Tải bản đầy đủ (.doc) (124 trang)

Kinh nghiệm từ việc thu hút FDI của trung quốc sau khi gia nhập WTO và bài học đối với việc thu hút FDI của việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (485.99 KB, 124 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
I.TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI.
Như chúng ta đã biết, đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) ngày
càng đóng vai trò quan trọng trong quá trình tăng trưởng và phát
triển kinh tế của các quốc gia, và Trung Quốc, cũng như Việt Nam
không phải là ngoại lệ. Đặc biệt, trong những năm gần đây, tầm
quan trọng của đầu tư trực tiếp nước ngoài đối với sự phát triển
ngày càng tăng lên đáng kể. Hiện nay, đầu tư trực tiếp nước ngoài
được coi là một công cụ để các nền kinh tế hội nhập vào nền kinh tế
thế giới đang toàn cầu hoá mạnh mẽ trong lĩnh vực sản xuất, nó hứa
hẹn sẽ đem lại rất nhiều lợi ích cho tất cả các bên tham gia đầu tư.
Kể từ sau Hội nghị Ban chấp hành Trung ương lần thứ 3 Khoá
XI Đảng Cộng Sản Trung Quốc họp vào tháng 12/1978, lịch sử
nước Cộng Hoà Dân Chủ Nhân Dân Trung Hoa đã bước sang một
trang mới mà chủ yếu là xây dựng kinh tế, thực hiện cải cách và mở
cửa nhằm chấn hưng Trung Hoa. Sau gần 30 năm, những thành quả
quốc gia này đạt được thật đáng khâm phục. Hiện nay, Trung Quốc
đã trở thành một trong những cường quốc hàng đầu thế giới về phát
triển kinh tế, với tốc độ phát triển kinh tế luôn nằm trong tốp dẫn
đầu, đời sống nhân dân được nâng cao về mọi mặt…
Trong số các nguyên nhân khiến Trung Quốc phát triển mạnh
mẽ như vậy, một nguyên nhân quan trọng bậc nhất là Trung Quốc
đã thực hiện được chiến lược mở cửa kinh tế mà chủ chốt là thu hút
1


vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài và thu được những thành quả hết
sức khả quan. Đặc biệt, từ sau khi gia nhập tổ chức Thương mại
Thế giới (WTO) (11/12/2001), hoạt động thu hút đầu tư trực tiếp
nước ngoài vào quốc gia này đã có những bước nhảy vọt chiến
lược, vươn lên trở thành 1 trong 2 quốc gia dẫn đầu thế giới về hoạt


động này (cùng với Mỹ).
Theo như Tiến sĩ Nguyễn Kim Bảo trong cuốn “ Đầu tư trực
tiếp nước Ngoài ở Trung Quốc từ 1979 đến nay” đã nhận định
“Thành công của Trung Quốc trong việc thu hút FDI được nhiều
nước đang phát triển coi như là một sự tìm tòi có ý nghĩa lớn lao”.
Việt Nam là nước láng giềng gần gũi với Trung Quốc. Tuy
hai nước có sự khác biệt lớn về nhiều mặt, song cũng có nhiều điểm
tương đồng. Cũng như Trung Quốc, Việt Nam đang trên con đường
xây dựng Công nghiệp hóa- Hiện đại hóa đất nước, đặc biệt hơn,
chỉ trong một thời gian ngắn nữa, chúng ta sẽ chính thức trở thành
thành viên của WTO. Vì vậy, những thành công của Trung Quốc
trong việc thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài sẽ là những bài học
vô cùng cần thiết đối với chúng ta.
Với tất cả những lý do nêu trên, tôi đã quyết định chọn đề tài
khoá luận tốt nghiệp: “Kinh nghiệm từ việc thu hút FDI của
Trung Quốc sau khi gia nhập WTO và bài học đối với việc thu
hút FDI của Việt Nam.”
II. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU.
2


Khoá luận có những mục đích cụ thể sau:
 Tìm hiểu những thay đổi trong chủ trương, chính sách
của Trung Quốc nhằm thu hút FDI sau khi gia nhập WTO.
 Làm rõ tác động của việc gia nhập WTO đến việc thu
hút FDI ở Trung Quốc.
 Từ đó rút ra bài học kinh nghiệm cho Việt Nam.
III. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU
 Khoá luận nghiên cứu tổng quan về WTO, việc gia nhập
WTO của Trung Quốc, tình hình thu hút FDI ở Trung

Quốc và tác động của việc gia nhập WTO đến quá trình
thu hút FDI ở Trung Quốc.
 Khoá luận chỉ nghiên cứu về quá trình thu hút FDI của
Trung Quốc sau khi gia nhập WTO trong mối tương quan
với những năm trước đó, để rút ra những bài học thiết thực
cho Việt Nam.
III. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU.
Để giải quyết nội dung đề tài một cách khoa học, trong khoá
luận này tôi đã sử dụng kết hợp phương pháp duy vật biện chứng và
duy vật lịch sử. Bên cạnh đó, tôi còn sử dụng phương pháp phân
tích, so sánh, diễn giải, quy nạp, tổng hợp.
IV. BỐ CỤC CỦA KHÓA LUẬN .
Ngoài các phần: Lời nói đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu
tham khảo, khoá luận được bố cục ba chương như sau:
3


- Chương 1: Tổng quan về WTO và việc gia nhập WTO của
Trung Quốc
- Chương 2: Tác động của việc gia nhập WTO đối với thu
hút FDI của Trung Quốc
- Chương 3: Những bài học cho Việt nam rút ra từ việc
nghiên cứu thu hút FDI của Trung Quốc sau khi gia nhập
WTO.

CHƯƠNG I
TỔNG QUAN VỀ WTO VÀ VIỆC GIA NHẬP WTO CỦA
TRUNG QUỐC
I. TỔNG QUAN VỀ WTO


4


1. WTO- lịch sử hình thành và phát triển.
WTO là chữ viết tắt của Tổ chức Thương mại Thế giới
(World Trade Organization)- tổ chức quốc tế duy nhất đưa ra những
nguyên tắc thương mại giữa các quốc gia trên thế giới.
WTO được thành lập ngày 1/1/1995, kế tục và mở rộng phạm
vi điều tiết thương mại quốc tế của tổ chức tiền thân GATT- Hiệp
định chung về Thuế quan Thương mại. GATT ra đời sau chiến
tranh thế giới lần thứ II, khi mà trào lưu hình thành hàng loạt cơ
chế đa biên điều tiết các hoạt động hợp tác kinh tế quốc tế đang
diễn ra sôi nổi, điển hình là Ngân hàng Quốc tế Tái thiết và Phát
triển, thường được biết đến như là Ngân hàng Thế giới (WB), và
Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF) ngày nay.
Với ý tưởng hình thành những nguyên tắc, thể lệ, luật chơi
cho thương mại quốc tế nhằm điều tiết các lĩnh vực về việc làm,
thương mại hàng hoá, khắc phục tình trạng hạn chế, ràng buộc các
hoạt động này phát triển, 23 nước sáng lập GATT đã cùng một số
nước khác tham gia Hội nghị về thương mại và việc làm và dự thảo
Hiến chương La Havana để thành lập Tổ chức Thương mại Quốc tế
(ITO) với tư cách là chuyên môn của Liên Hiệp Quốc. Đồng thời,
các nước này đã cùng nhau tiến hành các cuộc đàm phán về thuế
quan và xử lý những biện pháp bảo hộ mậu dịch đang áp dụng tràn
lan trong thương mại quốc tế từ đầu những năm 30, nhằm thực hiện
mục tiêu tự do hoá mậu dịch, mở đường cho kinh tế và thương mại

5



phát triển, tạo công ăn việc làm, nâng cao thu nhập và đời sống của
nhân dân các nước thành viên.
Mặc dù việc thành lập Tổ chức Thương mại Quốc tế (ITO) đã
không thực hiện được do một số nước gặp khó khăn trong phê
chuẩn, nhưng kiên trì mục tiêu đã định, và với kết quả đáng khích
lệ đã đạt đựơc ở vòng đàm phán thuế quan đầu tiên là 45.000 ưu đãi
về thuế áp dụng giữa các bên tham gia đàm phán, chiếm khoảng 1/5
tổng lượng mậu dịch thế giới, 23 nước sáng lập đã cùng nhau ký kết
Hiệp định chung về Thuế quan và Thương mại (GATT), chính thức
có hiệu lực vào 1/1948.
Từ đó tới nay, GATT đã tiến hành 9 vòng đàm phán chủ yếu
về thuế quan. Tuy nhiên, từ thập kỷ 70 và đặc biệt từ Hiệp định
Uruguay (1986-1994) do thương mại quốc tế không ngừng phát
triển, nên GATT đã mở rộng diện hoạt động, đàm phán không chỉ
về thuế quan mà còn tập trung xây dựng các Hiệp định hình thành
các chuẩn mực, luật chơi điều tiết các hàng rào phi thuế quan, về
thương mại dịch vụ, quyền sở hữu trí tuệ, các biện pháp đầu tư có
liên quan tới thương mại, về thương mại hàng nông sản, hàng dệt
may, về cơ chế giải quyết tranh chấp. Với diện điều tiết của hệ
thống thương mại đa biên được mở rộng, nên Hiệp định chung về
Thuế quan và Thương mại (GATT) vốn chỉ là một sự thoả thuận có
nhiều nội dung ký kết mang tính chất tuỳ ý đã tỏ ra không phù hợp.
Do đó, ngày 15/4/1994, tại Marrkesh (Maroc), các bên đã kết thúc
Hiệp định thành lập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) nhằm
6


kết tục và phát triển sự nghiệp của GATT. WTO chính thức được
thành lập, độc lập với hệ thống Liên Hiệp Quốc và đi vào hoạt
động từ 1/1/1995.

1.1. Cơ cấu tổ chức của WTO.
Về cơ cấu tổ chức, hiện nay WTO có 148 nước, lãnh thổ
thành viên, chiếm 97 % thương mại toàn cầu và khoảng 30 quốc gia
khác đang trong quá trình đàm phán gia nhập.
Hầu hết các quyết định của WTO đều được thông qua trên cơ
sở đồng thuận. Trong một số trường hợp nhất định, khi không đạt
được sự nhất trí chung, các thành viên có thể tiến hành bỏ phiếu.
Khác với các tổ chức khác, mỗi thành viên WTO chỉ có quyền bỏ
một phiếu và các phiếu bầu của các thành viên có giá trị ngang
nhau.
Cơ cấu của WTO bao gồm ba cấp:
Thứ nhất: Hội nghị bộ trưởng, Đại hội đồng WTO, Cơ quan
giải quyết tranh chấp và Cơ quan kiểm điểm chính sách thương
mại.
Hội nghị Bộ trưởng WTO là cơ quan lãnh đạo chính trị cao
nhất của WTO, họp ít nhất hai năm một lần, thành viên là đại diện
cấp bộ trưởng của tất cả các nước thành viên. Điều IV.1 Hiệp định
thành lập WTO quy định Hội nghị bộ trưởng WTO thực hiện tất cả
các chức năng của WTO và có quyền quyết định mọi hành động
cần thiết để thực hiện những chức năng đó. Hội nghị Bộ trưởng
7


WTO cũng có quyền quyết định về tất cả các vấn đề trong khuôn
khổ bất kỳ một Hiệp định đa phương nào của WTO.
Đại hội đồng WTO: trong thời gian giữa các khoá họp của
Hội nghị Bộ trưởng WTO các chức năng của Hội nghị Bộ trưởng
WTO do Đại hội đồng đảm nhiệm. Đại hội đồng WTO hoạt động
trên cơ sở thường trực tại trụ sở WTO ở Geneva, Thuỵ Sĩ. Thành
viên của Đại hội đồng WTO là đại diện ở cấp Đại sứ của chính phủ

tất cả các thành viên.
Đại hội đồng có quyền thành lập các uỷ ban giúp việc và báo
cáo trực tiếp lên Đại hội đồng là: Uỷ ban về thương mại và phát
triển; Uỷ ban về hạn chế cán cân thanh toán, Uỷ ban về ngân sách,
tài chính và quản trị; Uỷ ban về các Hiệp định thương mại khu vực.
Ngoài ra còn có hai uỷ ban là "Uỷ ban về hàng không dân dụng" và
''uỷ ban về mua sắm chính phủ" được thành lập theo quyết định của
vòng Tôkyô và có số thành viên hạn chế (chỉ những nước kí kết các
"bộ luật" liên quan của vòng Tôkyô mới được tham gia) vẫn tiếp
tục hoạt động trong khuôn khổ WTO. Nhưng những uỷ ban này
không phải báo cáo mà chỉ có nghĩa vụ thông báo thường xuyên về
hoạt động của họ lên Đại hội đồng WTO.
Cơ quan giải quyết tranh chấp và cơ quan kiểm điểm chính
sách thương mại: Điều IV.2 Hiệp định WTO quy định ngoài các
việc thực hiện chức năng của Hội nghị Bộ trưởng WTO trong thời
gian giữa hai khoá họp, Đại hội đồng WTO còn thực hiện những
chức năng khác được trao trực tiếp theo các Hiệp định thương mại
8


đa phương, trong đó quan trọng nhất là chức năng giải quyết tranh
chấp và chức năng kiểm điểm chính sách thương mại. Chính vì vậy
mà Đại hội đồng WTO cũng đồng thời là "cơ quan giải quyết tranh
chấp "(DSB) khi thực hiện chức năng giải quyết tranh chấp và là
"cơ quan kiểm điểm chính sách thương mại" khi thực hiện chức
năng kiểm điểm chính sách thương mại.
Thứ hai: Các cơ quan thi hành giám sát việc thực hiện các
Hiệp định thương mại đa phương.
WTO có 3 Hội đồng (Council) được thành lập để giám sát
việc thực thi 3 Hiệp định thương mại đa phương là: Hội đồng

GATT, Hội đồng GATs và Hội đồng TRIPs. Tất cả các nước thành
viên đều có quyền tham gia vào hoạt động của 3 Hội đồng này. Ba
Hội đồng nói trên báo cáo trực tiếp các công việc của mình lên Đại
hội đồng WTO. Ngoài ra còn có các cơ quan được các hội đồng của
WTO thành lập với tư cách là cơ cấu trực thuộc để giúp các hội
đồng này trong việc thực hiện các chức năng kỹ thuật, ví dụ như
"Uỷ ban về thâm nhập thị trường", "Uỷ ban về trợ giá nông nghiệp"
và các "Nhóm công tác" được thành lập trên cơ sở tạm thời để giải
quyết những vấn đề cụ thể ví dụ như các "Nhóm công tác về việc
gia nhập WTO" của một số nước.
Thứ ba: Tổng giám đốc và Ban thư ký WTO.
Khác với GATT 1947, WTO có một Ban thư ký rất quy mô,
bao gồm khoảng 500 viên chức và nhân viên thuộc biên chế chính
thức của WTO. Đứng đầu Ban thư ký WTO là Tổng giám đốc
9


WTO. Tổng giám đốc WTO do hội nghị bộ trưởng bổ nhiệm với
nhiệm kỳ 4 năm. Ngoài vai trò điều hành, Tổng giám đốc của WTO
còn có một vai trò chính trị rất quan trọng trong hệ thống thương
mại đa phương. Chính vì vậy mà việc lựa chọn các ứng cử viên vào
chức vụ này luôn là một cuộc chạy đua ác liệt giữa các nhân vật
chính trị quan trọng cấp Bộ trưởng, Phó thủ tướng hoặc Tổng
thống. Quyền hạn và trách nhiệm của Tổng giám đốc do Hội nghị
bộ trưởng quyết định. Biên chế ban thư ký WTO do Tổng giám đốc
quyết định. Tổng giám đốc và thành viên ban thư ký WTO có quy
chế tương tự như của viên chức các tổ chức quốc tế, hoạt động độc
lập và chỉ tuân theo các quyết định và tôn chỉ của WTO. Họ được
hưởng các quyền ưu đãi, miễn trừ tương tự như viên chức của các
tổ chức chuyên môn của Liên Hợp Quốc.

1.2. Mục tiêu, chức năng WTO.
Với tư cách là tổ chức thương mại của tất cả các nước trên thế
giới, thực hiện mục tiêu đã được nêu trong lời nói đầu của Hiệp
định GATT 1947 là nâng cao mức sống của nhân dân các nước
thành viên, đảm bảo việc làm, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và
thương mại, sử dụng có hiệu quả nhất các nguồn lực của thế giới.
Cụ thể WTO có 3 mục tiêu sau:
Thứ nhất, thúc đẩy tăng trưởng thương mại hàng hoá và dịch
vụ trên thế giới phục vụ cho sự phát triển ổn định, bền vững và bảo
vệ môi trường.
Thứ hai, thúc đẩy sự phát triển các thể chế thị trường, giải
10


quyết các bất đồng và tranh chấp thương mại giữa các nước thành
viên trong khuôn khổ của hệ thống thương mại đa phương, phù hợp
với các nguyên tắc cơ bản của Công pháp quốc tế; Đảm bảo cho các
nước đang và kém phát triển được thụ hưởng những lợi ích thực sự
từ sự tăng trưởng của thương mại quốc tế, phù hợp với nhu cầu phát
triển kinh tế của các nước nàyvà khuyến khích các nước ngày càng
hội nhập sâu rộng hơn vào nền kinh tế thế giới.
Thứ ba, WTO hoạt động nhằm mục đích nâng cao mức sống
tạo công ăn việc làm cho người dân các nước thành viên, bảo đảm
các quyền và tiêu chuẩn lao động tối thiểu được tôn trọng.
WTO thực hiện 5 chức năng sau:
Một : Thống nhất quản lý việc thực hiện các Hiệp định và
thoả thuận thương mại đa phương, giám sát, tạo thuận lợi, kể cả trợ
giúp kỹ thuật cho các nước thành viên thực hiện các nghĩa vụ
thương mại quốc tế của họ.
Hai: Là khuôn khổ thể chế để tiến hành vòng đàm phán

thương mại đa phương trong khuôn khổ WTO, theo quyết định của
Hội nghị bộ trưởng WTO.
Ba : Là cơ chế giải quyết tranh chấp giữa các nước thành viên
liên quan đến việc thực hiện và giải thích Hiệp định WTO và các
Hiệp định thương mại đa phương và nhiều bên.
Bốn: Là cơ chế kiểm điểm chính sách thương mại của các
nước thành viên, bảo đảm mục tiêu thúc đẩy tự do hoá thương mại
và tuân thủ các quy định của WTO, Hiệp định thành lập WTO (phụ
11


lục 3) đã quy định một cơ chế kiểm điểm chính sách thương mại áp
dụng chung đối với tất cả các thành viên.
Năm: Thực hiện việc hợp tác với các tổ chức kinh tế quốc tế
khác như. Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF) và Ngân hàng thế giới (WB)
trong việc hoạch định những chính sách và dự báo về những xu
hướng phát triển tương lai của kinh tế toàn cầu.
1.3. Nguyên tắc hoạt động của WTO.
Các Hiệp định của WTO điều chỉnh nhiều lĩnh vực: thương
mại dịch vụ, quyền sở hữu trí tuệ, các biện pháp đầu tư có liên quan
tới thươngmại, về thương mại hàng nông sản, hàng dệt may…
Nhưng tất cả các Hiệp định này đều tuân theo các nguyên tắc cơ
bản sau:
1.3.1. Nguyên tắc thương mại không phân biệt đối xử.
Nguyên tắc thương mại không phân biệt đối xử bao gồm hai
nguyên tắc sau:
 Nguyên tắc Tối huệ quốc (Most Favoured Nation MFN): Đối xử với mọi thành viên khác môt cách công bằng.
Các nước thành viên không được phân biệt đối xử giữa các
bạn hàng thương mại. Khi dành cho một thành viên nào đó
một ưu đãi đặc biệt (ví dụ: giảm thuế suất cho hàng hoá của

họ), thì cũng phải dành cho tất cả các nước thành viên khác
của WTO ưu đãi như thế.
 Nguyên tắc Đãi ngộ quốc gia (National Treatment12


NT):Đối xử công bằng với hàng hoá nước ngoài và hàng hoá
trong nước. Hàng hóa nhập khẩu và hàng hoá trong nước phải
được đối xử công bằng- ít nhất là sau khi hàng hoá nước
ngoài vào thị trường trong nước. Tương tự đối với dịch vụ
nước ngoài và trong nước, nhãn hiệu, bản quyền và bằng sáng
chế
13.2. Nguyên tắc thương mại ngày càng tự do thông qua đàm phán.
Giảm hàng rào thương mại rõ ràng là một cách thúc đẩy
thương mại hữu hiệu. Các hàng rào thương mại đề cập đến ở đây
bao gồm các nghĩa vụ hải quan và các biện pháp như cấm nhập
khẩu hoặc hạn ngạch nhập khẩu làm hạn chế số lượng một cách có
chọn lọc.
Nhờ kết quả của các cuộc đàm phán, đến giữa những năm 90,
thuế suất đối với hàng công nghiệp ở các nước phát triển đã dần
dần giảm xuống thấp hơn 4%. Hiện nay, vòng đàm phán thứ chín,
chương trình phát triển Doha, đang diễn ra và dự kiến sẽ kết thúc
vào năm 2005.
Mở cửa thị trường đem lại nhiều lợi ích, nhưng đồng thời
cũng đòi hỏi phải có sự điều chỉnh. Các Hiệp định WTO cho phép
các nước được điều chỉnh từng bước thông qua “nới lỏng dần dần”.
Các nước đang phát triển thường được cho phép kéo dài thời hạn
thực hiện đầy đủ nghĩa vụ.
1.3.3. Nguyên tắc dễ dự đoán thông qua ràng buộc và minh bạch.
13



Đôi khi, cam kết không tăng hàng rào thương mại cũng quan
trọng chẳng kém gì cam kết cắt giảm hàng rào thương mại, vì nó
giúp dự đoán được các cơ hội kinh doanh trong tương lai. Nhờ đó,
thúc đẩy đầu tư, tạo công ăn việc làm, và đem lại sự lựa chọn nhiều
hơn và giá cả thấp hơn cho người tiêu dùng.
Khi các nước thành viên WTO chấp nhận mở cửa thị trường
hàng hoá hoặc dịch vụ, họ sẽ phải “ràng buộc” các cam kết. Các
quốc gia có thể thay đổi mức ràng buộc, nhưng chỉ sau khi đàm
phán với các nước bạn hàng, tức là phải bồi thường các thiệt hại
thương mại.
Hệ thống thương mại WTO luôn nỗ lực cải thiện tính dễ dự
đoán và ổn định của quy tắc thương mại. Một mặt, hệ thống này
yêu cầu loại bỏ hạn ngạch và các biện pháp hạn chế số lượng nhập
khẩu khác. Mặt khác, WTO cố gắng làm cho các quy tắc thương
mại của các quốc gia càng rõ ràng và minh bạch càng tốt.
1.3.4. Nguyên tắc thúc đẩy cạnh tranh bình đẳng.
Tổ chức WTO đôi khi được gọi là tổ chức “mậu dịch tự do”,
nhưng như thế chưa hoàn toàn chính xác. Hệ thống thương mại
WTO vẫn cho phép áp dụng thuế quan và các hình thức bảo hộ
khác trong một số trường hợp. Thực chất, WTO là một hệ thống các
quy tắc tạo điều kiện cho cạnh tranh mở, công bằng và không bóp
méo.
Các quy tắc không phân biệt đối xử – MFN và NT - được
14


thiết lập để đảm bảo cạnh tranh thương mại công bằng. Nhiều Hiệp
định khác của WTO cũng nhằm mục đích tạo điều kiện cho cạnh
tranh bình đẳng, ví dụ như Hiệp định trong lĩnh vực thương mại

dịch vụ, sở hữu trí tuệ và nông nghiệp.
1.3.5. Nguyên tắc khuyến khích phát triển và cải tổ kinh tế.
Hệ thống thương mại WTO là vì mục đích phát triển. Hơn
nữa, các nước đang phát triển cần thời gian để thực thi các Hiệp
định. Và bản thân các Hiệp định kế thừa của GATT cũng cho phép
hỗ trợ đặc biệt và nhượng bộ thương mại đối với các nước đang
phát triển.
Hơn ba phần tư thành viên của WTO là các quốc gia đang
phát triển và các quốc gia có nền kinh tế chuyển đổi. Trong suốt
thời gian đàm phán của Vòng Uruguay, hơn 60 trong số các quốc
gia này đã thực hiện chương trình tự do hoá thương mại tích cực.
Các nước này trở nên chủ động và có ảnh hưởng mạnh mẽ hơn
trong các cuộc đàm phán ở Vòng Uruguay, và trong chương trình
Phát triển Doha hiện tại.
Gần đây, các quốc gia phát triển đã miễn thuế và bãi bỏ hạn
ngạch nhập khẩu đối với hầu hết các sản phẩm từ các quốc gia kém
phát triển. Hơn nữa, WTO và các nước thành viên vẫn tiếp tục dành
ưu đãi hơn nữa cho các nước kém phát triển. Chương trình Phát
triển Doha cũng đề cập đến các mối quan tâm của các nước đang
phát triển về những khó khăn mà họ gặp phải khi thực hiện các thoả
15


thuận ở Vòng đàm phán Uruguay.
Như vậy, các Hiệp định của WTO luôn tuân theo năm nguyên
tắc cơ bản nhằm thực hiện mục tiêu bao trùm của WTO là tạo điều
kiện cho thương mại diễn ra thuận lợi, tự do, công bằng và dễ dự
đoán. Tổ chức WTO do các chính phủ thành viên điều hành, và tất
cả các quyết định quan trọng cũng do các thành viên đưa ra trên cơ
sở đồng thuận. Các Hiệp định của WTO cũng là kết quả của các

cuộc đàm phán của các nước thành viên.
2. Các quy định của WTO có liên quan đến đầu tư
Trong số 4 Hiệp định có ảnh hưởng trực tiếp đến đầu tư nước
ngoài được WTO quy định, thì Hiệp định về các biện pháp đầu tư
liên quan đến thương mại (TRIMs) có thể được coi như là một cơ
chế pháp lý điều chỉnh đến hoạt động FDI, ba Hiệp định còn lại chỉ
đưa ra một số khía cạnh nhất định của vấn đề này. Dưới đây là
những nội dung cụ thể của các Hiệp định:
2.1. Hiệp định về các biện pháp đầu tư liên quan đến thương
mại (TRIMs)
Nội dung của Hiệp định “có tính đến nhu cầu cụ thể về
thương mại, phát triển và tài chính của các thành viên đang phát
triển. Đồng thời, Hiệp định cũng thừa nhận rằng một số biện pháp
đầu tư nhất định có thể gây ra tác động bóp méo hoặc hạn chế
thương mại”.

16


Hiệp định này chỉ được áp dụng cho thương mại hàng hoá, mà
không áp dụng cho các lĩnh vực khác. Trên nguyên tắc không được
làm ảnh hưởng đến quyền và nghĩa vụ được nêu ra trong GATT
1994, không nước thành viên nào được phép sử dụng TRIMs trái
với các quy định tại điều III.4 về nghĩa vụ đối xử quốc gia và điều
XI.1 về biện pháp hạn chế phi thuế quan của Hiệp định GATT
1994.
Mặc dù không có định nghĩa liên quan đến thuật ngữ “các
biện pháp đầu tư liên quan đến thương mại”, song để cụ thể hoá các
biện pháp đầu tư không phù hợp với nghĩa vụ nêu trên của GATT
1994, Hiệp định TRIMs đưa ra một danh mục minh hoạ các biện

pháp đầu tư liên quan đến thương mại bị cấm áp dụng như sau:
 Các biện pháp mang tính bắt buộc theo quy định của
pháp luật hoặc thực tiễn áp dụng.
 Việc tuân thủ các biện pháp đó là điều kiện để được
hưởng ưu đãi.
Các biện pháp đầu tư liên quan đến thương mại bị coi là vi
phạm Điều III.4 của GATT 1994 bao gồm:
 Yêu cầu doanh nghiệp phải mua hoặc sử dụng một số
loại sản phẩm có xuất xứ trong nước.
 Yêu cầu doanh nghiệp phải mua hoặc sử dụng một khối
lượng nhất định các sản phẩm có xuất xứ trong nước.

17


 Yêu cầu doanh nghiệp phải mua hoặc sử dụng các sản
phẩm có xuất xứ trong nước với tỷ lệ tối thiểu nhất định theo
khối lượng hoặc sản xuất trong nước của doanh nghiệp.
 Hạn chế doanh nghiệp mua hoặc sử dụng sản phẩm nhập
khẩu một giới hạn liên quan đến khối lượng hoặc giá trị xuất
khẩu của doanh nghiệp.
Trong số các biện pháp này, ba biện pháp đầu là các yêu cầu
về hàm lượng nội địa, còn biện pháp thứ 4 là yêu cầu cân đối một
phần thu và chi ngoại tệ.
Các biện pháp đầu tư liên quan đến thương mại bị coi là vi
phạm Điều XI.1 của GATT 1994 gồm:
 Hạn chế chung việc nhập khẩu các sản phẩm đầu vào
của doanh nghiệp hoặc hạn chế nhập khẩu nhập khẩu sản
phẩm đầu vào trong một giới hạn liên quan đến khối lượng
hoặc giá trị xuất khẩu của doanh nghiệp, hoặc

 Hạn chế khả năng tiếp cận ngoại tệ của doanh nghiệp
cần để nhập khẩu các sản phẩm đầu vào trong phạm vi nguồn
ngoại tệ mà doanh nghiệp có được.
 Hạn chế xuất khẩu sản phẩm của doanh nghiệp dưới các
hình thức hạn chế về chủng loại, khối lượng hoặc giá trị sản
phẩm, hoặc một tỷ lệ nhất định trong khối lượng hoặc giá trị
sản xuất trong nước của doanh nghiệp.

18


Hai biện pháp đầu là các yêu cầu cân đối một phần ngoại tệ và
biện pháp thứ 3 là yêu cầu hạn chế xuất khẩu nhằm đảm bảo tiêu dùng
trong nước.
Các biện pháp đầu tư liên quan đến thương mại bị cấm áp
dụng nêu trên sẽ bị loại bỏ trong thời hạn 2 năm với các nước phát
triển, 5 năm với các nước đang phát triển, và 7 năm đối với các
nước chậm phát triển tính từ ngày 1.1.1995. Trong giai đoạn phát
triển nêu trên, các nước thành viên WTO không được sửa đổi các
biện pháp đầu tư liên quan đến thương mại đã thông báo theo
hướng làm tăng sự không phù hợp.
Nhằm bảo vệ lợi ích của các doanh nghiệp đã thành lập đang
chịu tác động của 1 số biện pháp đầu tư liên quan đến thương mại,
Hiệp định TRIMs có một điều khoản quy định cho phép nước thành
viên trong giai đoạn chuyển đổi được áp dụng những biện pháp đó
đối với các doanh nghiệp mới thành lập nếu sản phẩm của doanh
nghiệp đó tương tự với những sản phẩm của doanh nghiệp đã thành
lập và việc áp dụng các biện pháp đó là cần thiết để tránh làm méo
mó điều kiện cạnh tranh giữa các doanh nghiệp đã và mới thành
lập. Những biện pháp áp dụng đối với cả hai loại doanh nghiệp này

sẽ được loại bỏ đồng thời.
Các nước thành viên phải thông báo cho WTO tất cả các biện
pháp đầu tư liên quan đến thương mại không phù hợp với các Hiệp
định TRIMs, cũng như các tài liệu, thông tin liên quan kể cả các
biện pháp được áp dụng ở các cấp chính quyền địa phương. Nước
19


thành viên có trách nhiệm cung cấp thông tin và tạo điều kiện để
tiến hành tham vấn nếu các thành viên khác yêu cầu. Một uỷ ban về
các biện pháp đầu tư liên quan đến thương mại đã được thành lập
nhằm giám sát việc thực hiện Hiệp định TRIMs.
Quy chế đối xử đặc biệt và khác biệt dành cho các nước
đang phát triển. Có ba điều khoản trong Hiệp định TRIMs quy
định sự đối xử đặc biệt và khác biệt dành cho các nước đang phát
triển và kém phát triển. Những điều khoản này gồm 2 loại:
 Sự linh hoạt trong cam kết, thực hiện và sử dụng các
công cụ chính sách.
 Thời gian ân hạn.
Về sự linh hoạt trong cam kết và sử dụng, thực hiện các công
cụ chính sách, Hiệp định TRIMs cho phép nước đang phát triển tạm
thời không phải thực hiện nhiệm vụ về việc không áp dụng các biện
pháp đầu tư liên quan đến thương mại bị cấm theo Hiệp định nếu
nước đó thuộc diện được hưởng sự linh hoạt quy định tại điều
XVIII của GATT 1994, thoả thuận về các điều khoản về cán cân
thanh toán và bản tuyên bố về các biện pháp thương mại được thực
hiện vì mục đích cán cân thanh toán, thông qua ngày 28/11/1997
(BISD 26S/205- 209).
Các điều khoản về cán cân thanh toán quốc tế cho phép sự
linh hoạt đối với hạn chế nhập khẩu, nhưng một khi sản phẩm đã

được nhập khẩu vào thì sản phẩm đó sẽ được hưởng sự đối xử quốc

20


gia, nghĩa là không có sự phân biệt giữa sản phẩm nhập khẩu- sản
phẩm trong nước thanh toán.
Về thời gian ân hạn, Hiệp định TRIMs quy định các quốc gia
thành viên WTO phải loại bỏ các biện pháp đầu tư liên quan đến
thương mại đã thông báo của nước mình trước 31/12/1996 đối với
nước phát triển , trước 31/12/2001 với các nước kém phát triển. Đối
với các nước chưa phải thành viên và sẽ gia nhập WTO như Việt
Nam, thời gian ân hạn được thảo thuận trên cơ sở đàm phán.
2.2. Các Hiệp định khác
2.2.1. Hiệp định về thương mại, dịch vụ (GATS), yêu cầu mở
cửa thị trường cho các nhà cung ứng nước ngoài cũng trên nguyên
tắc đãi ngộ quốc gia. Vì việc mở cửa thị trường dịch vụ không phải
bằng giảm hàng rào thuế quan mà bằng việc cho phép các nhà đầu
tư nước ngoài đầu tư vào các hoạt động dịch vụ nên chúng có liên
quan trực tiếp đến đầu tư trực tiếp nước ngoài hơn là thương mại
thuần tuý.
2.2.2. Hiệp định về quyền sở hữu trí tuệ (TRIPS) có liên quan
đến mậu dịch yêu cầu mức độ bảo hộ tối thiểu cần thiết về quyến sở
hữu trí tuệ như là các biện pháp bảo đảm cho đầu tư nước ngoài.
Nhìn chung, cùng với tự do hoá thương mại, WTO cũng đang
hướng tới tự do hoá đầu tư và áp dụng các nguyên tắc thương mại
đa phương cho đầu tư nước ngoài.
2.2.3. Hiệp định về trợ cấp và các biện pháp đối kháng
(ASCM)
21



 Hỗ trợ xuất khẩu.
Có vai trò như một biện pháp liên quan đến đầu tư bằng cách
thu hút FDI hoặc mở rộng FDI định hướng xuất khẩu vào những
nước dành trợ cấp nhiều nhất và/ hoặc duy trì FDI bằng cách tận
dụng những lợi thế kinh tế đã hấp dẫn các TNCs tìm kiếm nguồn
bán hàng xuất khẩu ở nước ngoài.
Về mặt lịch sử, chính phủ các nước đã cạnh tranh bán hàng
xuất khẩu thông qua việc sử dụng tín dụng “hỗ trợ ngầm của chính
phủ” nhằm đưa ra mức lãi xuất và điều kiện thanh toán và/hoặc sử
dụng trợ cấp trọn gói có điều kiện ràng buộc (mua hàng của nước
trợ cấp tín dụng). Sự khác biệt về hỗ trợ tài trợ xuất khẩu đang áp
dụng ở nhiều nước khác nhau có thể tác động đến đến FDI thông
qua quy định hợp tác tìm kiếm nguồn hàng xuất khẩu. Ví dụ: với
các đơn đặt hàng lớn được các cơ quan tín dụng nhà nước hỗ trợ,
các TNCs sẽ mở rộng quy mô sản xuất tại nước có nguồn hỗ trợ
lớn.
 Quy định chống phá giá.
Đây là một biện pháp thương mại có thể sử dụng để ngăn cản
các hành vi lợi dụng giá cả của các nhà nhập khẩu nhằm mục đích
đạt được lợi thế độc quyền trong tương lai bằng cách loại bỏ đối thủ
cạnh tranh ra khỏi thị trường.
Về mặt lịch sử, việc xác định các hoạt động chống phá giá
được dựa trên điều tra về phân biệt giá cả quốc tế. Nếu như hàng
hóa nhập khẩu được bán ở mức giá thấp hơn giá bán ở thị trường
22


nội địa của công ty sản xuất sản phẩm đó, thì sự khác biệt được coi

là bằng chứng cho thấy rằng công ty đã có lợi từ việc bảo hộ
thương mại ở nước mình và được trợ cấp cho chiến lược giá cả của
họ ở thị trường nước ngoài (nếu thị trường nội địa không được bảo
hộ thì sản phẩm có thể tái xuất và bán ở mức giá cao hơn giá bán tại
thị trường nội địa). Gần đây, phương pháp định nghĩa được sử dụng
để xác định hành động chống bán phá giá đã thay đổi theo hướng
có thể gây bất lợi cho nhà sản xuất nhà nước có chi phí thấp thực
sự.
Nếu như sự phân biệt đối xử nhập khẩu theo quy định chống
phá giá là thực sự có ý nghĩa, thì nó có thể khiến một công ty nước
ngoài đầu tư vào thị trường được bảo hộ để tránh bị áp dụng các
biện pháp trừng phạt về hành vi giá cả. Tuy vậy, nếu tác động của
FDI tại các nước đang phát triển không có tầm quan trọng tương
đương, nếu không nói là quan trọng hơn, thì nó có thể không
khuyến khích các doanh nghiệp tham gia vào FDI. Bằng cách hạn
chế hoặc gây ra mối lo ngại nhiều hơn về vấn đề tiếp cận thị trường
của hàng nhập khẩu, các quy định chống phá giá có thể tạo ra ảnh
hưởng gián tiếp đối với các quyết định FDI tương lai và để giữ chân
các nhà đầu tư ở trong nước hơn là thiết lập sản xuất ở nước ngoài,
nơi có chi phí sản xuất thấp hơn. Nhà sản xuất có thể không muốn
rủi ro về FDI cho dù điều đó đưa đến hiệu quả năng lực cạnh tranh
trong việc đáp ứng thị trường trong nước, nhưng các biện pháp
chống phá giá vẫn khiến người ta nghi ngờ rằng liệu sản xuất ở
23


nước ngoài có phải chịu thuế trừng phạt phá giá khi nhập khẩu hay
không.
II. TIẾN TRÌNH GIA NHẬP WTO CỦA TRUNG QUỐC.
1. NHỮNG BƯỚC CHUẨN BỊ CHO TIẾN TRÌNH GIA

NHẬP WTO CỦA CHÍNH PHỦ TRUNG QUỐC.
Sau Hội nghị Trung ương 3 khoá XI (1978), Trung Quốc tiến
hành cải cách mở cửa, nhà lãnh đạo Trung Quốc Đặng Tiểu Bình
chỉ ra: "Muốn phát triển sức sản xuất, phải cải cách thể chế kinh tế
". Những cải cách này đã tạo cơ sở ban đầu trong việc xây dựng hệ
thống điều tiết kinh tế vĩ mô tương ứng với thể chế kinh tế thị
trường. Thể chế thị trường đi vào nền kinh tế, cả xã hội trở nên
năng động và đầy sức sống. Đó là kết quả quan trọng mà cuộc cải
cách đã đem lại. Song, bên cạnh những thành tựu cơ bản trên,
Trung Quốc vẫn còn gặp không ít những vấn đề gây cản trở cho
quá trình cải cách. Xu hướng toàn cầu hoá đang ngày càng rõ rệt,
giao lưu và hợp tác kinh tế giữa các nước ngày càng chặt chẽ. Nền
kinh tế Trung Quốc đã trở thành một bộ phận quan trọng của nền
kinh tế thế giới. Thế giới cần Trung Quốc, mà Trung Quốc cũng
không thể tách rời thế giới. Vì vậy, việc tham gia Tổ chức Thương
mại thế giới WTO đối với Trung Quốc là điều kiện vô cùng quan
trọng để có thể phát triển mạnh mẽ và bình đẳng. Hơn nữa, để tham
gia sân chơi thương mại quốc tế, Trung Quốc phải tuân theo luật
chơi chung, những quy định được các quốc gia ký kết thông qua, và
cam kết thực hiện. Trung Quốc phải có thế và lực hơn nữa trong
24


tiến trình đó. Vì vậy, một yêu cầu đặt ra là phải có những điều
chỉnh sao cho phù hợp với tình hình mới, hội nhập và phát triển
toàn diện. Những bước chuẩn bị của Trung quốc trong tiến trình gia
nhập Tổ chức Thương mại thế giới- WTO chủ yếu ở những mặt
sau:
1. 1. Cải cách luật pháp và hành chính.
Gia nhập WTO là phần trắc nghiệm khó khăn nhất mà hệ

thống luật pháp yếu kém của Trung Quốc chưa từng phải trải qua
trước đó. Là một phần cái giá phải trả khi gia nhập WTO, Trung
Quốc đã phải cam kết sẽ tuân theo những tiêu chuẩn quốc tế về sự
minh bạch, trách nhiệm giải trình và sự công bằng.
Sự minh bạch là một phần trong cam kết khi gia nhập WTO.
Những cải cách, và những quy định mới trong các luật lệ và các
biện pháp liên quan đến thương mại đánh dấu những buớc tiến quan
trọng của Trung Quốc trong việc xây dựng một thể chế kinh tế thị
trường dần đi vào hoàn thiện. Qua đó, Trung Quốc cam kết rằng,
mọi điều luật và quy định hữu quan, về nguyên tắc, đều được ban
hành để trưng cầu ý kiến của dân chúng trước khi có hiệu lực. Chỉ
trong những trường hợp khẩn cấp thì quy định luật mới được công
bố vào thời điểm chúng bắt đầu có hiệu lực ngay. Trung Quốc còn
cam kết rằng họ sẽ thành lập một tờ báo chính thức để công bố tất
cả các luật, quy định và chính sách liên quan đến thương mại.
Những quy định về luật đã được thông qua sẽ công bố trên tờ báo
này và dành một khoảng thời gian hợp lí để trưng cầu ý kiến của
25


×