truyện ngắn
thời kì đổi mới đã đi sâu vào vùng chập chờn giữa ý thức và vô thức, vùng bí
ẩn của tâm linh. Con ngƣời tâm linh thƣờng hƣớng về những sức mạnh bí ẩn,
những đối tƣợng siêu thực ít hiện hữu và khó giải thích. Sự khám phá vào thế
giới này đã dẫn đến những phƣơng thức biểu đạt mới nhƣ: dòng ý thức, huyền
ảo trong các sáng tác của những cây bút trẻ: Tạ Duy Anh, Hồ Anh Thái,
Nguyễn Bình Phƣơng… Khám phá con ngƣời tiềm thức, vô thức, tâm linh là
đóng góp mới của truyện ngắn sau 1975, khẳng định cái nhìn đa chiều, giàu ý
nghĩa nhân bản về con ngƣời. Nội dung cuối cùng của sự đổi mới quan niệm
nghệ thuật về con ngƣời đó là sự đổi mới về mối quan hệ giữa con người và
hoàn cảnh. Theo PGS Nguyễn Văn Long: “giờ đây, trong các tác phẩm văn
xuôi hình thành một nhận thức khá phổ biến ở nhiều tác giả về những giới hạn
của khả năng con người, về sự chi phối nghiệt ngã của hoàn cảnh đến tính
cách và số phận của con người”[55; 203]. Nếu thời kì trƣớc đổi mới, văn học
luôn luôn đề cao khả năng của con ngƣời, luôn cho rằng con ngƣời có thể làm
chủ hoàn cảnh, luôn khắc phục hoàn cảnh thì giờ đây lại cho thấy con ngƣời dù
có sức mạnh của ý trí, nghị lực thì đôi khi con ngƣời cũng yếu đuối, bất lực
trƣớc hoàn cảnh. Nói nhƣ vậy để chúng ta có cái nhìn đúng đắn về sức mạnh,

13


khả năng của con ngƣời từ đó có hiểu biết thấu đáo và cảm thông với con
ngƣời trong nhiều hoàn cảnh.
1.1.3.2. Sự đổi mới về cốt truyện, nghệ thuật trần thuật và ngôn ngữ
* Cốt truyện: Có vai trò quan trọng trong truyện ngắn nói riêng và văn
xuôi nói chung, đặc biệt trong văn xuôi trƣớc đổi mới. Nhƣng sau 1975 thì cốt
truyện không còn đóng vai trò chủ đạo nữa vì truyện ngắn thời kì này đi sâu
vào những tình huống đời thƣờng, khám phá chiều sâu tâm hồn con ngƣời. Ở

đó những bƣớc ngoặt của trạng thái cảm xúc, những xung đột nội tâm đã trở
thành yếu tố thúc đẩy cốt truyện. Nhƣ vậy, truyện ngắn sau 1975 có khuynh
hƣớng tự nới rộng, tự vƣợt thoát khung thể loại . Nó phong phú hơn trong
hình thức diễn đạt, đa dạng hơn ở nội dung phản ánh và tự do hơn trong cách
thức dựng chuyện. Có những cốt truyện giàu kịch tính, có cốt truyện giàu tâm
trạng và có cốt truyện kết cấu rõ ràng, cũng có kết cấu lỏng lẻo, lắp ghép với
kết thúc mở.
* Sự đổi mới ở phƣơng diện trần thuật: Sự đổi mới về nghệ thuật trần
thuật là dấu hiệu quan trọng trong sự đổi mới của văn xuôi nói chung và
truyện ngắn nói riêng. Truyện ngắn sau 1975, đã thể hiện sự biến đổi linh hoạt
nghệ thuật trần thuật. Thứ nhất: đó là sự trần thuật từ nhiều điểm nhìn, nhiều
góc độ hay trần thuật nhập vai. Vai trò phát ngôn đƣợc trao cho nhiều ngƣời,
nhiều đối tƣợng trong tác phẩm. Trƣớc một vấn đề, một sự việc nào đó, vì
đƣợc soi rọi bằng nhiều điểm nhìn, nhiều góc độ nên sẽ hiện ra bằng diện
mạo, bằng hình thù khác nhau dẫn đến nhiều luồng dƣ luận, nhận xét khác
nhau thậm chí trái ngƣợc nhau do các điểm nhìn không giống nhau về tuổi
tác, nghề nghiệp, giới tính, học vấn, thói quen, sở thích,…Sự đổi mới thứ hai
của nghệ thuật trần thuật chính là trần thuật bằng dòng kí ức nội tâm, đây là
cách thuật lại qua dòng chảy kí ức ( hay dòng chảy nội tâm) của nhân vật, có
tác dụng tạo sự giao tiếp trở nên khách quan hóa để ngƣời đọc có thể khám
phá những “miền ẩn ức bên trong tâm hồn con ngƣời”.

14


* Sự đổi mới về mặt ngôn ngữ: Nhƣ chúng ta đã biết, ngôn ngữ chính
là phƣơng tiện biểu hiện của tƣ duy, vì vậy sự biến đổi của ngôn ngữ văn học
liên quan chặt chẽ đến sự biến đổi của tƣ duy văn học. Một trong những biến
đổi về mặt ngôn ngữ dễ nhận ra là sự gia tăng khẩu ngữ. Làm cho ngôn ngữ
truyện ngắn đã bớt đi phần trang trọng, chuẩn mực và chuyển sang ngôn ngữ

xuồng xã, đời thƣờng. Điều này xuất hiện nhiều trong truyện ngắn của
Nguyễn Huy Thiệp, Phạm Thị Hoài, Tạ Duy Anh… Mặt khác ngôn ngữ cũng
gia tăng tính tốc độ thông tin và triết luận. Tính tốc độ thể hiện ở cách diễn
đạt ngắn gọn, dồn nén thông tin. Ở phƣơng diện ngôn ngữ có thể thấy việc sử
dụng các thuật ngữ khoa học, chuyên ngành thậm chí cả tiếng nƣớc ngoài.
Lƣợng thông tin đạt đến mức tối đa nằm ở một thứ ngôn ngữ đa nghĩa, nhiều
ngụ ý. Mặt khác, khi sáng tác, nhà văn có khuynh hƣớng tìm kiếm ý nghĩa
triết học nhân sinh qua diễn tả đời sống cụ thể, điều đó đã làm cho tác phẩm
có ý vị triết lí. Đáp ứng yêu cầu này thì ngôn ngữ văn học cũng gia tăng tính
triết lý, khái quát.
Sự biến đổi về ngôn ngữ đi liền với sự biến đổi về giọng điệu. Truyện
ngắn sau 75 đã xuất hiện nhiều giọng điệu đa dạng, thậm chí đối lập nhau.
Nổi lên có các giọng điệu: Giọng tỉnh táo khái quát có khi có ý lạnh lùng,
nghiệt ngã; giọng xót xa thƣơng cảm, trầm buồn; giọng suy tƣ triết lí; giọng
trào lộng, giễu nhại. Sự đa dạng của giọng điệu thể hiện qua sáng tác của Tạ
Duy Anh, Hồ Anh Thái, Phan Thị Vàng Anh, Nguyễn Huy Thiệp…
Tóm lại: Sự vận động của truyện ngắn Việt Nam giai đoạn sau 1975 là
toàn diện và sâu sắc. Sự vận động ấy đã tạo nên sự cách tân của thể loại văn
học này.
1.1.3.3. Vài nét về thành tựu đạt được của truyện ngắn
Tinh thần dân chủ của thời kỳ đổi mới đã đem đến nguồn cổ vũ lớn lao
cho các văn nghệ sĩ, họ đƣợc nhìn nhận hiện thực cuộc sống một cách thoải
mái, hƣớng ngòi bút của mình vào mọi ngõ ngách của cuộc sống, mọi số phận

15


cá nhân… điều đó tạo nên một“thời kì phong phú của các hiện tượng văn
học" (Hoàng Ngọc Hiến).
Điều kiện xã hội thuận lợi đã tạo cho truyện ngắn xuất hiện nhiều tác

phẩm gây đƣợc sự chú ý cùng nhiều tên tuổi mới. Mở đầu cho sự đổi mới của
truyện ngắn là Nguyễn Minh Châu với : Bức tranh, Chiếc thuyền ngoài xa,
Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành,… Đến Nguyễn Huy Thiệp với:
Tướng về hưu, và những truyện “giả lịch sử” (Vàng lửa, Phẩm tiết), Tạ Duy
Anh với Bước qua lời nguyền… đã khiến rất nhiều cây bút giật mình nhận ra
từ nay không thể viết như trước nữa, phải đổi thay…phải viết khác đi (
Nguyên Ngọc). Từ cuối những năm 80 và trong thập kỷ 90 có thể coi là thời kỳ
nở rộ của truyện ngắn với nhiều tên tuổi và tác phẩm có tiếng vang rộng rãi, tạo
nên một bức tranh đa sắc màu, một mùa “bội thu” của loại tự sự cỡ nhỏ này. Có
thể kể đến Nguyễn Minh Châu đƣợc coi là ngƣời mở đầu tinh anh và tài năng
với các tác phẩm: Cỏ lau, Phiên chợ Giát, Khách ở quê ra; Nguyễn Huy
Thiệp với: Tướng về hưu, Không có vua, Con gái thủy thần; Nguyễn Quang
Thiều với: Hai người đàn bà xóm trại, Mùa hoa cải bên sông; Tạ Duy Anh:
Bước qua lời nguyền, Xưa kia chị đẹp nhất làng, Vòng trầm luân trần gian
;Võ Thị Hảo với: Biển cứu rỗi, Người sót lại của rừng cười; Nguyễn Thị Thu
Huệ với Hậu thiên đường; Y Ban với Bức thư gửi mẹ âu cơ,Iam đàn bà,
Phan Thị Vàng Anh với Khi người ta trẻ; v.v.v… Chính trong không khí của
công cuộc đổi mới văn học đã tạo điều kiện thuật lợi cho sự nở rộ một loạt
những tài năng nhƣ một cuộc chạy tiếp sức của các thế hệ trong thể loại truyện
ngắn. Mở đầu là những cây bút lão thành nhƣ: Nguyễn Khải, Bùi Hiển, Ma
Văn Kháng, Nguyễn Minh Châu, …đều không hề bị xơ cứng cảm xúc theo tuổi
tác mà ngƣợc lại họ vẫn đầy nội lực để đổi mới sáng tác của mình. Lớp các
nhà văn sau chiến tranh đã kịp thời đƣợc bổ sung vào đội ngũ các cây bút viết
truyện ngắn: Nguyễn Huy Thiệp, Võ Thị Hảo, Dạ Ngân, Phạm Thị Hoài, Tạ
Duy Anh, Nguyễn Bình Phƣơng, Nguyễn Thị Thu Huệ, Phan Thị Vàng Anh,

16


Trầm Hƣơng, Võ Thị Xuân, Y.Ban…Báo Văn Nghệ và Tạp chí Văn Nghệ

Quân Đội đã tổ chức hàng chục cuộc thi sáng tác, tạo một sân chơi bổ ích góp
phần phát hiện và khẳng định nhiều tài năng mới của truyện ngắn. Một dẫn
chứng để cho thấy sức sống mạnh mẽ của thể loại truyện ngắn: Cuộc thi truyện
ngắn 2001-2002 do tạp chí Văn Nghệ Quân Đội tổ chức nhƣ một sự bức phá
ngoạn mục với số lƣợng gần 2 000 tác phẩm dự thi, có 200 tác phẩm đƣợc lƣạ
chọn và cho in liên tiếp trên các tạp chí. Trƣớc sự thành công vƣợt trội của
cuộc thi, Ban giám khảo đã nhận định: Nhân nhắc đến chuyên nghiệp, có thể
nói rõ rằng, với những chuyện ngắn được giới thiệu trên tạp chí và đoạt giải
lần này, mặt bằng truyện ngắn trong văn học đương đại Việt Nam trong một
chừng mực nào đó có thể được nâng cao một bước [74].
Truyện ngắn giai đoạn này thực sự đã gặt hái đƣợc nhiều thành công
không chỉ về số lƣợng mà cả chất lƣợng. Mỗi nhà văn bằng những trải nghiệm
của mình đang dần xác lập một hệ tiêu chí mới, cho văn học gắn bó hơn với đời
sống. Chính nhu cầu cách tân, tái tạo lại chính mình đã đƣa đến cho truyện
ngắn Việt Nam trong giai đoạn đổi mới nhiều thành tựu đáng ghi nhận. Bên
cạnh việc khám phá con ngƣời trong cái nhìn đa diện thì truyện ngắn giai
đoạn này còn tập trung nghiên cứu thực trạng tinh thần xã hội sau chiến tranhđó là một hiện thực phức tạp, đa dạng, đan xen mặt sáng, mặt tối trong đời
sống, cũng nhƣ những đổi thay tất nhiên trong nhận thức và tình cảm của con
ngƣời. Truyện ngắn đi sâu vào vấn đề cuộc sống thƣờng nhật, từ những mất
mát của ngƣời lính trong chiến tranh bƣớc ra, đến những hận thù của dòng họ,
gia tộc, sự khắc nghiệt của cái đói, cái khổ, cô đơn …
Qua những thành tựu của truyện ngắn cho thấy truyện ngắn thực sự khởi
sắc so với tiểu thuyết, các nhà văn đã có những tìm tòi nghệ thuật để làm tăng
khả năng khái quát đời sống theo chiều sâu ở thể loại này. Chính vì vậy, nhà
nghiên cứu Bùi Việt Thắng đã nhận định: “Truyện ngắn 1975-2000 giống như
cô gái có nhan sắc đến độ chín, tuy không rực rỡ nhưng đằm thắm tròn đầy.

17



Đứng ở cuối thế kỉ XX nhìn lại thành tựu văn học dân tộc, sẽ thấy một phần tư
thế kỉ cuối cùng, góp vào những tác phẩm văn học có giá trị cho kho tàng văn
hóa có truyện ngắn.”[34;341]
1.2. Tạ Duy Anh- một hiện tƣợng đáng chú ý của truyện ngắn sau
1975
Không khí đổi mới đã có sự tác động rất lớn đến nhiều nhà văn, đặc biệt
trong thời kì này đã xuất hiện nhiều phong cách truyện ngắn nổi bật nhƣ:
Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Quang Thiều, Nguyễn Huy Thiệp, Võ thị Hảo,
Nguyễn Thị Thu Huệ, Y Ban… Trong số những cây bút tài hoa phải kể đến
Tạ Duy Anh nổi lên nhƣ một hiện tƣợng mới lạ với những tìm tòi, thể nghiệm
đã tạo nên một thế giới nghệ thuật riêng trong truyện ngắn của ông.
1.2.1. Những yếu tố tạo nên thế giới nghệ thuật Tạ Duy Anh
* Thân thế: Tạ Duy Anh- tên khai sinh là Tạ Viết Đãng sinh 9/9/1959,
quê ở làng Đồng Trƣa( tên chữ là Cổ Điền, sau đổi thành An Hiền) xã Hoàng
Diệu- Chƣơng Mỹ- Hà Tây.
Ngày 17/5/1985 ông nhập ngũ và trở thành trung sĩ bộ binh ở Lào Cai.
Tháng 10/ 1987, ông xuất ngũ về làm việc tại công ty thủy điện Sông Đà.
Năm 1992, ông tốt nghiệp trƣờng viết văn Nguyễn Du với vị trí thủ khoa, ông
đƣợc giữ lại làm giảng viên tại trƣờng đến năm 2000. Năm 1993, ông trở thành
hội viên hội nhà văn Việt Nam, sáng tác với các bút danh: Chu Quý, Lão Tạ,
Quý Anh, Bình Tâm. Ông có số lƣợng tác phẩm khá phong phú: sau tập truyện
ngắn Bước qua lời nguyền(1990), đến Khúc dạo đầu (tiểu thuyết 1991), Lão
Khổ (tiểu thuyết 1992), Đi tìm nhân vật ( tiểu thuyết 1999), Bố cục hoàn hảo
(tập truyện 2004), Thiên thần sám hối (tiểu thuyết 2004), Ngẫu hứng sáng,
trưa,chiều, tối (tập tản văn 2004), Người khác ( tập truyện 1990-2007 ),
Truyện ngắn chọn lọc (2008 ) cùng gần mƣời tập sách dành cho thiếu nhi và
gần đây là cuốn tiểu thuyết Giã biệt bóng tối

18



* Hành trình đến với văn chƣơng: Ông sinh ra và lớn lên tại một làng
quê hẻo lánh, đầy thù hận, định kiến và trong một gia đình có ngƣời cha rắn
như thép. Nhƣng ông lại là một cậu bé có nhiều ƣớc mơ với một cơ thể còi cọc,
mặt mũi đen đủi, xấu xí. Từ thời thơ ấu, Tạ Duy Anh luôn bị ngƣời cha của
mình nhạo báng bởi tâm hồn đầy mơ mộng, lãng mạn của ông . Sống trong môi
trƣờng đó cho thấy ông không hề đƣợc chuẩn bị gì để trở thành một nhà văn,
và con đƣờng đến với văn chƣơng của ông nhƣ một định mệnh. Bằng chính
những nỗ lực của bản thân ông đã vƣợt qua những rào cản của địa phƣơng, gia
đình trở thành cậu tú tài đầu tiên của làng Đồng và tiến xa hơn nữa sau này ông
trở thành một nhà văn tài năng.
Lớn lên trong hoàn cảnh ấy, Tạ Duy Anh đã sớm trở thành một cậu bé cô
đơn ngay trên chính quê hƣơng, gia đình mình. Chính vì vậy, cậu bé Tạ Duy
Anh đã sớm từ bỏ thế giới hồn nhiên của trẻ thơ và luôn sống trong thế giới
nội tâm của mình: “Tôi biến thân xác của tôi thành cái vỏ ốc để bao bọc tòa
lâu đài tôi xây bằng trí tưởng tượng. Và chỉ khi lọt thỏm trong thế giới của
tôi, tôi mới không thấy sợ đủ thứ, không bị ai chòng ghẹo, nhạo báng, vô hiệu
hóa mọi ngăn cấm của cha tôi. Tôi hoàn toàn tự do trong vương quốc do tôi
tạo ra” [13;3]. Với một trái tim đầy nhạy cảm và trí tƣởng tƣợng bay bổng,
Tạ Duy Anh luôn tƣởng tƣợng ra một cô bạn gái để đƣợc đối thoại, giãi bày.
Nhờ đó, ông có thể bộc lộ đƣợc tâm tƣ, tình cảm để vƣợt qua sự cô đơn lạc
lõng của mình. Nhờ vào các cuộc đối thoại qua trí tƣởng tƣợng của mình, nó
đã vô tình mở ra cánh cửa cho Tạ Duy Anh bƣớc vào thế giới văn chƣơng:
“đó là những cuộc đối thoại được nối với nhau bằng những sợi tơ ngũ sắc,
toàn những lời có cánh, thấm đẫm niềm say mê và tinh thần sả thân. Đó là sự
hiến mình của tôi cho cái sau này, tôi ý thức rõ ràng nó là văn chương nghệ
thuật” [13;5] . Khi nói về con đƣờng đến với văn chƣơng, ông đã tâm sự với
bạn đọc: Tôi không được chuẩn bị mảy may để trở thành nhà văn. Trừ cụ nội
bốn đời của tôi có ít chữ nghĩa nhưng lánh tục, còn lại tôi không được thừa


19


hưởng truyền thống văn chương như mọi người thường hỏi tôi về điều đó.
Thậm chí tôi còn thừa hưởng cái không ai muốn đó là sự thất học [13;15].
Cách nói cƣờng điệu đó để khẳng định những thành công đạt đƣợc của ông
không hề thuận lợi. Qua những dòng tâm tƣ của ông, ta hiểu hơn về sự nỗ lực
không mệt mỏi của Tạ Duy Anh, chính những điều đó tạo tiền đề hun đúc lên
một tài năng văn chƣơng sau này.
* Quan niệm văn chƣơng: Tạ Duy Anh có một bút lực dồi dào, với một
quan niệm sáng tác rất nghiêm túc, ông đã rất dị ứng với những kiểu văn nghệ
sĩ luôn kêu ca rằng trí thức Việt Nam chưa được đãi ngộ xứng đáng. Ông coi
sáng tác văn chƣơng là một nghề, vì vậy trong quá trình viết luôn luôn phải
tỉnh táo, cẩn thận gọt rũa:“viết văn đương nhiên là một nghề, nó đòi hỏi
chuyên môn sáng tác mang tính chuyên nghiệp cao… khi viết dù là bài báo,
tôi cũng chú ý từng chữ một” [80]. Ông luôn đề cao tính nghiêm túc trong
việc sáng tác văn chƣơng “Bất cứ một sự buông thả nào đều phải trả giá
ngay” [80]. Tuy không dung nạp sự cẩu thả trong văn chƣơng, nhƣng Tạ Duy
Anh vẫn đề cao sự phóng túng trong cách viết, đó là sự phóng túng về tƣ
tƣởng, phóng túng trong sử dụng ngôn ngữ, trong trí tƣởng tƣợng. Sự phóng
túng này thuộc về năng khiếu đặc biệt của nhà văn.
Với một quan niệm sáng tác nghiêm túc nhƣ vậy nên Tạ Duy Anh đã
luôn đánh giá cao sự khổ luyện và thử thách ở bất cứ ngƣời viết trẻ nào trong
quá trình sáng tạo nghệ thuật: “Tôi cầu cho những người mà tôi hi vọng cứ
vật vã thêm nữa trong im lặng, cô đơn và trong thất bại trước khi đủ bản lĩnh
nghe những lời khen xứng đáng”. Chính vì vậy, Tạ Duy Anh đã tự biến mình
thành Lão Khổ trong văn chƣơng, tiếp tục cần mẫn trên cánh đồng chữ nghĩa
để cho ra đời những tác phẩm gây sốc cho bạn đọc. Sau thành công đầu tiên
Tạ Duy Anh đã không hề thỏa mãn vì những lời khen giống nhƣ nhiều cây bút
trẻ khác, ông tiếp tục sáng tác với hơn 10 tập truyện ngắn, 4 tiểu thuyết, và

một tập tản văn trong 20 năm cầm bút.

20


×