Tải bản đầy đủ (.doc) (44 trang)

NÂNG CAO HIỆU QUẢ CÔNG TÁC TUYÊN TRUYỀN CHO NGƯỜI DÂN VỀ Ý THỨC BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG TRONG VIỆC THU GOM, XỬ LÝ RÁC THẢI TẠI XÃ NAM TOÀN, HUYỆN NAM TRỰC, TỈNH NAM ĐỊNH GIAI ĐOẠN 2016 2020

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (295.39 KB, 44 trang )

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH

ĐỀ ÁN
NÂNG CAO HIỆU QUẢ CÔNG TÁC TUYÊN TRUYỀN
CHO NGƯỜI DÂN VỀ Ý THỨC BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG TRONG VIỆC
THU GOM, XỬ LÝ RÁC THẢI TẠI XÃ NAM TOÀN, HUYỆN NAM
TRỰC, TỈNH NAM ĐỊNH GIAI ĐOẠN 2016 - 2020

Người thực hiện:
Lớp:
Chức vụ:
Đơn vị công tác:

Hà Nội, tháng

năm


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
HĐND
UBND
HLHPN
HTX
VSMT
ONMT
BVMT

Hội đồng nhân dân
Ủy ban nhân dân
Hội Liên hiệp phụ nữ
Hợp tác xã


Vệ sinh môi trường
Ô nhiễm môi trường
Bảo vệ môi trường

MỤC LỤC
Số TT

Nội dung

Trang


A
1
2
2.1
2.2
3
B
1.
1.1
1.2
1.3
2
2.1

MỞ ĐẦU
Tính cấp thiết của đề án
Mục tiêu của đề án
Mục tiêu chung

Mục tiêu cụ thể
Giới hạn của đề án
NỘI DUNG
Cơ sở xây dựng đề án
Cơ sở khoa học
Cơ sở chính trị, pháp lý
Cơ sở thực tiễn
Nội dung thực hiện đề án
Bối cảnh thực hiện đề án

1
1
3
3
3
4
4
4
4
8
10
13
13

2.2
2.3
2.4
3
3.1
3.2

3.3
4
4.1
4.2

Thực trạng vấn đề cần giải quyết trong đề án
Nội dung cụ thể đề án cần thực hiện
Các giải pháp thực hiện đề án
Tổ chức thực hiện đề án
Phân công trách nhiệm thực hiện đề án
Tiến độ thực hiện đề án
Kinh phí thực hiện các hoạt động của đề án
Dự kiến hiệu quả của đề án
Ý nghĩa thực tiễn của đề án
Đối tượng hưởng lợi của đề án
Những thuận lợi/khó khăn khi thực hiện và tính khả thi của đề

15
20
21
33
33
35
36
38
38
40

4.3


40

C

án
KIẾN NGHỊ, KẾT LUẬN

1

Kiến nghị

42

2

Kết luận

42

TÀI LIỆU THAM KHẢO

44

PHỤ LỤC

42


1


A. MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề án
Trong tiến trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, nhiệm vụ bảo vệ
môi trường luôn được Đảng và Nhà nước coi trọng. Thực hiện Luật Bảo vệ môi
trường, Chỉ thị số 36-CT/TW của Bộ Chính trị (khoá VIII) về tăng cường công
tác bảo vệ môi trường trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước,
công tác bảo vệ môi trường ở nước ta trong thời gian qua đã có những chuyển
biến tích cực. Theo đó, cùng với cả nước, ở Nam Định hệ thống chính sách, thể
chế từng bước được xây dựng và hoàn thiện, phục vụ ngày càng có hiệu quả cho
công tác bảo vệ môi trường.
Hiện nay, với nhiều chủ trương sát đúng của Đảng, Nhà nước, cuộc sống
người dân đã có sự thay đổi từng ngày. Người dân có cuộc sống vật chất khấm
khá hơn, cuộc sống tinh thần phong phú hơn. Diện mạo của làng quê, các vùng
quê cũng có sự thay đổi rõ nét, rút ngắn khoảng cách giữa thành thị và nông
thôn.
Tuy nhiên, kèm theo sự thay đổi về cuộc sống vật chất, tinh thần của
người dân đó chính là sự biến đổi về môi trường. Mặc dù, cùng với sự phát triển
về kinh tế, xã hội, cấp ủy Đảng, chính quyền đã rất quan tâm đến công tác bảo
vệ môi trường nhưng thực tế cho thấy rằng công tác bảo vệ môi trường còn
nhiều hạn chế. Những yếu kém, khuyết điểm trong công tác bảo vệ môi trường
do nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan nhưng chủ yếu là do chưa có
nhận thức đúng đắn về tầm quan trọng của công tác bảo vệ môi trường, chưa
biến nhận thức, trách nhiệm thành hành động cụ thể của từng cấp, từng ngành và
từng người trong việc bảo vệ môi trường, chưa bảo đảm sự hài hòa giữa phát
triển kinh tế với bảo vệ môi trường, nguồn lực đầu tư cho bảo vệ môi trường của
nhà nước, của các doanh nghiệp và cộng đồng dân cư rất hạn chế. Trong tất cả
các nguyên nhân đó thì nguyên nhân cơ bản dẫn đến ô nhiễm môi trường là do
nhận thức, thái độ và hành động đúng đắn của người dân đối với môi trường.
Rác thải khu vực nông thôn, bao gồm rác thải rắn sinh hoạt và vỏ bao bì
thuốc bảo vệ thực vật phát sinh từ các nguồn như hộ gia đình, chợ, trường học,

trạm y tế, cơ quan hành chính. Các loại rác thải bước đầu đã được phân loại,
trong đó các loại rác thải có thể bán được như giấy, bìa các tông, kim loại,
nhựa... được thu gom, bán cho cơ sở thu mua phế loại, lượng rác thải hữu cơ
như thức ăn thừa, sản phẩm thừa được tận dụng trong chăn nuôi. Còn các loại


2
rác thải khác không tận dụng được, hầu như không được phân loại mà để chung
với nhau. Đáng chú ý là những loại rác thải này bị vứt bừa bãi ở các vùng nông
thôn, một số được người dân thu gom và xử lí theo phương thức chôn lấp, một
số được thu gom lại để công nhân môi trường đưa đến điểm tập kết xử lí theo
đúng qui định.
Hiện nay, có một thực tế dễ dàng nhận thấy đó là ở hầu hết các vùng nông
thôn, chăn nuôi đang là thế mạnh để nâng cao thu nhập cho cư dân nông thôn.
Kèm theo đó, thì cũng thấy rằng tình hình dịch bệnh diễn biến phức tạp, công
tác xử lí gia súc, gia cầm chết do dịch bệnh chưa được người dân quan tâm đúng
mức. Nhiều nơi, xác động vật vứt bừa bãi ra ao, hồ, bụi cây...Việc thu gom rác
thải không thường xuyên, không thực hiện phân loại rác thải hữu cơ, vô cơ tại
nguồn. Bên cạnh đó là việc xả thải rác tràn lan ra đường, đốt rác gây khói bụi
làm ô nhiễm những khu dân cư. Thực trạng trên gây ô nhiễm nguồn nước, không
khí, làm tăng nguy cơ phát tán dịch bệnh, ảnh hưởng lớn đến sức khỏe của
người dân ở khu vực nông thôn.
Thực hiện chủ trương phát triển kinh tế - xã hội của Đảng và Nhà nước,
thời gian qua dưới sự quan tâm, lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành của Huyện ủy,
UBND huyện, kinh tế của huyện Nam Trực nói chung và xã Nam Toàn nói
riêng đã có những chuyển biến tích cực. Đời sống của nhân dân khu vực nông
thôn ngày một cải thiện và nâng lên đáng kể. Bên cạnh những lợi ích về kinh tế
đem lại, khu vực nông thôn đang phải đối mặt với tình trạng ô nhiễm môi trường
do rác thải không được xử lý gây ra. Rác thải phát sinh ngày càng đa dạng về số
lượng và chủng loại, xuất hiện ngày càng nhiều loại khó xử lý, trong khi công

tác phân loại, thu gom, vận chuyển, xử lý còn hạn chế, chưa đáp ứng được yêu
cầu, tình trạng xả rác thải không đúng nơi quy định tại các khu vực công cộng
vẫn còn diễn ra phổ biến làm mất cảnh quan sinh thái, gây ô nhiễm môi trường.
Nam Toàn là xã tiếp giáp thành phố Nam Định, với ngành nghề truyền
thống là trồng hoa, cây cảnh, cùng với việc trồng trọt, chăn nuôi cung cấp thực
phẩm, rau xanh cho Thành phố nên những tác động của việc sản xuất, kinh
doanh tác động một cách rõ rang nhất tới đời sống kinh tế, xã hội, môi trường
sống của người dân. Dù rằng, người dân đã có nhận thức đáng kể về công tác vệ
sinh dịch bệnh, bảo vệ môi trường trong trồng trọt, chăn nuôi nhưng thực tế ý
thức này chỉ giới hạn trong phạm vi gia đình để tránh thiệt hại trong chăn nuôi


3
còn ý thức mang tính cộng đồng còn hạn chế. Đó chính là lý do chính dẫn đến
sự ô nhiễm nguồn nước thải, ô nhiễm môi trường do vứt các động vật chết.
Cùng với chăn nuôi thì trong trồng trọt việc người dân vứt các loại bao bì,
lọ thuốc trừ sâu, trừ cỏ ra đường, ra bờ ruộng còn khá phổ biến...Tất cả những
việc làm đó đang khiến cho công tác bảo vệ môi trường nóng lên từng ngày.
Chính vì vậy, vấn đề cấp thiết được đặt ra đó là phải nâng cao ý thức của người
dân trong vấn đề thu gom, xử lý rác thải và phân loại rác thải tại nguồn.
Từ thực tế đó ở vùng nông thôn nói chung, xã Nam Toàn nói riêng và với
mong muốn xây dựng một cuộc sống trong lành, không ô nhiễm môi trường nên
tôi đã chọn đề án: “Nâng cao hiệu quả công tác tuyên truyền cho người dân về
ý thức bảo vệ môi trường trong việc thu gom, xử lý rác thải tại xã Nam Toàn,
huyện Nam Trực, tỉnh Nam Định giai đoạn 2016 – 2020”. Đề án được thực
hiện sẽ góp phần nâng cao ý thức của người dân trong việc thu gom, phân loại,
xử lý thải tại địa phương, phấn đấu đạt xã Nông thôn mới vào năm 2017.
2. Mục tiêu của đề án
2.1 Mục tiêu chung
Nâng cao hiệu quả công tác tuyên truyền cho người dân về ý thức bảo vệ

môi trường trong việc thu gom, xử lý rác thải tại xã Nam Toàn, huyện Nam
Trực, tỉnh Nam Định nhằm thay đổi nhận thức, thái độ và hành vi của người
dân trong việc bảo vệ môi trường, xây dựng xã Nam Toàn trở thành một xã sinh
thái, có môi trường tốt, trong lành, có sự hài hòa giữa phát triển kinh tế và đảm
bảo môi trường bền vững.
2.2 Mục tiêu cụ thể
- Thay đổi ý thức của người dân về hình thành mạng lưới thu gom, vận
chuyển rác thải nông thôn thông qua việc thành lập tổ hợp tác VSMT, tổ tự quản
VSMT do địa phương quản lí.
- Xây dựng cơ chế tài chính và nhu cầu đầu tư trang thiết bị thực hiện
công tác thu gom, vận chuyển, xử lí rác thải nông thôn. Tỉ lệ thu phí vệ sinh môi
trường trên địa bàn xã đạt 100% số hộ dân.
- Đến năm 2020, cơ bản rác thải trong khu dân cư được thu gom, phân
loại tại nguồn. Duy trì hoạt động hiệu quả mô hình thu gom, vận chuyển, xử lí
rác thải góp phần cùng với cả huyện hoàn thành mục tiêu đến năm 2020 tỉ lệ thu
gom, xử lí rác thải nông thôn trên địa bàn huyện đạt 100%.


4
- Xây dựng con người trên quê hương Nam Toàn trở thành những con
người, những công dân luôn hướng đến hoạt động bảo vệ môi trường, để họ
không chỉ là những người thực hiện tốt việc thu gom, xử lý, phân loại rác thải tốt
mà còn là những tuyên truyền viên trong việc bảo vệ môi trường ở bất cứ nơi
đâu mà họ sinh sống và đi tới.
3. Giới hạn của đề án:
- Về đối tượng của đề án: Hiệu quả công tác tuyên truyền cho người dân
về ý thức bảo vệ môi trường trong việc thu gom xử lý rác thải tại xã Nam Toàn,
huyện Nam Trực,tỉnh Nam Định.
- Về không gian thực hiện đề án: Xã cẩm Bình- Cẩm Xuyên hà Tĩnh
- Thời gian thực hiện đề án: từ 2015- 2020

B. NỘI DUNG
1. Cơ sở xây dựng đề án
1.1 Cơ sở khoa học
- Một số khái niệm cơ bản:
* Công tác tuyên truyền: Là hoạt động tác động một cách đồng bộ, hệ
thống có cơ sở khoa học của chủ thể đến nhận thức, thái độ và hành vi của con
người và xã hội, để con người, các tổ chức xã hội sống, hoạt động, quan hệ xã
hội theo hướng tích cực và tốt đẹp hơn.
Công tác tuyên truyền được thực hiện trong hoạt động lãnh đạo của Đảng,
quản lý của Nhà nước, ở các cấp, các ngành. Trong thời kỳ công nghiệp hóa,
hiện đại hóa và hội nhập quốc tế, công tác tuyên truyền được Đảng và Nhà nước
ta đặc biệt coi trọng. Đặc biệt trong việc xây dựng nông thôn mới, nền văn hóa
mới, thực hiện công tác tuyên truyền đúng đắn và có hiệu quả là một trong
những nhiệm vụ và giải pháp rất quan trọng.
* Hiệu quả công tác tuyên truyền : Hiệu quả của công tác tuyên truyền
được thể hiện ở kết quả của hoạt động tuyên truyền; cụ thể là ở sự nâng cao
nhận thức của đối tượng được tuyên truyền; sự thay đổi theo hướng tích cực của
thái độ và hành vi của đối tượng được tuyên truyền (người dân và các tổ chức
chính trị, kinh tế - xã hội …). Hiệu quả công tác tuyên truyền được xem xét trên
các khía cạnh: Kinh tế – xã hội; Chính trị – xã hội; Văn hóa – xã hội.


5
Để đánh giá hiệu quả của công tác tuyên truyền cần tổ chức điều tra xã
hội học để xác định mức độ và cấp độ thay đổi nhận thức, thái độ và hành vi của
đối tượng được tuyên truyền sau khi đã được tuyên truyền.
* Ý thức bảo vệ môi trường: Được thể hiện ở sự hiểu biết về tầm quan
trọng của việc bảo vệ môi trường; phương pháp, cách thức bảo vệ môi trường;
biểu hiện ở thái độ tích cực hay tiêu cực trong việc bảo vệ môi trường; ở cấp độ
cao nhất của ý thức bảo vệ môi trường chính là những hành vi tích cực bảo vệ

môi trường…. Người có ý thức bảo vệ môi trường kém là người có nhận thức
sai hoặc không nhận thức được vai trò của việc bảo vệ môi trường; có thái độ
tiêu cực đối với việc bảo vệ môi trường; và có hành vi gây mất vệ sinh, môi
trường trong quá trình sống, sinh hoạt và sản xuất…
* Rác thải ở xã khu vực nông thôn bao gồm những loại như: Rác thải
sinh hoạt; rác thải chăn nuôi; sản xuất nông nghiệp; các loại rác thải hữu cơ và
vô cơ; rác thải có thể phân hủy và không phân hủy được; Một số chất thải có thể
tái chế thành những chất có ích cho sản xuất và đời sống. Chúng tôi có danh
mục các loại chất thải tái chế như sau:
STT
1
2
3
4
5
6
7
8
9

Loại chất thải
Lon nhôm, nhôm các loại
Nhựa các loại, túi nylon
Sắt vụn
Giấy báo, giấy tập, bìa carton
Nhớt cặn
Thuỷ tinh
Sắt
Đồng
Cao su


* Hiệu quả công tác tuyên truyền cho người dân về ý thức bảo vệ môi
trường trong việc thu gom, xử lý rác thải được đánh giá qua các tiêu chí như:
- Sự thay đổi về nhận thức của đa số người dân về vấn đề vệ sinh môi
trường theo hướng tích cực hơn.
- Sự thay đổi về thái độ của đa số người dân đối với vấn đề vệ sinh môi
trường trong cuộc sống hàng ngày và trong sản xuất ở địa phương.
- Sự thay đổi về hành vi của đa số người dân trong việc thu gom, xử lý rác
thải sinh hoạt và trong sản xuất theo hướng tích cực, đúng mục tiêu, nhiệm vụ đã
đề ra.


6
- Tiêu chí về vệ sinh môi trường trong xây dựng xã nông thôn mới được
thực hiện đúng đắn và có hiệu quả.
* Tầm quan trọng của yếu tố môi trường đối với cuộc sống của con
người và xã hội:
Ở bất cứ xã hội nào và dù trong điều kiện nào thì môi trường là yếu tố đặc
biệt quan trọng, có quan hệ mật thiết với con người. Theo Điều 1, Luật Bảo vệ
môi trường của Việt Nam thì môi trường được định nghĩa như sau: “Môi trường
bao gồm các yếu tố tự nhiên và yếu tố vật chất nhân tạo quan hệ mật thiết với
nhau, bao quanh con người, có ảnh hưởng tới đời sống, sản xuất, sự tồn tại, phát
triển của con người và thiên nhiên”. Như vậy có thể thấy rằng môi trường là tất
cả những yếu tố bao quanh cuộc sống của con người và có tác động đến mọi
người trong cuộc sống của con người.
Môi trường có tầm quan trọng đặc biệt với đời sống con người, sinh vật
và sự phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội của nhân loại. Môi trường là không gian
sống của con người và các loài sinh vật. Môi trường là nơi cung cấp tài nguyên
cần thiết cho cuộc sống và hoạt động sản xuất của con người. Môi trường là nơi
chứa đựng các chất phế thải do con người tạo ra trong cuộc sống và hoạt động

sản xuất của mình. Môi trường là nơi giảm nhẹ các tác động có hại của thiên
nhiên tới con người và sinh vật trên trái đất. Môi trường là nơi lưu trữ và cung
cấp thông tin cho con người.
Bảo vệ môi trường gắn liền với sự phát triển bền vững đang là vấn đề
được đặt ra trên toàn thế giới, đặc biệt đối với các quốc gia đang phát triển,
trong đó có Việt Nam.
Trong thực tế việc giáo dục kiến thức về môi trường, nâng cao nhận thức,
hiểu biết về môi trường đã được quan tâm từ rất sớm. Từ năm 1987, tại Hội nghị
về môi trường ở Moscow do UNEP và UNESCO đồng tổ chức, đã đưa ra kết
luận về tầm quan trọng của giáo dục môi trường: “Nếu không nâng cao được sự
hiểu biết của công chúng về những mối quan hệ mật thiết giữa chất lượng môi
trường với quá trình cung ứng liên tục các nhu cầu ngày càng tăng của họ, thì
sau này sẽ khó làm giảm bớt được những mối nguy cơ về môi trường ở các địa
phương cũng như trên toàn thế giới. Bởi vì, hành động của con người tùy thuộc
vào động cơ của họ và động cơ này lại tùy thuộc vào chính nhận thức và trình độ
hiểu biết của họ. Do đó, giáo dục môi trường là một phương tiện không thể
thiếu để giúp mọi người hiểu biết về môi trường”.


7
Hội nghị quốc tế về giáo dục môi trường của Liên hợp quốc tổ chức tại
Tbilisi vào năm 1977 đã đưa ra khái niệm: “Giáo dục môi trường có mục đích
làm cho cá nhân và các cộng đồng hiểu được bản chất phức tạp của môi trường
tự nhiên và môi trường nhân tạo là kết quả tương tác của nhiều nhân tố sinh
học, lý học, xã hội, kinh tế và văn hóa; đem lại cho họ kiến thức, nhận thức về
giá trị, thái độ và kỹ năng thực hành để họ tham gia một cách có trách nhiệm và
hiệu quả trong phòng ngừa và giải quyết các vấn đề môi trường và quản lý chất
lượng môi trường”.
Khi tăng cường công tác tuyên truyền, giáo dục nhận thức về môi trường
cho các đối tượng người dân để mỗi người nhận thức được ý nghĩa, tầm quan

trọng của các vấn đề môi trường như một nguồn lực để sinh sống, lao động
và phát triển, đối với bản thân họ cũng như đối với cộng đồng, quốc gia của họ
và quốc tế, từ đó có thái độ, cách ứng xử đúng đắn trước các vấn đề môi trường,
xây dựng cho mình quan niệm đúng đắn về ý thức trách nhiệm, về giá trị nhân
cách để dần hình thành các kỹ năng thu thập số liệu và phát triển sự đánh giá
thẩm mỹ. Mục tiêu này có định hướng xây dựng thái độ, cách đối xử thân thiện
với môi trường.
Chúng ta có thể xây dựng một sơ đồ cơ bản về 3 mục tiêu chủ yếu của
giáo dục môi trường như sau:

Hiểu biết về
môi trường

Thái độ đúng
đắn với môi
trường

- Vấn đề
- Nguyên nhân
- Hậu quả

- Nhận thức
- Thái độ
- Ứng xử

Khả năng hành
động hiệu quả
vào bảo vệ môi
trường
- Kiến thức

- Kỉ năng
- Dự báo các
tác động
- Tổ chức hành
động

Sơ đồ 1: Ba mục tiêu của giáo dục môi trường
Khi nhận thức về công tác bảo vệ môi trường được nâng lên thì người dân
sẽ có tri thức, kĩ năng, phương pháp hành động để nâng cao năng lực trong việc
lựa chọn phong cách sống thích hợp với việc sử dụng một cách hợp lý và


8
khôn ngoan các nguồn tài nguyên thiên nhiên, để họ có thể tham gia hiệu quả
vào việc phòng ngừa và giải quyết các vấn đề môi trường cụ thể nơi họ ở và làm
việc. Những thông tin, kiến thức về môi trường được tích lũy trong mỗi người sẽ
nuôi dưỡng và nâng cao ý thức và tinh thần trách nhiệm về bảo vệ môi trường
của chính họ, tạo nên những động cơ mạnh mẽ, những cam kết vững chắc hướng
về một môi trường trong lành và phát triển trong tương lai. Bởi vì, mỗi cá nhân
nếu đều có ý thức đóng góp những hành động dù nhỏ nhưng tích cực góp phần
tạo nên những thay đổi lớn tốt đẹp hơn cho môi trường.
1.2 Cơ sở chính trị, pháp lý
Kể từ khi Bộ Chính trị ra Nghị quyết số 41-NQ/TW ngày 15 tháng 01
năm 2004 về bảo vệ môi trường trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện
đại hóa đất nước thì ở Hà Tĩnh nhận thức và trách nhiệm của cấp ủy, chính
quyền các cấp, các ngành và nhân dân về công tác bảo vệ môi trường có nhiều
chuyển biến rõ rệt.
Việc chỉ đạo thực hiện lồng ghép công tác bảo vệ môi trường vào thực
hiện nếp sống văn minh, văn hóa nơi công cộng có hiệu quả rõ nét. Một số tổ
chức, cá nhân tham gia tích cực, đầu tư phát triển vào lĩnh vực môi trường. Tình

hình môi trường của tỉnh được cải thiện đáng kể, mức độ ô nhiễm môi trường ở
nhiều khu vực được kiềm chế, việc thu gom, xử lí rác thải, nước thải được kiềm
chế, các vấn đề nóng về môi trường từng bước được quan tâm giải quyết.
Bảo vệ môi trường là một trong những vấn đề sống còn của nhân loại; là
nhân tố bảo đảm sức khoẻ và chất lượng cuộc sống của nhân dân; góp phần quan
trọng vào việc phát triển kinh tế - xã hội, ổn định chính trị, an ninh quốc gia và
thúc đẩy hội nhập kinh tế quốc tế của nước ta.
Bảo vệ môi trường vừa là mục tiêu, vừa là một trong những nội dung cơ
bản của phát triển bền vững, phải được thể hiện trong các chiến lược, qui hoạch,
kế hoạch, dự án phát triển kinh tế - xã hội của từng ngành và từng địa phương.
Khắc phục tư tưởng chỉ chú trọng phát triển kinh tế - xã hội mà coi nhẹ bảo vệ
môi trường. Đầu tư cho bảo vệ môi trường là đầu tư cho phát triển bền vững.
Bảo vệ môi trường là quyền lợi và nghĩa vụ của mọi tổ chức, mọi gia đình
và của mỗi người, là biểu hiện của nếp sống văn hoá, đạo đức, là tiêu chí quan
trọng của xã hội văn minh và là sự nối tiếp truyền thống yêu thiên nhiên, sống
hài hòa với tự nhiên của cha ông ta.


9
Bảo vệ môi trường phải theo phương châm lấy phòng ngừa và hạn chế tác
động xấu đối với môi trường là chính kết hợp với xử lý ô nhiễm, khắc phục suy
thoái, cải thiện môi trường và bảo tồn thiên nhiên; kết hợp giữa sự đầu tư của
Nhà nước với đẩy mạnh huy động nguồn lực trong xã hội và mở rộng hợp tác
quốc tế, kết hợp giữa công nghệ hiện đại với các phương pháp truyền thống.
Bảo vệ môi trường là nhiệm vụ vừa phức tạp, vừa cấp bách, có tính đa
ngành và liên vùng rất cao, vì vậy cần có sự lãnh đạo, chỉ đạo chặt chẽ của các
cấp uỷ đảng, sự quản lý thống nhất của Nhà nước, sự tham gia tích cực của Mặt
trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân.
Trong quá trình lãnh đạo, chỉ đạo Đảng, Nhà nước đã ban hành nhiều
Nghị quyết, Chỉ thị và Quyết định về bảo vệ môi trường như:

- Nghị quyết của Bộ Chính trị số 41-NQ/TW ngày 15 tháng 01 năm 2004
về bảo vệ môi trường trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước.
- Chỉ thị số 17/2008/CT-TTg, Chỉ thị Về một số giải pháp cấp bách đẩy
mạnh công tác xử lý các cơ sở gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng theo Quyết
định số 64/2003/QĐ-TTg ngày 22 tháng 4 năm 2003 của Thủ tướng Chính phủ.
- Chỉ thị số 24/2008/CT-TTg, Chỉ thị về việc tăng cường công tác phòng,
chống tội phạm và vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường trong thời kỳ hội
nhập.
- Chỉ thị số 29-CT/TW, Chỉ thị của Ban bí thư về tiếp tục đẩy mạnh thực
hiện Nghị quyết số 41-NQ/TW của Bộ chính trị (Khóa IX) "Về bảo vệ môi
trường trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước".
- Nghị quyết số 27/NQ-CP, Nghị quyết Về một số giải pháp cấp bách
trong công tác quản lý nhà nước về tài nguyên và môi trường.
- Quyết định số 34/2005/QĐ-TTg, Quyết định Ban hành chương trình
hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết số 41/NQ-TW ngày 15 tháng 11
năm 2004 của Bộ Chính trị về bảo vệ môi trường trong thời kỳ đẩy mạnh công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
- Quyết định số 64/2003/QĐ-TTg, Quyết định của Thủ tướng Chính phủ
Về việc phê duyệt "Kế hoạch xử lý triệt để các cơ sở gây ô nhiễm môi trường
nghiêm trọng".
- Luật số 52/2005/QH11, Luật Bảo vệ môi trường


10
- Những năm qua, cùng với các nghị quyết về phát triển kinh tế, xã hội,
HĐND xã Nam Toàn cũng đã quan tâm, đưa ra nhiều chủ trương, nghị quyết về
tăng cường công tác lãnh đạo trên lĩnh vực môi trường.
1.3. Cơ sở thực tiễn
1.3.1. Vấn đề thu gom, xử lý rác thải của huyện Nam Trực

- Được sự quan tâm chỉ đạo Huyện ủy, UBND huyện Nam Trực, các
phòng, ban, ngành, đoàn thể của huyện; Đảng uỷ 20/20 xã, thị trấn đã ra Nghị
quyết về công tác VSMT chỉ đạo UBND xây dựng kế hoạch triển khai. Đến
cuối năm 2015, có duy nhất xã Nam Hải chưa triển khai thu gom, xử lý rác thải
sinh hoạt. Huyện đang thí điểm hỗ trợ các xã xây dựng lò đốt rác sinh học để
tổng kết nhân diện. Đến nay, có 3 xã Nam Hồng, Nam Thanh, Nam Tiến được
hỗ trợ xây dựng và đang thực hiện hiệu quả.
Các tổ, đội vệ sinh môi trường bước đầu đi vào hoạt động và đạt được
một số kết quả nhất định. Mỗi năm có trên 8.560 tấn rác thải được thu gom và
xử lý, đạt trên 65%, góp phần đưa công tác bảo vệ môi trường trên địa bàn được
đảm bảo. Hàng năm giải quyết việc làm cho 266 lao động. Một số xã đã hoạt
động tốt là: Thị trấn Nam Giang, Nam Tiến, Nam Hồng, Nam Mỹ….
- Theo thống kê năm 2015, khối lượng rác thải sinh hoạt phát sinh trên địa
bàn huyện Nam Trực khoảng 18.714 tấn/năm, trong đó lượng rác thải được phân
loại và tự xử lý tại nguồn khoảng 5.614 tấn, đạt tỷ lệ 30%; lượng rác phải thu
gom là 13.100 tấn/năm; lượng rác thải được thu gom, xử lý là 8.560 tấn, đạt tỷ lệ
65% trên tổng rác thải phải thu gom.
Rác thải sau khi thu gom được vận chuyển đến nơi xử lý, chôn lấp. Tần
suất thu gom, vận chuyển phụ thuộc vào từng địa phương cụ thể, thông thường ở
khu vực thị trấn tần suất 3 lần/tuần, ở nông thôn tần suất thu gom 2 lần/tuần.
Do nguồn thu khó khăn, trong khi đó một số xã, thị trấn chưa chủ động bố
trí ngân sách hỗ trợ cho công tác VSMT, dẫn đến một số nơi, ở một số thời điểm
việc thu gom rác không kịp thời, hiện tượng rác thải ứ đọng tại các khu dân cư,
công sở, các trục đường còn xảy ra. Ở một số xã còn tuỳ tiện tổ chức chôn lấp,
đốt rác không đúng quy định.
1.3.2. Dự báo tình trạng rác thải trong thời gian tới
Hiện nay, trong quá trình đổi mới, đẩy mạnh phát triển kinh tế, quá trình
công nghiệp hóa, hiện đại hóa, hình thành các mô hình phát triển kinh tế tập



11
trung theo chủ trương xây dựng nông thôn mới, đời sống nhân dân được cải
thiện dẫn đến lượng chất thải, nhất là chất thải rắn phát sinh trên các xã, thị trấn
ngày càng tăng. Theo số liệu thống kê, mức tính lượng rác thải phát sinh trên
đầu người và dự báo lượng rác thải rắn phát sinh trong những năm tới như sau:
năm 2015 số lượng rác phát sinh là 22.774 tấn trong đó lượng rác được phân
loại và tự xử lý là 7.971 tấn (35%), lượng rác cần thu gom và xử lý là 14.803;
đến năm 2020 số lượng rác phát sinh là 27.812 tấn trong đó lượng rác được phân
loại và tự xử lý là 11.125 tấn (40%), lượng rác cần thu gom và xử lý là 16.687
tấn.
Trong khi đó, từ tình hình thực tế về quy mô của các bãi chôn lấp rác thải,
cùng với tốc độ phát triển kinh tế - xã hội, tốc độ gia tăng dân số nhu cầu của xã
hội về một môi trường xanh, sạch đang đòi hỏi các cấp uỷ, chính quyền quan
tâm chỉ đạo thực hiện.
1.3.3. Yêu cầu đặt ra đối với công tác bảo vệ môi trường của xã Cẩm
Bình
- Đối với xã Nam Toàn, do sự phát triển nhanh của nghề trồng hoa, cây
cảnh, cây bóng mát, trồng rau xanh và chăn nuôi nên công tác BVMT đã được
Đảng ủy, UBND xã quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện. Về trồng trọt, đến
nay, gần ½ diện tích đất nông nghiệp đã được người dân chuyển đổi trồng hoa,
cây cảnh, cây bóng mát. Các diện tích còn lại, đặc biệt là các vùng xen kẹp trồng
lúa không thuận lợi, bà con nông dân chuyển đổi sang các mô hình gia trại, trang
trại hiệu quả. Hiện nay, toàn xã có …. trang trại, … gia trai với quy mô….
- Cùng với việc phát triển sản xuất, các hoạt động thương mại, dịch vụ
ngày một phát triển, bộ mặt nông thôi thay đổi rõ rệt… Hiện nay có 152 hộ
buôn bán cố định trong đó có 58 hộ ngoài xã, con em Nam Toàn đi làm ăn xã về
đầu tư mở ốt, quán tại xã. Có nhiều hộ trở thành đại lý của nhiều sản phẩm hàng
hóa cung cấp cho hệ thống bán buôn, bán lẻ trong cụm. Chính điều đó, đặt ra
những thách thức đối với công tác môi trường.
- Yêu cầu của công cuộc xây dựng nông thôn mới đòi hỏi phải làm tốt

công tác môi trường: Chính phủ đã ban hành Bộ tiêu chí quốc gia nhằm xây
dựng nông thôn mới gồm 19 tiêu chí, trong đó tiêu chí thứ 17 là tiêu chí về môi
trường, bao gồm: Tỷ lệ hộ được sử dụng nước sạch hợp vệ sinh theo quy chuẩn
Quốc gia; các cơ sở sản xuất, kinh doanh đạt tiêu chuẩn về môi trường; không


12
có các hoạt động gây suy giảm môi trường và có các hoạt động phát triển môi
trường xanh, sạch, đẹp; nghĩa trang được xây dựng theo qui hoạch; chất thải,
nước thải được thu gom và xử lí theo qui định. Mục tiêu của tiêu chí nàu là: bảo
vệ môi trường, sinh thái, cải thiện, nâng cao chất lượng môi trường khu vực
nông thôn. Có thể nói đây là một tiêu chí khó với nhiều chỉ tiêu cần thực hiện để
đạt theo yêu cầu đề ra khi mà vấn đề ô nhiễm môi trường nông thôn đang là vấn
đề bức xúc của toàn xã hội, đặc biệt đối với cộng đồng người dân sống ở khu
vực nông thôn. Trong đó, vấn đề đáng quan tâm hiện nay đó là ô nhiễm môi
trường nước do nước thải từ sinh hoạt và hoạt động sản xuất nông nghiệp; ô
nhiễm môi trường không khí từ các làng nghề thủ công, hoạt động chăn nuôi,
thói quen đốt rác, chất thải rắn không được thu gom và xử lí hợp vệ sinh, việc sử
dụng hóa chất bảo vệ thực vật, nuôi trồng thủy sản không đúng qui định...
- Việc thu gom, xử lí rác thải ở xã Nam Toàn cũng có rất nhiều vấn đề
phải bàn. Mặc dù, bước đầu người dân đã có ý thức về công tác thu gom và xử
lý rác thải nhưng chưa thực sự thường xuyên, bền vững; việc phân loại rác thải
tại nguồn chưa được người dân quan tâm. Vì vậy, vấn đề đặt ra là phải nâng cao
ý thức BVMT cho người dân, để người dân thấy được trách nhiệm của mình và
tích cực, tự giác thực hiện. Trong đó, việc thu gom, xử lí, phân loại rác thải phải
được chú trọng hơn nữa để hạn chế tối đa hiện tượng xả thải chất thải, rác thải
bừa bãi ra cộng đồng dân cư.
Thực tiễn nêu trên đang đặt ra sự cần thiết phải tăng cường công tác
tuyên truyền và nâng cao hiệu quả công tác tuyên truyền nâng cao nhận thức
và thay đổi thái độ và hành vi của nhân dân trên địa bàn xã Nam Toàn,

huyện Nam Trực, tỉnh Nam Định về vệ sinh môi trường theo chuẩn nông
thôn mới.
2. Nội dung thực hiện của Đề án
2.1. Bối cảnh thực hiện đề án và những yếu tố ảnh hưởng đến việc
thực hiện đề án.
2.1.1. Bối cảnh thực hiện đề án
Nam Toàn là xã nông thôn, nằm ở phía Bắc huyện Nam Trực, tiếp giáp
phía Nam thành phố Nam Định. Với diện tích tự nhiên 1.086 ha, có 1.357 hộ và
4.852 nhân khẩu, có quốc lộ 21, quốc lộ 10 (đường Lê Đức Thọ), tỉnh lộ 490, đi
qua. Trong sự nghiệp đổi mới, Đảng bộ và nhân dân Nam Toàn đang nỗ lực,
phấn đấu hoàn thành xây dựng xã đạt chuẩn nông thôn mới vào năm 2017. Đây


13
là nhiệm vụ hết sực nặng nề đòi hỏi cả hệ thống chính trị của xã cùng tất cả mọi
người dân đồng thuận, chung sức đồng lòng mới có thể thực hiện được. Hiện
nay xã Nam Toàn đã đạt được …. / 19 tiêu chí, …. Tiêu chí còn lại đã xây dựng
kế hoạch, lộ trình để quyết liệt thực hiện.
2.1.2. Những yếu tố ảnh hưởng đến việc thực hiện đề án
- Yếu tố khách quan ảnh hưởng đến việc thực hiện Đề án:
Cùng với sự phát triển kinh tế, xã hội của nước ta, trong những năm gần
đây các ngành sản xuất kinh doanh dịch vụ ở các đô thị và khu công nghiệp
được mở rộng và phát triển nhanh chóng, một mặt đóng góp tích cực cho sự phát
triển của đất nước, mặt khác tạo ra một lượng lớn chất thải rắn bao gồm: chất
thảo sinh hoạt, chất thải công nghiệp, chất thải y tế.
Theo thống kê, bình quân mỗi ngày, lượng lượng rác thải sinh hoạt phát
sinh từ các gia đình, khu dân cư trên địa bàn tỉnh khoảng 1.141 tấn/ngày (tương
đương 416.465 tấn/năm). Hiện nay, tỷ lệ thu gom chất thải rắn sinh hoạt vùng
đô thị 90,1%, vùng nông thôn 37,6%, tổng lượng rác sinh hoạt thu gom được
trên toàn tỉnh khoảng 530 tấn/ngày. Trong đó, tại các vùng nông thôn, ti lệ thu

gom và xử lí mới chỉ đạt 70%, còn khoảng 30% không được thu gom mà xả thải
trực tiếp ra đường, sông, suối, ao hồ, kênh, mương.
Đường lối đổi mới của Đảng; phong trào xây dựng nông thôn mới đang
diễn ra trong phạm vị cả nước. Đặc biệt , mục tiêu đạt xã Nông thôn mới vào
năm 2017 đang đến rất gần. Vì vậy việc làm tốt công tác tuyên truyền để nhân
dân trong xã nhận thức thấu đấu về công tác BVMT, giữ gìn môi trường sống
trong sạch, an toàn cho mình, cho gia đình mình và cộng đồng xung quanh là
yếu tố quan trọng và bền vững nhất trong việc đạt và duy trì chất lượng tiêu chí
số 17 về Môi trường trở thành một yêu cầu mang tính tất yếu.
- Những yếu tố chủ quan tác động đến việc thực hiện đề án
Đề án: “Nâng cao hiệu quả công tác tuyên truyền cho người dân về ý thức
bảo vệ môi trường trong việc thu gom, xử lý rác thải tại xã Nam Toàn giai đoạn
2016 – 2020” chịu sự tác động bởi ý thức vệ sinh môi trường của mỗi người
dân, mỗi thôn, mỗi làng trong xã; trong cuộc sống hành ngày và trong quá trình
sản xuất nông nghiệp như chăn nuôi, trồng trọt và sản xuất, kinh doanh …
2.2. Thực trạng hiệu quả công tác tuyên truyền cho người dân về ý
thức bảo vệ môi trường trong việc thu gom rác thải ở xã Nam Toàn.


14
- Hoạt động tuyên truyền cho người dân về ý thức bảo vệ môi trường
trong việc thu gom, xử lý rác thải ở xã Nam Toàn trong thời gian qua:
* Trong công tác lãnh đạo, chỉ đạo
Thời gian qua, được sự quan tâm của các cơ quan, ban, ngành, các cấp
chính quyền địa phương, cùng với nhận thức về bảo vệ môi trường của nhân dân
đã được nâng lên, công tác thu gom, xử lý rác thải khu vực nông thôn trên địa
bàn xã Nam Toàn đã có những chuyển biến. Đảng ủy, Hội đồng nhân dân, ủy
ban nhân dân xã Nam Toàn đã thực sự quan tâm đến công tác thu gom, xử lý rác
thải khu vực nông thôn.
Để công tác bảo vệ môi trường đi vào nề nếp, để nâng cao được ý thức

cho người dân trong việc thu gom, xử lí rác thải, cuối năm 2011, xã đã thành lập
đã thành lập tổ thu gom rác thải, đã bố trí nơi tập kết rác thải. Công tác thu phí
vệ sinh môi trường đã được triển khai tương đối hiệu quả. Song song với việc
thu gom, chôn lấp rác thải, tổ thu gom đã thực hiện thu phí được gần 80% hộ
dân trên địa bàn với mức thu là 10 ngàn đồng/hộ/tháng nhằm duy trì hoạt động
của các Tổ, đã góp phần khắc phục tình trạng ô nhiễm môi trường do rác thải
gây ra.
+ Công tác tập huấn, phổ biến các nội dung về bảo vệ môi trường đã
được cấp ủy, chính quyền chỉ đạo sâu sát. Vì vậy, các tổ chức, ban, ngành đã
chủ động trong việc mở các lớp tập huấn nhằm trang bị những kiến thức cơ bản
về công tác môi trường đến tận từng người dân, đến các hội viên, đoàn viên ở
các tổ chức hội. Đặc biệt, trong 2 năm 2011 và 2012 hoạt động tập huấn được
tiến hành có hiệu quả, trung bình mỗi năm các tổ chức hội và đoàn thể đã làm tốt
công tác phối hợp đê mở từ 2 lớp tập huấn trở lên.
Ngoài những lớp tập huấn thì trong những buổi họp thôn, những buổi sinh
hoạt của các tổ chức hội, đoàn thể, việc phổ biến, tuyên truyền nội dung về bảo
vệ môi trường, về sự cần thiết trong thu gom, xử lí rác thải đã được lồng ghép,
được kết hợp để tuyên truyền. Vì vậy, số người được tiếp cận với những nội
dung về công tác bảo vệ môi trường ngày càng cao. Từ đó, tạo nên một khối
thống nhất để cùng nhau hành động vì một môi trường an lành, không ô nhiễm
bởi các nguồn rác thải.
+ Tổ chức tuyền truyền sâu rộng nâng cao nhận thức cho cán bộ và nhân
dân về tầm quan trọng và sự cần thiết của công tác bảo vệ môi trường, hoạt
động thu gom, xử lý rác thải dựa vào cộng đồng để góp phần cải thiện tình


15
trạng vệ sinh môi trường trên địa bàn xã nói chung và các thôn nói riêng. Đảm
bảo sức khoẻ cộng đồng và góp phần vào sự phát triển bền vững. Việc thực hiện
tuyên truyền trên hệ thống truyền thanh của xã đã được thực hiện nghiêm túc, có

bài bản nên đã tác động đáng kể đến nhận thức và hành động của nhân dân trong
xã. Hiện nay, tại các địa bàn thôn, nhân dân đã có ý thức thu gom rác thải rồi tập
kết đến nơi qui định.
+ Cấp ủy Đảng, chính quyền ở xã Nam Toàn đã có sự quan tâm chỉ
đạo, các tổ chức hội, đoàn thể thực hiện công tác bảo vệ môi trường với
nhiều hình thức, nội dung đa dạng, phong phú thông qua các phương tiện
truyền thông và các hoạt động của các tổ chức đoàn thể nhân các sự kiện về
môi trường: Ngày môi trường thế giới 5 tháng 6; tuần lễ quốc gia về nước
sạch về vệ sinh môi trường (29 tháng 4 đến 6 tháng 5), chiến dịch làm cho thế
giới sạch hơn (20 tháng 9), ngày đa dạng sinh học (22 tháng 5)...Bên cạnh đó,
các nhà trường trên địa bàn của xã đã lồng ghép nội dung giáo dục bảo vệ môi
trường trong các môn học, nhất là những tiết học ngoài giờ ở các bậc học, cấp
học. Nhờ vậy, bước đầu đã hình thành thói quen, hành vi giữ gìn và bảo vệ
môi trường của học sinh. Các nhà trường đều đã triển khai được mô hình
“Trường Xanh – Sạch – Đẹp”.
+ Nhờ đẩy mạnh công tác tuyên truyền nên nhận thức, ý thức trách nhiệm
của cán bộ, nhân dân về quản lí, thu gom và xử lí rác thải được nâng lên. Cuối
năm 2011,Nam Toàn đã thành lập hợp tác xã môi trường, vừa đáp ứng nhu cầu
thực tiễn về thực trạng rác thải ở nông thôn, vừa thực hiện tiêu chí vệ sinh môi
trường trong xây dựng nông thôn mới.
+ Các chủ thể đã tham gia hoạt động tuyên truyền:
- Ngành văn hóa: Đã xây dựng được kế hoạch tuyên truyền phù hợp
với từng giai đoạn, từng thời kì nhằm nâng cao nhận thức của nhân dân trong
việc thu gom, xử lí rác thải trên địa bàn, khu dân cư.
- Tài nguyên môi trường: Đã chủ trì và phối hợp với các ngành, tổ chức
liên quan thực hiện các nhiệm vụ như: hướng dẫn qui trình thu gom, phân loại
và xử lí rác thải tại cộng đồng dân cư. Tổ chức thực hiện các cơ chế, chính
sách hỗ trợ, các chương trình nâng cao nhận thức, năng lực về quản lí, xử lí
rác thải, kiểm tra công tác thu gom, xử lí rác thải.



16
- Giáo dục, đào tạo: Xây dựng kế hoạch, chương trình, nội dung giáo
dục về bảo vệ môi trường, các tài liệu liên quan đến chất thải, nhất là chất
thải rắn để tổ chức tuyên truyền, giáo dục trong các cấp học.
- Trạm y tế xã: Thực hiện tốt việc quản lí, phân loại, thu gom và xử lí
rác thải y tế theo qui định. Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát đối với các
cán bộ, nhân viên y tế trong việc thực hiện nghiêm túc các qui định về quản lí
và xử lí rác thải y tế.
+ Tại xã Nam Toàn, công tác bảo vệ môi trường trên địa bàn mặc dù đã
được quan tâm nhưng vẫn còn những tồn tại. Đặc biệt là rác thải sinh hoạt chưa
được thu gom và xử lí triệt để xảy ra ở một số xóm, hộ gia đình; ý thức của
người dân trong công tác giữ gìn vệ sinh môi trường còn thấp, còn xảy ra tình
trạng vứt rác, xả nước thải sinh hoạt, chăn nuôi chưa qua xử lý ra môi trường.
Nhận thức về bảo vệ môi trường trong các cấp, các ngành và nhân dân đã
được nâng lên; mức độ gia tăng ô nhiễm, suy thoái và sự cố môi trường đã từng
bước được hạn chế; công tác bảo tồn thiên nhiên và bảo vệ đa dạng sinh học đã
đạt được những tiến bộ rõ rệt.
Làm cho mỗi người dân trong cộng đồng dân cư hiểu được, nhận thức
được tầm quan trọng của yếu tố môi trường trong việc sinh sống, sản xuất, sinh
hoạt hàng ngày. Làm cho mọi người nhận thức một cách tự giác về vị trí, vai trò,
mỗi quan hệ mật thiết giữa tự nhiên – con người – xã hội. Tình trạng ô nhiễm
môi trường trên địa bàn xã Nam Toàn sẽ sớm được cải thiện được nếu mỗi
người dân biết góp sức mình, chung tay bảo vệ môi trường. Vì vậy, cần chung
tay bảo vệ môi trường và tránh gây ô nhiễm. Vì một tương lai xanh, sạch, đẹp và
vì cuộc sống của chính chúng ta cũng như của các thế hệ mai sau.
Các tổ chức hội như: hội nông dân, hội cựu chiến binh, hội phụ nữ, hội
người cao tuổi, đoàn thanh niên đã triển khai nhiều hoạt động nhằm tăng
cường công tác tuyên truyền nâng cao nhận thức của nhân dân thực hiện nếp
sống văn minh, không đổ rác và vứt rác bừa bãi ra khu vực công cộng. Tiếp

tục nhân rộng các mô hình về bảo vệ môi trường, như: hợp tác xã vệ sinh môi
trường, các mô hình tự quản về vệ sinh môi trường, mô hình 3 sạch của hội
phụ nữ: “Sạch nhà, sạch bếp, sạch ngõ...”
Xã đã triển khai đề án thu gom rác thải gắn với việc thực hiện chương
trình xây dựng nông thôn mới, trong đó vận động nhân dân thực hiện tốt việc
chỉnh trang đường làng ngõ xóm, trồng cây, khơi thông cống rãnh, vệ sinh


17
môi trường, xây dựng hệ thống thoát nước...Các xóm đã định kỳ hàng tháng
tổ chức thực hiện công tác thu gom rác thải ở khu dân cư.
Các ngành, các tổ chức đoàn thể và nhân dân phần nào đã hiểu được
rằng công tác quản lí, thu gom rác thải là một trong những ưu tiên hàng đầu
đối với công tác bảo vệ môi trường của địa phương, góp phần kiểm soát ô
nhiễm, hướng tới môi trường sống ngày càng xanh – sạch – đẹp.
Hầu hết mọi người đã hiểu được rằng công tác quản lí, thu gom, xử lí
rác thải là trách nhiệm chung của toàn xã hôi, của cấp ủy, chính quyền và các
tổ chức, cá nhân trên địa bàn. Việc thu gom, xử lí rác thải được xác định là
nhiệm vụ trọng tâm của chính quyền.
Công tác quản lí, thu gom, xử lí rác thải đang từng bước hướng đến
đảm bảo nguyên tắc “người gây ô nhiễm phải chịu trách nhiệm giải quyết ô
nhiễm”, các tổ chức, cá nhân gây ô nhiễm môi trường, làm suy thoái môi
trường phải có trách nhiệm đóng góp kinh phí, khắc phục bồi thường thiệt hại
theo đúng qui định pháp luật.
* Những hạn chế và nguyên nhân:
+ Hạn chế: Mặc dù đã đạt được những kết quả nhất định về công tác
VSMT, nhưng Đảng ủy, UBND xã Nam Toàn xác định đây là tiêu chí khó, đòi
hỏi vốn đầu tư lớn, sự vào cuộc của người dân mới có sự bền vững về lâu dài.
Do đó, một trong những nhiệm vụ trọng tâm được xã tập trung thực hiện là đẩy
mạnh tuyên truyền nâng cao nhận thức của người dân về vệ sinh môi trường

nhằm thay đổi những thói quen xấu, ảnh hưởng đến môi trường.
Nhìn chung, những nhiệm vụ trong công tác môi trường, trong thực hiện
đề án: “Nâng cao hiệu quả công tác tuyên truyền cho người dân về ý thức bảo vệ
môi trường trong việc thu gom, xử lý rác thải tại xã Nam Toàn giai đoạn 2016 –
2020” cần phải được triển khai một các đồng bộ, kịp thời và tích cực mới đảm
bảo được các yếu tố về môi trường, nhất là trong xây dựng nông thôn mới.
Việc thu gom rác thải đã được xã Nam Toàn quan tâm. Năm 2015 có
khoảng 70 % rác thải đã được hợp tác xã thu gom đưa đi xử lí theo đúng qui
định. Nhưng điều đáng nói là do nhiều yếu tố liên quan nên thực trạng thu gom
rác thải hiện nay của xã là: nhân dân thu gom rác thải của gia đình mình rồi
mang ra bãi tập kết ở ven đường để tổ thu gom 2 lần/tuần vận chuyển ra bãi xử
lý, chôn lấp. Điều đó, khiến cho rác thải bị tập kết lâu ngày, bốc mùi hôi thối
khiến cho người dân đi qua phải nín thở và người dân ở gần những bãi tập kết


18
rác này rất khó chịu. Đó là số rác được thu gom xử lí. Còn lại lượng rác không
được thu gom thì người dân đổ bừa bãi ở các gốc cây, đầu đường, góc hẻm, các
dòng sông, ao hồ hoặc rác thải lộ thiên mà không được xử lí. Đây sẽ là nơi nuôi
dưỡng ruồi nhặng, dán chuột...là nguyên nhân trực tiếp lây truyền mầm bệnh,
mất mỹ quan đường làng, ngõ xóm.
Trong quá trình thực hiện công tác vệ sinh môi trường, vẫn còn bộc lộ
một số tồn tại đó là việc thu go, xử lí rác thải chưa được thực hiện đồng bọ, công
tác thu gom chưa được triệt để, tình trạng vứt rác và tập kết bừa bãi tại một số
trục đường giao thông, sông suối, kênh mương hoặc xử lí bằng hình thức đốt thủ
công còn khá nhiều.
Một bộ phận nhân dân còn chưa tự giác và có ý thức phân loại, thu gom
tác và đóng nộp vệ sinh môi trường.
+ Nguyên nhân chính là do ý thức trách nhiệm và nhận thức của người
dân về công tác thu gom, xử lý rác thải còn nhiều hạn chế. Mặt khác việc phân

công, phân cấp trong công tác quản lý Nhà nước về bảo vệ môi trường nói
chung, thu gom xử lý rác thải nói riêng còn nhiều bất cập, chưa có giải pháp và
chế tài để xử lý kịp thời các trường hợp vi phạm.
Vì vậy, việc nâng cao hiệu quả công tác tuyên truyền kết hợp với đổi mới
tổ chức, ban hành các cơ chế, chính sách, lựa chọn mô hình, công nghệ phù hợp
để quản lý, vận hành, thu gom, xử lý rác thải trên địa bàn của Xã là nhiệm vụ ưu
tiên hàng đầu trong công tác bảo vệ môi trường.
2.3. Nội dung cụ thể Đề án cần thực hiện
Một là, tổ chức tuyên truyền nâng cao nhận thức của người dân ở Xã về
sự cần thiết phải làm tốt công tác vệ sinh môi trường, hướng dẫn người dân cách
thức xử lý chất thải trong sinh hoạt và trong sản xuất nông nghiệp, đảm bảo vệ
sinh môi trường.
Hai là, phát huy vai trò của các tổ chức chính trị xã hội như Hội nông
dân, Hội Phụ nữ, đoàn thanh niên trong việc tuyên truyền, nâng cao nhận thức,
thay đổi thái độ và hành vi của người dân trong việc thu gom chất thải sinh hoạt
và trong sản xuất nông nghiệp đảm bảo vên sinh môi trường.
Ba là, Tuyên truyền, hướng dẫn nhân dân thực hiện các mô hình xử lý
chất thải có hiệu quả, đảm bảo vệ sinh môi trường. Chấm dứt nạn đổ rác và xả
nước thải chưa qua xử lý vào các sông, kênh, rạch, ao, hồ. Thu gom và xử lý
toàn bộ rác thải sinh hoạt và rác thải công nghiệp bằng các phương pháp thích


19
hợp, trong đó ưu tiên cho việc tái sử dụng, tái chế chất thải, hạn chế tối đa khối
lượng rác chôn lấp.
Bốn là, khắc phục tình trạng mất vệ sinh công cộng bằng cách bảo đảm
các điều kiện về nơi vệ sinh, phượng tiện đựng rác ở những nơi đông người qua
lại và xử lí nghiêm các trường hợp vi phạm. Tăng cường trồng các loại cây xanh
dọc các tuyến đường liên thôn, liên xã. Mỗi người dân hạn chế sử dụng hóa chất
trong canh tác nông nghiệp và nuôi trồng thủy sản, thu gom và xử lí hợp vệ sinh

đối với các loại bao bì chứa đựng hóa chất sau khi sử dụng.
Năm là, làm tốt công tác xã hội hóa việc bảo vệ môi trường…. Hình thành
nếp sống hợp vệ sinh gắn với việc khôi phục phong trào xây dựng “ba công trình
vệ sinh” của từng hộ gia đình phù hợp với tình hình thực tế. Mỗi người dân có ý
thức bảo vệ môi trường, bảo đảm hài hòa giữa lợi ích kinh tế với công tác môi
trường.
2.4. Các giải pháp, biện pháp thực hiện đề án
2.4.1. Đẩy mạnh tuyên truyền, giáo dục nâng cao nhận thức và trách
nhiệm thu gom, xử lí rác thải bảo vệ môi trường cho người dân
Để có sự thành đổi về hành vi thì nhận thức là yếu tố mang tính nền tảng
và có tính chất quyết định. Vì vậy, để người chung tay trong công tác bảo vệ
môi trường thì việc tuyên truyền, giáo dục nhận thức cho mỗi người về trách
nhiệm bảo vệ môi trường là điều hết sức cần thiết. Một trong những cách tuyên
truyền, giáo dục hiệu quả nhất là giáo dục kiến thức về môi trường nhằm hướng
đối tượng giáo dục có hành động bảo vệ môi trường. Nhận thức được tầm quan
trọng của việc giáo dục môi trường trong công tác bảo vệ môi trường, Đảng và
Nhà nước đã có những chính sách, những chương trình hành động cụ thể, và đã
đạt được những thành tựu đáng kể. Các chương trình giáo dục môi trường bao
gồm cả chính khóa và ngoại khóa đã được triển khai tới tất cả các cấp học trong
hệ thống giáo dục của Việt Nam. Các chiến dịch nâng cao nhận thức cộng đồng,
và vận động quần chúng cũng như các tổ chức xã hội khác tham gia vào việc
bảo vệ mội trường tiến hành hàng năm. Hệ thống thông tin và dữ liệu môi
trường cũng đã được xây dựng và ngày càng hoàn thiện hơn.
Đa dạng hóa các hình thức tuyên truyền, phổ biến chính sách, chủ trương,
pháp luật và các thông tin về môi trường và sự phát triển bền vững cho mọi
người, đặc biệt là trong thanh niên, thiếu niên, đưa nội dung giáo dục môi
trường vào các chương trình giáo dục, vào các buổi họp thôn, xóm; các buổi


20

sinh hoạt của các tổ chức đoàn thể như: cựu chiến binh, hội phụ nữ, hội nông
dân, đoàn thanh niên...để đối tượng tiếp nhận các kiến thức, các hiểu biết về môi
trường được nâng lên. Từ đó, tạo nên hiệu ứng xã hội cũng lớn hơn.
Bằng các biện pháp cụ thể trong cộng đồng dân cư, bằng chính nhận thức
của mỗi người dân về bảo vệ môi trường để tạo thành dư luận xã hội trong việc
lên án nghiêm khắc đối với các hành vi gây mất vệ sinh và ô nhiễm môi trường
đi đôi với việc áp dụng các chế tài, xử lí nghiêm, đúng mực mọi vi phạm.
Xây dựng tiêu chí, chuẩn mực về môi trường để đánh giá mức độ bảo vệ
môi trường của từng cơ sở sản xuất, từng hợp tác xã, từng gia đình, từng tổ liên
gia, từng cán bộ, đảng viên, đoàn viên và hội viên. Từ tiêu chí, chuẩn mực đó
công khai ở các nhà văn hóa thôn, các buổi sinh hoạt cộng đồng để người dân tự
đánh giá mức độ bảo vệ môi trường, sau đó sẽ có sự ghi nhận, đồng tình hay
phản đối nhằm làm cho công tác bảo vệ môi trường được tốt hơn.
Khôi phục và phát huy truyền thống yêu thiên nhiên, nếp sống gần gũi,
gắn bó với môi trường.
Khi đẩy mạnh tuyên truyền, giáo dục nâng cao nhận thức và trách nhiệm
bảo vệ môi trường cho người dân thì chính những thông tin, kiến thức về môi
trường được tích lũy trong mỗi cá nhân sẽ nuôi dưỡng và nâng cao ý thức và
tinh thần trách nhiệm về bảo vệ môi trường của chính họ, tạo nên những động cơ
mạnh mẽ, những cam kết vững chắc hướng về một môi trường trong lành và
phát triển trong tương lai. Bởi vì, mỗi cá nhân nếu đều có ý thức đóng góp
những hành động dù nhỏ nhưng tích cực cũng sẽ góp phần tạo nên những thay
đổi lớn tốt đẹp hơn cho môi trường.
Mục đích cuối cùng của việc tăng cường các giải pháp tuyên truyền, giáo
dục nâng cao nhận thức và trách nhiệm bảo vệ môi trường là tiến tới xã hội hóa
các vấn đề môi trường, nghĩa là tạo ra các công dân có nhận thức, có trách
nhiệm với môi trường, biết sống vì môi trường.
Một khi các vấn đề môi trường đã được xã hội hóa thì những lợi ích kinh
tế cho cộng đồng ngày một gia tăng và đặc biệt hiệu lực quản lý nhà nước
tăng nhưng gánh nặng chi phí sẽ giảm. Do đó, không có giải pháp nào kinh tế

và hiệu quả bằng việc đầu tư vào con người thông qua công tác giáo dục môi
trường.
Việc nâng cao hiệu quả công tác tuyên truyền cho người dân về ý thức
bảo vệ môi trường trong việc thu gom, xử lý rác thải phải được thực hiện thường


21
xuyên, liên tục với nhiều hình thức khác nhau. Không chỉ là trong các buổi họp,
trong những lần tiếp cúc trực tiếp của cán bộ với người dân, không chỉ là những
kiến thức trong sách vở mà còn được thực hiện thông qua các phương tiện thông
tin đại chúng, đặc biệt là phát huy tối đa hiệu quả của công tác truyền thanh cơ
sở.
Tăng cường kiểm soát ô nhiễm tại nguồn; chú trọng quản lí chất thải, nhất
là chất thải nguy hại trong sản xuất công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp cũng như
các dịch vụ y tế. Kiểm soát chặt chẽ việc sử dụng phân hóa học, thuốc bảo vệ
thực vật, hóa chất bảo quản nông sản, thức ăn và thuốc phòng trừ dịch bệnh
trong nuôi trồng thủy sản.
Chú trọng bảo vệ môi trường không khí, đặc biệt là khi dân cư tập trung.
Tích cực góp phần hạn chế tác động của sự biến đổi khí hậu.
Ưu tiên phục hồi môi trường các khu vực đã bị ô nhiễm nghiêm trọng, các
hệ sinh thái đã bị suy thoái nặng.
Giải quyết cơ bản tình trạng ô nhiễm nguồn nước và ô nhiễm môi trường
nghiêm trọng trong các khu dân cư do chất thải trong sản xuất công nghiệp, tiểu
thủ công nghiệp, do chăn nuôi xả ra môi trường.
Hình thành cho được ý thức giữ gìn vệ sinh chung, xóa bỏ các phong tục,
tập tục lạc hậu, các thói quen, nếp sống không văn minh, không hượp vệ sinh.
Xây dựng công sở, gia đình, thôn, khu dân cư sạch, đẹp đáp ứng các yêu
cầu về vệ sinh môi trường.
2.4.2 Tăng cường công tác quản lý của Nhà nước về thu gom, xử lí rác
thải bảo vệ môi trường.

Phát triển các hình thức cung cấp nước sạch nhằm giải quyết cơ bản nước
sinh hoạt cho nhân dân, bảo vệ chất lượng các nguồn nước, đặc biệt chú ý khắc
phục tình trạng khai thác, sử dụng bừa bão, gây cạn kiệt, ô nhiễm nguồn nước
ngầm.
Mỗi người dân cùng với cấp ủy Đảng, chính quyền chung tay khắc phục
cơ bản nạn ô nhiễm môi trường ở các ngành nghề, các cơ sở sản xuất công
nghiệp, tiểu thủ công nghiệp đi đôi với hình thành các cụm công nghiệp bảo
đảm các điều kiện về xử lí môi trường, chủ động có kế hoạch thu gom và xử lí
khối lượng rác thải đang ngày càng tăng lên.
Trong thời gian tới, cùng với sự phát triển kinh tế - xã hội chung của
huyện Nam Trực, xã Nam Toàn với đặc điểm là xã giáp gianh thành phố, có


22
nhiều tuyến đường giao thương quan trọng đi qua ngày càng chuyển mình mạnh
mẽ. Cùng với việc phát triển kinh tế, chất thải trong sản xuất, sinh hoạt ngày
càng nhiều, nếu không có sự quản lý tốt, không được sự quan tâm đúng mức của
chính quyền các cấp sẽ gây ra tình trạng ô nhiễm môi trường. Để giải quyết triệt
để về công tác thu gom, vận chuyển và xử lý rác thải nhằm tạo ra một môi trường
trong sạch, tạo cảnh quan và môi trường sống cho nhân dân thì rõ rằng có thể thấy
rằng, vai trò của công tác quản lí là hết sức quan trọng, vừa là tạo cơ chế chính
sách, vừa là để định hướng hoạt động.
Những cán bộ quản lí các cấp, những người đứng đầu các tổ chức hội,
đoàn thể chính là những người có vai trò quyết định đối với sự phát triển bền
vững của xã hội. Tuy nhiên, nhiều cán bộ quản lý còn chưa thể hiện sự quan tâm
đúng mức đến tầm quan trọng của môi trường hoặc còn xem vấn đề môi trường
là yếu tố gây cản trở với quá trình phát triển, với việc khai thác các nguồn tài
nguyên phục vụ cho công cuộc phát triển. Bởi vậy, ở nhiều ngành khi lập kế
hoạch phát triển kinh tế, thì vấn đề môi trường mới chỉ được coi là nội dung
mang tính tham khảo hoặc một nội dung bổ trợ mà chưa được xem là mục tiêu

cần thiết của tổ chức đó. Vì vậy, việc tập huấn, giáp dục thông qua đào tạo cập
nhật môi trường là rất cần thiết để những người làm công tác quản lí phải có
trách nhiệm với môi trường mỗi khi cầm bút phê duyệt một nội dung phát triển,
một dự án, công trình xây dựng hay một quyết sách có liên quan đến yếu tố môi
trường.
Để hạn chế những tồn tại trong công tác môi trường và nâng cao nhận
thức của người dân trong việc thu gom, xử lí rác thải thì rõ ràng việc hoàn thiện
hơn nữa hệ thống pháp luật, cơ chế, chính sách về bảo vệ môi trường là điều hết
sức cần thiết. Tiếp tục kiện toàn và tăng cường năng lực tổ chức bộ máy, bảo
đảm thực hiện đảm thực hiện hiệu quả công tác quản lý nhà nước về bảo vệ môi
trường từ trung ương đến cơ sở. Xác định rõ trách nhiệm và phân công, phân
cấp hợp lý nhiệm vụ bảo vệ môi trường giữa các ngành, các cấp. Xây dựng và
phát triển các cơ chế giải quyết cấn đề môi trường liên ngành, liên vùng. Chú
trọng xây dựng năng lực ứng phó sự cố môi trường.
Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát; quy định và áp dụng
các chế tài cần thiết để xử lý nghiêm các vi phạm pháp luật về bảo vệ môi
trường. Sớm xây dựng, ban hành qui định giải quyết bồi thường thiệt hại về môi
trường. Phát huy vai trò, trách nhiệm của các cấp, các ngành, các hộ dân và các


×