Tải bản đầy đủ (.doc) (12 trang)

Đánh giá những thành tích và các tồn tại trong hoạt động đầu tư nước ngoài tại việt nam trong thời gian qua

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (141.52 KB, 12 trang )

Mở đầu
Đại hội Đảng lần thứ VI năm 1986 đã đề ra đường lối đổi mới toàn diện và sâu
sắc mọi lĩnh vực của nền kinh tế. Sự nghiệp đổi mới của Việt Nam được tiến hành
trong bối cảnh quốc tế có nhiều thay đổi sâu sắc và một cục diện, trật tự thế giới
mới đang hình thành, trong đó các nước có chế độ chính trị khác nhau vừa đấu
tranh vừa hợp tác với nhau. Đảng đã nhận thức rõ rằng bối cảnh đó là điều kiện để
chúng ta phát triển đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ và rộng mở.
Đại hội Đảng lần thứ VII (năm 1991) đã xác định rõ chủ trương “độc lập tự chủ,
đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ đối ngoại” với phương châm “Việt Nam
muốn làm bạn với tất cả các nước trong cộng đồng quốc tế, phấn đấu vì hòa bình,
độc lập và phát triển”, đánh dấu bước khởi đầu tiến trình hội nhập trong giai đoạn
mới của nước ta. Thực hiện chủ trương này, Việt Nam đã không ngừng mở rộng
quan hệ hợp tác kinh tế đối ngoại song phương và đa phương với nhiều đối tác,
dưới nhiều hình thức, trên nhiều lĩnh vực (trao đổi hàng hóa, đầu tư sản xuất, mở
rộng quan hệ tài chính - tín dụng, hợp tác khoa học kỹ thuật), tạo ra môi trường
kinh doanh trong nước thuận lợi và khai thác hiệu quả các nguồn lực bên ngoài
phục vụ cho quá trình phát triển kinh tế - xã hội và hội nhập quốc tế của đất nước.
Trong đó hoạt động đầu tư nước ngoài là một phần rất quan trọng, là một nhân tố
quyết định để tái cơ cấu nền kinh tế và tăng sức cạnh tranh quốc gia. Do đó nên em
xin trình bày chuyên đề: “Đánh giá những thành tích và các tồn tại trong hoạt động
đầu tư nước ngoài tại Việt Nam trong thời gian qua”. Chuyên đề sẽ đi sâu vào
nghiên cứu từ cơ sở lý luận cho đến thực tiễn, các thành tích cũng như vấn đề còn
tồn tại và hướng giải quyết của hoạt động đầu tư nước ngoài từ đó đem đến một cái
nhìn toàn diện về hoạt động này. Chuyên đề gồm ba phần:
- Chương 1: Cơ sở lý luận của đầu tư và đầu tư nước ngoài
- Chương 2: Đánh giá thực trạng hoạt động đầu tư nước ngoài
- Chương 3: Kết quả nghiên cứu
Sau đây em xin được trình bày chuyên đề:


Nội dung


Chương 1: Cơ sở lý luận của đầu tư và đầu tư nước ngoài
1. Kinh tế học quốc tế:
1.1 Khái niệm:
Kinh tế quốc tế là môn khoa học nghiên cứu những vấn đề về phân
phối và sử dụng các nguồn lực, tài nguyên giữa các quốc gia, các nền
kinh tế thông qua việc trao đổi hàng hoá hữu hình và vô hình, dịch vụ,
sự vận động của các yếu tố sản xuất, chuyển đổi tiền tệ và thanh toán
giữa các nước .
1.2 Đối tượng và mục đích nghiên cứu:
Đối tượng nghiên cứu của kinh tế quốc tế chính là nền kinh tế thế
giới. Kinh tế quôc tế nghiên cứu mối quan hệ phụ thuộc lẫn nhau về
mặt kinh tế giữa các quốc gia, không những trong trạng thái tĩnh mà
còn trong trạng thái động.
Mục đích của môn học là:
- Cung cấp những kiến thức khái quát về một nền kinh tế thế giới hiện
đại.
- Cung cấp những kiến thức cơ bản về thương mại quốc tế và những
chính sách ảnh hưởng đến nó.
- Cung cấp những kiến thức cơ bản về di chuyển quốc tế các nguồn
lực.
- Cung cấp những kiến thức cơ bản về tài chính - tiền tệ quốc tế nhằm
thấy được sự vận động của thiọ trường tài chính- tiền tệ giữa các
nước.
1.3 Nội dung nghiên cứu:
Nền kinh tế thế giới theo cách tiếp cận hệ thống thì có hai bộ phận cấu
thành sau:
Các chủ thể kinh tế quốc tế, bao gồm:
- Hơn 200 nền kinh tế của các quốc gia độc lập trên toàn thế giới.
- Các công ty, doanh nghiệp đặc biệt là các công ty đa quốc gia và các công
ty xuyên quốc gia.

- Các định chế, tổ chức kinh tế, thương mại, tài chính quốc tế như: WB,
IMF, WTO, ADB, EU, APEC, ….
Các quan hệ kinh tế quốc tế, bao gồm:
- Các quan hệ về di chuyển quốc tế hàng hóa và dịch vụ.
- Các quan hệ về di chuyển quốc tế tư bản.


- Các quan hệ về di chuyển quốc tế sức lao động.
- Các quan hệ về di chuyển quốc tế tài chính - tiền tệ.
Từ cách tiếp cận trên nên môn học này tập trung vào nghiên cứu các
nội dung chính như sau:
- Thương mại quốc tế (hàng hóa và dịch vụ).
- Đầu tư quốc tế.
- Nguồn nhân lực quốc tế.
- Liên kết và hội nhập kinh tế quốc tế.
2. Đầu tư quốc tế:
2.1 Khái niệm:
Đầu tư quốc tế là một quá trình trong đó có sự di chuyển vốn từ quốc gia
này sang quốc gia khác, dưới hình thức bằng tiền, tài sản hữu hình hoặc vô
hình để thực hiện các dự án đầu tư nhằm đưa lại lợi ích cho các bên tham
gia.
2.2 Các hình thức của đầu tư quốc tế:
2.2.1 Đầu tư trực tiếp (FDI):
FDI (foreign direct investment) là phương thức đầu tư mà trong đó
chủ đầu tư trực tiếp tham gia quản lý vốn đã bỏ ra. Đầu tư trực tiếp nước
ngoài là hình thức đầu tư nước ngoài được thực hiện khi quyền sử dụng gắn
liền với quyền sở hữu đối với tài sản đầu tư.
2.2.2 Đầu tư gián tiếp (portfolio investment):
Là phương thức đầu tư trong đó chủ đầu tư không trực tiếp tham gia
quản lý vốn đã bỏ ra. Đặc điểm của hình thức này là người bỏ vốn luôn có

lợi nhuận do thu lãi suất cho vay trong mọi tình huống về kết quả đầu tư, dù
lãi, dù lỗ đều không chịu trách nhiệm pháp lý. Chỉ có nhà quản trị và sử
dụng vốn là người chịu trách nhiệm pháp lý về kết quả đầu tư.
2.2.3 Tín dụng thương mại quốc tế:
Là khoản tiền được các Tổ chức quốc tế hoặc chính phủ của các
nước trợ giúp nhằm thúc đẩy phát triển kinh tế, văn hóa, giáo dục và bảo vệ
môi trường. Các khoản tín dụng thương mại quốc tế gồm: các khoản hỗ trợ
phát triển chính thức, viện trợ chính thức và các khoản viện trợ khác.

Chương 2: Đánh giá thực trạng hoạt động đầu tư nước
ngoài
Thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) luôn là một hoạt động kinh tế đối ngoại
quan trọng của Việt Nam. Không chỉ có nhiều lợi thế và môi trường đầu tư hấp


dẫn, Việt Nam còn đang nỗ lực viết tiếp câu chuyện thành công trong thu hút FDI
bằng cam kết mạnh mẽ cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh, coi khu vực doanh
nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài là bộ phận quan trọng cấu thành của nền kinh tế,
đồng thời xem FDI là một nhân tố quyết định để tái cơ cấu nền kinh tế và tăng sức
cạnh tranh quốc gia. Trong những năm qua, nền kinh tế nước ta gặp nhiều khó
khăn, tuy nhiên thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài đã đạt được những kết quả
đáng khích lệ, là điểm sáng trong bức tranh chung của nền kinh tế.
1. Thực trạng Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) ở Việt Nam ( số liệu lấy từ
Cục đầu tư nước ngoài- Bộ kế hoạch và đầu tư):
Kể từ khi có Luật đầu tư trực tiếp nước ngoài có hiệu lực năm 1988, dòng
vốn FDI luôn là động lực quan trọng trong quá trình phát triển kinh tế xã hội
của nước ta. Khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài (FDI) luôn phát triển
năng động. Trong 25 năm từ 1988-2013, tổng vốn FDI đăng ký vào Việt
Nam đạt khoảng 218,8 tỷ USD, tổng vốn thực hiện đạt 106,3 tỷ USD, lĩnh
vực công nghiệp chiếm tới gần 60%. Theo thống kê của Cục Đầu tư Nước

ngoài (Bộ Kế hoạch và Đầu tư), trong 10 tháng đầu năm 2014, các nhà đầu
tư nước ngoài đã đăng ký đầu tư vào Việt Nam 13,7 tỷ USD, bằng 71,2% so
với cùng kỳ 2013. Như vậy, tỷ lệ đầu tư nước ngoài vào Việt Nam đang có
chiều hướng giảm nhẹ so với thời điểm Việt Nam đạt kỷ lục về thu hút đầu
tư nước ngoài (vượt mốc 20 tỷ USD).
Về tiến độ giải ngân, FDI giai đoạn 2000-2005 có giá trị đăng ký thấp,
nhưng tỷ trọng giải ngân khá cao (69%) trong khi đó giai đoạn 2006-2008 có
mức đăng ký cao, giá trị giải ngân tuyệt đối cũng cao nhưng tỷ trọng giải
ngân so với đăng ký lại rất thấp (25%). Điều này là do giai đoạn 2000-2005,
Việt Nam đang tích cực thực hiện chính sách thu hút FDI, mở cửa, hội nhập
kinh tế quốc tế, nên giai đoạn này, FDI chủ yếu tập trung vào các ngành
thương nghiệp, công nghiệp nhẹ. Đây là những ngành có thể giải ngân
nhanh. Thời kỳ 2006-2008, Việt Nam đã trở thành thành viên của Tổ chức
thương mại thế giới, lượng vốn đăng ký rất cao, tuy nhiên lại tập trung nhiều
vào các ngành công nghiệp như xi măng, sắt thép, khiến thời gian triển khai
dự án dài, giải ngân chậm. Từ 2008 đến nay, vì nhiều nguyên nhân bên trong
như vấn đề đất đai, đền bù giải phóng mặt bằng.. và nguyên nhân bên ngoài
như cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ, thay đổi trong danh mục đầu tư…
nên mặc dù vốn cam kết cao nhưng tốc độ giải ngân lại thấp.
Tình hình hoạt động tháng 1/2015 như sau:


- Vốn thực hiện: Tính đến ngày 20/01/2015, ước tính các dự án đầu tư trực
tiếp nước ngoài đã giải ngân được 505 triệu USD, tăng 8,6 % so với cùng kỳ
năm 2014.
- Tình hình xuất, nhập khẩu: Xuất khẩu của khu vực đầu tư nước ngoài (kể
cả dầu thô) trong tháng 1 năm 2015 đạt 8,49 tỷ USD, tăng 8,2% so với cùng
kỳ năm 2014 và chiếm 66,8% kim ngạch xuất khẩu. Xuất khẩu không kể dầu
thô trong tháng 1 đạt 8,2 tỷ USD tăng 0,9% so với cùng kỳ 2014. Nhập khẩu
của khu vực đầu tư nước ngoài tính trong tháng 1 năm 2015 đạt 7,8 tỷ USD,

tăng 41,4% so với cùng kỳ năm 2014 và chiếm 57,8% kim ngạch nhập khẩu.
Tính chung trong tháng 1 năm 2015, khu vực đầu tư nước ngoài xuất siêu
690 triệu USD.
- Tình hình cấp Giấy chứng nhận đầu tư: Theo các báo cáo nhận được, tính
đến ngày 20 tháng 1 năm 2015 cả nước có 44 dự án mới được cấp GCNĐT
với tổng vốn đăng ký là 392,18 triệu USD, tăng 85,5% so với cùng kỳ năm
2014. Đến 20 tháng 01 năm 2014, có 19 lượt dự án đăng ký tăng vốn đầu tư
với tổng vốn đăng ký tăng thêm là 271,26 triệu USD, tăng 45,8 % so với
cùng kỳ năm 2014.
Tính chung trong tháng 1 năm 2015, tổng vốn đăng ký cấp mới và tăng
thêm là 663,44 triệu USD, tăng 67,1% so với cùng kỳ năm 2014.
- Theo lĩnh vực đầu tư: Trong tháng 1 năm 2015 nhà đầu tư nước ngoài đã
đầu tư vào 11 ngành lĩnh vực, trong đó lĩnh vực công nghiệp chế biến, chế
tạo là lĩnh vực thu hút được nhiều sự quan tâm của nhà đầu tư nước ngoài
với 18 dự án đầu tư đăng ký mới, tổng số vốn cấp mới và tăng thêm là
605,69 triệu USD, chiếm đến 91,3% tổng vốn đầu tư đăng ký trong tháng 1.
Lĩnh vực bán buôn bán lẻ sửa chữa đứng thứ hai với tổng vốn đầu tư đăng
ký cấp mới và tăng thêm là 30,79 triệu USD, chiếm 4,6% tổng vốn đầu tư.
Đứng thứ 3 là lĩnh vực Sản xuất phân phối điện, nước với 1 dự án đầu tư
mới và 2 dự án tăng vốn với tổng vốn đầu tư đăng ký cấp mới và tăng thêm
là 10,44 triệu USD.
- Theo đối tác đầu tư: Tháng 1 năm 2015 có 15 quốc gia và vùng lãnh thổ có
dự án đầu tư tại Việt Nam. BritishVirginIslands dẫn đầu với tổng vốn đầu tư
đăng ký cấp mới và tăng thêm là 331,32 triệu USD, chiếm 49,9% tổng vốn
đầu tư vào Việt Nam; Hàn Quốc đứng vị trí thứ hai với tổng vốn đầu tư đăng
ký cấp mới và tăng thêm là 110,25 triệu USD, chiếm 16,6% tổng vốn đầu tư;


Hồng Kông đứng vị trí thứ 3 với tổng vốn đầu tư đăng ký cấp mới và tăng
thêm là 105,5 triệu USD, chiếm 15,9% tổng vốn đầu tư.

- Theo địa bàn đầu tư: Trong tháng 1 năm 2015 nhà đầu tư nước ngoài đã
đầu tư vào 13 tỉnh thành phố, trong đó TP Hồ Chí Minh là địa phương thu
hút nhiều vốn ĐTNN nhất với 20 cấp mới và 4 dự án điều chỉnh tăng vốn
với tổng số vốn đăng ký cấp mới và tăng thêm là 347,2 triệu USD, chiếm
52,3% tổng vốn đầu tư. Bình Dương đứng thứ 2 với tổng vốn đăng ký cấp
mới và tăng thêm là 100 triệu USD, chiếm 15,1%. Hải Phòng đứng thứ 3
với tổng số vốn đăng ký cấp mới và tăng thêm 96,72 triệu USD chiếm
14,6% tổng vốn đầu tư.
2. Đánh giá thực trạng đầu tư nước ngoài ( số liệu lấy từ Cục đầu tư nước ngoàiBộ kế hoạch và đầu tư):
Trong bối cảnh chung của kinh tế thế giới gặp nhiều khó khăn, doanh nghiệp
trong nước đứng trước nhiều thử thách chưa bao giờ có từ khi đổi mới. Khối DN
FDI với những đóng góp không nhỏ càng trở thành điểm sáng của nền kinh tế.
Theo thống kê của Cục Đầu tư nước ngoài (Bộ Kế hoạch và Đầu tư), trong 8 năm
kể từ Việt Nam chính thức gia nhập WTO, đầu tư nước ngoài (ĐTNN) vào Việt
Nam đã có sự phát triển vượt bậc, gia tăng mạnh mẽ cả về vốn thực hiện và vốn
đăng ký.
Chỉ tính riêng về tỷ trọng vốn đầu tư FDI/ tổng vốn đầu tư của nền kinh tế, vốn
FDI đã và đang có một vị thế không nhỏ. Nếu trong giai đoạn trước hội nhập (giai
đoạn 2001-2006), đầu tư nước ngoài đóng góp khoảng 16% tổng vốn đầu tư phát
triển toàn xã hội, thì giai đoạn 2007-2014, với sự gia tăng đáng kể về vốn giải
ngân, khu vực đầu tư nước ngoài có sự cải thiện về đóng góp. Cụ thể từ năm 2007
cho đến 2012, vốn FDI luôn chiếm tỷ trọng từ 21-30% trong tổng vốn đầu tư phát
triển xã hội.
Trong giai đoạn hiện nay, trước khó khăn của khối doanh nghiệp trong nước vì sự
khó khăn chung của kinh tế thế giới, vốn FDI với lợi thế chi phí vốn rẻ, có sẵn thị
trường ổn định và công nghệ cao, giá trị gia tăng cao càng phát huy được sức mạnh
của mình. Đặc biệt, trong năm 2013, FDI đã đóng góp quan trọng trong cân đối
chính sách xuất nhập khẩu và cân đối ngoại tệ.
Trong 6 tháng đầu năm 2014, tỷ trọng vốn FDI / tổng vốn đầu tư phát triển xã hội
đã đạt mức 25,1%. Đáng chú ý là liên tiếp từ năm 2013 cho đến nay, đã và đang có

nhiều dự án lớn, quy mô vốn lớn, tạo việc làm cho nguồn lao động trực tiếp tại
Việt Nam lớn và hứa hẹn thúc đẩy hơn nữa kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam ở
một số lĩnh vực, đã đăng kí bổ sung, mở rộng hoạt động dài hạn tại Việt Nam. Có


thể nói, như một nguồn lực quan trọng, vốn FDI cũng góp phần giữ nhịp tăng
trưởng cũng thể hiện sự ổn định đầu tư vào Việt Nam.
Theo số liệu lũy kế đến tháng 10 năm 2014 của Cục Đầu tư nước ngoài, hiện nay
các nhà đầu tư quốc tế đến từ 101 quốc gia và vùng lãnh thổ đã đầu tư vào Việt
Nam dưới 6 hình thức. Trong đó, hình thức đầu tư 100% vốn nước ngoài tiếp tục
chiếm ưu thế cả về số lượng dự án lẫn tổng vốn đầu tư đăng ký, vượt trội hơn hẳn
các hình thức đầu tư còn lại.
Tính lũy kế đến nay, cả nước đã thu hút được 17.219 dự án FDI còn hiệu lực với
tổng vốn đầu tư đăng ký lên tới trên 244 tỷ USD. Dẫn đầu là các dự án FDI đầu tư
dưới hình thức 100% vốn nước ngoài với 13.886 dự án, tổng vốn đầu tư đăng ký
đạt 166,35 tỷ USD (chiếm 81% tổng số dự án và 68% tổng vốn đầu tư đăng ký của
cả nước)

Hình 1: Đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam phân theo hình thức đầu tư
(lũy kế các dự án còn hiệu lực đến ngày 20/10/2014)


Hình 2: Cơ cấu vốn FDI tại Việt Nam phân theo hình thức đầu tư
(lũy kế các dự án còn hiệu lực đến ngày 20/10/2014)
Với hình thức đầu tư 100% vốn nước ngoài, quyền điều hành hoàn toàn thuộc về
chủ đầu tư nước ngoài trực tiếp (hoặc thuê người) quản lý toàn bộ và chịu trách
nhiệm hoàn toàn về kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của dự án FDI, vì vậy
tạo tâm lý thoải mái, tự chủ, không chịu sự rằng buộc cho nhà đầu tư. Có thể thấy
đây là ưu điểm lớn để hình thức này luôn chiếm ưu thế trong cơ cấu vốn FDI của
cả nước so với các hình thức đầu tư khác.

Bên cạnh những kết quả tích cực nêu trên, khu vực doanh nghiệp FDI thời gian
qua vẫn bộc lộ một số tồn tại, hạn chế, đó là:
- Thứ nhất, các doanh nghiệp FDI chủ yếu tập trung vào hoạt động gia công, lắp
ráp, nguyên vật liệu chủ yếu nhập ngoại nên giá trị gia tăng chưa cao, điển hình là
các hoạt động lắp ráp ô tô, xe máy, điện - điện tử, may mặc, da giầy, trong khi Việt
Nam là một nước có thế mạnh về nông nghiệp thì tỷ trọng vốn đầu tư của các
doanh nghiệp FDI vào SXKD ngành nông, lâm nghiệp và thủy sản rất thấp và có
xu hướng giảm dần
- Thứ hai, kỳ vọng rất lớn của Việt Nam là các doanh nghiệp FDI sẽ góp phần tích
cực nhất vào việc chuyển giao công nghệ tiên tiến, nâng cao trình độ, kinh nghiệm,
kỹ năng cho các nhà quản lý doanh nghiệp của Việt Nam. Đồng thời với kỳ vọng


phát triển nhanh chóng các ngành có công nghệ cao, tạo ra nhiều giá trị gia tăng,
giúp đẩy mạnh tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Tuy nhiên các kỳ
vọng trên hầu như còn khá lâu mới đạt mục tiêu.
- Thứ ba, Việt Nam đã và đang áp dụng các quy định về môi trường dành cho các
nước đã và đang phát triển. Tuy nhiên, vẫn còn không ít các doanh nghiệp FDI
không thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ các cam kết khi đăng ký kinh doanh
về đầu tư trang thiết bị và xử lý chất thải, bảo vệ môi trường.
3. Những giải pháp nhằm khắc phục những vấn đề tồn tại:
3.1 Những giải pháp của Chính phủ cũng như Bộ Kế hoạch và Đầu tư đưa ra
nhằm tháo gỡ khó khăn cho các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đang hoạt
động tại Việt Nam:
Trong thời gian qua Chính phủ cũng như Bộ Kế hoạch và đầu tư đã
thực hiện nhiều giải pháp để tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp FDI, cải
thiện môi trường đầu tư, cụ thể là:
- Bộ Kế Hoạch và Đầu Tư chủ trì dự thảo và đã trình Chính phủ ban
hành Nghị quyết 103/NQ-CP ngày 29/8/2013 về định hướng nâng cao hiệu
quả thu hút, sử dụng và quản lý đầu tư trực tiếp nước ngoài trong thời gian

tới. Theo đó, Nghị quyết đã đề ra hàng loạt các giải pháp và giao nhiệm vụ
cụ thể cho các Bộ, ngành, địa phương thực hiện để tháo gỡ khó khăn cho
doanh nghiệp FDI, cải thiện môi trường đầu tư. Bộ Kế Hoạch và Đầu Tư đã
tổ chức một số Hội nghị để hướng dẫn triển khai Nghị quyết này tại Hà Nội
và TP Hồ Chí Minh.
- Tiếp tục duy trì các hoạt động đối thoại với doanh nghiệp thông qua
Diễn đàn doanh nghiệp Việt Nam, Sáng kiến chung Việt Nam – Nhật Bản,
đối thoại Keidanren, hoạt động của các Desk (Ichi Desk, Saitama Desk,
Kansai Desk, Korean Desk.....) để tháo gỡ các khó khăn, vướng mắc về
chính sách cho các doanh nghiệp FDI.
- Chú trọng hoạt động xúc tiến đầu tư tại chỗ thông qua việc hỗ trợ,
giải quyết khó khăn, vướng mắc cho Doanh nghiệp.
- Bộ Kế Hoạch và Đầu Tư và các Bộ ngành đã trình Thủ tướng Chính
phủ để ban hành nhiều biện pháp hỗ trợ các doanh nghiệp bị thiệt hại trong
sự kiện một số người có hành vi vi phạm pháp luật đập phá tài sản của các
doanh nghiệp FDI.
- Thực hiện nhiều hoạt động để hỗ trợ các địa phương trong công tác xúc
tiến đầu tư thông qua hỗ trợ tổ chức các Hội thảo, hội nghị,các đoàn công tác xúc
tiến đầu tư.


3.2 Các giải pháp nhằm cải thiện môi trường đầu tư để thu hút mạnh hơn
nữa nguồn vốn FDI vào Việt Nam:
Để nâng cao khả năng cạnh tranh của môi trường đầu tư, thu hút
mạnh mẽ hơn nữa nguồn vốn FDI vào Việt Nam, Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã
trình Chính phủ ban hành Nghị quyết 103/NQ-CP ngày 29/8/2013 về định
hướng nâng cao hiệu quả thu hút, sử dụng và quản lý đầu tư trực tiếp nước
ngoài . Theo đó, Nghị quyết đã đề ra một loạt các giải pháp nhằm tháo gỡ
khó khăn cho doanh nghiệp FDI, cải thiện môi trường đầu tư cụ thể như sau:
- Tiếp tục cải thiện hệ thống luật pháp chính sách (hiện đang sửa đổi

Luật Đầu tư, Luật doanh nghiệp)theo hướng thông thoáng, minh bạch hơn.
- Rà soát tổng thể hệ thống pháp luật hiện hành liên quan đến hoạt
động đầu tư, kinh doanh theo hướng đảm bảm sự thống nhất, đồng bộ với
Luật Đầu tư;
- Cải thiện cơ sở hạ tầng: sẽ ban hành nghị định về PPP; Rút ngắn thời
gian đàm phán hợp đồng; Đảm bảo thực hiện đúng tiến độ; đảm bảo bảo
lãnh của nhà nước phù hợp với thông lệ quốc tế; và có chế tài phù hợp.
- Về nguồn nhân lực: khẩn trương triển khai các chương trình hành
động để phát triển nguồn nhân lực; triển khai việc đào tạo lao động theo nhu
cầu doanh nghiệp.
- Về công nghiệp hỗ trợ: cần phải ban hành tiêu chí rõ ràng về lĩnh
vực, sản phẩm công nghiệp hỗ trợ; nâng mức ưu đãi đủ sức hấp dẫn; và tăng
cường năng lực của doanh nghiệp Việt Nam.
- Về nông nghiệp: cho vay ưu đãi để hỗ trợ phát triển nguồn nguyên
liệu, có chính sách trợ cấp khi bị tổn thất do thiên tai, biến động giá cả; hỗ
trợ tín dụng FDI nông nghiệp, kết hợp giữa doanh nghiệp và nông dân và
đảm bảo vấn đề vệ sinh an toàn thực phẩm ở khâu chế biến.
- Rà soát để loại bỏ các loại giấy phép, thủ tục hành chính không cần
thiết và giảm bớt lĩnh vực, ngành nghề kinh doanh có điều kiện, gây cản trở
hoạt động của doanh nghiệp.
- Kết nối đầu tư: ngoài việc tiếp xúc trực tiếp với các nhà đầu tư,
chúng tôi sẽ tăng cường tiếp cận với các Ngân hàng, các Quỹ đầu tư, các


Công ty tư vấn đầu tư, các hãng luật,…bởi vì đây là những đối tượng có tác
động rất lớn đến việc ra quyết định đầu tư của các nhà đầu tư.
- Tăng cường các hoạt động xúc tiến đầu tư tại chỗ: hỗ trợ nhà đầu tư
giải quyết khó khăn, vướng mắc. Duy trì các cơ chế đối thoại (VBF, Sáng
kiến Việt – Nhật).
- Tiếp tục thực hiện các biện pháp để hỗ trợ doanh nghiệp bị thiệt hại,

lấy lại niềm tin cho doanh nghiệp và giữ chân các nhà đầu tư.

Chương 3: Phản ánh kết quả nghiên cứu
Từ kết quả nghiên cứu trên ta thấy sau gần 30 năm đổi mới vẫn còn nhiều
hạn chế trong hoạt động đầu tư nước ngoài. Đặc biệt là năm 2015 sẽ mở ra
một loạt sự kiện quốc tế quan trọng đối với Việt Nam liên quan đến quá
trình hội nhập quốc tế của Việt Nam, trong đó có sự kiện hội nhập Cộng
đồng kinh tế ASEAN. Do đó cần có một vài chính sách khắc phục. Cụ thể
như sau:
Thứ nhất, tiếp tục xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật, chính sách để
thực hiện đầy đủ các cam kết hội nhập kinh tế quốc tế theo lộ trình đã đề ra.
Thứ hai, thường xuyên, kịp thời rà soát, sửa đổi, điều chỉnh, xóa bỏ quy
định không phù hợp với các cam kết quốc tế nhằm thực hiện đầy đủ các
nghĩa vụ trong các điều ước quốc tế song phương, khu vực và đa phương mà
Việt Nam là thành viên; đồng thời, xem xét nới lỏng các điều kiện đầu tư,
kinh doanh trong một số ngành, lĩnh vực tuy không cam kết mở cửa, hoặc
cam kết chặt chẽ hơn quy định pháp luật hiện hành nhưng phù hợp với nhu
cầu phát triển và định hướng thu hút đầu tư của nước ta trong thời gian tới.
Thứ ba, nâng cao năng lực cạnh tranh của các ngành. Cần tiến hành đánh
giá mức độ cạnh tranh của các ngành, trên cơ sở đó xây dựng kế hoạch nâng
cao khả năng cạnh tranh cho những ngành có lợi thế cạnh tranh và định
hướng điều chỉnh sản xuất cho các ngành, doanh nghiệp không có khả năng
cạnh tranh.


Thứ tư, phát triển các ngành quan trọng đối với nền kinh tế. Cần có chính
sách phát triển các ngành công nghiệp chế biến mà Việt Nam có tiềm năng
và lợi thế, nhất là chế biến nông sản. Chú trọng phát triển các ngành công
nghiệp hỗ trợ để tránh phụ thuộc quá lớn vào nguyên vật liệu nhập khẩu và
những cú sốc khi giá nguyên vật liệu trên thị trường quốc tế tăng, đồng thời

tiết kiệm được một nguồn ngoại tệ lớn. Thúc đẩy các ngành dịch vụ hỗ trợ
kinh doanh như tài chính, tín dụng, khoa học, công nghệ, ngành chế biến
nông sản, có chính sách thu hút đầu tư vào các ngành này.
Thứ năm, tăng cường nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, trong đó đặc
biệt coi trọng năng lực cán bộ, phân bổ hiệu quả nguồn nhân lực, tăng cường
nâng cao nhận thức cho các nhà hoạch định chính sách, cán bộ cơ quan quản
lý nhà nước và các doanh nhân về quyền lợi và nghĩa vụ của Việt Nam.

Kết luận
Hoạt động đầu tư nước ngoài tại Việt Nam là một hoạt động rất quan trọng
để tái cơ cấu nền kinh tế và tăng sức cạnh tranh quốc gia, đặc biệt là khi
nước ta có triển vọng thu hút đầu tư từ các nước Asean trong bối cảnh AEC
2015 ( Cộng đồng kinh tế ASEAN). Nhìn chung, đầu tư của khối Asean vào
Việt Nam đã tăng đều qua các năm nhưng chủ yếu từ một số quốc gia như
Singapore, Malaysia, Thái Lan. Các quốc gia còn lại có đầu tư còn tương đối
hạn chế. Trong thời gian tới, đặc biệt khi Việt Nam sẽ tham gia Cộng đồng
kinh tế ASEAN (AEC) vào năm 2015 thì việc quảng bá và xúc tiến đầu tư
trong cộng đồng các nước Asean cần đẩy mạnh hơn nữa để thu hút đầu tư
nước ngoài từ các nước này vững mạnh hơn.
Trên đây là toàn bộ phần nghiên cứu của em về chuyên đề đánh giá những
thành tích và các tồn tại trong hoạt động đầu tư nước ngoài tại Việt Nam
trong thời gian qua. Bài viết còn nhiều thiếu sót mong thầy giáo xem xét và
bổ sung giúp em cho bài viết hoàn thiện hơn. Em xin chân thành cảm ơn!



×