Tải bản đầy đủ (.doc) (28 trang)

Một số phương pháp đặt câu hỏi trong giảng dạy Ngữ Văn THCS

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (207.39 KB, 28 trang )

Một số phương pháp đặt câu hỏi trong
giảng dạy Ngữ Văn THCS
MỤC LỤC
STT

MỤC
Mục lục

TRANG
1,2

Từ ngữ viết tắt

3

Lời giới thiệu

4

1.1

Lý do chọn đề tài

4

1.2

Mục đích nghiên cứu

5


1.3

Đối tượng, phạm vi, thời gian nghiên cứu

5

1.4

Phương pháp nghiên cứu

5

2

Tên sáng kiến

5

3

Tác giả sáng kiến

6

4

Chủ đầu tư tạo ra sáng kiến

6


5

Lĩnh vực áp dụng sáng kiến

6

6

Ngày sáng kiến được áp dụng lần đầu

6

7

Mô tả bản chất của sáng kiến

6

1

7.1

Câu hỏi và vai trò của việc đặt câu hỏi trong giảng
dạy

6

7.2

Một số biện pháp đặt câu hỏi trong giảng dạy


6

7.3

Áp dụng" Thiết kế hệ thống câu hỏi” chomột số
giờ dạy cụ thể

15

1


8

Những thông tin cần được bảo mật

23

9

Các điều kiện cần thiết để áp dụng SKKN

23

10

Đánh giá lợi ích thu được

23


11

Danh sách những tổ chức cá nhân đã tham gia
áp dụng SKKN

24

Kết luận và kiến nghị

24

1

Kết luận

24

2

Ý nghĩa khoa học của đề tài nghiên cứu

25

3

Kiến nghị

26


Danh mục tài liệu tham khảo.

28

TỪ NGỮ VIẾT TẮT

STT

DANH TỪ VIẾT TẮT

VIẾT ĐẦY ĐỦ

1

THCS

Trung học cơ sở

2

GV

Giáo viên

3

SGK

Sách giáo khoa


4

HS

Học sinh

2


BÁO CÁO KẾT QUẢ
NGHIÊN CỨU, ỨNG DỤNG SÁNG KIẾN
1.Lời giới thiệu:
1.1. Lí do chọn đề tài.
1.1.1.Cơ sở lí luận.
Có thể nói, trong giai đoạn hiện nay, việc nâng cao chất lượng dạy và học
là nhu cầu thiết yếu đặt ra đối với những người đang làm nhiệm vụ giảng dạy.
Vậy, làm thế nào để học sinh ngày nay có tình yêu bộ môn và có thể học tốt Ngữ
văn? Đó là câu hỏi lâu nay nhiều giáo viên dạy Ngữ văn trăn trở. Với quan điểm
cá nhân, theo tôi, việc tìm ra phương pháp đặt câu hỏi là vấn đề quan trọng góp
phần nâng dần chất lượng dạy và học đối với bộ môn này.
Đây là vấn đề không đơn giản bởi đặt câu hỏi đã khó nhưng trả lời được
câu hỏi còn khó hơn. Người hỏi phải hình dung ra những khả năng trả lời khác
nhau và tự mình phải biết thế nào là đúng, sai, là đủ, là thiếu, là mới, là hay cho
mình, cho người. Bởi vậy thiết nghĩ người giáo viên (GV) cũng cần phải những
hiểu biết cơ bản về câu hỏi để có thể đặt câu hỏi cho hiệu quả trong giảng dạy bộ
môn.
Trong tiết dạy người giáo viên là người dẫn dắt, điều hành mọi hoạt động,
giáo viên phải kết hợp tốt các phương pháp và như vậy ngay từ khâu soạn bài
giáo viên đã phải chọn phương pháp cho phù hợp. Trong các phương pháp thì
phương pháp đặt câu hỏi cho học khai thác văn bản là quan trọng. Phải xây dựng

hệ thống câu hỏi làm sao cho phù hợp, sinh động, gợi hứng thú tìm tòi, suy nghĩ,
óc phán đoán cho học sinh mới là điều khó khăn, học sinh có hứng thú học khi
giáo viên đặt câu hỏi, học sinh có chịu suy nghĩ trả lời hay không, học sinh có
hiểu bài nắm được kiến thức trọng tâm hay không cũng phụ thuộc vào việc xây
3


dựng hệ thống câu hỏi cho bài dạy của mình. Và như vậy giáo viên phải đầu tư
ngay từ quá trình soạn bài, thiết kế một hệ thống câu hỏi sao cho phù hợp với
từng kiểu bài và phù hợp với đối tượng học sinh.
Với đề tài phương pháp xây dựng hệ thống câu hỏi tôi tin là sẽ giúp cho
giáo viên dạy Ngữ văn đặc biệt là dạy phân môn văn học cấp THCS rút ra được
nhiều kinh nghiệm khi đặt câu hỏi trong giờ dạy học của mình. Bởi vì hệ thống
câu hỏi ở đề tài này là những câu hỏi mà vai trò của giáo viên là người dẫn dắt
học sinh tự khám phá nội dung kiến thức của bài học từ dễ đến khó, từ đơn giản
đến phức tạp. Tức là đi từ câu hỏi phát hiện, tái hiện để dấn sâu vào hính thức
hỏi sáng tạo, nêu vấn đề. Từ đó sẽ kích thích năng lực suy nghĩ, óc phán đoán,
mở ra nhiều hướng tiếp nhận mới nhằm khơi dậy hoạt động bên trong của người
học. Đây chính là việc thể hiện vai trò, năng lực của người giáo viên khi giảng
dạy.
Trong quá trình tiến hành một tiết dạy môn Ngữ văn GV tiến hành đặt rất
nhiều câu hỏi để học sinh trả lời. Trong đề tài này tôi chỉ đề cập đến phương
pháp xây dựng hệ thống câu hỏi cho việc dạy học văn bản ở trường THCS. Mục
đích của việc đặt câu hỏi là kiểm tra việc học bài cũ, xây dựng bài, chú ý nghe
giảng hay mức độ tiếp thu, hiểu bài của học sinh. Để được như vậy GV phải
nắm bắt được đặc điểm đối tượng học sinh của lớp mình dạy, nắm được các kiểu
bài, cách tiến hành tìm hiểu từng phần, nội dung đơn vị kiến thức để từ đó có
cách đặt câu hỏi khai thác kiến thức cho phù hợp. Có rất nhiều dạng câu hỏi
nhưng ở đây tôi chỉ đưa ra một số dạng câu hỏi cơ bản chủ yếu nhất cần phải có
trong tiết dạy văn học – khai thác văn bản. Các dạng câu hỏi này nó bao quát

cho tất cả các đối tượng học sinh, từ học sinh trung bình, yếu, kém, đến học sinh
khá giỏi đó là bốn loại câu hỏi cơ bản:
(1) Câu hỏi phát hiện
(2) Câu hỏi gợi mở
(3) Câu hỏi nêu vấn đề
(4) Câu hỏi so sánh.
1.1.2.Cơ sở thực tiễn.
4


Quan điểm đổi mới trong giảng dạy hiện nay luôn đề cao tính chủ động,
sáng tạo của học sinh (HS) trong việc tiếp nhận tri thức. Người dạy chỉ là người
định hướng, hướng dẫn cho HS tự mình chiếm lĩnh tri thức ấy. Và phương tiện
mà người GV dùng để thực hiện nhiệm vụ đó chính là hệ thống câu hỏi khi lên
lớp. Bên cạnh hệ thống câu hỏi mà GV định hướng, HS còn được trang bị một
số câu hỏi từ SGK trong phần hướng dẫn học bài, chuẩn bị bài ở nhà. Chuẩn bị
bài là một yêu cầu quan trọng trong việc dạy và học môn Ngữ văn (đây là yêu
cầu chung cho tất cả các môn học, tuy nhiên đối với môn Ngữ văn đây lại là yêu
cầu mang tính đặc thù). Có chuẩn bị bài tốt thì học sinh (HS) mới có thể lĩnh hội
tốt kiến thức trong quá trình Đọc - hiểu văn bản. Vì thế trong SGK bất cứ môn
học nào, không ngoại trừ môn Ngữ văn đều có hệ thống câu hỏi hướng dẫn học
bài ở phần sau nội dung bài học. Tuy nhiên thực tế giảng dạy và học tập môn
Ngữ văn hiện nay cho thấy, HS chuẩn bị bài trên cơ sở câu hỏi hướng dẫn học
bài trong sách giáo khoa (SGK) chỉ để đối phó, chiếu lệ. Có nhiều nguyên nhân
trong đó có nguyên nhân xuất phát từ chính hệ thống câu hỏi hướng dẫn học bài
trong SGK còn bất cập, chưa thực sự hợp lí. Từ thực tế đó, chúng tôi chọn đề tài
“Một số phương pháp đặt câu hỏi trong giảng dạy ngữ văn THCS” để nghiên
cứu nhằm đưa ra một hướng tiếp cận mới cho phù hợp với đối tượng học sinh.
1.2. Mục đích nghiên cứu.
Thông qua đề tài góp phần nâng cao chất lượng và hiệu quả giờ dạy Ngữ

văn, giúp học sinh có lòng say mê và yêu thích môn học hơn, ….
1.3. Đối tượng, phạm vi, thời gian nghiên cứu:
1.3.1 Đối tượng nghiên cứu.
- Học sinh Trường THCS Việt Xuân – Vĩnh Tường – Vĩnh Phúc.
- Nghiên cứu một số phương pháp đặt câu hỏi trong giảng dạy ngữ văn THCS
1.3.2 Phạm vi nghiên cứu.
- Chương trình, sách giáo khoa Ngữ văn THCS.
1.3.3 Thời gian nghiên cứu:
Chuyên đề được thực hiện trong năm học 2014- 2015; 2015- 2016.
1.4. Phương pháp nghiên cứu:
5


- Phương pháp nghiên cứu tài liệu.
- Phương pháp phân tích - tổng hợp.
- Phương pháp khảo sát thực tiễn.
2. Tên sáng kiến: “Một số phương pháp đặt câu hỏi trong giảng dạy ngữ văn
THCS”
3. Tác giả sáng kiến:
- Họ và tên:
- Địa chỉ tác giả sáng kiến:
- Số điện thoại:
- Email:
4. Chủ đầu tư tạo ra sáng kiến:
5. Lĩnh vực áp dụng sáng kiến: Trong dạy học và quản lý ở trường THCS
6. Ngày sáng kiến được áp dụng lần đầu hoặc áp dụng thử:
Thời gian nghiên cứu và thử nghiệm bắt đầu từ tháng 8 năm 2015 đến
tháng 5 năm 2016.
7. Mô tả bản chất của sáng kiến:
7.1. Câu hỏi và vai trò của việc đặt câu hỏi trong giảng dạy.

7.1.1. Khái niệm câu hỏi trong dạy học
Câu hỏi là một dạng cấu trúc ngôn ngữ để diễn đạt một yêu cầu, đòi hỏi,
một mệnh lệnh mà người học cần giải quyết. Câu hỏi có cấu trúc: cái đã biết +
cái chưa biết. Mục đích của việc đặt câu hỏi trong dạy học: giúp giáo viên thực
hiện việc giảng bài, nhằm luyện tập, thực hành, nhằm hướng dẫn tổ chức học
sinh học, nhằm khích lệ và kích thích suy nghĩ, nhằm đánh giá học sinh.
7.1.2. Vai trò cuả việc đặt câu hỏi trong dạy học
- Đối với học sinh: Đặt câu hỏi được sử dụng như một phương tiện để tổ
chức, hướng dẫn quá trình nhận thức; câu hỏi giúp học sinh lĩnh hội tri thức một
cách có hệ thống, tránh tình trạng ghi nhớ máy móc và tạo không khí học tập sôi
nổi.
- Đối với giáo viên: Đặt câu hỏi giúp giáo viên đánh giá được năng lực của
học sinh, giúp người dạy có thông tin phản hồi từ phía người học để có những
điều chỉnh phù hợp. Việc đặt câu hỏi còn nâng cao tầm hiểu biết của giáo viên
6


bởi vì hỏi cũng là một cách bổ ích cho việc giáo viên đi sâu vào việc hiểu bài
học.
7.2. Một số biện pháp đặt câu hỏi trong giảng dạy
7.2.1. Câu hỏi phát hiện
Đây là loại câu hỏi cho đối tượng học sinh yếu, trung bình phát huy khả
năng của mình, bởi vì loại câu hỏi này là những nội dung đã có sẵn, chỉ cần học
sinh theo dõi hoặc xem bài trước sẽ trả lời được. Học sinh có thể nhìn vào SGK
phát hiện ra kiến thức giáo viên hỏi. Tác dụng của loại câu hỏi này không làm
cho học sinh chán nản đặc biệt là học sinh có lực học trung bình và yếu, khi học
sinh trả lời đúng câu hỏi các em sẽ cảm thấy hứng thú, cảm thấy có cơ hội để
chứng tỏ mình.
Cách thức cấu tạo loại câu hỏi này có dạng:
- Hãy tìm trong đoạn (câu) hay văn bản những chi tiết, hình ảnh thể hiện

hoặc :
- Hãy phát hiện những tín hiệu nghệ thuật trong câu thơ hay đoạn thơ (văn) ?
Ví dụ : Khi hướng dẫn học sinh tìm hiểu khổ thơ đầu trong văn bản” Lượm”
(Ngữ văn 6) có thể đặt câu hỏi : Xác định phương thức biểu đạt chính của đoạn
thơ ? Những chi tiết nào thể hiện dáng vẻ bề ngoài của Lượm ? Phát hiện tín
hiệu nghệ thuật trong đoạn thơ ?
- Ví dụ : khi dạy văn bản “Đêm nay Bác không ngủ” (Ngữ văn 6- tập 2) khi
tìm hiểu bài thơ được viết theo thể thơ nào giáo viên có thể dùng câu hỏi phát
hiện sau:
? Quan sát bao quát bài thơ, bài thơ có bao nhiêu khổ?
? Mỗi khổ thơ có bao nhiêu câu thơ? Và mỗi câu thơ có mấy tiếng?...
Với câu hỏi đó học sinh chỉ cần quan sát bài thơ và đếm các khổ thơ các
số tiếng trong bài thơ để tìm ra bài thơ được viết theo thể nào.
- Ví dụ : khi dạy văn bản “Quan Âm Thị Kính” (Ngữ văn 7- tập 2) khi tìm
hiểu nỗi oan của Thị Kính giáo viên đặt câu hỏi:
? Trong đoạn trích em thấy có mấy lần Thị Kính kêu oan?
? Thị Kính kêu oan với ai?...
7


- Ví dụ : khi dạy văn bản “Cô bé bán diêm” (Ngữ văn 8 tập 1) tìm hiểu về gia
cảnh của em bé giáo viên dùng một câu hỏi là “Nêu hoàn cảnh của cô bé bán
diêm”? có thể học sinh không trả lời được hoặc trả lời thiếu, thay vào đó giáo
viên dùng các câu hỏi phát hiện:
? Em sống với ai? Người bố đối xử với em như thế nào? Em làm công việc
gì?... Tìm những chi tiết trong văn bản thể hiện điều đó?...
Với những câu hỏi đó học sinh trả lời ngay được và rút ra được kết luận
về gia cảnh của cô bé bán diêm.
Đó là những câu hỏi phát hiện học sinh rất dễ trả lời, câu hỏi này làm cơ
sở, tạo tiền đề để cho giáo viên tiến hành hướng dẫn học sinh đi đến tìm hiểu

kiến thức khác được rút ra từ câu hỏi phát hiện, tạo không khí cho lớp học sôi
nổi, học sinh hứng thú học tập hơn.
Bên cạnh đó dạng câu hỏi này có nhiều hạn chế vì nếu như trong tiết dạy
mà giáo viên sử dụng quá nhiều câu hỏi như vậy thì sẽ không phát huy được óc
suy nghĩ, phán đoán, khả năng nêu cảm thụ văn chương của các em. Vì vậy đòi
hỏi giáo viên phải sử dụng câu hỏi này khéo léo, phù hợp với nội dung kiến thức
từng phần và phải phù hợp với đối tượng học sinh.
7.2.2. Câu hỏi gợi mở
Trong tiến hành dạy học không nhất thiết câu hỏi nào giáo viên đưa ra
cũng yêu cầu học sinh phải trả lời. Có câu hỏi giáo viên hỏi chỉ để hỏi, tức là hỏi
rồi tự mình trả lời, hỏi như vậy lôi cuốn học sinh chú ý tập trung vào bài học
hơn, có khi giáo viên đặt câu hỏi học sinh không trả lời được, vậy lúc này mới
đòi hỏi tới sự chuẩn bị, khéo kéo của người giáo viên, giáo viên phải biết dẫn
dắt, khơi gợi vấn đề để hỏi, học sinh đó là việc sử dụng câu hỏi gợi mở.
- Ví dụ: khi dạy bài “Tinh Thần yêu nước của nhân dân ta” (Ngữ văn 7 – tập
2) giáo viên đưa ra câu hỏi sau:
? Cho biết chủ đề của văn bản? có thể học sinh không trả lời được giáo viên
dùng câu hỏi gợi mở.
? Văn bản đề cập đến vấn đề gì?
? Câu văn nào thể hiện rõ nhất vấn đề đó?
8


Hoặc: ? Theo em nghệ thuật nghị luận ở bài văn này có gì đặc sắc?
Dùng câu hỏi gợi mở:
? Bố cục của bài văn gồm mấy phần?
? Dẫn chứng Bác đưa ra để chứng minh tinh thần yêu nước của nhân dân ta
có chính xác, toàn diện, thuyết phục không?...
Từ đó giáo viên hướng dẫn học sinh rút ra được kết luận về nghệ thuật
nghị luận của bài văn qua các câu trả lời của học sinh.

- Ví dụ: khi dạy văn bản “Viếng lăng Bác” (Ngữ văn 9 – tập 2) giáo viên
hướng dẫn học sinh cách khai thác văn bản theo khổ thơ. Khi tìm hiểu khổ thơ
đầu để làm nổi bật được nội dung xuyên suốt bài thơ là mạch cảm xúc của tác
giả, GV có thể hỏi:
? Câu đầu cho ta biết điều gì?
Dùng câu hỏi gợi mở:
? Giải thích nghĩa từ “viếng”, “thăm”?
? Tại sao ở nhan đề tác giả dùng từ “viếng”, ở câu đầu bài thơ dùng từ
“thăm”?
? Nhận xét cách xưng hô của tác giả?...
Tác dụng của dạng câu hỏi này giúp học sinh dần dần nhận ra vấn đề cần
tìm hiểu, tạo sự lô-gic và xâu chuỗi kiến thức một cách có hệ thống. Tuy nhiên
nếu trong tiết dạy chúng ta sử dụng quá nhiều loại câu hỏi này sẽ dẫn tới tình
trạng học sinh không phát huy được óc sáng tạo và khả năng vận dụng. Vì vậy
khi xây dựng hệ thống câu hỏi đòi hỏi chúng ta cũng phải hết sức khéo léo.
7.2.3. Câu hỏi nêu vấn đề
Đây là dạng câu hỏi nhằm phát huy tính tích cực và hoạt động tư duy, tính
năng động trí tuệ cho học sinh qua giờ dạy. Khi GV đặt câu hỏi HS phải dùng óc
suy nghĩ, phán đoán để trả lời câu hỏi. Dạng câu hỏi này đa số HS khá giỏi mới
trả lời được.
Trong giờ dạy GV phải biết xây dựng tình huống có vấn đề bằng việc
thông qua xây dựng hệ thống câu hỏi có vấn đề. Loại câu hỏi này chứa đựng
một dung lượng kiến thức lớn và mang tính chất tổng hợp gồm nhiều mối liên hệ
9


giữa các yếu tố, các kiến thức, nhằm làm sáng tỏ quan điểm của tác giả trong tác
phẩm. Loại câu hỏi này có tính chất phức tạp về nội dung vì nó thường gợi lên
những mâu thuẫn giữa cái biết và chưa biết, từ đó rèn luyện năng lực độc lập,
suy nghĩ sáng tạo, nó còn mang tính chất hệ thống, liên tục nhằm lôi cuốn học

sinh hứng thú tìm hiểu tác phẩm.
Loại câu hỏi này có dạng :
+ Theo em, nếu sự việc, hiện tượng ấy xảy ra (. . ) hoặc không xảy ra
()Thì chuyện gì sẽ đến ? Hoặc :
+ Theo em tại sao lại thế này mà không thế khác ?
Ví dụ khi dạy bài Luợm (Ngữ văn 6 ) Có thể nêu vấn đề bằng câu hỏi sau :
+ Theo em bài bài thơ có thể dừng laị ở câu thơ “ Hồn bay giữa đồng “
được không ? Vì Sao ? Việc lặp lại khổ thơ đầu ở cuối bài thơ có ý nghĩa gì ?
Hoặc :
+Vì sao miêu tả cái chết có đổ máu, tác giả lại miêu tả như một giấc ngủ
bình yên của trẻ thơ giữa đồng quê thơm hương lúa ?
Bằng thực tế tôi tiến hành lấy một số ví dụ trên một số văn bản như sau:
- Ví dụ: khi dạy văn bản “Lão Hạc” (Ngữ văn 8 tập 1) ở tiết 2 khi bắt đầu tìm
hiểu nguyên nhân dẫn đến cái chết của lão Hạc, giáo viên có thể đặt câu hỏi
ngay:
? Nguyên nhân sâu xa nào dẫn đến cái chết của lão Hạc?
Khi tôi đặt câu hỏi này thì phải đến em học sinh thứ năm mới trả lời trọn
vẹn được.
+ Học sinh thứ nhất: lão Hạc chết vì uống bả chó.
Giáo viên hỏi tại sao lão phải uống bả chó để rồi phải chết một cái chết
đau đớn dữ dội như vậy, tìm tiếp nguyên nhân?
+ Học sinh thứ hai: Lão Hạc chết vì lão không còn tiền.
Giáo viên lại hỏi “ có thật lão đã hết tiền không, lão vẫn còn tiền và ba sào
vườn cơ mà”?
+ Học sinh thứ ba: Lão chết vì lão sợ rằng lão sống lão ăn hết tiền của con
lão.
10


Giáo viên hỏi vậy lão Hạc chết là do nguyên nhân nào?

+ Học sinh thứ tư: Lão chết vì lão thương con.
Giáo viên giảng kết hợp hỏi: một con người có phẩm chất tốt đẹp như lão
Hạc đáng ra con người đó phải được hưởng cuộc sống yên lành, hạnh phúc. Vậy
tại sao lão Hạc phải đau khổ, phải tìm đến cái chết.
+ Học sinh thứ năm: Lão chết, mặc dù là cái chết tình nguyện nhưng
nguyên nhân là do chế độ xã hội phong kiến bất công…
Đó là những câu hỏi giáo viên luôn luôn tạo ra tình huống có vấn đề để
học học suy nghĩ trả lời. Tuy nhiên khi dùng câu hỏi nêu vấn đề này học sinh sẽ
khó trả lời và giáo viên lại phải sử dụng câu hỏi gợi mở, có khi dùng tới câu hỏi
phát hiện. Và như vậy kiến thức bài học sẽ được khai thác một cách triệt để.
- Ví dụ: khi dạy văn bản: Những ngôi sao xa xôi (Ngữ văn 9 – tập 2) GV có
thể đưa một số câu hỏi nêu vấn đề như sau:
? Trong văn bản em yêu mến nhân vật nào nhất? Vì sao?
Với ý thứ nhất HS có thể trả lời ngay được là yêu thích nhân vật nào,
nhưng yêu cầu thứ hai HS phải giải thích được là vì sao mình yêu thích nhân vật
đó. Lúc này HS phải tư duy, lý giải tình huống có vấn đề và như vậy là HS đã
nắm và hiểu được đặc điểm của nhân vật…
Hoặc: Qua văn bản em hiểu được gì về thế hệ thanh niên Việt Nam trong thời kỳ
kháng chiến chống giặc ngoại xâm? Câu hỏi này đòi hỏi HS phải suy luận, mở
rộng vấn đề, liên hệ với các tác phẩm văn học khác.
Hoặc: Nêu suy nghĩ về trách nhiệm của mình đối với cuộc sống hiện tại?
Với những câu hỏi như trên HS phải tư duy, suy luận, phân tích và khái
quát vấn đề. Chính vì vậy dạng câu hỏi này có tác dụng giúp HS khắc sâu kiến
thức bài học hơn, học sinh trình bày vấn đề mang tính chất sáng tạo hơn và như
vậy giáo viên cũng nắm được qua bài dạy học sinh nắm được kiến thức ở mức
độ nào. Bên cạnh những tác dụng của việc sử dụng loại câu hỏi này thì còn có
một số vấn đề mà giáo viên cần lưu ý, đặc biệt là đối tượng học sinh và kiến
thức bài học rộng hay hẹp…
7.2.4. Câu hỏi so sánh
11



Đây là một trong những loại câu hỏi có hiệu quả cao trong quá trình tìm
hiểu văn bản. So sánh nhằm mục đích tìm ra điểm giống nhau và khác nhau để
làm sáng tỏ vấn đề, khắc sâu kiến thức. Vận dụng loại câu hỏi này sẽ giúp việc
phân tích văn bản sâu hơn, phong phú sinh động, liên hệ được các kiến thức
cùng đề tài. Có những câu hỏi so sánh ngay kiến thức trong văn bản, có khi so
sánh kiến thức giữa hai văn bản khác nhau hay rộng hơn là kiến thức trong cùng
một nội dung, một đề tài.
- Ví dụ khi tìm hiểu các đoạn trích của “Truyện Kiều” (Ngữ văn 9 tập 1) để
làm nổi bật lên số phận của Kiều: Một người con gái tài sắc vẹn toàn, có đầy đủ
những phẩm chất tốt đẹp nhưng lại phải chịu cảnh “Thanh lâu hai lượt thanh y
hai lần”, phải mười năm năm lưu lạc… giáo viên sử dụng câu hỏi so sánh:
? Em hãy so sánh số phận của Thúy Kiều với số phận của Vũ Nương?
Qua câu hỏi so sánh như vậy học sinh dễ tìm ra được điểm giống nhau về
số phận của người phụ nữ dưới chế độ xã hội xưa, và cũng thấy được nét khác
biệt trong tính cách của mỗi nhân vật.
- Ví dụ: khi dạy văn bản “Chuyện người con gái Nam Xương” (Ngữ văn 9 tập
1) tìm hiểu về cái chết của Vũ Nương giáo viên dùng câu hỏi so sánh để mở
rộng vấn đề giúp học sinh khắc sâu kiến thức.
? Nhân vật Vũ Nương có điểm nào giống và khác với nhân vật Thị Kính mà
các em đã được học ở lớp 7? Hoặc giáo viên cho học sinh so sánh số phận của
Vũ Nương với thân phận của người phụ trong các bài ca dao than thân. Từ đó
giáo viên cho học sinh nêu suy nghĩ của mình về thân phận người phụ nữ dưới
chế độ xưa như thế nào.
Đó là những câu hỏi so sánh xuyên suốt kiến thức trong cấp học, giúp học
sinh có kiến thức phổ rộng hơn. Cũng có những câu hỏi so sánh giáo viên cho
giữa các khổ thơ hoặc các đoạn văn với nhau để tìm sự phát triển mạch cảm xúc
hay sự thay đổi diễn biến tâm trạng của nhân vật. So sánh thường là tìm ra điểm
giống và khác nhau nhằm nâng cao và nhấn mạnh vấn đề đang đề cập.

- Ví dụ: khi dạy văn bản “Qua Đèo Ngang” (Ngữ văn 7 tập 1) để khắc sâu kiến

12


thức cho học sinh về tâm trạng buồn bã, cô đơn trước thực tại của Bà Huyện
Thanh Quan giáo viên dùng câu hỏi so sánh:
? Em hãy so sánh cụm từ “ta với ta” trong bài thơ này với cụm từ “ta với ta”
trong bài thơ “Bạn đến chơi nhà” của Nguyễn Khuyến?
7.2.5. Câu hỏi tưởng tượng
Là loaị câu hỏi từ những dữ kiện vốn có, tương đồng hoặc lấy sự tương
đồng để học sinh hình thành ra cái mới. Loại câu hỏi này có thể chia làm 2 loại
nhỏ :
- Tưởng tượng tái tạo (Tả lại bằng cảm nhận)
- Tưởng tượng sáng tạo (Tả lại theo lối hình dung riêng).
Câu hỏi này thường có dạng như sau :
+ Qua các chi tiết, hình ảnh hoặc cử chỉ hãy hình dung cảnh và người
trong hoàn cảnh đó như thế nào ?
Ví dụ : Khi dạy bài : “Bài ca nhà tranh bị gió thu phá” của Đỗ Phủ ( Ngữ văn 7 )
có thể đặt câu hỏi như sau :
+ Hãy hình dung và tả lại bằng cảm nhận của em về hình ảnh và tâm
trạng nhà thơ trong đoạn thơ thứ 2 ?
Nói như vậy không nhất thiết là khi giáo viên đặt câu hỏi phải rạch ròi ra
đâu là câu hỏi gợi mở, đâu là câu hỏi nêu vấn đề… mà trong một tiết dạy phải
khéo léo sử dụng các loại câu hỏi này tùy theo đối tượng học sinh, tùy theo nội
dung của từng bài cũng như kiến thức của từng phần. Có khi tìm hiểu một ý giáo
viên đã sử dụng nhiều loại câu hỏi.
7.2.6. Câu hỏi cảm xúc:
Là loại câu hỏi xuật phát từ trực cảm của học sinh có tác dụng khơi gợi
những dung động của các em về một hiện tượng nào đó trong tác phẩm còn gọi

là rung động thẩm mỹ đối với người tiếp nhận tác phẩm.
Dạng thức phổ biến của câu hỏi này là:
+ Chi tiết, hình ảnh gợi cho em cảm xúc, suy nghĩ gì?
Ví dụ: Khi dạy bài “ Ngẫu nhiên viết nhân buổi mới về quê” (Ngữ Văn 7), để
gợi cảm xúc cho học sinh, giáo viên có thể đặt câu hỏi:
13


+ Hình ảnh một người xa quê khi trở về làng sau hơn 50 năm trời được
đón tiếp như một khách lạ đã gợi cho em cảm xúc gì?
7.2.7. Câu hỏi quan điểm:
Là loại câu hỏi có tính chất bình giá cá nhân để khẳng định rõ nhận thức
của học sinh, vì thế nó giúp học sinh đánh giá vấn đề và đề xuất những cách
đánh giá vấn đề hoặc lý giải vấn đề theo cách riêng, là cơ hội để kích thích sáng
tạo cho các em.
Loại câu hỏi này thường có dạng:
+ Ý kiến của em về vấn đề này như thế nào? Vì sao em lại cho rằng như
thế?
Ví dụ: khi dạy bài” Chuyện người con gái Nam Xương” của Nguyễn Dữ(Ngữ
Văn 9) có thể nêu câu hỏi:
+ Có nhiều ý kiến cho rằng việc Vũ Nương tìm đến cái chết là một việc
làm dại dột, vì đó không phải là cách giải quyết tốt nhất. Quan điểm của em về
vấn đề này như thế nào?
+ Ngoài việc nắm vững mục đích, dạng thức của từng loại câu hỏi,
giáo viên cung cần phải biết linh hoạt khi sử dụng các hình thức hỏi. Nếu gặp
những vấn đề quá khó với nhận thức chung của học sinh hoặc học sinh hiểu
nhưng khó diễn đạt, giáo viên có thể sử dụng câu hỏi trắc nghiệm khách quan
để giúp học sinh hứng thú hơn với nội dung phần học, tránh được tình trạng
căng thẳng nặng nề, đảm bảo thời gian cho phép. Và điều đặc biệt quan trọng
trong việc xây dựng hệ thống câu hỏi cho giờ dạy đọc- hiểu văn bản là giáo viên

phải căn cứ vào trình độ chung của lớp học và mục tiêu chung của bài học để
thiết kế các câu hỏi sao cho vừa đảm bảo sự phân hoá dễ - khó lại vừa đảm bảo
được tính tích hợp của chương trình, bài học.
Nhìn chung còn rất nhiều dạng câu hỏi được sử dụng trong việc khai
thác văn bản nhằm đạt hiệu quả cao trong giờ dạy văn, mà cơ bản là các loại câu
hỏi như tôi đã trình bày ở trên. Có khi tìm hiểu một đơn vị kiến thức giáo viên
đã kết hợp hầu hết các loại câu hỏi.

14


Sau đây là một số ví dụ về việc thiết kế hệ thống câu hỏi cho giờ dạy của
tôi, trong bài soạn tôi đã thể hiện các dạng câu hỏi được đan xen với nhau trong
mỗi phần, hệ thống câu hỏi này phù hợp với nội dung kiến thức, với đối tượng
học sinh tôi đứng lớp. Bài dạy Tiết 115. Tìm hiểu chung về văn bản hành
chính tôi đã đưa vào dạy cho toàn tổ dự giờ và góp ý rút kinh nghiệm. Tất cả
các đồng nghiệp của tôi đều tán thành và nhận ra vai trò quan trọng của việc xây
dựng hệ thống câu hỏi phong phú đa dạng nhưng phù hợp cho một tiết dạy.
7.3. Áp dụng" Thiết kế hệ thống câu hỏi” chomột số giờ dạy cụ thể.
7.3.1. Tiết văn bản
Bài 22-Tiết 89, 90: Môn Ngữ Văn 6
Văn bản: Buổi học cuối cùng
( An- phông- xơ- Đô- đê)
Căn cứ vào mục tiêu của bài học và căn cứ vào trình độ của học sinh, tôi
thiết kế hệ thống câu hỏi cho bài dạy như sau:
Phần 1: Đọc văn bản và tìm hiểu chú thích:
Sau khi cho học sinh tiếp cận văn bản bằng việc đọc toàn bộ nội dung văn
bản, giáo viên đặt những câu hỏi để học sinh tìm hiểu về tác giả, tác phẩm
Những yếu tố ngoài văn bản và một số từ ngữ khó trong văn bản đặc biệt
là các từ tiếng Pháp:

H: Qua phần chú thích trong SGK, hãy trình bày những nét chính về cuộc đời
và sự ghiệp văn thơ của An- phông-xơ- Đô- đê?
H: Chuyện buổi học cuối cùng được viết vào thời kỳ nào? Em biết gì về hoàn
cảnh lịch sử của nước Pháp thời kỳ ấy?
Tiếp theo phần này, giáo viên có thể yêu cầu học sinh giải thích một số từ ngữ
Tiếng Pháp được sử dụng trong bài theo nội dung chú thích SGK
Phần 2: Hướng dẫn học sinh tìm hiểu văn bản:
Dựa vào các câu hỏi định hướng trong SGK và phần mục tiêu cần đạt, kết hợp
với phần ghi nhớ, đã xây dựng hệ thống câu hỏi để hướng dẫn các em thâm
nhập văn bản:

15


H: Em hãy cho biết văn bản" Buổi học cuối cùng" sử dụng các phương thức biểu
đạt nào? phương thức biểu đạt nào được sử dụng chủ yếu?
H: Theo dõi câu chuyện, em thấy chuyện được kể theo ngôi thứ mấy? Tác dụng
của ngôi kể đó là gì? em có thể kể tên một số truyện đã học có cùng ngôi kể với
văn bản buổi học cuối cùng?
H: Chuyện có bao nhiêu nhân vật? Đó là những nhân vật nào?
H: Về các nhân vật trong truyện, có bạn nói Thày Ha- men là nhân vật chính
nhưng có bạn lại cho rằng Phrăng mới là nhân vật chính. Em đồng ý với ý kiến
nào vì sao?
H: Câu truyện của Thày trò Phrăng diễn ra trong hoàn cảnh vùng Andát của
Pháp rơi vào tay nước Phổ. Từ đây, cả vùng này sẽ không được học Tiếng Pháp
nữa. Với hoàn cảnh đó, em hiểu như thế nào về nhan đề của văn bản" Buổi học
cuối cùng"?
H: Theo em truyện có thể chia làm mấy phần? Sự việc chính được kể ở mỗi
phần là gì?
Sau khi học sinh đã định hình được bố cục của văn bản, giáo viên tiếp tục sử

dụng những câu hỏi phát hiện, gợi tìm, tưởng tượng, nêu vấn đề và đánh giá để
hướng dẫn học sinh khám phá nội dung và nghệ thuật của truyện:
* Phần tìm hiểu về buổi học Tiếng Pháp cuối cùng của Phrăng và cũng là tìm
hiểu về Phrăng- Một trong 2 nhân vật chính, tôi sử dụng các câu hỏi sau:
H: Trước khi diễn ra buổi học Tiếng Pháp cuối cùng, cậu bé Phrăng đã thấy có
rất nhiều điều lạ xảy ra:
- Trên đường tới trường
- Quang cảnh ở trường
- Không khí trong lớp học
Em hãy quan sát đoạn đầu văn bản và tìm những chi tiết thể hiện điều đó
H: Những điều mà Phrăng cảm nhận được đó báo hiệu sự việc gì sẽ sảy ra?
H: Nhân vật Phrăng trong văn bản được khắc hoạ chủ yếu qua thái độ với việc
học tiếng Pháp và với thày giáo Hamen. Thái độ đó diễn ra theo hai quá trình
- Từ lơ là đến thiết tha, lo lắng cho việc học.
16


- Từ sợ hãi đến thân thiết, quí trọng thày Hamen.
Em hãy tìm ra trong văn bản các chi tiết thể hiện điều này?
H: Qua các chi tiết miêu tả Phrăng, chi tiết nào gợi cho em cảm nghĩ nhất? Đó
là những cảm nghĩ gì?
H: Qua các chi tiết miêu tả em tưởng tượng Phrăng là một cậu bé như thế nào?
H: Thái độ đối với tiếng Pháp và với thày Hamen trong buổi học cuối cùng đã
bộc lộ tình cảm gì của cậu bé Phrăng?
H: Nếu nói Phrăng là một cậu bé có lòng yêu nước Pháp em thấy điều đó có
đúng không? ý kiến của em như nào?
* Phần tìm hiểu về buổi dạy tiếng Pháp cuối cùng của thày Hamen và cũng là
hướng dẫn học sinh tìm hiểu về thày Hamen, nhân vật chính còn lại của truyện,
tôi đã hướng dẫn học sinh bằng hệ thống câu hỏi như sau :
H : Nhân vật thầy Hamen được miêu tả qua nhiều phương diện : Trang phục,

thái độ, lời nói, hành động, cử chỉ. Em hãy tìm các chi tiết miêu tả qua các
phương diện trên ?
H : Theo em tại sao thái độ của thầy Hamen hôm nay lại khác hẳn với mọi
ngày ? Hằng ngày thầy nghiêm khắc thế có phải thầy không thương yêu học trò
và Phrăng không ?
H : Hãy tìm và đọc diễn cảm đoạn văn thể hiện những lời nói của thầy Hamen
với học trò về tiếng Pháp ? Cho biết đoạn văn được viết theo phương thức biểu
đạt nào ? cách nói của thầy Hamen có gì đặc biệt ? Em thấy mục đích của cách
nói ấy là gì ?
H : Em thử hình dung xem khi nói với học trò của mình về tiếng Pháp trong
hoàn cảnh ấy, tình cảm và thái độ của thầy Hamen sẽ như thế nào ?
H : Lời nói của thầy Hamen về tiếng Pháp đã gợi cho em nghĩ đến điều gì ?
H : Trong đoạn văn kể về thầy Hamen nói với học sinh về tiếng Pháp có một câu
nói rất hình ảnh : “ Khi một dân tộc rơi vào vòng nô lệ chốn lao tù ". Em hiểu
câu nói đó như thế nào ?

17


Xác định đây là câu hỏi khó với học sinh lớp 6 đặc biệt là trong cách diễn đạt tôi
đã sử dụng hình thức trắc nghiệm khách quan để học sinh lựa chọn theo cách
hiểu của các em :
* Hỏi : Về ý nghĩa của câu nói trên, theo em cách lí giải nào là chính xác nhất
trong các cách lí giải sau ?
A : Tiếng nói là công cụ giao tiếp, nhờ tiếng nói của dân tộc mới có thể liên lạc
với nhau và tổ chức tranh đấu để giành độc lập.
B : Dùng tiếng nói thống nhất mới giữ được độc lập, tự do của dân tộc
C : Giữ tiếng nói của dân tộc sẽ không bao giờ quên được tổ quốc, sẽ luôn ấp ủ
nhiệt tình yêu nước, từ đó dấy lên những cuộc đấu tranh giành lại lãnh thổ đã
mất và bảo vệ được truyền thống văn hoá thiêng liêng của dân tộc.

( Học sinh lựa chọn phương án C, có nghĩa là các em đã hiểu được ý của câu
nói). Sau phần này, giáo viên bình về giá trị thiêng liêng và sức mạnh to lớn của
tiếng nói dân tộc trong cuộc đấu tranh giành độc lập tự do( có liên hệ với sự phát
triển của Tiếng Việt trong trường kỳ lịch sử của dân tộc Việt).
H: Tìm các chi tiết miêu tả cử chỉ, hành động của thày Hamen khi buổi học sắp
kết thúc? Những chi tiết đó cho em hình dung như thế nào về tâm trạng của thày
Hamen lúc này?
Theo em, tại sao thày Hamen lại hành động như vậy? Dòng chữ" Nước Pháp
muôn năm” mà thày Hamen đã dằn mạnh viên phấn viết to trên bảng có ý nghĩa
gì?
H: Có ý kiến cho rằng tình yêu nước Pháp của thày Hamen và trò Phrăng có
điểm giống nhau. Nó đều thể hiện bằng tình yêu tiếng Pháp. Nhưng cũng có
những điểm khác nhau. Em có thể cho biết sự khác nhau đó là gì?( Tình yêu
nước của cậu bé Phrăng ít nhiều mang cảm tính, nó chỉ được thể hiện do tác
động của buổi học cuối cùng. Còn với thày Hamen, tình yêu tiếng nói dân tộc,
tình yêu nước Pháp là một tình yêu đầy trải nghiệm. Nó xuất phát từ trái tim của
một người đã trưởng thành, một công dân đã đủ hiểu biết về giá trị của độc lập
tự do và cuộc sống nô lệ. )

18


H: Trong phút giây cuối cùng, Phrăng cảm thấy" Chưa bao giờ thầy lớn lao đến
thế”. Em có cảm nhận đó với Phrăng không? Vì sao?
H: Trong các chi tiết miêu tả về thày Hamen, gợi cho em hình dung về một
người thày giáo như thế nào?( Yêu trò, yêu nghề dạy học, yêu nước Pháp, tin
tưởng vào tương lai của Tổ quốc mình)
H: Theo dõi câu truyện em thấy, có điều gì khác nhau trong cách miêu tả 2 nhân
vật Phrăng và thày Hamen của nhà văn An- phông-xơ-Đô-đê?( Phrăng miêu tả ý
nghĩa tâm trạng; Hamen miêu tả qua ngoại hình, cử chỉ, lời nói, trang phục)

H: Em hãy tìm các chi tiết miêu tả cụ già Hôde và dân làng? Theo em sự xuất
hiện của các nhân vật này có tác dụng gì?( Làm cho buổi học cuối cùng trở lên
thiêng liêng hơn, thể hiện tình yêu tiếng Pháp, lòng yêu nước Pháp của người
dân vùng Andát) Sau phần này giáo viên giới thiệu với HS về phương pháp tả
người các em sẽ học ở tiết sau.
H: Trong các chi tiết miêu tả cụ già Hôde và dân làng, chi tiết nào khiến em
cảm động nhất? Vì sao?
* Phần ghi nhớ, tôi sử dụng hệ thống câu hỏi trắc nghiệm để giúp các em khái
quát kiến thức đã được tìm hiểu về tác phẩm:
Câu hỏi: Đánh dấu x vào trước câu em cho là đúng?
1. Nét đặc sắc về nghệ thuật văn bản buổi học cuối cùng?
- Sử dụng ngôi kể thứ nhất lời kể dung dị nhẹ nhàng.
- Miêu tả tâm lí trẻ thơ sinh động và cuốn hút.
- Tình huống truyện phức tạp, căng thẳng
- Miêu tả nhân vật qua ngoại hình, lời nói, cử chỉ, ý nghĩ và tâm trạng.
- Cốt truyện đơn giản
- Có nhiều yếu tố kỳ lạ.
2. Nội dung chính của truyện ngắn buổi học cuối cùng là:
- Thể hiện lòng căm thù của dân làng Andát với quân Phổ xâm lược.
- Thể hiện sự tiếc nuối của Phrăng vì không được đi học.
- Thể hiện tình yêu tiếng Pháp, yêu Tổ quốc Pháp và tin tưởng vào tương lai, tự
do của nước Pháp.
19


- Thể hiện sự yêu quý, trân trọng và giữ gìn tiếng nói dân tộc khi đất nước rơi
vào vòng nô lệ.
Phần 3. Luyện tập
H : Trong truyện ngắn “ Buổi học cuối cùng “, nhân vật nào đã để lại trong em
ấn tượng sâu sắc nhất ? Hãy cho biết tình cảm của em về nhân vật đó?

* Bài tập viết đoạn
Hãy viết đoạn văn ngắn từ 4 đến 6 câu miêu tả thầy Hamen theo cảm nhận của
em ?
7.2.2. Tiết tiếng Việt
Tiết 115. TÌM HIỂU CHUNG VỀ VĂN BẢN HÀNH CHÍNH.
I. Mục tiêu cần đạt:
Giúp hs có được những hiểu biết chung về văn bản hành chính: Mục đích,
nội dung, yêu cầu và các loại văn bản hành chính thường gặp trong cuộc sống.
Vận dụng viết được VBHC đúng quy cách.
Thái độ nghiêm túc khi viết văn bản hành chính.
*.Tích hợp:Các văn bản hành chính
*.Trọng tâm:Bài học
II-Các kỹ năng sống cơ bản
- Suy nghĩ,phê phán,sáng tạo
- Giao tiêp:ứng xử với người khác bằng văn bản hành chinh
III- Các phương pháp kĩ thuật dạy học tích cực:
- Phân tich tình huống mẫu,động não suy nghĩ,thực hành có hướng dẫn,nhóm
IV. Chuẩn bị:
- GV: Soạn bài, máy chiếu,Một số văn bản mẫu.
- HS: Học và chuẩn bị bài.
V. Tiến trình tổ chức các hoạt động:
1- Ổn định tổ chức (1’)
2- Kiểm tra bài cũ 2’
- Yêu cầu HS kể ra các loại văn bản hành chính mà HS biết
3- Bài mới
20


* Giới thiệu bài: Từ lớp 6 các em đã được học về văn bản hành chính, hôm nay
cô cùng các em sẽ tìm hiểu các loại văn bản hành chính chúng ta hay sử dụng

trong cuộc sống
Hoạt động của thầy và trò
Hoạt động 1

Nội dung
I.Bài học

- GV chiếu 3 văn bản trên máy chiếu

1. Thế nào là văn bản hành chính

- HS đọc thầm 3 văn bản

a. Ví dụ: 3 văn bản

?) Khi nào người ta viết các văn bản thông

b. Nhận xét

báo, đề nghị và báo cáo?
- Khi cần truyền đạt 1 vấn đề gì đó (thường
quan trọng) xuống cấp thấp hơn hoặc muốn
cho nhiều người biết -> dòng văn bản thông
báo
- Khi cần đề đạt một nguyện vọng chính
đáng nào của cá nhân hay thủ trưởng với cơ
quan hoặc cá nhân người có thẩm quyền ->
văn bản đề nghị (kiến nghị)
- Khi cần phải thông báo 1 vấn đề gì đó lên
cấp cao -> văn bản báo cáo

?) thể thay đổi các văn bản hàh chính trong
cáctrường hợp trên không?
+ cấp trên không "báo cáo" với cấp dưới
+ Cấp dưới không "thông báo" với cấp trên
+ cấp trên, cấp cao không đề nghị cấp dưới
?) Mỗi văn bản nhằm mục đích gì?
- Thông báo: phổ biến một nội dung

- Văn bản 1: văn bản thông báo

- Đề nghị: đề xuất một nguyện vọng, một ý

- Văn bản 2: văn bản đề nghị

kiến

- Văn bản 3: văn bản báo cáo

- Báo cáo: tổng kêt, nêu những gì đã làm lên => là văn bản hành chính - công vụ
cấp trên

c. Ghi nhớ: SGK (110)
21


?) Văn bản trên có gì giống và khác nhau?
- Giống: hình thức trình bày (theo mẫu)
- Khác: mục đích và nội dung trình bày
?) Hình thức các văn bản này có gì khác với


- Thơ văn: dùng hưu cấu, tưởng

các văn bản truyện, thơ em đã học?

tượng; ngôn ngữ nghệ thuật
- Văn bản hành chính: không hư
cấu, tưởng tượng, ngôn ngữ hành
chính

?) Em còn thấy văn bản nào tương tự như 3
văn bản trên không?
- Biên bản, sơ yếu lí lịch, giấy khai sinh, hợp
đồng, giấy chứng nhận
?) Văn bản trên là văn bản hành chính công vụ. Vậy thế nào là văn bản hành
chính? Có đặc điểm gì về nội dung, mục
đích, hình thức?
- 2 HS trả lời ->GV chốt - HS đọc ghi nhớ

22


Hoạt động 2
- GV chiếu bài tập trên máy chiếu

-

II. Luyện tập
Bài 1 (sgk 110).
(1) Văn bản thông báo.


,yêu cầu HS trao đổi nhóm

(2) Văn bản báo cáo.

-> Đại diện trình bày

-

(3) Văn bản biểu cảm.

-

(4) Văn bản đơn từ.

-

(5) Văn bản đề nghị.

-

(6) Văn bản tự sự, miêu tả.

-

Bài 2: Hoàn thiện VBHC.

-

a, Báo cáo tình hình học tập, rèn
- HS hoàn thiện 2 loại văn bản hành


-

chính
-

- Gọi học sinh trình bày

-

- Gv chiếu đáp án so sánh

luyện tháng 3.
b, Đề nghị BGH sửa lại hệ thống
đèn.
- Mục đích, đặc điểm của VBHC.
- Hoàn thiện vb (bài 2).
- Tập vận dụng viết các VBHC
trong cuộc sống.

- Tiết sau trả bài viết số 6 ở nhà.
4 Củng cố : 2’: HS nhắc lại khái niệm văn bản hành chính và cách trình
bày ?
5. Hướng dẫn về nhà: 2’
- Học bài; sưu tầm các văn bản hành chính, hoàn thành bài tập 2
- Chuẩn bị: Soạn bài Quan âm Thị Kính: trả lời trước các câu hỏi trong SGK

8. Những thông tin cần được bảo mật (nếu có): Không
9. Các điều kiện cần thiết để áp dụng sáng kiến:
+ Sự chuẩn bị của học sinh (sưu tầm) các văn bản hành chính.

+ Bổ sung máy tính, máy in, máy chiếu đa năng projector,…..
10. Đánh giá lợi ích thu được hoặc dự kiến có thể thu được do áp dụng sáng
23


kiến theo ý kiến của tác giả và theo ý kiến của tổ chức, cá nhân đã tham gia
áp dụng sáng kiến lần đầu, kể cả áp dụng thử (nếu có):
10.1. Đánh giá lợi ích thu được hoặc dự kiến có thể thu được do áp dụng
sáng kiến theo ý kiến của tác giả:
Sau các năm dạy học áp dụng phương pháp này thì chất lượng học sinh
các lớp tôi phụ trách không ngừng được nâng cao trong các năm. Tổng hợp
trung bình chất lượng của riêng cá nhân tôi trước khi chưa sử dụng phương pháp
này với sau khi đã vận dụng có sự tiến bộ rõ rệt như sau:
Năm
học
Xếp loại

Khi chưa

Khi đã vận dụng

vận dụng
2009-2010

2010-2011

2011-2012

2012-2013


Giỏi
3%
3,6%
4.0%
6.0%
Khá
10%
10,5%
15.0%
17.0%
TB
51%
61.0%
58.0%
63.0%
Yếu
26%
16.0%
20.0%
14.0%
Kém
10%
8,9%
3.0%
0%
Tất cả các vấn đề mà tôi trình bày ở trên đã được

2013-2014

2014-2015


8.0%
18.0%
60.0%
14.0%
0%
đưa ra thảo

10.9%
21.8%
54.3%
13.0%
0%
luận, áp

dụng không những bản thân tôi mà còn cả các thành viên trong tổ tôi để được
hoàn thiện hơn nữa về cở lý tuận và phương pháp dạy học này. Tôi tin rằng
phương pháp xây dựng hệ thống câu hỏi cho tiết dạy không chỉ có tác dụng với
phân môn văn học mà còn có tác dụng cho nhiều các môn học khác.
10.2. Đánh giá lợi ích thu được hoặc dự kiến có thể thu được do áp dụng
sáng kiến theo ý kiến của tổ chức, cá nhân:
Qua thực tế đứng lớp, tôi không chỉ sử dụng hệ thống câu hỏi này cho
phân môn tiếng Việt mà còn sử dụng cho cả phân môn văn học và tập làm văn.
Tôi thấy các em yêu thích môn Ngữ văn hơn trước, kỹ năng viết bài Tập làm
văn trôi chảy hơn, sáng tạo hơn, các kiến thức được vận dụng trong bài viết linh
hoạt hơn, chính xác hơn. Trong giờ học không khí học tập sôi nổi. Bởi vì tất cả
các em đều được tạo điều kiện suy nghĩ, tiếp xúc với văn bản, đều có cơ hội
được trả lời các câu hỏi mà giáo viên đưa ra.
11. Danh sách những tổ chức/cá nhân đã tham gia áp dụng thử hoặc áp
dụng sáng kiến lần đầu (nếu có):


24


Số
TT

Tên tổ chức/cá nhân

Địa chỉ

Phạm vi/Lĩnh vực
áp dụng sáng kiến

1
2
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
1. Kết luận
Trên đây là phương pháp thiết kế hệ thống câu hỏi trong dạy văn học mà
tôi đã tìm hiểu, nghiên cứu trong các năm vừa qua.
Trong quá trình tìm hiểu nghiên cứu và áp dụng tôi đã được sự góp ý tán
thành của đồng nghiệp, tất cả đều nhất trí và thấy được mặt tích cực, tác dụng
của việc xây dựng hệ thống câu hỏi trong dạy học văn bản. Tuy nhiên trong quá
trình nghiên cứu và thực hiện phương pháp này còn có một số hạn chế nhất
định. Nó đòi giáo viên phải đầu tư ngay từ khâu soạn giáo án xây dựng hệ thống
câu hỏi và dự kiến học sinh trả lời như thế nào để có câu hỏi phù hợp hợp hơn.
2. Ý nghĩa khoa học của đề tài nghiên cứu:
Khi nghiên cứu đề tài “Một số phương pháp đặt câu hỏi trong giảng dạy
ngữ văn” và đã áp dụng vào thực tế giảng dạy của mình trong những năm qua,
với những kết quả bước đầu đã đạt được ở trên, tôi rút ra được một số kết luận

sau:
Trước tiên, để nâng cao kết quả môn học, người giáo viên phải tạo được
niềm hứng thú và say mê học tập của học sinh. Người thầy phải có cái “Tâm”
thực sự với nghề nghiệp vì nói như đại thi hào Nguyễn Du “Chữ tâm kia mới
bằng ba chữ tài”. Tuy nhiên chỉ vậy thôi thì chưa đủ, người thầy còn phải
thường xuyên tự học để trau dồi chuyên môn của mình, luôn bồi đắp thêm
những nguồn tri thức mới để bắt nhịp cùng với những yêu cầu ngày càng cao
của thời đại. Hơn nữa, người thầy cần hướng dẫn cụ thể phương pháp để học tập
bộ môn có hiệu quả ngay từ bước đầu cho học sinh.

25


×